KHOA LUẬT ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
BỘ MÔN LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
---0-0---
ĐỖ PHÚ TRUNG
Mã số sinh viên: 20068095
Lớp: QH-2020-L-VB2-A2
ĐỀ TÀI SỐ 02: VAI TRÒ CỦA NGHỊ ĐỊNH VÀ VIỆC XÂY
DỰNG NGHỊ ĐỊNH TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Tiểu luận kết thúc môn học: Xây dựng Văn bản pháp luật
Giảng viên: TS. Bùi Tiến Đạt
Hà Nội – 2021
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................2
NỘI DUNG...........................................................................................................2
I. Nghị định và vai trò của nghị định..................................................................2
II. Việc xây dựng nghị định tại Việt Nam trong những năm gần đây................5
1. Quy định pháp luật hiện hành về quy trình xây dựng nghị định.................5
2. Thực trạng xây dựng nghị định ở nước ta hiện nay....................................6
III. Giải pháp hoàn thiện và khắc phục bất cập trong việc xây dựng, ban hành
nghị định.............................................................................................................8
KẾT LUẬN...........................................................................................................9
MỞ ĐẦU
Các văn bản pháp luật bao gồm Hiến pháp, Bộ luật, luật và các văn bản
pháp luật khác khi được ban hành và có hiệu lực nhằm điều chỉnh các quan hệ
phát sinh trong đời sống xã hội trên mọi mặt, lĩnh vực khác nhau theo ý chí của
Nhà nước. Việc thực thi nội dung của các văn bản pháp luật trên thực tế là rất
quan trọng và đòi hỏi các chủ thể thi hành và áp dụng pháp luật phải có sự thống
nhất về cách hiểu và cách áp dụng, tuy nhiên không phải lúc nào các văn bản
pháp luật cũng chứa đựng những nội dung rõ ràng, dễ áp dụng. Bên cạnh đó, do
các quan hệ xã hội ln phát sinh, thay đổi khơng ngừng, vì vậy các quy phạm
pháp luật cũng luôn phải được ban hành bắt kịp với sự vận động, phát triển của
xã hội để đảm bảo tính hợp lý trong các quy định điều chỉnh các quan hệ xã hội
này. Một trong những văn bản pháp luật phổ biến nhất tại Việt Nam góp phần
giải thích, hướng dẫn hoặc quy định chi tiết các nội dung tại các văn bản pháp
luật khác là Nghị định của Chính phủ, vì vậy, tơi xin lựa chọn đề tài số 02: “Vai
trò của nghị định và việc xây dựng nghị định trong những năm gần đây” làm đề
tài cho tiểu luận của mình.
NỘI DUNG
I. Nghị định và vai trò của nghị định
Theo quy định tại khoản 5, Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 2015 thì nghị định là hình thức văn bản quy phạm pháp luật chỉ do
Chính phủ ban hành. Theo nguyên tắc về hiệu lực văn bản quy phạm pháp luật,
Nghị định có giá trị hiệu lực chỉ sau hiến pháp, luật (bộ luật), nghị quyết của
Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết
liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước. So với
các hình thức văn bản quy phạm pháp luật cịn lại khác như quyết định của Thủ
tướng Chính phủ, nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao,
… thì nghị định có hiệu lực pháp lý cao hơn.
2
Nội dung cụ thể về Nghị định của Chính phủ được quy định tại Điều 19
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, cụ thể Chính phủ ban
hành nghị định để quy định:
“1. Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật, nghị quyết của Quốc
hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của
Chủ tịch nước.
2. Các biện pháp cụ thể để tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh,
quyết định của Chủ tịch nước; các biện pháp để thực hiện chính sách kinh tế xã hội, quốc phịng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tơn
giáo, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, chế
độ công vụ, cán bộ, công chức, viên chức, quyền, nghĩa vụ của công dân và các
vấn đề khác thuộc thẩm quyền quản lý, điều hành của Chính phủ; những vấn đề
liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của từ hai bộ, cơ quan ngang bộ trở lên;
nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ.
3. Vấn đề cần thiết thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp
ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Trước khi ban
hành nghị định này phải được sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội.”
Nội dung trên cũng đã phản ánh tương đối đầy đủ những nội dung về nghị
định và vai trò của nghị định, theo đó, nghị định là văn bản thuộc thẩm quyền
ban hành của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan
chấp hành của Quốc hội theo quy định tại Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015.
