Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

Quan hệ Việt Nam Trung Quốc từ 1991 nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 63 trang )

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

KHOA LỊCH SỬ
--- ---

THUYẾT TRÌNH

QUAN HỆ VIỆT NAM – TRUNG QUỐC TỪ
1991- NAY

Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Kim Dnng
Nhóm Sinh viên thực hiện :
Nguyễn Chí Nguyện
41.01.602.101
Nguyễn Huỳnh Minh Phương 41.01.602.070
Ngơ Hồng Giang
41.01.602.017
Nguyễn Thị Mộng Ý
41.01.602.099

1


Lời mở đầu
Việt Nam và Trung Quốc chung nhau 1.400 km đường biên giới và có vùng
biển tiếp giáp nhau, tương đồng về thể chế chính trị, văn hóa xã hội, bổ sung lẫn
nhau về kinh tế nhân dân hai nước vốn có tình hữu nghị truyền thống lâu đời,đã
từng ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của
mỗi nước. Mối quan hệ Việt - Trung đã qua thử thách, đã được tôi luyện trong cuộc
đấu tranh cách mạng giành độc lập và giải phóng dân tộc của mỗi nước. Lịch sử đã


chứng minh mối quan hệ hữu nghị truyền thống và tình cảm gắn bó giữa hai dân
tộc chúng ta,như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Vừa là đồng chí,vừa là anh em”.
Lịch sử bang giao, cũng như lịch sử quan hệ quốc tế đã chứng minh vai trò
quan trọng của nước láng giêng cũng như vai trò chủ chốt của nước lớn.Ta có thể
hiểu được vì sao Trung Quốc có vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của
Việt Nam: Trung Quốc mang cả hai đặc điểm quan trọng, vừa là láng giềng vừa là
nước lớn.Trong lịch sử quan hệ Việt Trung thời hiện đại ,đã có giai đoạn Việt Nam
tỏ rõ thái độ rất cứng rắn, chống đối Trung Quốc cơng khai và khá gay gắt,vì vậy
đã gây cho chúng ta rất nhiều khó khăn và để lại ảnh hưởng lâu dài.
Nghiên cứu quan hệ Việt - Trung dù ở giai đoạn nào cũng có thể đóng góp
vào việc đánh giá, rút ra những bài học kinh nghiệm để góp phần định ra chính
sách đối ngoại đúng đắn trong quan hệ với Trung Quốc. Giai đoạn từ khi hai nước
bình thường hóa quan hệ năm 1991 tới nay là giai đoạn chứng kiến những biến
chuyển mạnh mẽ nhất đưa quan hệ Việt Nam – Trung Quốc chuyển từ đối đầu sang
bình thường và hợp tác tồn diện. Năm 1991 đánh dấu mốc quan trọng trong lịch
sử Việt Nam khi mà hai nước đã biến từ thù thành bạn, từ đối đầu sang đối thoại.
Và năm 1999, quan hệ hai nước Việt Nam – Trung Quốc đã được nâng lên tầm cao
mới khi lãnh đạo hai nước xác định khuôn khổ cho quan hệ Việt – Trung bằng
phương châm 16 chữ: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài,
hướng tới tương lai”.
I.

Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trước khi bình thường hóa quan hệ
vào năm 1991.
2


1. Sơ lược về mối quan hệ đặc biệt của hai nước láng giềng trước khi bình
thường hóa quan hệ vào năm 1991.
Đây là mối quan hệ thay đổi, lên xuống, khi là bạn cực thân khi là thù không

đội trời chung, khi là đồng chí khi là địch thủ, khi hịa bình khi chiến tranh, khi liên
minh đồn kết khi mâu thuẫn đối kháng trong mấy chục năm qua.
Trung Quốc là nước đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Viêt Nam,ngày
18/1/1950 Trung Quốc ra tuyên bố công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Đây là sự kiên quan trọng mở đầu cho một loạt thắng lợi ngoại giao khác của Việt
Nam.Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, nhìn chung quan hệ
Việt_Trung tương đối tốt đẹp. Nhân dân, nhà nước và Đảng Cộng Sản Trung Quốc
đã đóng góp khơng nhỏ vào thắng lợi của Việt Nam. Sự giúp đỡ đó xuất phát từ
truyền thống hữu nghị giữa hai nước,từ sự tương đồng về ý thức hệ và cũng phù
hợp với lợi ích quốc gia của Trung Quốc. Trong kháng chiến chống Mỹ, Trung
Quốc đã giúp đỡ rất nhiều cho nhân dân Việt Nam.Về chính trị,Trung quốc luôn
luôn tuyên bố ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân ta.Trung Quốc đã huy động
hàng triệu người mít tinh với sự tham gia của các vị lãnh đạo cao nhất để phản đối
cuộc chiến do Mỹ gây ra và ủng hộ nhân dân Việt Nam. Đặc biêt,Trung quốc đã
viện trợ cho Việt Nam vũ khí bộ binh, quân trang, quân dụng, lương thực,thực
phẩm… Sự giúp đỡ to lớn của Trung Quốc đã góp phần quan trọng đưa cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi, đúng như Bác Hồ đã nói “Một
thắng lợi của Đảng ta và của nhân dân ta không thể tách rời sự ủng hộ nhiệt tình
của Liên Xơ, Trung Quốc và cả phe xã hội chủ nghĩa”.
Quan hệ Việt Trung trong chiến tranh chống Mỹ nhìn chung rất gắn bó song
khơng phải khơng có những mặt “cơm chẳng lành,canh chẳng ngọt”.Trung Quốc
dùng viện trợ để ép Việt Nam trong nhiều vấn đề. Hai năm 1965,1966 Trung Quốc
liên tục ngăn cản các hành động quốc tế thống nhất ủng hộ Việt Nam chống Mỹ
xâm lược, từ chối lập cầu hàng không Việt _Trung để bảo vệ miền Bắc Việt Nam.
Khi Việt Nam đàm phán với Mỹ,Trung Quốc đã không đồng ý và giảm viện trợ.
Sang năm 1971,1972 Trung Quốc lại tăng viện trợ để tăng sức ép đối với Mỹ,buộc
Mỹ ký kết thơng cáo chung Thượng Hải có lợi cho Trung Quốc, từ đó Trung Quốc
sẽ giúp Mỹ rút khỏi chiến tranh Việt Nam trong danh dự và Mỹ nhân nhượng
Trung Quốc về vấn đề Đài Loan. Điều đó cho thấy trong quan hệ với Việt Nam, lợi
ích quốc gia của Trung Quốc ln được xếp vị trí hàng đầu.Tháng 1/1974 lợi dụng

3


Việt Nam đang tập trung sức lực giải phóng miền Nam, Trung Quốc đã huy động
lực lượng hải quân đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Với đại thắng mùa Xuân năm 1975,Việt Nam thống nhất đất nước,non sông
thu về một mối. Quan hệ Việt _Trung lúc này lại trở nên căng thẳng. Trung Quốc
đã ngừng viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam và cuối năm 1977, họ chấm dứt
cho vay. Đến năm 1978,Trung quốc tuyên bố rút toàn bộ chuyên gia và cắt toàn bộ
viện trợ.Trung Quốc còn giật dây Campuchia gây hấn, chống Việt Nam và đồng
thời khiêu khích vũ trang ở sáu tỉnh biên giới phía Bắc nước ta. Do vậy quan hệ hai
nước đã xấu đi nhanh chóng với đỉnh cao là cuộc chiến tranh biên giới tháng
2/1979. Cuộc chiến tranh này là hậu quả của sự căng thẳng giữa hai nước Việt
Nam,Trung Quốc. Cuộc chiến đã gây tổn thất lớn về người và của cho nhân dân
hai nước và làm phương hại đến quan hệ hữu nghị Việt-Trung. Cuộc chiến này còn
làm cho hịa bình và ổn định trong khu vực bị đe dọa, gây ảnh hưởng không nhỏ
đến sự phát triển của các nước trong khu vực.
Sau chiến tranh biên giới, quan hệ hai nước tiếp tục căng thẳng.Tình trạng
này kéo dài suốt thập kỷ 80, gây ảnh hưởng xấu đối với chính sách đối ngoại và sự
phát triển kinh tế của hai nước. Trong 12 năm đối đầu (1979-1991), do quan hệ
chính trị căng thẳng nên đã dẫn đến sự bế tắc trong các lĩnh vực khác. Trung Quốc
thường xuyên gây ra các vụ khiêu khích dọc theo biên giới hai nước. Nghiêm trọng
nhất là ngày 14/3/1988, một biên đội tàu chiến gồm sáu chiếc của hải quân Trung
Quốc đã gây sự tấn công các tàu tiếp tế của Việt Nam và đổ bộ đóng chiếm sáu bãi
nước ngầm thuộc quần đảo Trường Sa, gây ra sự lo ngại sâu sắc trong dư luận khu
vực và thế giới.Trong suốt thời gian này, quan hệ kinh tế, văn hóa…giữa hai nước
bị ngưng trệ.Hai nước đã tiến hành đám phán nhiều lần nhưng đều thất bại.Từ
tháng 1/1989 hai bên nối lại đàm phán và đến tháng 9/1990, hai bên gặp gỡ cấp cao
ở Thành Đô(Trung Quốc) mở đầu cho việc giải quyết triệt để vấn đề Campuchia và
bình thường hóa quan hệ Việt-Trung.

