Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tiểu luận phong trào công nhân việt nam từ 1975 đến nay và bài học kinh nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.82 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Giai cấp công nhân (GCCN) là “con đẻ” của nền đại công nghiệp.
Được đại công nghiệp “tuyển lựa” từ các tầng lớp dân cư, GCCN sinh ra từ
“bào thai” dân tộc và mối quan hệ giữa nó với các giai cấp khác được hình
thành từ nguồn gốc xuất thân. Bị đẩy xuống nấc thang tận cùng của xã hội,
giai cấp công nhân trở thành “tụ điểm” của mọi nguyện vọng địi giải phóng
khỏi áp bức, bóc lột mà tất cả những người lao động trong cả cộng đồng dân
tộc có thể gửi gắm, ủy thác. Nó chỉ được giải phóng khi tất cả những người
lao động bị áp bức, bóc lột trong dân tộc được giải phóng. Cuộc đấu tranh của
giai cấp cơng nhân để giải phóng mình khơng tách rời cuộc đấu trang giải
phóng dân tộc. Cả hai sự nghiệp giải phóng đều hướng vào mục tiêu giải
phóng xã hội, giải phóng con người. Vì vậy, giai cấp cơng nhân ngày càng cố
gắng vươn lên để đảm nhận trách nhiệm lớn lao của mình trước cả dân tộc. Từ
giai cấp tự phát, giai cấp cơng nhân dần đi vào có tổ chức, đấu tranh có tổ
chức, có sự lãnh đạo của giai cấp tiên phong của mình để hướng tới mục đích
xóa bỏ bóc lột và thiết chế chính trị cũ, thiết lập một chế độ xã hội mới, thiết
chế mới. GCCN gắn bó với dân tộc, gắn bó với những người bị áp bức và
ngày càng hồn thiện mình để thơng qua chính đảng của mình biến lợi ích của
mình thành lợi ích dân tộc và làm cho lợi ích dân tộc thành lợi ích của mình.
Là một bộ phận của giai cấp công nhân thế giới, GCCN Việt Nam
không ngừng cố gắng để hồn thành nhiệm vụ quốc tế, đấu tranh vì hịa bình,
độc lập, tiến bộ trên thế giới. Mặt khác, GCCN Việt Nam từng bước trưởng
thành để xứng đáng với vai trị lãnh đạo. GCCN Việt Nam hịa mình với các
lực lượng khác của dân tộc, lấy sức mạnh của cả dân tộc, tập hợp các thành
phần trong cả cộng đồng quốc gia để tiến hành công cuộc cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới. GCCN Việt Nam học tập lý luận, trau dồi tri thức để có
đầy đủ khả năng kết hợp những nhiệm vụ dân tộc, dân chủ trên cơ sở phát
1



triển định hướng xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo toàn dân tộc xây dựng đất nước
thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng và văn minh.
Hồn cảnh quốc tế đã và đang tạo ra thời cơ và thách thức mới cho sự
phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Điều quan trọng là quốc gia nào
thích nghi với tình hình mới, kịp thời điều chỉnh chiến lược phát triển cho phù
hợp với tình hình quốc tế. Trong hồn cảnh mới, GCCN Việt Nam cũng
khơng ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng để thích ứng với tình
hình cụ thể trong và ngồi nước. Vì vậy, hơn lúc nào hết cần phải nghiên cứu
sâu sắc hơn GCCN Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử khác nhau, từ đó để
hiểu q trình phát triển và thấy được những mặt tiến bộ của GCCN nước ta.
Chính vì những lý do trên, em chọn đề tài: “Phong trào công nhân
Việt Nam từ 1975 đến nay và bài học kinh nghiệm ” để làm rõ về phong trào
xây dựng giai cấp công nhân từ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đến nay
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề về giai cấp công nhân ngày càng thu hút được sự quan tâm,
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học dưới nhiều góc độ khác nhau. Đảng ta đã
xây dựng nhiều văn kiện về xây dựng và phát triển giai cấp cơng nhân, các
đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã có cơng trình nghiên cứu về giai cấp
cơng nhân, nhiều cơng trình khoa học đã được cơng bố và xuất bản.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1 Mục đích của đề tài
Làm rõ phương pháp, cách thức tiến hành chủ trương xây dựng và phát
triển giai cấp công nhân của Đảng cộng sản Việt Nam từ thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đến nay
3.2 Nhiệm vụ của đề tài
Khẳng định cơ sở lí luận và thực tiễn khách quan yêu cầu xây dựng và
phát triển giai cấp công nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tiến
tới thời kỳ đổi mới xây dựng nền kinh tế thị trưởng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nêu lên chủ trương, đường lối xây dựng và phát triển giai cấp công nhân
của Đảng, cách thức và biện pháp tiến hành.

2


4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, kết hợp chặt chẽ phương pháp lịch sử
với các phương pháp lơgíc, tổng hợp, phân tích, so sánh.
5. Bố cục đề tài
Ngồi phần mở đầu và kết luận đề tài gồm 3 chương 6 tiết

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
1.1. Khái niệm giai cấp công nhân
Lênin là người có định nghĩa rõ nhất về giai cấp “Người ta gọi là giai
cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ
trong hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan
hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định
và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ
chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách hưởng thụ và về
phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập
đoàn khác nhau, do chỗ các tập đồn đó có địa vị khác nhau trong một chế
độ kinh tế xã hội nhất định”.
Dưới chế độ Tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là giai cấp khơng có
tư liệu sản xuất (vơ sản ), khơng có vai trị gì trong tổ chức quản lý lao động
xã hội, là giai cấp làm thuê, bán sức lao động để được hưởng thụ phần của cải
ít ỏi, đó là giai cấp bị áp bức bóc lột. Giai cấp cơng nhân ra đời cùng với sự ra
đời và phát triển của nền đại công nghiệp. Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng

sản (1848), Mác-Ăngghen đã nhấn mạnh “Các giai cấp khác đều suy tàn và
tiêu vong cùng với sự phát tiển của đại công nghiệp; giai cấp vô sản, trái lại,
là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”. Trong các giai cấp đương đầu
với Chủ nghĩa tư bản, chỉ có giai cấp vơ sản là giai cấp cách mạng nhất.
Giai cấp công nhân là một phạm trù lịch sử, nó là con đẻ của một hồn
cảnh lịch sử cụ thể. Cùng với tiến trình của lịch sử, sự phát triển của nền đại
công nghiệp, giai cấp công nhân cũng ln ln phát triển, có những đặc
trưng mới.
Giai cấp cơng nhân là giai cấp của những người lao động sản xuất vật chất
là chủ yếu (với trình độ trí tuệ ngày càng cao, đồng thời cũng ngày càng có nhiều