Từ những nội dung trên, chúng ta rút ra những vai trò sau đây của nghị định:
Nghị định có vai trị làm rõ nội dung, thống nhất được cách hiểu, áp
dụng các văn bản pháp luật bao gồm luật, nghị quyết của Quốc hội,
3
pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định
của Chủ tịch nước thông qua việc quy định chi tiết điều, khoản, điểm
được giao trong các văn bản pháp luật này, qua đó hạn chế được việc
viện dẫn, áp dụng các văn bản pháp luật không chính xác. Nhìn chung
những quy tắc xử sự trong luật và các văn bản pháp luật khác của Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới chỉ quy định được những vấn đề
chung, cơ bản, quan trọng nhất, yêu cầu cụ thể hóa các văn bản đó được
giao cho các cơ quan hành chính, do đó vai trị này của nghị định là rất
quan trọng.
Nghị định có vai trị đảm bảo các văn bản pháp luật được thi hành trên
thực tế có hiệu quả và chính xác thơng qua việc quy định các biện pháp
cụ thể để tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định
của Chủ tịch nước.
Nghị định của Chính phủ là một trong những cơ sở điều chỉnh các quan
hệ pháp luật hành chính giữa các cơ quan hành chính nhà nước từ
Trung ương tới địa phương, thể hiện mối quan hệ chỉ đạo, điều hành
trong hoạt động quản lý, thể hiện sự kết nối hữu cơ, gắn kết giữa các cơ
quan chun mơn thuộc cơ quan hành chính với cơ quan hành chính
nhà nước trong việc tham mưu cho các cơ quan hành chính như Bộ, cơ
quan ngang bộ quản lý, ngành, lĩnh vực với Ủy ban nhân dân tỉnh,
huyện. Nhờ đó, các cơ quan hành chính tạo thành một chỉnh thể thống
nhất, hoạt động trên nguyên tắc tập trung, dân chủ, cùng hướng đến
mục đích phục vụ lợi ích chính đáng của cá nhân, cơng dân, tổ chức
trong xã hội.
Nghị định với tư cách là văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của Chính
phủ có vai trị quan trọng để Chính phủ thực hiện quyền quản lý, điều
hành của Chính phủ một cách có hiệu quả khi quy định về các biện
4
pháp để thực hiện chính sách kinh tế - xã hội, quốc phịng, an ninh, tài
chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tơn giáo, văn hóa, giáo dục, y tế,
khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, chế độ công vụ, cán bộ,
công chức, viên chức, quyền, nghĩa vụ của cơng dân và các vấn đề
khác.
Nghị định cịn có vai trị làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc
thẩm quyền của Chính phủ.
Nghị định có vai trị điều chỉnh các vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng
thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản
lý kinh tế, quản lý xã hội.
Như vậy, nghị định là một loại văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng
phần lớn các quy phạm pháp luật hành chính, được ban hành theo đúng thẩm
quyền, hình thức, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, có vị trí tương
đối cao trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật tại nước ta và có nhiều
vai trị như đã trình bày.
II. Việc xây dựng nghị định tại Việt Nam trong những năm gần đây
1. Quy định pháp luật hiện hành về quy trình xây dựng nghị định
Việc xây dựng và ban hành nghị định phải tuân theo các quy định về xây
dựng, ban hành nghị định quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 2015, cụ thể như sau:
Việc đề nghị xây dựng nghị định được áp dụng đối với việc xây dựng, ban
hành nghị định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 19 của Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015. Việc đề nghị xây dựng, ban hành nghị định là tiền đề,
cơ sở để Chính phủ xem xét, thông qua đề nghị xây dựng nghị định và trên cơ sở
đó, Chính phủ, Văn phịng Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, cơ quan
5
đề nghị xây dựng nghị định soạn thảo nghị quyết về đề nghị xây dựng nghị định
của Chính phủ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và ký ban hành.
Đối với việc xây dựng ban hành nghị định được quy định tại khoản 1 Điều
19 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Việc xây dựng,
ban hành nghị định quy định chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội,
lệnh, quyết định của Chủ tịch nước được thực hiện trên cơ sở lập danh mục văn
bản quy định chi tiết, theo quy định tại Điều 82 Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015, cụ thể “Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo lập danh mục
văn bản quy định chi tiết luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước mà Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ được giao
ban hành.”