Như vậy có thể thấy rằng,quan hệ Việt - Trung từ từ 1950 đến trước khi bình
thường hóa năm 1991 đã diễn ra rất nhiều thăng trầm và biến đổi lớn lao.Từ hai
nước “vừa là đồng chí,vừa là anh em” chuyển thành kẻ thù không đợi trời chung.
Từ quan hệ hữu nghị tốt đẹp chuyển sang quan hệ đối đầu căng thẳng. Điều này
chứng tỏ quan hệ Việt-Trung là rất phức tạp và có tác động lớn đối với Việt Nam.

4


2. Các nhân tố dẫn đến sự vận động trong quan hệ Việt Nam Trung Quốc
giai đoạn 1986-1991.
2.1. Sự thay đổi trên trường quốc tế song song với tình hình chung của
khu vực.
a. Sự thay đổi trên trường quốc tế.
Chiến tranh lạnh kết thúc (khi bức tường Béc-lin sụp đổ năm 1989), CNXH
ở Liên Xô và Đông Âu tan rã đã tạo ra một trật tự thế giới mới: Mỹ là siêu cường
duy nhất trên thế giới song cũng gặp phải sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các cường
quốc khác trên thế giới như Nhật, Nga, Trung Quốc và EU. Khoảng trống quyền
lực do Liên Xô để lại đặt các nước lớn trước tham vọng lấp đầy lỗ hổng quyền lực
trong đó có Trung Quốc.
Trên quốc tế có một số xu hướng mới (Đại hội VIII nêu) sau đây:
 Đối đầu đã chuyển sang xu hướng hịa hỗn, từ đối đầu phe khối gay gắt
sang hòa dịu, quan điểm bị chi phối bởi ý thức hệ thời chiến tranh lạnh
không cịn nữa.
 Các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh
trong cùng tồn tại hịa bình.
b. Tình hình chung khu vực.
Châu Á-Thái Bình Dương trở thành khu vực phát triển năng động nhất thế
giới. Khu vực trở thành trọng điểm trong chính sách đối ngoại của các nước lớn,
trong đó có Trung Quốc. Rõ ràng là Trung Quốc ngày càng cố gắng gây dựng lịng

tin và phát huy ảnh hưởng của mình tại khu vực.
Môi trường quốc tế và khu vực đã có những biến chuyển vơ cùng lớn, đặt tất
cả các nước trước yêu cầu điều chỉnh chính sách đối ngoại. Việt Nam và Trung
Quốc khơng nằm ngồi u cầu đó.
2.2. Nhân tố Trung Quốc.
a. Tầm ảnh hưởng của một nước lớn.
Trong giai đoạn 1980-1987, Việt Nam đã khơng ít lần truyền đi những tín
hiệu thiện chí cho tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Trung nhưng Trung
Quốc ln đặt vấn đề Cam-pu-chia làm điều kiện tiên quyết cho bình thường hóa
quan hệ. Bởi lẽ Trung Quốc với ý đồ thể hiện tầm ảnh hưởng, rất mong muốn quốc
5


tế hóa vấn đề Cam-pu-chia để có cơ hội thể hiện vai trị nước lớn của mình, tăng
cường ảnh hưởng của mình trong khu vực Đơng Nam Á, tranh thủ giải quyết vấn
đề với Mỹ và Liên Xô và để thực hiện 4 hiện đại hóa. Tuy vậy, sự kiện Thiên An
Môn tháng 6 năm 1989 cộng với việc thay đổi thái độ của Mỹ về vấn đề
Campuchia, Liên Xô khủng hoảng cuối những năm 90…đã buộc Trung Quốc phải
từ bỏ tham vọng của mình.
Liên Xơ sụp đổ, với Trung Quốc một quốc gia luôn nuôi tham vọng bá
quyền, bành trướng đây là một cơ hội tốt để lấp lỗ hổng quyền lực và thể hiện sức
ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế và nhất là trong khu vực. Việt Nam là một
ưu tiên lựa chọn trong chính sách ảnh hưởng của người khổng lồ Trung Quốc. Bởi
Việt Nam không những là nước láng giềng, thuận lợi cho việc triển khai chính
sách, lại là một quốc gia ít nhiều có ảnh hưởng trong khu vực, nằm trong chính
sách thiết lập ảnh hưởng lên khu vực Châu Á- Thái Bình Dương của Mỹ. Bình
thường hóa quan hệ với Việt Nam, trước hết, tạo cơ sở để Trung Quốc thực hiện
chính sách phát triển kinh tế, thực hiện 4 hiện đại hóa. Tiếp đó, sẽ dễ dàng hơn
trong việc ngăn Việt Nam mở rộng ảnh hưởng sang khu vực, tạo đà để ráo riết thực
thi chính sách tạo ảnh hưởng của một nước lớn.

b. Xu thế thời đại.
Trung Quốc, một nước lớn, không thể đi ngược với xu thế thời đại, khơng
thể phủ nhận làn sóng hịa dịu, hợp tác đang lan dần trong quan hệ quốc tế, vì thế,
bình thường hóa quan hệ với Việt Nam chỉ là sớm hay muộn.
2.3. Nhân tố Việt Nam.
Mục đích ban đầu của phía Việt Nam là giúp nhân dân Campuchia chống lại
bọn diệt chủng tàn bạo, duy trì hịa bình ổn định ở khu vực Đơng Dương song việc
dính líu q sâu và quá lâu của Việt Nam tại đó đã vấp phải sự nghi ngại từ các
nước ASEAN và thái độ không đồng tình của các nước phương Tây. Bị bao vây, cô
lập trong thời gian dài sau khi đất nước mới giành được độc lập năm 1975, Việt
Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng và kém phát triển. Kinh tế trì trệ đã buộc Việt
Nam phải tiến hành mở cửa, cải cách, mở rộng quan hệ giao lưu với bên ngoài.
Hơn nữa, xu thế phát triển của thế giới có những thay đổi nhất định đã phần nào
tác động đến bước chuyển này của Việt Nam. Trước hết là xu hướng hịa hỗn, từ
đối đầu phe khối gay gắt sang hịa dịu, quan điểm bị chi phối bởi ý thức hệ thời
6


chiến tranh lạnh khơng cịn nữa. Thứ hai, bản thân những nước XHCN dẫn đầu
như Liên Xô, Trung Quốc cũng có những thay đổi, nền tảng ý thức hệ ràng buộc
các nước này với Việt Nam trở khơng cịn vững chắc nữa khi hàng loạt các nước
XHCN ở Đông Âu sụp đổ, Trung Quốc tuyên bố không giương cao ngọn cờ
XHCN thế giới, mà chỉ bảo vệ XHCN của nước mình, phát triển theo con đường
XHCN mang màu sắc Trung Quốc. Đổi mới trở thành nhu cầu tất yếu, Việt Nam
khơng cịn lối đi nào khác ngồi việc tn theo sự phát triển của quy luật khách
quan. Chính nhu cầu đổi mới đã góp phần thúc đẩy Việt Nam giải quyết vấn đề
Campuchia, xích lại gần Trung Quốc, khai thơng quan hệ với các nước ASEAN và
các nước lớn đặc biệt là Mỹ.
Theo lý thuyết cơ bản về chính sách đối ngoại, một trong những nhân tố cơ
bản tác động đến việc hoạch định chính sách là tư duy đối ngoại. Đổi mới tư duy

trong xác định bạn – thù là yếu tố chính dẫn đến sự thay đổi trong chính sách đối
ngoại Việt Nam giai đoạn sau đổi mới cho đến khi bình thường hóa quan hệ Việt –
Trung và khn khổ hóa quan hệ. Có một sự thực khơng thể phủ nhận là khơng có
bạn thù vĩnh viễn trong QHQT.
Năm 1980 Việt Nam khẳng định “Trung Quốc là bá quyền, là quân xâm
lược cùng bè lũ tay sai của chúng ở Campuchia”. Đến nghị quyết 32 của Bộ Chính
trị tháng 7 năm 1986, Việt Nam tuyên bố thực hiện “đấu tranh cùng tồn tại hịa
bình” và “sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc bất cứ lúc nào, bất cứ cấp nào và
bất cứ ở đâu nhằm bình thường hóa quan hệ hai nước”. Điều này chứng tỏ bước
chuyển lớn trong tư duy xác định bạn – thù của Việt Nam vì trước đó, Việt Nam
chủ trương chống Đế quốc, tư bản, bành trướng…trong một cuộc đấu tranh không
khoan nhượng, bạn – thù rõ ràng trắng đen. Tư tưởng đấu tranh cùng tồn tại hịa
bình có nghĩa là Việt Nam vẫn phân biệt bạn – thù song đấu tranh chứ không đối
kháng, đối đầu. Phải đến Nghị quyết 13 BCT tháng 5 năm 1988, Việt Nam mới
thực sự đưa ra được quan điểm cụ thể, “thêm bạn bớt thù”. Cho dù vẫn phân định
thế giới làm hai thái cực nhưng nó cho thấy Việt Nam hướng tới xu hướng “bạn”
nhiều hơn, và ít “thù” hơn. Quan điểm này cho phép Việt Nam có cách xác định
đối tượng linh hoạt và uyển chuyển hơn khi mà những đối tượng trước đây là kẻ
thù thì bây giờ khơng cịn là kẻ thù nữa, không là “bạn” không bị đánh đồng là “kẻ
thù” như trước đây. Cách tiếp cận mới này đã có kết quả thực tiễn khi Việt Nam và
Trung Quốc đã đạt được bình thường hóa vào năm 1991. Tư duy xác định bạn –
thù đã tiến tới bước chuyển cơ bản với tuyên bố “Việt Nam muốn làm bạn với tất
7