4


sáng chế, phát minh lý thuyết được ứng dụng ngay trong sản xuất, vì thế, giai
cấp cơng nhân có vai trò quyết định nhất sự tồn tại và phát triển của xã hội .
Giai cấp cơng nhân có lợi ích giai cấp đối kháng với lợi ích cơ bản của
giai cấp tư sản (giai cấp cơng nhân xóa bỏ chế độ tư hữu, xóa bỏ áp bức bóc
lột, giành chính quyền và làm chủ xã hội , giai cấp tư sản không bao giờ tự rời
những vấn đề cơ bản đó ). Do vậy, giai cấp cơng nhân có tinh thần cách mạng
triệt để; là giai cấp dân tộc vừa có quan hệ quốc tế vừa có bản sắc dân tộc và
chịu trách nhiệm trước hết với dân tộc mình.
Giai cấp cơng nhân có hệ tư tưởng riêng của giai cấp mình; đó là chủ
nghĩa Mác-Lênin phản ánh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đồng thời
hệ tư tưởng đó dẫn dắt giai cấp cơng nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình
nhằm giải phóng xã hội, giải phóng con người. Giai cấp cơng nhân có Đảng
tiên phong của mình là Đảng cộng sản (Đảng Mác-Lênin). Bất kỳ giai cấp
cơng nhân nước nào, khi đã có đảng tiên phong của nó, đều có những đặc
điểm cơ bản, chung nhất đó. Do vậy, Giai cấp cơng nhân mỗi nước đều là một
bộ phận không thể tách rời của giai cấp cơng nhân thế giới. Chính vì vậy, chủ

nghĩa Mác-Lênin mới có những quan điểm lịch sử đúng đắn về sứ mệnh lịch
sử của toàn thế giới của giai cấp cơng nhân.
Từ những đặc điểm vốn có, giai cấp cơng nhân mới có 3 tính chất cơ
bản là:
a.Tính tổ chức, kỷ luật cao
b.Tính tiên phong (về phương thức sản xuất, về tư tưởng).
c.Tính triệt để
Trong xã hội Tư bản chủ nghĩa, Giai cấp công nhân là giai cấp bị bóc
lột, bị tước đoạt hết quyền sở hữu tư liệu sản xuất, hoặc về cơ bản khơng có tư
liệu sản xuất, làm thuê trong nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa,
bị giai cấp tư bản thống trị, bóc lột giá trị thặng dư ,là giai cấp duy nhất trực
tiếp đối lập với giai cấp tư sản vì lợi ích cơ bản, giai cấp duy nhất có khả năng
lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động và các lực lượng tiến bộ trong toàn
5


thể dân tộc tiến hành cách mạng thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chế độ xã hội
chủ nghĩa.
Dưới Chủ nghĩa xã hội, Giai cấp công nhân là giai cấp cơ bản, là một
lực lượng sản xuất cơ bản, tiên tiến trong sản xuất của cải vật chất và cải tạo
quan hệ sản xuất, là giai cấp lãnh đạo xã hội, làm chủ công cụ, tư liệu sản
xuất chủ yếu, đại đa số làm việc trong những nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản
xuất...thuộc sở hữu nhà nước và một bộ phận làm việc trong những thành
phần kinh tế cá thể, tư nhân, công tư hợp doanh, liên doanh...Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, Giai cấp công nhân liên minh chặt chẽ với giai cấp nơng dân
và tầng lớp trí thức thực hiện cuộc cải biến xã hội, xây dựng xã hội mới xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
1.2. Phong trào phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ nhất của thực dân Pháp. Sinh ra trong lịng dân tộc có truyền thống đấu

tranh chống giặc ngoại xâm, trong điều kiện bị kẻ thù xâm lược khiến cho ý
chí và động cơ cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam được nâng lên
gấp bội. Ngay từ khi ra đời, Giai cấp công nhân nước ta đã anh dũng, kiên
cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Phong trào đấu tranh của công nhân
từng bước trưởng thành, phát triển từ tự phát đến tự giác và khơng ngừng lớn
mạnh. Sự ra đời của Cơng đồn Việt Nam-tổ chức chính trị xã hội rộng lớn
nhất của giai cấp công nhân Việt Nam là kết quả tất yếu của q trình phát
triển của phong trào cơng nhân nước ta cùng với việc chuẩn bị các điều kiện
lý luận, tư tưởng, chính trị tổ chức, của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Do đặc điểm sự hình thành của mình, Giai cấp cơng nhân Việt Nam có
những đặc điểm riêng. Những đặc điểm riêng ấy quy định những mặt mạnh và
những mặt hạn chế của Giai cấp công nhân Việt Nam đồng thời cũng cắt
nghĩa vì sao Giai cấp cơng nhân nước ta còn tương đối non trẻ chưa phát triển
về số lượng, trình độ nghề nghiệp và một số về mặt chất lượng còn hạn chế
nhưng vẫn giữ vị trí lãnh đạo trong Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
6


tiếp tục giữ vai trò lãnh đạo trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa,
những đặc điểm chủ yếu đó là:
a).Tuy sinh trưởng ở một nước thuộc địa nửa phong kiến với một nền
sản xuất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp chưa phát triển, đa số dân cư là
nông dân, song giai cấp công nhân nước ta ra đời vào lúc phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ và được ảnh hưởng của cách mạng
tháng Mười Nga, cách mạng Trung Quốc, không bị ảnh hưởng của chủ nghĩa
cơ hội hữu khuynh trong Quốc tế II và được tác động tích cực của Quốc tế
cộng sản nên Giai cấp công nhân Việt Nam dễ tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin,
sớm biết gắn vấn đề dân tộc với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Giai cấp công nhân
Việt Nam từ khi có chính đảng của mình cho đến nay vẫn giữ được truyền
thống cách mạng, thống nhất về tư tưởng, tổ chức trong phạm vi cả nước.