cả các nước trên thế giới” trong văn kiện Đại hội Đảng VII năm 1991. Như vậy, từ
nay Việt Nam khơng cịn cơng khai coi đối tượng nào là kẻ thù nữa, sẵn sàng làm
bạn với tất cả mọi nước. Ý thức hệ cộng sản đối lập CNXH với CNTB khơng cịn
chi phối tư duy đối ngoại của Việt Nam nữa. Điều đó đã từng bước đóng góp vào
việc thúc đẩy quan hệ Việt – Trung phát triển toàn diện và được nâng lên tầm cao

mới theo phương châm: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài,
hướng tới tương lai”.
Như vậy, quan điểm về bạn – thù là chất xúc tác cho việc thúc đẩy quan hệ
Việt – Trung chuyển từ đối đầu sang đối thoại và hợp tác , từ đối kháng sang cùng
tồn tại hịa bình, từ thù địch sang bạn và đối tác.
II.

Hợp tác và phát triển:

1. Về kinh tế:
a. Thương mại.
Từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay, quan hệ kinh tế thương
mại Trung Quốc – Việt Nam được khơi phục và phát triển nhanh chóng. Kim ngạch
thương mại Việt - Trung tăng hơn 1.800 lần, từ 32 triệu USD (1991) lên gần 60 tỷ
USD (2014), từ năm 2004, Trung Quốc là bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt
Nam. Kim ngạch thương mại song phương năm 2014 đạt 58,78 tỷ USD, trong đó
Việt Nam xuất 14,91 tỷ USD, nhập 43,87 tỷ USD (lần lượt tăng 17,16%, 12,70%
và 18,76% so với cùng kỳ 2013).
Trung Quốc đã trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam, vừa là nguồn
nhập khẩu lớn nhất vừa là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Lợi ích
thương mại song phương mang lại cho hai nước là điều dễ dàng nhìn thấy. Hàng
hóa xuất khẩu sang Trung Quốc của Việt Nam chủ yếu gồm dầu thô, than đá và
một số nông sản nhiệt đới, sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc chủ yếu có máy
móc thiết bị, thép, sản phẩm hóa chất, thiết bị vận tải, linh kiện điện tử, điện thoại,
nguyên phụ kiện dệt may, da giày, phân bón và vật tư nơng nghiệp, và hàng tiêu
dùng. Có thể thấy, những năm gần đây, kết cấu hàng thương mại giữa hai nước
thay đổi không lớn, Việt Nam vẫn dựa vào xuất khẩu khống sản, ngun liệu thơ
và nơng sản là chủ yếu trong đó có xuất khẩu bauxite sang Trung Quốc theo thỏa
thuận hợp tác kinh tế giữa hai quốc gia; còn nhập khẩu từ Trung Quốc chủ yếu là
nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, hàng công nghiệp và hàng tiêu dùng do khả

năng cạnh tranh của hàng Việt Nam so với Trung Quốc còn yếu, nhiều mặt hàng
8


Việt Nam chưa tự sản xuất được nên phải nhập khẩu từ Trung Quốc. Nhưng cùng
với thương mại song phương liên tục tăng trưởng, vấn đề mất cân bằng trong
thương mại giữa hai nước đã ngày càng bộc lộ.
Việt Nam hết sức coi trọng vấn đề nhập siêu trong thương mại với Trung
Quốc. Việt Nam cố gắng tăng xuất khẩu sang Trung Quốc để cân bằng cán cân
thương mại nhưng cơ cấu hàng xuất khẩu khơng có sự thay đổi lớn vì hàng cơng
nghiệp của Việt Nam vẫn chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc. Đến
đầu năm 2018, Trung Quốc đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt
Nam trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp tăng, một số mặt hàng nông
nghiệp và dầu thô giảm; Trung Quốc hiện vẫn là thị trường tiêu thụ rau quả lớn
nhất của Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào thương mại song
phương giữa hai nước.

Đơn vị: tỷ USD. Nguồn: GSO

Đơn vị: tỉ USD. Nguồn GSO.
b. Đầu tư.
Các doanh nghiệp Trung Quốc cũng tham gia đầu tư nhiều dự án lớn tại Việt
Nam. Nhiều dự án lớn được các nhà thầu Trung Quốc thắng thầu và triển khai.
Trong các dự án nhiệt điện, cơ sở hạ tầng, vốn vay của Trung Quốc ngày càng tăng
trong tổng lượng vốn vay của Việt Nam. Sự tham gia của Trung Quốc trong một số
dự án như trồng rừng ở biên giới, dự án khai thác bơ xít ở Tây Ngun gây ra dư
luận lo ngại sự hiện diện của họ tại các địa điểm này có thể ảnh hưởng đến an ninh
- quốc phịng của Việt Nam.

9



Vị trí địa lý nằm phía Nam Trung Quốc, thị trường hơn 1 tỷ dân, là một điều
kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế mà Việt Nam phải tận dụng nhưng đồng thời
cũng là thách thức lớn khi Trung Quốc là cơng xưởng của thế giới vì họ có khả
năng sản xuất ra hàng hóa với chi phí thấp, đa dạng về chủng loại và mẫu mã, có
sức cạnh tranh cao.
Mười năm đầu (1991-2001), FDI của Trung Quốc chỉ mang tính chất thăm
dị, số dự án và lượng vốn đầu tư vào Việt Nam rất nhỏ so với tổng số tiền quốc gia
này rót ra bên ngồi. Tính đến tháng 12/2001, Trung Quốc có 110 dự án với tổng
giá trị 221 triệu USD, nhưng lũy kế đến nay, con số này đã lên tới khoảng 1.180 dự
án còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 8,5 tỷ USD, đứng thứ 9 trong tổng số 105
quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam.
Nhằm tăng cường các dự án đầu tư lớn về cơ sở hạ tầng và hợp tác trong
lĩnh vực tài chính ngân hàng, nhất là hợp tác trong việc phòng ngừa tác động của
khủng hoảng tài chính tiền tệ quốc tế, giữ vững an ninh tiền tệ ở mỗi nước, hai bên
đang thúc đẩy thành lập Nhóm cơng tác hợp tác về cơ sở hạ tầng và Nhóm cơng tác
về hợp tác tiền tệ.
Các doanh nghiệp Trung Quốc cũng tham gia đầu tư nhiều dự án lớn tại Việt
Nam. Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Trung Quốc, vốn đầu tư trực tiếp (FDI)
của nước này vào Việt Nam được bắt đầu từ cuối tháng 11/1991, do một doanh
nghiệp Quảng Tây liên doanh với một doanh nghiệp Hà Nội, mở nhà hàng Hoa
Long tại phố Hàng Trống. Trải qua gần một phần tư thế kỷ, FDI của Trung Quốc
liên tục vươn lên, tăng về quy mơ, thay đổi về hình thức, lĩnh vực và mở rộng về
địa bàn.
Mười năm đầu (1991-2001), FDI của Trung Quốc chỉ mang tính chất thăm
dị, số dự án và lượng vốn đầu tư vào Việt Nam rất nhỏ so với tổng số tiền quốc gia
này rót ra bên ngồi. Tính đến tháng 12/2001, Trung Quốc có 110 dự án với tổng
giá trị 221 triệu USD, nhưng lũy kế đến nay, con số này đã lên tới khoảng 1.180 dự
án còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 8,5 tỷ USD, đứng thứ 9 trong tổng số 105

quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam.
Giai đoạn trước, FDI của Trung Quốc chỉ tập trung vào các lĩnh vực khách
sạn, nhà hàng và sản xuất hàng tiêu dùng với quy mơ nhỏ, thì thời gian gần đây đã
có sự chuyển dịch sang cơng nghiệp chế biến chế tạo, điện, bất động sản, với dự án
lên tới gần 2 tỷ USD (nhiệt điện Vĩnh Tân I). Mặc dù vậy, đầu tư của nước này
cũng chỉ mới tập trung ở những ngành nghề thơng thường, chưa có dự án nào đầu
tư ở lĩnh vực công nghệ cao với vốn đầu tư lớn.
10