b). Giai cấp cơng nhân Việt Nam sinh trưởng trong lịng dân tộc có
truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Cũng như nơng dân, cơng nhân
có hai mối thù sâu sắc đối với đế quốc, thực dân: mối thù dân tộc do bị áp bức
và mối thù giai cấp do bị bóc lột nặng nề. Vì vậy, giai cấp cơng nhân Việt
Nam có tinh thần cách mạng triệt để.
Nét điển hình nhất và cũng là yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh của Giai
cấp công nhân Việt Nam, nhân sức mạnh của nó lên là ở chỗ từ khi ra đời
đến nay, Giai cấp cơng nhân có mối liên hệ gắn bó mật thiết với dân tộc, số
phận lợi ích của nó đã gắn bó với số phận và lợi ích của dân tộc. Ý thức dân
tộc và ý thức giai cấp hòa quyện vào nhau, lòng yêu nước quyện chặt với
yêu chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp giải phóng giai cấp gắn bó hữu cơ với sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Vì thế, ngay từ đầu cơng nhân Việt Nam đã đại
diện cho lợi ích của cả dân tộc. Và do vậy ,vai trị lãnh đạo của nó được cả
dân tộc thừa nhận.
c).Giai cấp công nhân Việt Nam do nguồn gốc xuất thân của nó đã sớm
có mối liên hệ tự nhiên máu thịt với nhân dân lao động. Đó là cơ sở tình cảm,
là yếu tố thuận lợi để xây dựng khối liên minh cơng-nơng-trí thức và khối đại
7


đồn kết dân tộc. Đó là điều kiện thuận lợi, là cơ sở xã hội vững chắc bảo
đảm cho vị trí lãnh đạo trong sự nghiệp cách mạng giành, giữ chính quyền và
xây dựng xã hội mới.
d). Ra đời tuy có muộn so với giai cấp cơng nhân của các nước cơng
nghiệp phát triển, số lượng lúc đầu cịn nhỏ bé, nhưng giai cấp công nhân Việt
Nam đã sớm tỏ ra là một đội ngũ kiên cường trong quá trình đấu tranh cách
mạng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Do đó,nó chẳng những tập hợp
lơi cuốn được cả dân tộc theo mình, mà cịn tạo ra được sự đồng tình ủng hộ,
giúp đỡ to lớn của nhân loại tiến bộ, của lực lượng chống đế quốc, thực dân,
kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, trong nước và quốc

tế tạo ra sức mạnh tổng hợp nhân lên sức mạnh của giai cấp và dân tộc trong
quá trình đấu tranh cách mạng. Và do vậy, vai trò lãnh đạo của Giai cấp cơng
nhân được hình thành thực tế trong lịch sử được quần chúng nhân dân thừa
nhận, chứ không phải là sự gán ghép chủ quan của mình.
e). Giai cấp cơng nhân Việt Nam là một bộ phận của Giai cấp công
nhân quốc tế, do vậy, nó mang những đặc trưng cơ bản của Giai cấp cơng
nhân quốc và có sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân quốc tế. Giai cấp
cơng nhân Việt Nam có lãnh tụ sáng suốt, vĩ đại vừa là lãnh tụ của giai cấp
vừa là lãnh tụ của dân tộc - Hồ Chí Minh, vạch đường chỉ lối, giáo dục, rèn
luyện. Người sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và đưa vào nước ta. Người
đã sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam. Thơng qua chính đảng của mình, Giai
cấp cơng nhân bước lên vũ đài chính trị giành quyền lãnh đạo sự nghiệp giải
phóng dân tộc, trong khi nhiều cương lĩnh của giai cấp và tầng lớp yêu nước
bị phá sản. Ngay từ đầu chính đảng của Giai cấp công nhân đã biết vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, đề ra
cương lĩnh cứu nước đúng đắn cho dân tộc, chỉ ra con đường duy nhất đúng
đắn để giải phóng dân tộc- con đường kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Do vậy, Giai cấp công nhân Việt Nam đã đóng vai trị tiên phong, giành
được quyền là giai cấp duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong giai
8


đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong sự nghiệp xây dựng xã hội
mới. Tuy nhiên do được sinh ra và lớn lên ở một nước nông nghiệp lạc hậu,
nền đại cơng nghiệp chưa phát triển, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
cịn thấp, cơng nhân cịn ít ỏi... nên Giai cấp cơng nhân Việt Nam cũng có
những mặt hạn chế nhất định như: tổ chức kỷ luật chưa cao, tư tưởng, tâm lý,
tác phong và thói quen của người sản xuất nhỏ cịn khá nặng nề, biểu hiện rõ
nhất là tính tự do, tùy tiện, sự manh mún, tản mạn, tư tưởng cục bộ, phường
hội, tác phong gia trưởng...Điều đó thể hiện với những mức độ khác nhau

trong mỗi người công nhân.Và, trong chừng mực nhất định, thể hiện cả trong
hoạt trong hoạt động của các tổ chức chính trị, xã hội của Giai cấp công
nhân. Những hạn chế của Đảng và nhà nước trong lãnh đạo quản lý kinh tế,
văn hóa, xã hội, một số biểu hiện tiêu cực trong Đảng và Nhà nước ta hiện
nay, ở một phương diện nào đấy có thể lý giải từ nguyên nhân sâu xa của nó,
đó là những hạn chế của của giai cấp công nhân Việt Nam - một trong những
cơ sở xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Những hạn chế, yếu kém ấy của Giai
cấp công nhân Việt Nam một phần là do điều kiện kinh tế xã hội mà Giai cấp
công nhân Việt Nam ra đời, cũng như trong quá trình tồn tại và phát triển của
nó quy định.

9


CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN VÀ VAI TRÒ CỦA GIAI CẤP CÔNG
NHÂN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975 ĐẾN NAY
2.1. Sự phát triển và vai trị của Giai cấp cơng nhân Việt Nam
(1975-1985)
2.1.1 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng giai cấp
công nhân (1975-1985)
Sau khi đất nước thống nhất, Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Công việc trước hết sau ngày thống nhất
đặt ra là hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước, khôi phục kinh tế,
hàn gắn vết thương chiến tranh. Đảng lãnh đạo nhân dân hai miền Nam - Bắc
thực hiện những nhiệm vụ đặt ra và thu được thành tựu bước đầu của thời kỳ
cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Cùng với công việc phát triển kinh tế-xã hội, Đảng chú trọng và quan
tâm đến vấn đề xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn cách mạng mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976) của Đảng khẳng định: “Trong
suốt quá trình xây dựng Đảng từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn

xác định Đảng là Đảng của Giai cấp công nhân Việt Nam và phấn đấu khơng
ngừng để nâng cao tính chất Giai cấp cơng nhân trong Đảng.Vấn đề có ý
nghĩa nguyên tắc đầu tiên là tăng cường phát triển Đảng và lựa chọn cán bộ
trong cơng nhân-cơ sở giai cấp của Đảng. Điều đó phù hợp với yêu cầu tăng
cường vai trò của Giai cấp công nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, đồng thời cũng phù hợp với bước nhảy vọt của Giai cấp công nhân từ địa
vị làm thuê lên địa vị làm chủ và lãnh đạo xã hội mới, phù hợp với sự phát
triển mau chóng về số lượng và chất lượng của Giai cấp cơng nhân trong q
trình đi lên cơng cuộc cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trước mắt”. Quan
điểm của Đảng ta về xây dựng Giai cấp công nhân thể hiện ở các luận điểm:
Khẳng định lập trường của Đảng ta là lập trường của Giai cấp công
nhân, giai cấp gắn liền với nền sản xuất đại công nghiệp. Đại hội lần thứ IV
10