Ở phía ngược lại, Việt Nam mới có 13 dự án đầu tư sang Trung Quốc trị giá
16 triệu USD - con số được ông Bùi Tất Thắng - Viện trưởng Viện Chiến lược phát
triển cho biết tại tham luận Diễn đàn kinh tế mùa Thu 2014.
Về vốn hỗ trợ phát triển (ODA), quốc gia này đứng thứ 5 trong số những đối
tác song phương của Việt Nam. Tổng vốn ODA và vay ưu đãi tính đến tháng
6/2015 đạt hơn 395 triệu USD, chủ yếu là cho cơng trình đường sắt đô thị tuyến
Cát Linh - Hà Đông. Song, dự án này đang bị đánh giá là chậm tiến độ, đội vốn
đầu tư.
c. Về viện trợ phát triển.
Các khoản vay ưu đãi mà Trung Quốc dành cho Việt Nam từ năm 1992 đến
năm 2000 chủ yếu tập trung vào việc khôi phục, cải tạo và mở rộng các nhà máy
do Trung Quốc xây dựng trước đây. Từ năm 2000 đến nay, nguồn vốn vay tín dụng
ưu đãi từ Trung Quốc đã tăng lên mạnh mẽ và được hai nước ưu tiên sử dụng trong
các lĩnh vực mà Việt Nam đang cần: điện lực, khai khóang, luyện kim, phân bón
nơng nghiệp, hóa chất, cơ khí. Chính phủ Trung Quốc cịn hỗ trợ Việt Nam nhiều
khoản viện trợ khơng hịan lại trong việc tổ chức các đoàn tham quan, khảo sát
kinh nghiệm phát triển kinh tế - xã hội ở Trung Quốc; trao đổi các đồn thanh,
thiếu niên...
Bên cạnh đó, các bộ, ngành của hai nước đã thường xuyên gặp gỡ, trao đổi
và điều chỉnh, bổ sung nội dung các hiệp định trong các lĩnh vực hợp tác kinh tế,

thương mại nhằm khơng ngừng hịan thiện hành lang pháp lý cho hợp tác kinh tế
và trao đổi thương mại.
Năm 2010, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA hay
CAFTA) đã chính thức đi vào hoạt động. Trong cơ chế hợp tác này, quan hệ Việt Trung giữ vai trò quan trọng, mang tính trụ cột, Việt Nam với vị trí địa chiến lược
ở khu vực Đơng Nam Á được coi là “cầu nối” trực tiếp, chiến lược quan trọng để
Trung Quốc mở rộng và tiếp cận các nước ASEAN dựa trên tuyến đường bộ và
đường biển. Phát huy đầy đủ vị thế đó là nhân tố then chốt của quan hệ kinh tế hai
nước trong giai đoạn mới.
2. Về chính trị:

11


Có thể thấy rằng hai bên thường xuyên trao đổi các chuyến thăm cấp cao,
trong đó có cả Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng... Các
chuyến thăm đều ký Thông cáo chung, hiệp định và văn kiện hợp tác, đặt cơ sở
pháp lý cho quan hệ lâu dài giữa hai nước; tạo động lực cho việc triển khai các
thỏa thuận hợp tác và thắt chặt thêm độ tin cậy chính trị giữa hai nước.
Các đồng chí lãnh đạo cấp cao Việt Nam và Trung Quốc đều đã sang thăm
lẫn nhau. Việc tiến hành trao đổi đoàn cao cấp nhất đã trở thành truyền thống tốt
đẹp trong quan hệ hai nước. Theo tính tốn chưa đầy đủ, hàng năm có khoảng hơn
100 đồn đại biểu sang thăm lẫn nhau. Việc trao đổi các đoàn số lượng lớn, ở tất cả
các cấp và rất đa dạng đã thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau và quan hệ hợp tác toàn
diện giữa hai nước.
a. Các giai đoạn trong mối quan hệ về chính trị giữa Việt Nam - Trung
Quốc từ 1991 đến năm (2018).
 Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 1995.
Đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu
vực có nhiều biến động. Chiến tranh Lạnh kết thúc, hai lực lượng mà quan hệ giữa
hai nước Việt Nam và Trung Quốc chịu ảnh hưởng là Mỹ và Liên Xô đã dần rút và

giảm sự hiện diện của mình tại khu vực. Quan điểm của Trung Quốc trong tình
hình quốc tế mới này là chuyển hướng sang tích cực phát triển quan hệ ngoại giao
hữu nghị với những nước láng giềng trong đó có Việt Nam để tranh thủ được sự
ủng hộ của những nước này. Năm 1991, Trung Quốc đã tham gia vào Hội nghị Bộ
trưởng các nước ASEAN, sau đó Trung Quốc cũng được mời tham gia Diễn đàn
khu vực Đông Nam Á (ARF). Năm 1992, Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham
tại Manlila đã bày tỏ mong muốn thúc đẩy đối thoại nhiều cấp về an ninh của các
nước ASEAN. Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn này dần dần có những
thay đổi, muốn mở rộng, tăng cường quan hệ với các nước trên thế giới.
Trong bối cảnh như vậy, hai nước đã dần tiến tới bình thường hố bằng
chuyến thăm chính thức của các nhà lãnh đạo Việt Nam sang Trung Quốc tháng 11
năm 1991. Chuyến thăm với sự tham gia của Tổng bí thư và Thủ tướng Việt Nam
đại diện cho Đảng và Chính phủ Việt Nam. Đây là một sự kiện hiếm có trong quan
hệ ngoại giao, chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam rất coi trọng và mong
muốn tích cực giải quyết vấn đề bình thường hố với Trung Quốc.

12


Trong chuyến thăm này, hai nước đã đạt được bước tiến quan trọng, cùng
nhau ra bản Thông cáo chung, các nhà lãnh đạo hai nước cũng đã xác định 5
nguyên tắc chỉ đạo quan hệ Nhà nước, quan hệ giữa hai Đảng dựa trên nguyên tắc
độc lập tự chủ, hoàn tồn bình đẳng, tơn trọng lẫn nhau, khơng can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau. Hai bên đồng ý kết thúc mối quan hệ căng thẳng trong quá
khứ, thực hiện bình thường hố quan hệ hai đảng, hai nhà nước. Qua chuyến thăm
Trung Quốc và việc ra thông cáo chung cho thấy, quan điểm của hai bên đối với
tình hình thế giới có những thay đổi. Có thể thấy rằng hai bên đã nhận thức được,
sau khi Liên Xô và các nước Đơng Âu sụp đổ, việc bình thường hố quan hệ hai
bên là phù hợp với lợi ích lâu dài và căn bản của hai nước, nó cũng đánh dấu một
sự thay đổi to lớn không chỉ đối với quan hệ hai nước, mà cả khu vực. Kể từ đó trở

đi, các nhà lãnh đạo hai nước duy trì các cuộc thăm viếng và tiếp xúc lẫn nhau,
khơng ngừng hợp tác trên nhiều lĩnh vực.
Thời kỳ đầu sau khi bình thường hố, tuy có nhiều vấn đề tồn tại, như tranh
chấp lãnh thổ, các quần đảo trên biển, phân chia đường ranh giới trên biển và đánh
bắt cá, nhưng qua nhiều cuộc gặp các cấp, tăng cường đối thoại, đàm phán hai bên
đã đạt được những bước tiến về vấn đề biên giới lãnh thổ. Ngày 19/10/1993, đại
diện Chính phủ hai nước đã ký Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết
vấn đề biên giới lãnh thổ, mở đường cho việc tiến tới ký kết các hiệp định biên
giới, lãnh thổ trong các giai đoạn sau này. Việc ký kết những hiệp định thông qua
đàm phán là bước tiến trong việc tăng cường tin tưởng lẫn nhau giữa hai nước, bảo
đảm cho quan hệ hai nước đi vào quỹ đạo hợp tác. Thời kỳ này, quan hệ chính trị
hai nước có mấy điểm đáng chú ý: trong quan hệ giữa hai nước đều nhắc đến đối
thoại, đàm phán, hợp tác tăng cường gặp gỡ, trao đổi lẫn nhau giữa các cấp, các
ngành để giải quyết các tranh chấp về biên giới và chủ quyền trên biển, đồng thời
cũng coi trọng phát triển quan hệ kinh tế, thương mại. Các chuyến thăm liên tiếp
của các nhà lãnh đạo mang ý nghĩa chính trị.
Điểm lại một số chuyến thăm mang ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng nhiều tới
quan hệ hai nước ngoài chuyến thăm Trung Quốc của các nhà lãnh đạo Việt Nam
tháng 11 năm 1991 ra, vào tháng 12 năm 1992, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng có
chuyến thăm chính thức hữu nghị Việt Nam. Đây là chuyến thăm Việt Nam đầu
tiên của nhà lãnh đạo Trung Quốc kể từ khi bình thường hố giữa hai nước và cũng
là chuyến thăm sau 21 năm một Thủ tướng Trung Quốc sang thăm Việt Nam.
Trong chuyến thăm Việt Nam lần này, Thủ tướng Lý Bằng đã hội đàm với các nhà
lãnh đạo của Việt Nam. Hai bên cho rằng củng cố hơn nữa mối quan hệ hợp tác
hữu nghị giữa hai nước phù hợp với lợi ích cơ bản và nguyện vọng chung của nhân
dân hai nước, có lợi cho hồ bình, ổn định và phát triển của khu vực. Sau cuộc gặp
13


trên, hai bên đã có bước tiến đẩy nhanh cơng việc giải quyết vấn đề biên giới lãnh