của Đảng đã nêu rõ quan điểm của Đảng về xây dựng giai cấp cơng nhân. Đó
là: “Chăm lo xây dựng đội ngũ Giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh về
số lượng và chất lượng, xứng đáng với vai trò là giai cấp tiên phong, giai cấp
lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải hoàn thiện và từng bước
thực hiện đầy đủ những quy chế nhà nước, đảm bảo cho cơng nhân tham gia
tích cực và có hiệu quả vào hoạt động quản lý xí nghiệp, quản lý kinh tế, quản
lý xã hội”
Để tăng cường khả năng quản lý, tổ chức sản xuất và nâng cao chất
lượng Giai cấp công nhân, Đảng chú trọng đào tạo công nhân lành nghề. Nghị
quyết đại hội nêu rõ: Sắp xếp các lớp dạy nghề của các Bộ, các địa phương và
các cơ sở, cải biến công tác tuyển sinh, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào
tạo, xác định quy mô đào tạo công nhân gắn với yêu cầu phát triển sản xuất,
rất chú trọng việc đào tạo công nhân có tay nghề cao.
Nâng cao ý thức giác ngộ giai cấp và khả năng quản lý xã hội của Giai
cấp công nhân. Giai cấp công nhân chỉ trở thành giai cấp lãnh đạo và hoàn

thành sứ mệnh lãnh đạo cách mạng khi mỗi thành viên giác ngộ về lý tưởng
cách mạng, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình và được tổ chức chặt chẽ.
Chính vì vậy, Đại hội IV của Đảng chỉ rõ: để bảo đảm chất lượng của đội ngũ,
Đảng ta phải tiếp tục coi trọng kết nạp Đảng viên từ Giai cấp công nhân, từng
bước nâng cao tỉ lệ Đảng viên xuất thân từ công nhân, coi đó là phương
hướng giai cấp chính trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội…Phải phấn
đấu tăng cường thành phần công nhân trong đội ngũ cán bộ các loại, ở các
cấp, các nghành, trước hết là trong cán bộ lãnh đạo chung, cán bộ quản lý
công nghiệp, quân đội, công an, trong đội ngũ cán bộ ở các thành phố, các
khu công nghiệp và nhất là ở cấp cơ sở.
Phát huy tốt vai trò của tổ chức cơng đồn nhằm thực hiện tốt đường
lối vận động giai cấp công nhân của Đảng. Từ rất sớm Đảng ta đã quan tâm
xây dựng tổ chức của công nhân, bởi đó là nơi đưa các chủ trương chính sách
của Đảng đến với cơng nhân. Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ V(3/1982)

11


của Đảng khẳng định: Cơng đồn phải cải tiến tổ chức và hoạt động tổ chức
của mình để thực hiện đầy đủ vai trị, chức năng, nhiệm vụ của Cơng đoàn
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa đã ghi trong nghị quyết đại hội lần thứ IV
của Đảng và trong hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trước mắt công tác vận động công nhân của Đảng và hoạt động của Cơng
đồn phải hướng vào nhiệm vụ xây dựng Giai cấp công nhânVN vững mạnh,
giáo dục, nâng cao ý thức giai cấp, xây dựng người công nhân mới xã hội chủ
nghĩa. Cơng đồn phải tập trung vào thực hiện các mục tiêu kinh tế, khoa học
kỹ thuật tổ chức và đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất, thực hành
tiết kiệm của công nhân, viên chức, nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa
học kỹ thuật cho cơng nhân, góp phần tích vào việc đào tạo đội ngũ công
nhân lành nghề, đào tạo những cán bộ giỏi. Cơng đồn vận động cơng nhân

viên chức tham gia tích cực vào việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, hồn
thiện các chính sách kinh tế, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản
phẩm, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cơng đồn giáo dục cơng nhân, viên
chức về thái độ lao động, thái độ của người làm chủ xã hội.Vấn đề phát triển
giáo dục là một bước phát triển mới của cơng đồn trong điều kiện Giai cấp
cơng nhân đã giành được chính quyền và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã
hội.Trong quá trình lãnh đạo xây dựng Giai cấp công nhân Đảng luôn tôn
trọng tính độc lập về mặt tổ chức của cơng đồn, lãnh đạo xây dựng giai cấp
thông qua tổ chức của cơng đồn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cơng đồn đã
tập hợp, vận động, giáo dục tổ chức công nhân tham gia tích cực vào sự
nghiệp xây dựng đất nước theo con đương chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng liên minh cơng nhân, nơng dân và đội ngũ trí thức làm nịng cốt
cho khối đại đồn kết dân tộc. Giai cấp cơng nhân là hạt nhân của liên minh
cơng-nơng-trí thức nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc. Xuất phát từ nguyên
lý của chủ nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong suốt quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, liên minh cơng-nơng-trí thức thành nịng cốt
của khối đại đoàn kết dân tộc tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất.

12


Qua trên có thể thấy trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Đảng luôn quan tâm đến xây dựng đội ngũ Giai cấp công nhân, bởi lẽ Đảng ta
ln có nhận thức đúng đắn vị trí, vai trị của Giai cấp công nhân trong sự
nghiệp cách mạng.
Những chủ trương của Đảng về xây dựng Giai cấp công nhân tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển của Giai cấp công nhân, là sự chuẩn bị vững
chắc cho Giai cấp công nhân Việt Nam vững bước tiến hành công cuộc đổi
mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
2.1.2 Sự phát triển và vai trò hoạt động của Giai cấp công nhân Việt