thổ, thành lập những nhóm cơng tác cấp chun viên để tổ chức các cuộc đàm phán
song phương về biên giới lãnh thổ.
Một mốc quan trọng khác trong quan hệ chính trị hai nước là chuyến thăm
của Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch
nước Cộng hồ Nhân dân Trung Hoa đã thăm chính thức Việt Nam từ ngày 19 đến
22/11/1994. Chuyến thăm lần này của Chủ tịch Giang Trạch Dân là chuyến thăm
đầu tiên của nhà lãnh đạo cao nhất Đảng Cộng sản Trung Quốc kể từ sau chuyến
thăm của Chủ tịch Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ sang thăm Việt Nam vào năm 1963.
Trong chuyến thăm này, các nhà lãnh đạo của Việt Nam như Tổng Bí thư Đỗ
Mười và Chủ tịch nước Lê Đức Anh hội đàm với Chủ tịch Trung Quốc Giang
Trạch Dân, hai bên đều cho rằng nên thúc đẩy quan hệ hữu nghị, tăng cường hợp
tác, đặc biệt là hợp tác kinh tế thương mại. Hai bên cũng cho rằng đối với những
vấn đề tồn tại giữa hai bên nên thông qua đàm phán để giải quyết. Chủ tịch Giang
Trạch Dân đã đề ra 16 chữ trong giải quyết quan hệ hai nước “Phương hướng rõ
ràng, từng bước tiến lên, đại cục làm trọng, hữu hảo hiệp thương”. Hai bên đã ký
kết các hiệp định, thành lập Uỷ ban Hợp tác thương mại Việt Nam - Trung Quốc;
về vận tải ô tơ; bảo đảm hàng hố xuất nhập khẩu và cơng nhận lẫn nhau. Hai nước
đã ra Thông cáo chung Việt Nam - Trung Quốc, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của
việc gia tăng sự hợp tác về kinh tế thương mại giữa hai nước trên cơ sở bình đẳng
cùng có lợi.
Trong quan hệ chính trị hai nước giai đoạn này không thể không kể đến quan
hệ giữa quốc hội hai nước được thúc đẩy sau chuyến đi thăm hữu nghị chính thức
Trung Quốc lần đầu tiên từ sau khi bình thường hoá quan hệ hai nước của Chủ tịch
quốc hội Nông Đức Mạnh từ ngày 21/02 đến ngày 01/3/1994. Mục đích của cuộc
đi thăm là nhằm củng cố và tăng cường hơn nữa sự tin cậy lẫn nhau, tạo quan hệ
hữu nghị láng giềng thân tình, thúc đẩy quan hệ hợp tác song phương trong các
lĩnh vực kinh tế, thương mại, văn hoá, khoa học kỹ thuật…. đồng thời đẩy mạnh
quan hệ hợp tác giữa hai cơ quan lập pháp hai nước.
Trong chuyến thăm, Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh cũng bày tỏ khơng
những có thể tăng cường sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước

Việt-Trung, mở ra giai đoạn hợp tác hữu nghị mới giữa Quốc hội Việt Nam và Đại
hội đại biểu nhân dân tồn quốc Trung Quốc, mà cịn có thể tìm hiểu thêm kinh
14


nghiệm cải cách mở cửa của Trung Quốc, và thúc đẩy sự hợp tác kinh tế giữa hai
nước.
 Nhìn chung:
 Giai đoạn này quan hệ chính trị hai nước được khôi phục sau một thời
gian căng thẳng. Do vậy, thông qua các cuộc viếng thăm cấp cao, các cuộc gặp gỡ,
đàm phán hai nước để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau. Đánh giá mối quan hệ hai
nước giai đoạn này có thể thấy rằng, một mặt nó phù hợp với xu thế phát triển
chung của thế giới, khu vực, mặt khác, nó cũng phù hợp với nhu cầu của hai nước.
Các cuộc viếng thăm cấp cao mang ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng mạnh tới sự
hợp tác, phát triển của hai bên.
 Nó giống như một thơng điệp gửi tới các bên rằng mối quan hệ hai nước
giai đoạn này đã bắt đầu được hàn gắn sau một quá trình căng thẳng. Vì vậy mà
giai đoạn này là giai đoạn khởi động của các cuộc gặp cấp cao và các thông cáo
chung để hai bên tăng cường hiểu biết nhau hơn. Các nhà lãnh đạo cấp cao của
Việt Nam như Tổng bí thư, Thủ tướng, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội đều đã có
các chuyến thăm chính thức sang Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo của Trung Quốc
giai đoạn này sang thăm Việt Nam gồm có Tổng bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng
Chính phủ.
 Trong các cuộc gặp gỡ, hai bên đều đã đạt được những bước tiến quan
trọng về hợp tác kinh tế, tăng cường giao lưu quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước
và ký kết hiệp định liên quan đến giải quyết biên giới lãnh thổ. Ngay sau khi bình
thường hố quan hệ, những cuộc gặp cấp cao này cho thấy hai nước đã rất coi
trọng hợp tác chính trị song phương.
 Giai đoạn từ năm 1995 đến năm 1999.
Theo những đánh giá của chúng tôi, giai đoạn thứ hai bắt đầu từ giữa năm

1995 đến đầu năm 1999. Giai đoạn này có hai sự kiện quan trọng đối với Việt
Nam, cho thấy vai trị và vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế đã có thay đổi so
với trước. Và mối quan hệ giữa hai nước Việt-Trung cũng chịu ảnh hưởng nhất
định bởi những thay đổi này.
 Thứ nhất là sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của Hiệp hội các nước
Đơng Nam Á (ASEAN), dần xố bỏ ngăn cách giữa Việt Nam với các nước trong
khối, nâng cao vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế.
 Thứ hai là Việt Nam bình thường hố quan hệ với Mỹ.
Đây là những nhân tố quan trọng, bởi sau khi thực hiện đổi mới, chính sách
ngoại giao của Việt Nam đã có những bước tiến hoà nhập vào thế giới mạnh mẽ
15


hơn. Việt Nam chủ động tham gia, đóng góp tích cực vào sự phát triển, hồ bình
của nhiều tổ chức khu vực và thế giới. Quan hệ song phương với các nước cũng
được thúc đẩy, đặc biệt là với các nước lớn trên cơ sở cân bằng mối quan hệ giữa
các nước lớn, tránh việc quá nghiêng về một bên sẽ làm cho Việt Nam phải đối mặt
với những thách thức về an ninh, chính trị hoặc kinh tế.
Vì vậy, chính sách của Việt Nam muốn thiết lập quan hệ tốt đẹp với tất cả
các nước trên thế giới, trong đó với các nước lớn là một sự lựa chọn hợp lý, phù
hợp với xu thế chung trong giai đoạn hiện nay, để bảo đảm một môi trường an ninh
cho sự phát triển của Việt Nam, hạn chế bị lôi kéo vào vịng xốy tranh chấp quốc
tế, phụ thuộc an ninh, kinh tế, chính trị giữa các nước lớn. Chính sách cân bằng
quyền lực giữa các bên có thể đơi lúc khó thực hiện được do bị ảnh hưởng của bên
này mạnh hơn bên kia, nhưng nhìn tổng thể việc duy trì sự cân bằng này là cần
thiết trong giai đoạn trên, giúp Việt Nam đã chấm dứt cô lập về mặt ngoại giao
năm 1995, sau khi tham gia vào tổ chức ASEAN và bình thường hố quan hệ với
Mỹ.
* Trong việc tham gia vào khối ASEAN: Việt Nam tham gia tổ chức khu
vực ASEAN đã góp phần làm cho bầu khơng khí khu vực trở lên hồ bình, ổn định,

không chỉ nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, mà bản thân tổ chức
ASEAN cũng được quốc tế đánh giá cao hơn. Tháng 7 - 1995 với việc trở thành
thành viên chính thức thứ 7 của ASEAN, vai trò thương lượng của Việt Nam đã
được tăng cường uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao,
có được những ưu thế trong tiến trình hợp tác, tham gia vào các tổ chức liên khu
vực và quốc tế như Hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC), ASEM, tạo
mơi trường quốc tế thuận lợi cho xây dựng và phát triển kinh tế trong nước. Ngoài
ra, tham gia vào ASEAN cũng làm cho nền kinh tế của Việt Nam thu được nhiều
lợi ích hơn thơng qua tham gia vào AFTA của khu vực, hoặc gần đây là ACFTA
làm tăng cường cơ hội đầu tư và trao đổi thương mại giữa Việt Nam với của các
nước trong khu vực cũng như trên thế giới.
* Đối với vấn đề bình thường hố quan hệ với Mỹ: Vào ngày 11 tháng 7
năm 1995, Việt Nam và Mỹ đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao và nhanh
chóng trao đổi đại sứ. Sau đó, ngày 5 đến 7 tháng 8 năm 1995, Ngoại trưởng Mỹ
đến thăm Việt Nam, hai cơ quan đại diện tại hai thủ đô Hà Nội và Oasinhtơn đã
được nâng cấp thành đại sứ quán, đồng thời hai bên cử đại biện lâm thời đại diện
cho hai nước.
Ngày 05 /9/1997, hai nước trao đổi đại sứ. Thông qua cải thiện quan hệ song
phương, Việt Nam đã có điều kiện tiếp cận thị trường, thu hút đầu tư, kỹ thuật và
16