Nam (1975-1985).
a. Sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam (1975-1985)
Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp giải
phóng đất nước cũng như sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Sau tháng 4-1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, cả nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Giai cấp cơng nhân hịa mình vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Trong suốt thời kỳ quá độ 1975-1985, Giai cấp công nhân Việt Nam
không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng.
Giai đoạn 1975-1985 là giai đoạn mà xu hướng cơng nhân hóa được
triển khai trong cả nước, trên một cơ sở chính trị, xã hội đồng nhất. Đặc biệt
là đường lối “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội” và “ra sức xây dựng Giai cấp công
nhân lớn mạnh về chất lượng và số lượng” của Đảng đã tạo ra những điều
kiện xã hôi khá rộng lớn cho sự vận động của xu hướng này. Sự tăng trưởng
của Giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng, sự phát triển của khu
cơng nghiệp và ảnh hưởng của nó tới các lĩnh vực kinh tế- xã hội khác, sự
khẳng định vai trò của Đảng, địa vị ưu thế của hệ tư tưởng Giai cấp cơng nhân
trong đời sống văn hóa, tư tưởng của xã hội đã cho thấy một chất lượng mới
của xu hướng cơng nhân hóa.
Tháng 3/1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng khẳng
định “Giai cấp công nhân nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều. Đội ngũ công nhân
13


tăng 24%, công nhân kỹ thuật đạt tới 1,7 triệu người. Trình độ chính trị văn
hóa và nghề nghiệp của cơng nhân được nâng cao một bước. Trước khó khăn
lớn về sản xuất và đời sống, Giai cấp công nhân ta vẫn tỏ rõ bản chất cách
mạng, giữ vững và phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa
xã hội”. Đến năm 1985, lực lượng công nhân viên chức có 4,12 triệu người
chiếm khoảng 6,65% dân số và 15,32% tổng số lao động trong xã hội. Trong

đó số người làm thuê trong khu vực sản xuất vật chất là 2,76 triệu người, số
công nhân trực tiếp sản xuất là 2,2 triệu người. Số công nhân viên chức nữ
chiếm 46%, số công nhân dưới 30 tuổi chiếm 53,6%, từ 30-50 tuổi chiếm
41,9%, từ 50-60 tuổi chiếm 44% và trên 60 tuổi chiếm 0,1%, năm 1985 tuổi
bình quân của cơng nhân Việt Nam là 31 tuổi.
Về trình độ học vấn: đến năm 1985, số cơng nhân có trình độ trung học
cơ sở là 77.5%, số cơng nhân có trình độ trung học phổ thơng là 42,5%.
Về trình độ kỹ năng nghề nghiệp: năm 1985 số thợ bậc 1 và bậc 2
chiếm 40%, số thợ bậc 3 và 4 chiếm 55%, số thợ bậc 7 chiếm 1,9%. Công
nhân các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến và sản xuất dịch vụ chiếm gần 40%
số công nhân công nghiệp. Năm 1985 cả nước ta có hơn 300 trường dạy nghề
có thể đảm nhiệm việc đào tạo cho hàng vạn công nhân. Nhưng do trình độ và
thiết bị dạy nghề cịn thiếu, cũ và lạc hậu nên chất lượng giáo dục đào tạo cịn
hạn chế.
Về ý thức chính trị của Giai cấp công nhân: từ 1981-1985, đất nước ta
lâm vào khủng hoảng gay gắt về kinh tế xã hội. Đời sống của cơng nhân rất
khó khăn, nhiều cơng nhân thiếu việc làm, hiện tượng tiêu cực trong xã hội, tệ
quan liêu, ức hiếp quần chúng nảy sinh. Song Giai cấp công nhân vẫn giữ
vững niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, nêu cao tinh thần cách mạng vượt
mọi khó khăn góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã
hội. Ở nhiều ngành kinh tế, nhiều nhà máy, xí nghiệp, cơng nhân nêu cao tinh
thần tự lực cánh sinh, thi đua sản xuất, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, tự
giác tham gia kiểm tra, kiểm sốt các hoạt động phân phối lưu thơng, phát
hiện nhiều việc làm sai trái xâm hại đến lợi ích chung.
14


Tỷ lệ giai cấp công nhân tham gia tổ chức Đảng, đoàn thể, theo kết quả
điều tra xã hội học, năm 1985 tỷ lệ cơng nhân tham gia Đồn Thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh là 35%. Tỷ lệ đảng viên trong cơng nhân cịn thấp, mức tăng

chậm đến năm 1985 chỉ chiếm 7.7%. Tỷ lệ cán bộ xuất thân từ cơng nhân có
xu hướng giảm.
Như vậy bên cạnh tính cách mạng kiên cường, đi đầu trong lao động
sản xuất và bảo vệ tổ quốc, cơng nhân Việt Nam cịn khơng ít những hạn chế
như trình độ học vấn, tay nghề cịn thấp, thiếu tác phong lao động cơng
nghiệp và chậm phát triển. 70% công nhân xuất thân từ nông dân nên còn bị
ảnh hưởng của tư tưởng tư hữu, sản xuất nhỏ, tác phong lao động chậm chạp,
khả năng chấp hành quy trình quy phạm trong sản xuất cịn hạn.
Bên cạnh bước phát triển của xu hướng công nhân hóa trên thực tế vào
đầu những năm 80 của thế kỷ XX, cũng đã xuất hiện tình huống có vấn đề
trong q trình cơng nhân hóa. Tình trạng lạc hậu về công nghiệp, sự khủng
hoảng của cơ chế bao cấp, nhiều biểu hiện tiêu cực mà tiêu biểu nhất có lẽ là
sự giảm sút năng suất lao động, ý thức lao động, ý thức nghề nghiệp của
nhiều bộ phận công nhân; cơng nghiệp đình đốn, trong đời sống tư tưởng xuất
hiện nhiều hiện tượng tiêu cực mà điển hình là sự “đắc thắng” của tâm lý sản
xuất nhỏ. Tổn hại lớn nhất đến xu thế cơng nhân hóa trong thời kỳ này là sự
mất mát cơ sở xã hội của nó: hàng chục vạn cơng nhân đã dời bỏ lao động,
công nghiệp sang lĩnh vực khác mà phần nhiều là thấp hơn về trình độ xã hội
hóa lao động. Sức hấp dẫn của xu hướng cơng nhân hóa suy giảm trong xã
hội. Thực tế trên lại đặt xu hướng công nhân hóa trước bước ngoặt mới.
Ở miền Nam, cơng nhân ở cả khu vực nhà nước lẫn tư doanh lao đao
một thời gian, một số tay nghề không được sử dụng, một số chuyển nghề, một
số di tản. Cần thấy sự xuống cấp của công nhân giai đoạn này để thấy rõ
thắng lợi lớn lao của thời kỳ đổi mới sau này.
Mặt khác, một bộ phận công nhân trẻ sống thực dụng, ngại lao động,
lười học tập, xâm hại lợi ích của công, tâm lý ỷ lại, giảm sút long tin vào
15