công nghệ tiên tiến của các doanh nghiệp Mỹ, thuận lợi cho việc tham gia các tổ
chức quốc tế như APEC, WTO cũng như nhận được những khoản vay từ những hệ
thống tài chính thế giới như IMF, WB, ADB để có thể phát triển đất nước nhanh
hơn. Ngồi ra các nhà đầu tư của Mỹ, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Đơng
Nam Á có cơ sở để đầu tư mạnh mẽ hơn nữa vào Việt Nam. Điều này có những tác
động tới chính sách cải cách kinh tế và mở cửa của Việt Nam. Trên thực tế, bình
thường hố về quan hệ với Mỹ sẽ là một trong những nhân tố để thúc đẩy kinh tế
Việt Nam phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh và địa vị của Việt Nam tại khu

vực.
Trong quan hệ chính trị giai đoạn này có một số điểm như sau:
 Thứ nhất, có thể thấy rằng trong giai đoạn này các nhà lãnh đạo cấp cao
hai nước vẫn có các cuộc gặp gỡ, thăm viếng nhau, nhưng không ra tuyên bố
chung, thông cáo chung, mà chỉ là những hiệp định kinh tế, thương mại.
 Thứ hai, những tranh chấp giữa hai bên về lãnh thổ dần dần giảm đi. Giai
đoạn này thực chất là khơi phục lại lịng tin lẫn nhau, trên cơ sở và hình thức mới
xây dựng lại mối quan hệ hữu hảo láng giềng. Một số chuyến thăm đáng chú ý
trong giai đoạn này là chuyến thăm của Tổng bí thư Đỗ Mười sang thăm Trung
Quốc năm 1995. Trong giai đoạn này, Tổng bí thư Đỗ Mười đã hai lần sang thăm
Trung Quốc.
Trong chuyến thăm Trung Quốc lần thứ hai từ ngày 14 đến 18 /7/1997 của
Tổng bí thư Đỗ Mười, hai bên đã đạt được một thoả thuận giải quyết vấn đề biên
giới trên bộ trước năm 2000 và giải quyết vấn đề phân định Vịnh Bắc bộ chậm nhất
vào năm 2000. Những nhận thức chung của các nhà lãnh đạo cấp cao về việc tiến
tới giải quyết vấn đề tồn tại đã tạo ra những nỗ lực để các bộ ngành hai bên tiến tới
đạt được những thoả thuận quan trọng liên quan đến vấn đề biên giới lãnh thổ vào
năm 1999 và 2000.
Một sự kiện khác cũng cần được nhắc đến trong mối quan hệ chính trị hai
nước là ngày 28/6/1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng
sản Việt Nam khai mạc tại Hà Nội, Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung
Quốc, Lý Bằng đã dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc sang dự và
đọc lời chúc mừng Đại hội. Đây là chuyến tham dự lần đầu tiên của đại diện Đảng
Cộng sản Trung Quốc tại một đại hội Đảng của Việt Nam từ sau bình thường hố
quan hệ, và cũng là chuyến tham dự sau 35 năm kể từ khi Phó Thủ tướng Quốc vụ
viện Trung Quốc Lý Phú Xuân dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng sang dự đại hội III của
Đảng Lao động Việt Nam năm 1961. Điều này cho thấy sự quan tâm của Trung

17



Quốc đến tình hình Việt Nam, và quan hệ giữa hai Đảng đã trở nên gần gũi nhau
hơn.
Thời kỳ này, nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đã hai lần
sang thăm chính thức Trung Quốc. Ngồi ra, trong chuyến thăm Trung Quốc tháng
10/1998 của Thủ tướng Việt Nam, Phan Văn Khải, hai bên đã ký kết hiệp định mậu
dịch biên giới giữa hai bên, đưa thương mại song phương vào quy củ. Trong thời
kỳ này, phía Trung Quốc cũng có đầy đủ các nhà lãnh đạo cấp cao sang thăm Việt
Nam như Thủ tướng Quốc vụ viện, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Chính hiệp (Mặt
trận tổ quốc), Phó Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào v.v…
 Giai đoạn từ năm 1999 đến nay
Bắt đầu từ ngày 25/02 đến 02/3/1999, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã có
chuyến thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc. Đây là chuyến thăm Trung Quốc
lần đầu tiên kể từ khi ông nhậm chức vào tháng 12 năm 1997. Trong buổi hội đàm
với Tổng bí thư Giang Trạch Dân, hai bên đã xác định khung và khuôn khổ mối
quan hệ giữa hai nước hướng tới thế kỷ XXI, nhất trí cùng nhau cố gắng xây dựng
và phát triển quan hệ Việt-Trung. Ngày 27/02/1999, hai bên đã ra bản Tuyên bố
chung Việt Nam-Trung Quốc. Tuyên bố với phương châm 16 chữ “láng giềng hữu
nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, thúc đẩy quan hệ
của hai nước Trung-Việt bước vào một giai đoạn phát triển mới.
Trong chuyến thăm này, hai bên cùng bày tỏ đàm phán giải quyết thật sớm
vấn đề lãnh thổ biên giới hai nước, cùng nhất trí ký kết Hiệp ước về biên giới trên
bộ hai nước trong năm 1999 và giải quyết xong vấn đề phân định Vịnh Bắc bộ
trong năm 2000. Sự nỗ lực này đã cho thấy hiệu quả, sau đó vào cuối năm 1999 và
2000, Chính phủ hai nước lần lượt ký kết Hiệp ước biên giới trên đất liền, Hiệp
định phân định Vịnh Bắc bộ, Hiệp định hợp tác nghề cá và Tuyên bố chung về hợp
tác toàn diện trong thế kỷ mới. Chuyến thăm của Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã mở
ra một trang mới trong hợp tác hai nước, mang đến nhiều cơ hội hợp tác hơn cho
cả hai phía. Chúng tơi cho rằng, giai đoạn này có một số điểm đáng chú ý.

 Thứ nhất là hợp tác giữa hai bên trong thời kỳ này đã được nâng lên một
tầm cao mới, quan hệ giữa hai nước đã trở nên phát triển nhất trong cả quá trình từ
sau bình thường hố quan hệ. Những cuộc thăm viếng, gặp gỡ cấp cao hàng
năm tuy là một quy định bất thành văn, nhưng nó là cơ sở quan trọng để hai nước,
hai Đảng tìm hiểu, thúc đẩy những hiểu biết lẫn nhau, từ đó xố dần những khoảng
cách trong quan hệ hai nước.

18


Trong những cuộc tiếp xúc, hai bên đã thống nhất phương thức hợp tác
nguyên tắc chung trong quan hệ giữa hai nước là hữu nghị và láng giềng thân thiện
dựa trên năm ngun tắc cùng tồn tại hồ bình, giải quyết các vấn đề tranh chấp
thông qua thương lượng và bằng biện pháp hồ bình, quan hệ giữa hai nước không
nhằm vào nước thứ ba và cũng không làm ảnh hưởng đến quan hệ của mỗi nước
với các nước khác. Những điều này đã cho thấy rằng, quan hệ hai nước khôi phục
và phát triển trên nhu cầu và lợi ích của từng nước, phù hợp với những chính sách,
đường lối ngoại giao của từng nước, đó là phát triển quan hệ chính trị chủ yếu là
giữa các cấp bộ ngành, các địa phương của hai Đảng, hai nước với nhau. Quan hệ
song phương được tăng cường trên tất cả các mặt.
 Thứ hai, những vấn đề nổi cộm trong quan hệ giữa hai nước về cơ bản đã
có tiến triển bằng những hiệp định ký kết giữa hai nước. Hai bên cũng đã giải
quyết những vấn đề trên qua các cuộc thương lượng, đàm phán, tiến tới ký kết
được những hiệp định, giải quyết 2 trên 3 vấn đề tồn tại liên quan đến biên giới
lãnh thổ, đạt được tiến triển rõ rệt về công tác cắm mốc trên đất liền, đồng thời
nhất trí đẩy nhanh hơn nữa tiến trình này để chậm nhất vào năm 2008 hồn thành
cơng tác phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới trên đất liền và ký văn kiện
mới về quy chế quản lý biên giới, đặt cơ sở cho ổn định an ninh khu vực và giữa
hai nước.
Đây là sự nỗ lực chung của hai phía trong việc giải quyết vấn đề cịn vướng

mắc bằng phương thức hồ bình, đàm phán. Nó cũng có thể sẽ là tiền lệ để hai bên
tiến hành giải quyết các vấn đề khác phức tạp trong tương lai. Ngoài ra trong hợp
tác chung tại Vịnh Bắc bộ, hải quân hai nước đã tiến hành các chuyến tuần tra
chung trên biển. Hai bên cũng đang tiến hành đàm phán về phân định cửa Vịnh
Bắc bộ v.v...
 Thứ ba, các nhà lãnh đạo hai nước có nhiều nhận thức chung trong nhiều
vấn đề song phương và quốc tế. Cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 2001, Tổng bí thư
Đảng Cộng sản Việt Nam thăm Trung Quốc, hai bên ra Tuyên bố chung nhắc lại
phương châm 16 chữ, quán triệt mục tiêu và nhiệm vụ mà Tuyên bố chung Trung Việt tháng 12 năm 2000 đề ra. Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung
Quốc tiếp tục duy trì gặp gỡ cấp cao thường xuyên, tạo thêm động lực mới thúc
đẩy quan hệ hai nước phát triển; tăng cường hơn nữa tiếp xúc hữu nghị và giao lưu
hợp tác dưới nhiều hình thức giữa các ban ngành, các tổ chức quần chúng và các
địa phương hai nước. Trong chuyến thăm của Tổng bí thư Giang Trạch Dân năm
2002, các nhà lãnh đạo của hai bên đã đạt được nhận thức chung trong trao đổi các
vấn đề liên quan, tức là duy trì trao đổi các cuộc gặp cấp cao, mở rộng và đi sâu
vào hợp tác kinh tế, lấy tinh thần hợp tác lâu dài giữa hai nước để giáo dục nhân
dân hai bên, tiếp tục đàm phán đẩy nhanh công tác phân chia, cắm mốc đường biên
19


giới trên bộ và hiệp định nghề cá, trao đổi những kinh nghiệm lý luận về xây dựng
chủ nghĩa xã hội và trị đảng trị nước; tăng cường hợp tác, giao lưu trên các mặt
ngoại giao, quốc phòng, an ninh và cơng an v.v...
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân đã phát biểu rằng
“Điều đặc biệt quan trọng là, hai bên nhất định phải tăng cường tin cậy lẫn nhau.
Đó chính là cơ sở phát triển ổn định lâu dài của quan hệ hai Đảng, hai nước”.
Đồng thời đưa ra năm kiến nghị liên quan đến hợp tác hai bên: Một là, cần tiếp tục
phát huy truyền thống tốt đẹp qua lại thăm viếng lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao hai
đảng, hai nước; Hai là, cần không ngừng mở rộng và đi sâu hơn nữa hợp tác kinh
tế-thương mại; Ba là, cần lấy tinh thần hữu nghị lâu dài để giáo dục nhân dân hai

nước, đặc biệt là thanh thiếu niên; Bốn là, cần tăng cường hợp tác giữa hai nước
trên vấn đề biên giới, đẩy nhanh tiến trình cơng tác tiếp theo về biên giới trên đất
liền và phân định Vịnh Bắc bộ; Năm là, cần tăng cường giao lưu kinh nghiệm về
xây dựng Đảng, quản lý Nhà nước giữa hai Đảng, hai nước, tăng cường sự bàn
bạc, hợp tác và phối hợp về các vấn đề quốc tế giữa hai nước, để tạo thuận lợi cho
việc xây dựng và phát triển của mỗi nước”.
 Thứ tư là bổ sung thêm khung hợp tác trong quan hệ hai nước bằng 4 tốt
trong chuyến thăm Việt Nam của Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch
Dân nhấn mạnh đến mối quan hệ về láng giềng, bạn bè, đồng chí: láng giềng tốt,
bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, tin cậy lẫn nhau, giúp đỡ nhau, thông cảm và
nhân nhượng lẫn nhau, cùng nhau phát triển.
 Thứ năm là bài phát biểu trước Quốc hội Việt Nam của Tổng bí thư, Chủ
tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào trong chuyến thăm Việt Nam từ ngày 31 tháng 10
đến 2 tháng 11 năm 2005 trong thời điểm 55 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt
Nam - Trung Quốc. Đây cũng là lần đầu tiên Tổng bí thư, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào
sang thăm Việt Nam với tư cách là Tổng bí thư, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa.
Và điều hiếm có là một vị nguyên thủ quốc gia một nước khác phát biểu trước
quốc hội Việt Nam. Ngoài ra, hai bên đã ra Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc.
Điều này cho thấy hợp tác chặt chẽ giữa hai Đảng, hai nước.
Thứ sáu, hợp tác an ninh khu vực cũng đã có những thay đổi. Tháng 7/2001,
Diễn đàn an ninh khu vực của khối các nước Đông Nam Á đã được tổ chức ở Hà
Nội. Trong các vấn đề khu vực, Diễn đàn đã đạt được thoả thuận về những thủ tục,
nhằm giúp ngăn chặn các cuộc tranh chấp bùng nổ thành cuộc chiến tranh rộng
lớn, theo đó tổ chức Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN khơng chỉ giữ vai trị xây
dựng lịng tin giữa các nước thành viên, mà cịn chính thức có quyền tham dự vào
việc giải quyết các tranh chấp song phương hoặc đa phương trong vùng. Trung
Quốc và ASEAN đã cùng nhau ra “Tuyên bố về liên hợp hợp tác trên lĩnh vực an
ninh phi truyền thống”, tạo ra cục diện mới cho hai bên bắt tay tấn công các loại tội
20



phạm xuyên biên giới, như buôn bán ma tuý, di dân bất hợp pháp, cướp biển, chủ
nghĩa khủng bố, buôn lậu vũ khí, rửa tiền, tội phạm kinh tế quốc tế và tội phạm
trên mạng v.v... Bên cạnh đó, vấn đề Biển Đông liên quan đến nhiều nước trong
khu vực cũng đã được các bên, trong đó có Việt Nam và Trung Quốc ký kết Bộ
quy tắc ứng xử Biển Đơng. Những hợp tác mang tính đa phương là cơ sở cho việc
hai nước tăng cường niềm tin, thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ sẵn có và làm giảm
những nguy cơ liên quan đến an ninh trên biển.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lần đầu thăm
chính thức Trung Quốc năm 2008:
Ngày 20/10/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam bắt
đầu thăm hữu nghị Trung Quốc. Đây là chuyến
thăm Trung Quốc chính thức đầu tiên của ông
Nguyễn Tấn Dũng trên cương vị Thủ tướng.
Các quan chức và hàng chục nhà quản lý của
những doanh nghiệp lớn tháp tùng Thủ tướng nhằm tăng cường hợp tác và đầu tư
Tổng doanh
Bí thư, Chủ
tịch nước
Hồ CẩmQuốc.
Đào chào
với
nghiệp
Trung
Một mục đích nữa của chuyến thăm là đẩy mạnh
mừng
Thủhệ
tướng
Nguyến

Tấnmở
Dũng
sang hợp
thăm hữu
quan
hữu
nghị,
rộng
tác giữa Việt Nam và Trung Quốc, cụ thể hố mối
nghị chính thức Trung Quốc năm 2008. Ảnh: AFP
quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm Trung Quốc năm 2010: Vào năm 2010,
trong bối cảnh Việt Nam và Trung Quốc kỷ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại
giao, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm Trung Quốc từ ngày 26/4 đến 1/5 theo lời
mời của chính phủ Trung Quốc. 2010 cũng là Năm Hữu nghị Việt Trung. Chuyến
thăm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị hợp
tác giữa Việt Nam và các địa phương của Trung Quốc.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lần đầu thăm Trung Quốc năm 2011: Trong
lần đầu tiên thăm chính thức Trung Quốc trên cương vị Tổng Bí thư Đảng Cộng
sản Việt Nam theo lời mời của Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch Hồ Cẩm Đào.
Theo TTXVN, hai nhà lãnh đạo cùng cho rằng, một số bất đồng xung quanh
vấn đề Biển Đông tồn tại trong quan hệ song phương và nhất trí hai nước sẽ tránh
làm phức tạp tình hình, bình tĩnh xử lý những bất đồng thơng qua đàm phán hịa
bình.
21


Trung Quốc Tập Cận Bình thăm Việt Nam năm 2011: Từ ngày 20 đến
22/12/2011, ơng Tập Cận Bình thăm Việt Nam trên cương vị Phó Chủ tịch Trung
Quốc. Mục đích của chuyến thăm là cụ thể hóa những kết quả, nhận thức chung mà

lãnh đạo Việt - Trung đã nêu khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Trung Quốc
hồi tháng 10.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm
cấp nhà nước Trung Quốc năm 2013: Lần đầu
tiên của Chủ tịch Trương Tấn Sang diễn ra từ
ngày 19 đến 21/6/2013 theo lời mời của Chủ
tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Tại Đại lễ
đường Nhân dân, Chủ tịch Tập Cận Bình đón
tiếp trọng thể Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
theo nghi thức cao nhất dành cho nguyên thủ
quốc gia.

Chuyến thăm Trung Quốc cấp nhà nước Chủ tịch
nước Trương Tấn Sang duyệt đội danh dự cùng
Chủ tịchBình
Tập Cận
Bình tại
Đại biết,
lễ đường
Nhân
Phạm
Minh
cho
chuyến
dân. Ảnh: AFP

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao
thăm đạt 4 kết quả nổi bật, bao gồm việc lãnh đạo cấp cao hai nước nhất trí làm sâu
sắc hơn quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc, xử lý
thỏa đáng bất đồng, nhất là trong vấn đề trên biển.

Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường thăm Việt Nam năm 2013: Từ ngày
13 đến 15/10/2013, đáp lại lời mời của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng
Quốc vụ viện Trung Quốc Lý Khắc Cường đã thăm Việt Nam.