Đảng. Thời kỳ này điều kiện làm việc ít cải thiện, đời sống của cơng nhân

khó khăn.
Thực trạng trên địi hỏi Đảng phải tăng cường lãnh đạo xây dựng giai
cấp công nhân làm cơ sở xã hội cho Đảng và tạo điều kiện cho Giai cấp cơng
nhân hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình đối với cách mạng.
b.Vai trị của giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 1975-1985
“Vai trò lãnh đạo của một giai cấp trong xã hội là hoạt động xã hội
chính trị, là chức năng xã hội - chính trị của giai cấp ấy. Nói chung đối với
mọi xã hội có giai cấp, sự lãnh đạo có vị trí thống trị, quyết định của một giai
cấp bắt nguồn từ những vị trí thống trị hay hay tiên tiến của nó trong đời sống
xã hội. Vai trị ấy thể hiện trước hết ở chỗ giai cấp quyết định phương hướng
phát triển xã hội chính trị chủ yếu của xã hội”. Như vậy điều kiện quyết định
đối với vai trò lãnh đạo của một giai cấp trong xã hội là địa vị thống trị, quyết
đinh của nó trong các quan hệ sản xuất, các quan hệ sở hữu.
Vai trị lãnh đạo của Giai cấp cơng nhân Việt Nam (1975-1985) thể hiện
và được củng cố, giữ vững trong bước đầu của thời kỳ cả nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Giai cấp công nhân lãnh đạo đất nước thông qua chính đảng của mình.
Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược và các định hướng về chính
sách chủ trương công tác,… Trên thực tế, giai đoạn 1975-1985, mặc dù cịn
nhiều khó khăn nhưng Đảng ta đã có nhiều cố gắng, nghiên cứu tìm tịi đường
lối. Từ một nước có nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, nhiều tàn dư chiến tranh, hậu
quả của chế độ cũ để lại đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải có đường lối
độc lập tự chủ, sáng tạo.
Trong thực tiễn, vai trò tiên phong của Giai cấp công nhân Việt Nam đã
và đang được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Về mặt sản xuất, Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng sản
xuất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù nền công nghiệp nước ta
16



cịn nhỏ bé, số lượng Giai cấp cơng nhân cịn ít, chỉ mới chiếm 6,56% dân số
và 15,32% tổng lao động xã hội, nhưng là lực lượng đại diện cho phương thức
sản xuất tiến bộ, hiện đại, đưa sự nghiệp cơng nghiệp hóa giai đoạn này phát
triển hơn một bước so với giai đoạn trước. Giai cấp công nhân Việt Nam thực
sự có khả năng sáng tạo. Những khó khăn chồng chất về sản xuất và đời sống
trong những năm 1975-1985 không đè bẹp được sức mạnh sáng tạo của Giai
cấp cơng nhân. Trái lại trong cái khó nảy sinh nhiều sáng tạo. Từ trong phong
trào lao động sản xuất nảy sinh nhiều sáng kiến có giá trị, hàng vạn người lao
động giỏi. Trước khó khăn của cơ chế quản lý kinh tế theo hướng tập trung
quan liêu bao cấp nền kinh tế gặp khó khăn, đời sống nhân dân không ổn
định, Giai cấp công nhân là người đề xướng, phát hiện và thực hiện nhiều giải
pháp có hiệu quả trong việc giữ vững, ổn định và phát triển sản xuất. Vai trị
của cơng nhân trong sản xuất gắn liền và thể hiện rõ qua vai trò của nền kinh
tế quốc doanh, nhất là công nghiệp quốc doanh. Đội ngũ Giai cấp cơng nhân
có vai trị quan trọng góp phần làm cho kinh tế quốc doanh từng bước thực
hiện được vai trị chủ đạo.
Khó khăn về kinh tế, xã hội của đất nước, âm mưu phá hoại bằng mọi
thủ đoạn của kẻ thù trong và ngồi nước nhưng số đơng cơng nhân, lao động
vững vàng về chính trị tư tưởng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, ở mục
tiêu xã hội chủ nghĩa, kiên cường phấn đấu góp phần to lớn vào những thành
công bước đầu rất quan trọng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi cả nước.
Hơn ai hết, công nhân nước ta là lực lượng xã hội gánh chịu nhiều nhất
những hậu quả tiêu cực do mặt trái của việc quản lý cơ chế quản lý bao cấp và
chịu nhiều thiệt thòi trong bước đầu của sự nghiệp xây dựng đất nước do
những chính sách quy định chưa đồng bộ hoặc cịn sơ hở. Song, họ cũng là
lực lượng kiên quyết nhất ủng hộ cách mạng, ủng hộ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc của Đảng và nhà nước.


17


Giai cấp cơng nhân đã và đang góp phần khơng nhỏ sức người sức của
vào công cuộc bảo vệ tổ quốc. Giai cấp cơng nhân có vai trị quan trọng sự
nghiệp bảo vệ tổ quốc. Trong tình hình đất nước đối đầu với hai cuộc chiến
tranh biên giới phía Bắc và chiến tranh biên giới Tây Nam, Giai cấp công
nhân đã nêu vai trị độc lập tự chủ tích cực tham gia vào cuộc chiến để bảo vệ
tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trước vơ vàn khó khăn thử thách, Giai
cấp công nhân vẫn giữ truyền thống đấu tranh cách mạng, xứng đáng là giai
cấp tiên phong lãnh đạo cách mạng, là lực lượng chính trị cơ bản, đội quân
chủ lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
Đương nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là trong sự
nghiệp xây dựng xã hội mới trong điều kiện vừa trải qua cuộc chiến tranh ác
liệt kéo dài ngót nửa thế kỷ, hậu quả nhiều mặt còn nặng nề, điểm xuất của
nền kinh tế cịn thấp kém, giai cấp cơng nhân nước ta và chính đảng của nó
mới đi những bước đi đầu tiên trên con đướng xây dựng xây dựng xã hội mới,
kiến thức, kinh nghiệm lãnh đạo, tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh, quản lý
xã hội cịn q ít ỏi, do đó những sai lầm khuyết điểm, vấp váp là khó tránh
khỏi, đó cũng là bình thường và dễ hiểu. Vì vậy, Đảng ta cần quan tâm hơn
nữa và có những chính sách hợp lý để xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân
ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng.
2.2. Sự phát triển của phong trào công nhân trong giai đoạn đổi
mới từ năn 1986 đến nay
Giai cấp công nhân là đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, tiên
phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và là lực lượng nòng cốt
trong khối liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Giai cấp cơng nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn, là giai
cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt
Nam; Cơng đồn là tổ chức trực tiếp vừa đại diện, vừa bảo vệ quyền lợi chính

đáng của người lao động.