Đây là chuyến thăm chính thức Việt Nam đầu tiên của giới lãnh đạo cấo cao
Trung Quốc từ khi Bắc Kinh bầu thế hệ lãnh đạo mới. Qua chuyến thăm, hai vị thủ
tướng đã trao đổi phương hướng và biện pháp thúc đẩy hợp tác song phương trên
mọi lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế và thương mại, tình hình quốc tế và khu vực.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc năm 2015:
Từ ngày 7 đến 10/4/2015, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thăm Trung
Quốc và hội đàm cùng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình, hội kiến với các
quan chức cấp cao khác ở Bắc Kinh. Chuyến thăm góp phần quan trọng vào nỗ lực
thúc đẩy quan hệ Việt - Trung phát triển ổn định, lành mạnh vì lợi ích căn bản của
nhân dân hai nước.
22


Theo TTXVN, hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh tiếp tục nỗ lực thực hiện tốt
phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới
tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt,” ln
nắm vững phương hướng phát triển của quan hệ Việt - Trung.
 Nhìn chung, trong giai đoạn từ khi bình thường hố quan hệ hai nước đến
nay, quan hệ chính trị giữa hai nước trải qua những giai đoạn từ chỗ bắt đầu khôi
phục lại quan hệ, niềm tin đến tăng cường hợp tác chặt chẽ với nhau trên nhiều lĩnh
vực, đạt được những bước phát triển ổn định, tạo dựng được cơ sở vững chắc để
hai nước cùng tiến tới giải quyết những bất đồng cịn tồn tại.
Mối quan hệ chính trị hai nước phát triển trong giai đoạn qua cũng phù hợp
với tình hình chung của hai nước, đáp ứng những thay đổi của tình hình quốc tế và
khu vực, mang lại nhiều cơ hội phát triển cho cả hai nước. Chúng tôi cho rằng,
trong thời gian tới, hợp tác giữa hai nước sẽ tiếp tục duy trì mối quan hệ chính trị

tốt đẹp. Đây là cơ sở để hai nước tăng cường mở rộng quan hệ, hợp tác trên nhiều
lĩnh vực khác, cũng như duy trì ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.
b. Đánh giá chung nhất về mặt chính trị trong mối quan hệ Việt Nam Trung Quốc từ 1991 đến năm (2018).
Sau khi quan hệ giữa hai nước trở lại bình thường năm 1991, mối quan hệ
giữa hai Đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng Sản Trung Quốc) giữa hai
nhà nước (CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa) ngày càng được củng cố và
phát triển. Trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam và Trung Quốc với các nước
Đơng Nam Á khác thì mười năm qua chỉ có quan hệ Việt – Trung mới có đặc điểm
là hàng năm các nhà lãnh đạo cấp cao nhất tiến hành các chuyến đi thăm lẫn nhau.
Tiếp đó Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng tuyên bố “quan hệ Việt Nam
-Trung Quốc đã tan băng” đi vào chính thức bình thường hố quan hệ năm 1991.
Diễn ra ngày càng nhiều dẫn đến ra đời hang loạt thông cáo chung (1992-19941995) nhằm thúc đầy quan hệ song phương phát triển theo chiều rông và sâu.
Trong tuyên bố chung nhân chuyến thăm của TBT Đỗ Mười, chủ tịch Hội đòng Bộ
trưởng Võ Văn Kiệt đã xác định sẽ phát triển quan hệ “hữu nghị, láng giềng thân
thiện” trên cơ sở 5 ngun tắc “tơn trọng chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của
nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau,
bình đẳng cùng có lợi, cùng tồn tại hồ bình”; hai Đảng khơi phục quan hệ bình
thường hóa trên cơ sở bốn ngun tắc: “độc lập tự chủ hồn tồn bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau và không can thiệp vào nội bộ của nhau”.
Những cuộc gặp gỡ cấp cao đó có ý nghĩa không thể thay thế trong việc phát
triển quan hệ hai Đảng hai nước nhằm tăng cường mối quan hệ láng giềng hữu
23


nghị, tạo dựng long tin và sư tin cậy lẫn nhau kịp thời trao đổi và tháo gỡ vướng
mắc tồn tại cũ và mới trong quan hệ hai nước.
 Chính những cuộc gặp gỡ quan trọng đó đã tạo cơ sở tăng cường hiểu biết
lẫn nhau, hợp tác nhiều mặt và giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai nước, đẩy
nhanh các tiến trình đàm phán, nâng cao hiệu suất cơng tác.
Qua mở rộng các mối quan hệ chính trị, hai Đảng, hai Nhà nước đã có sự

hiểu biết nhau hơn trên nhiều vấn đề quan trọng, những thỏa thuận chính trị đã trở
thành nền tảng cho quan hệ hợp tác lâu dài giữa hai nước trên các lĩnh vực khác.
c. Cụ thể một chuyến thăm gần đây của hai
nước:
Chiều 27/9/2018, tại Trụ sở Trung ương Đảng,
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tiếp ông Triệu
Lạc Tế, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Bí thư Ủy
ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Đảng Cộng sản
Trung Quốc, đang có chuyến thăm và làm việc tại
ViệtNam.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp ơng Triệu Lạc Tế,

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chân thành cảm Ủy
ơnviênTổng
Bí thư, Chủ tịch Trung
Thường vụ Bộ Chính trị, Bí thư Ủy ban Kiểm tra
Quốc Tập Cận Bình và các lãnh đạo Đảng, Nhà nước Trung Quốc đã gửi điện chia
Kỷ luật Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. (Ảnh:
buồn đến Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam về việc Chủ tịch nước Trần Đại
Trí Dũng/TTXVN)
Quang từ trần; cảm ơn ông Triệu Lạc Tế và Đoàn đại biểu Đảng
Cộng sản Trung
Quốc đã đến viếng Chủ tịch nước Trần Đại Quang.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đánh giá cao chuyến thăm Việt Nam của
ông Triệu Lạc Tế và Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc; tin tưởng rằng
chuyến thăm sẽ góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, củng cố tin cậy chính
trị và thúc đẩy hơn nữa quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt NamTrung Quốc trong thời gian tới.
Khơng ngừng củng cố quan hệ: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng
quan hệ hai Đảng, hai nước trong thời gian qua đã có nhiều tiến triển tích cực; đề
nghị hai bên tiếp tục tăng cường chỉ đạo thực hiện những nhận thức chung và

những thỏa thuận đã đạt được, nỗ lực thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác có tiến triển
thực chất, tơn trọng lợi ích hợp pháp và chính đáng của nhau, xử lý thỏa đáng bất
đồng trên biển, tăng cường tình cảm hữu nghị giữa nhân dân hai nước, thúc đẩy sự
phát triển lành mạnh, ổn định của quan hệ Việt-Trung.

24


Tổng Bí thư cũng đề nghị các cơ quan
liên quan của hai Đảng, hai nước, trong
đó có cơ quan kiểm tra, giám sát tăng
cường chia sẻ kinh nghiệm trong công
tác kiểm tra, giám sát và phịng, chống
tham nhũng, nhằm đóng góp thiết thực
đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội của mỗi nước.
Ông Triệu Lạc Tế trân trọng chuyển lời
chia buồn sâu sắc của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và các lãnh
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chụp ảnh chung với các
đạo Đảng, Nhà nước Trung Quốc về việc Chủ tịch nước Trần Đại Quang từ trần tới
đại biểu. (Ảnh: Trí Dũng/TTXVN)
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, các lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam cùng gia
quyến Chủ tịch nước Trần Đại Quang.
Ông Triệu Lạc Tế đã giới thiệu với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về kết quả
cơng tác phịng, chống tham nhũng và quản lý Đảng nghiêm minh của Đảng Cộng
sản Trung Quốc thời gian qua; khẳng định quyết tâm của Đảng và Chính phủ
Trung Quốc đối với cơng tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XIX của
Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Về quan hệ hai Đảng, hai nước, ông Triệu Lạc Tế khẳng định Đảng, Chính
phủ và nhân dân Trung Quốc hết sức coi trọng quan hệ với Việt Nam; bày tỏ mong

muốn lãnh đạo hai Đảng, hai nước tiếp tục quan tâm, chỉ đạo các cấp, các ngành,
các địa phương, trong đó có các cơ quan kiểm tra, kỷ luật của hai Đảng không
ngừng tăng cường giao lưu, hợp tác, tăng cường tin cậy chính trị, thúc đẩy quan hệ
đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc ngày càng phát triển
tích cực, lành mạnh, ổn định lâu dài trong thời gian tới.
Trước đó, tại Trụ sở Trung ương Đảng, ơng Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung
ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, đã chủ trì hội đàm với ơng
Triệu Lạc Tế. Tại cuộc hội đàm, hai bên đã thơng báo cho nhau tình hình mỗi
Đảng, mỗi nước; trao đổi sâu sắc về kết quả và kinh nghiệm trong công tác kiểm
tra, kỷ luật, phòng, chống tham nhũng của mỗi Đảng, mỗi nước thời gian qua; thảo
luận các phương hướng và nội dung hợp tác giữa hai cơ quan kiểm tra của hai
Đảng trong thời gian tới.

25


×