18


Giải pháp mang tính chiến lược xây dựng giai cấp công nhân vững
mạnh phải gắn kết chặt chẽ với phát triển kinh tế - xã hội. Xử lý đúng đắn mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội và chăm lo
xây dựng giai cấp cơng nhân; bảo đảm hài hịa lợi ích giữa cơng nhân, người
sử dụng lao động và tồn xã hội. Đồng thời, phải đào tạo, bồi dưỡng, nâng
cao trình độ mọi mặt cho công nhân; bồi dưỡng đội ngũ công nhân trẻ có trình
độ học vấn, chun mơn, kỹ năng nghề nghiệp, bước đầu hình thành đội ngũ
cơng nhân trí thức ngang tầm khu vực và quốc tế, có giác ngộ giai cấp và bản
lĩnh chính trị vững vàng, giàu lịng u nước, u chủ nghĩa xã hội, đồn kết
và hợp tác quốc tế, trở thành lực lượng nòng cốt của giai cấp công nhân cả
nước. Là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, giai cấp công nhân Việt Nam đã và đang vươn lên làm tròn sứ
mệnh lịch sử vẻ vang, góp phần xứng đáng vào sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân quốc tế.
Hiện nay, cả nước có khoảng 10 triệu cơng nhân, tạo ra 60% tổng sản
phẩm xã hội, hơn 70% ngân sách cả nước.

19


CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA GIAI CẤP CÔNG
NHÂN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
3.1. Thực trạng phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam giai
đoạn hiện nay
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ mà đất nước gặp nhiều

khó khăn chồng chất, đời sống nhân dân khó khăn, đời sống chính trị có nhiều
biến động. Do hồn cảnh tác động, giai cấp công nhân trong giai đoạn này
phát triển chậm, số lượng ít, chất lượng cơng nhân trong các lĩnh vực kinh tế
không cao. So với giai đoạn trước 1975, cơng nhân thời kỳ này có bước phát
triển hơn về ý thức chính trị cũng như trình độ. Song trong khoảng thời gian
10 năm, giai cấp công nhân mới có bước đi ban đầu trên chặng đường phát
triển của mình. Cơng nghiệp cịn yếu, nhỏ lẻ nên địa vị kinh tế xã hội của Giai
cấp công nhân trong nền sản xuất không được chú ý đúng mức.
Giai đoạn 1975-1985- đây là chặng đường đầu tiên đưa cả nước q độ
lên chủ nghĩa xã hội, cịn gặp nhiều khó khăn, vấp váp trong quản lý. Vì vậy,
giai cấp cơng nhân thời kỳ này có thể đánh giá là chậm phát triển. Trình độ lý
luận: số cơng nhân có văn hóa thấp nên trình độ lý luận cũng thấp. Qua điều
tra xã hội học ở một số nơi phần lớn cơng nhân khơng hiểu hết vai trị, vị trí
của mình. Họ thờ ơ với thời cuộc, tình hình chính trị trong nước và quốc tế.
Trong quá trình tham gia lao động sản xuất, cơng nhân ít quan tâm đến năng
suất lao động, chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế. Vì vậy năng suất lao
động thấp, chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế kém.
Đời sống khó khăn nhưng cơng nhân chưa thực sự làm chủ mọi mặt đời
sống xã hội. Điều này một mặt do cơng nhân chưa có thói quen làm chủ, mặt
khác, cơ chế quản lý bao cấp cũng hạn chế quyền làm chủ của công nhân.
Điều này đã hạn chế nhiệt tình lao động, khả năng sáng tạo và giảm khả năng
đấu tranh cho chân lý của Giai cấp cơng nhân, và đó cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng bỏ việc, lãn cơng của cơng nhân một số xí
nghiệp nhà máy trong thời gian quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
20


Sự phát triển của công nhân giai đoạn này kém hiệu quả là do những
nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Một là xuất phát từ bản thân
Giai cấp công nhân, do đặc điểm giai cấp công nhânViệt Nam là sinh trưởng

trong một nước nông nghiệp, công nghiệp hiện đại chưa phát triển; xuất thân
từ nông dân…Những điều này đã in đậm hàng chục năm trong cán bộ quản
lý, lãnh đạo và công nhân. Đến nay vẫn bị ảnh hưởng. Hai là, do cơ chế bao
cấp và tình trạng thiếu công bằng xã hội kéo dài đã làm giảm sút nhiệt tình lao
động, nảy sinh tư tưởng ỷ lại, thụ động, làm tha hóa một bộ phận cơng nhân,
gây tác hại sâu xa đến việc xây dựng đội ngũ công nhân về tư tưởng, tổ chức,
đạo đức, lối sống và phong cách làm việc. Mặt khác Đảng và Nhà nước chưa
quan tâm đầy đủ tới việc xây dựng Giai cấp cơng nhân. Nhiều chính sách kinh
tế xã hội chưa quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi của Giai cấp cơng nhân.
Nhiều chủ trương chính sách đối với công nhân, đối với cơ sở sản xuất kinh
doanh chưa được thể chế hóa thành cơ chế vận hành đồng bộ, nhất quán và tổ
chức thực hiện nghiêm túc. Công tác đào tạo đội ngũ công nhân không được
chú trọng đúng mức, số lượng đào tạo không được sử dụng đúng ngành nghề.
3.2. Bài học kinh nghiệm nhằm xây dựng phong trào công nhân
Việt Nam hiện nay
Từ thực tiễn trên, yêu cầu đặt ra là phải có phương hướng và giải pháp
để xây dựng Giai cấp công nhân Việt Nam phát triển tương xứng với khả
năng vốn có của Giai cấp công nhân. Bằng mọi con đường, thông qua các tổ
chức rộng rãi của quần chúng, nâng cao nhận thức trong tồn dân về vai trị,
vị thế của giai cấp công nhân, nhưng trước hết và quan trọng nhất là làm cho
bản thân Giai cấp công nhân hiểu rõ hơn ai hết thế nào là lập trường giai cấp
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung và trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội nói riêng. Cần coi trọng và giữ vững quan điểm Giai cấp công
nhân trong việc lựa chọn cán bộ quản lý và lãnh đạo, khắc phục chủ nghĩa
thành phần, nhưng không thể xa rời các nguyên tắc cơ bản thể hiện tư tưởng
Giai cấp công nhân trong công tác cán bộ.
21


Giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng là nhờ xây dựng

Đảng tiền phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam. Mối quan hệ giữa
Đảng với bản thân giai cấp công nhân là mối liên hệ quyết định tính đặc thù
và bản chất cách mạng của Đảng và giai cấp. Khơng có được một giai cấp đủ
mạnh, có tinh thần cách mạng và yêu nước, có tinh thần tập thể và tổ chức
cao, được giác ngộ sâu sắc lý tưởng cách mạng và trang bị lý luận cách mạng
thì khơng thể xây dựng được Đảng cách mạng mang bản chất của giai cấp
công nhân. Trong sự nghiệp Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc từ 1954
và trên cả nước từ 1975, Giai cấp công nhân Việt Nam cùng với toàn dân trở
thành người làm chủ đất nước, ra sức đóng góp vào sự nghiệp xây dựng, phát
triển kinh tế, xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Lực lượng
công nhân phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế quốc doanh cùng với
sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Điều này chứng minh
mối quan hệ giữa giai cấp cơng nhân và Đảng đội tiền phong của mình là gắn
kết với nhau. Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội chủ yếu của Đảng cộng sản
Việt Nam, là nguồn bổ sung lực lượng của Đảng. Đảng là một bộ phận của
Giai cấp công nhân, nằm trong giai cấp chứ khơng nằm ngồi giai cấp, đứng
trên giai cấp.
Nhận thức tầm quan trọng của mối liên hệ giữa Đảng cộng sản và giai
cấp cơng nhân để có chiến lược và chiến sách phát triển công nhân hợp lý
ngang tầm với vị trí, vai trị của giai cấp cơng nhân.
Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng to lớn và tiên tiến trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vai trị của Giai cấp cơng
nhân Việt Nam ngày càng được khẳng định trong những chặng đường phát
triển của đất nước. Chừng nào trong xã hội còn giai cấp, cịn các thế lực thù
địch thì cịn phải phân biệt rõ quan hệ giữa Đảng và giai cấp, giữa giai cấp
công nhân và các giai cấp trong xã hội khác. Từ đó thấy được vai trị chủ đạo
của giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
22



Vấn đề cấp bách hiện nay là phải xem công tác xây dựng Đảng, củng
cố các đoàn thể quần chúng là nhiệm vụ có ý nghĩa sống cịn đối với phong
trào công nhân hiện nay. Để làm được điều này chúng ta phải thẳng thắn trả
lời một câu hỏi lớn. Vì sao Đảng của giai cấp cơng nhân, Cơng đồn của cơng
nhân, Đồn Thanh niên là tổ chức chính trị của tuổi trẻ công nhân, nhưng một
bộ phận công nhân chưa thiết tha vào Đảng, vào Đoàn, chưa hoàn toàn xem
cơng đồn là tổ chức của họ. Thực tế cho thấy cơng tác xây dựng đảng và tổ
chức cơng đồn, đoàn thanh niên chưa theo kịp yêu cầu phát triển của đất
nước. Một mặt do áp lực của những điều kiện khách quan, mặt khác bản thân
các tổ chức đảng, cơng đồn cũng bộc lộ những bất cập yếu kém, tự thân
không theo kịp yêu cầu của sự phát triển, nhưng khơng có những chấn chỉnh
kịp thời. Đã đến lúc không chỉ dừng lại ở những chỉ thị, nghị quyết mà nên có
những văn bản pháp luật thể chế rõ chỉ thị nghị quyết thành những quy định
cụ thể. Đảng ta là Đảng cầm quyền, hoạt động của các tổ chức đảng, cơng
đồn, đồn thanh niên phải được hình thành trong từng doanh nghiệp bất
kỳ thuộc thành phần kinh tế nào. Tuy nhiên hoạt động của các tổ chức trên
đây phải góp phần làm cho doanh nghiệp phát triển, sản xuất kinh doanh
đạt hiệu quả cao. Đời sống vật chất, tinh thần và các quyền lợi khác của
người công nhân phải được bảo đảm tốt hơn. Các chủ trương đường lối
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải được thực thi và chấp
hành nghiêm túc.

23


KẾT LUẬN
Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược bởi vì giai cấp công nhân là động lực của cách mạng. Trong chặng
đường ban đầu cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp cơng nhân có

bước phát triển quan trọng nhưng hầu như số lượng và chất lượng công nhân
thời kỳ này khơng có bước đột phá.
Giai cấp cơng nhân Việt Nam có nhiều hạn chế xuất phát từ ý thức tiểu
nông, tác phong gia trưởng,… Song giai cấp công nhân Việt Nam có vai trị
quan trọng trong sự nghiệp cách mạng cũng như trong sự nghiệp xây dựng đất
nước. Nhận thức được sứ mệnh lịch sử của Giai cấp công nhân, Đảng ta
không ngừng tăng cường bản chất giai cấp công nhân trong Đảng, tăng cường
đào tạo chất lượng giai cấp công nhân, làm cho Giai cấp công nhân không
những lớn mạnh về số lượng mà cả về chất lượng. Trong thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, vấn đề xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân càng
được đặt lên vị trí hàng đầu. Từ những kinh nghiệm của giai đoạn trước, Đảng
rút bài học tự đổi mới và xây dựng giai cấp cơng nhân hồn thiện hơn, bảo
đảm xây dựng lực lượng công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước cả về
phẩm chất chính trị, lý tưởng cách mạng, cả trình độ học vấn và nghề nghiệp
cao, coi đó là lực lượng nịng cốt trong giai cấp công nhân Việt Nam.
Với niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng chúng ta tin
tưởng rằng với việc quán triệt vận dụng thành công những quan điểm cơ bản
của Đảng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ cách mạng
mới sẽ cho phép chúng ta nhìn thấy giai cấp cơng nhân Việt Nam ngày càng
lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách
mạng và là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hội nhập
quốc

24


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.V.I.Lênin toàn tập, NXB Tiến bộ, 1977.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IV, NXB Sự thật, Hà nội, 1976.

3.Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ V, NXB Sự thật, Hà nội, 1982
4.Bùi Đình Bơn, Giai cấp cơng nhân Việt Nam, mấy vấn đề lý luận
thực tiễn, NXB Lao động, Hà nội, 1996.
5.Giáo sư Văn Tạo, Đổi mới tư duy về giai cấp công nhân- kinh tế thị
trường và công nhân trí thức.
6.Tổ chức và hoạt động cơng đồn với xây dựng giai cấp cơng nhân
trong tình hình hiện nay, NXB Lao động, HN, 2008.
7.Về xu hướng giai cấp công nhân hóa ở nước ta hiện nay, NXBCTQG,
HN, 2008.
8.Trình Mưu, Quan điểm giai cấp trong tư duy chính trị Hồ Chí Minh
về cách mạng Việt Nam, NXB Lao động, HN, 1995.

25


×