Về cơ bản, việc xây dựng, ban hành nghị định quy định các nội dung theo
khoản 1 Điều 19 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 hay
nghị định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 19 của Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2015 khác nhau về “cơ sở” xây dựng, ban hành như nội dung nêu
trên nhưng đều phải tuân thủ theo các trình tự, thủ tục theo quy định tại Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 như soạn thảo nghị định bởi cơ
quan chủ trì, thực hiện theo nhiệm vụ được quy định tại Điều 90 Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, lấy ý kiến đối với dự thảo nghị định,
thẩm định dự thảo nghị định, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo nghị định trước khi
trình Chính phủ, xem xét, thơng qua dự thảo nghị định… theo các quy định về
xây dựng, ban hành nghị định.
2. Thực trạng xây dựng nghị định ở nước ta hiện nay
2.1. Điểm tích cực của thực trạng xây dựng nghị định ở nước ta
Chất lượng các nghị định do Chính phủ ban hành nhìn chung được bảo
đảm, được ban hành kịp thời để điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội
6
trong cơng tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, để quy định chi tiết các văn
bản quy phạm pháp luật có hiệu lực cao hơn, điều chỉnh những quan hệ phát
sinh thuộc thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng và ban hành để
điều chỉnh.
Quy trình xây dựng từng loại nghị định đã được Chính phủ, các bộ, cơ
quan ngang bộ tuân thủ chặt chẽ theo đúng quy định của pháp luật. Đã có những
quy trình chi tiết hơn, từ việc lập đề nghị xây dựng nghị định; tổ chức soạn thảo,
lấy ý kiến, thẩm định dự thảo nghị định; trình Chính phủ xem xét, thơng qua
nghị định… đã góp phần tăng hiệu quả của quá trình xây dựng ban hành nghị
định, góp phần quan trọng trong việc xây dựng, hồn thiện hệ thống pháp luật ở
nước ta và công cuộc cải cách hành chính, qua đó đóng góp chung vào thành tựu
phát triển kinh tế - xã hội.
2.2. Điểm bất cập, hạn chế của thực trạng xây dựng nghị định ở nước ta
Thực trạng công tác xây dựng, ban hành nghị định ở nước ta hiện nay cịn
có một số bất cập, hạn chế, cụ thể như sau:
Còn nhiều quy định tại luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước chưa
được Chính phủ ban hành nghị định để quy định chi tiết;
Quá trình xây dựng, ban hành nghị định chưa tách bạch việc ban hành loại
nghị định quy định chi tiết với nghị định quy định biện pháp tổ chức thi hành
pháp luật; thực hiện chính sách kinh tế - xã hội, gây khó khăn trong quá trình
thực hiện quy trình xây dựng, ban hành.
Việc đánh giá tác động của chính sách và thơng qua đề nghị xây dựng
nghị định chưa được thực hiện thực sự tốt. Việc nghiên cứu, đánh giá tác động
của chính sách dự kiến được đưa vào nghị định sẽ đảm bảo cho nghị định nếu
được ban hành sẽ có hiệu quả và bảo đảm tính khả thi. Tuy nhiên, việc thực hiện
7
hoạt động này trên thực tế chưa thực sự sát sao và còn tồn tại những vấn đề cần
cải thiện về chất lượng.
Điều 96 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy
định trình tự xem xét, thông qua dự thảo nghị định, tuy nhiên, thực tế việc thực
hiện trình tự nêu trên khơng thực sự khả thi, các dự thảo nghị định được gửi
phiếu lấy ý kiến thành viên Chính phủ để thơng qua, sau đó được tổng hợp, báo
cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, ký ban hành nghị định, do đó, đây là quy
định chưa phù hợp với thực tiễn quản lý, điều hành của Chính phủ.
III. Giải pháp hồn thiện và khắc phục bất cập trong việc xây dựng, ban
hành nghị định
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả ban hành các nghị định của Chính phủ,
Nhà nước cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần nghiên cứu để quy định chi tiết, cụ thể các nội dung, liên
quan đến việc ban hành nghị định quy định chi tiết phù hợp với bản chất, vai trò
của nghị định. Với những vấn đề mới, khó, cần thêm thời gian nghiên cứu để
quy định chi tiết thì các văn bản luật, pháp lệnh phải dự liệu lộ trình, thời hạn cụ
thể và đủ thời gian cho việc ban hành nghị định quy định chi tiết.
Thứ hai, cần có quy định tách bạch hồn toàn việc xây dựng, ban hành
nghị định quy định chi tiết và nghị định quy định biện pháp thi hành để tránh
trường hợp việc thực hiện trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành nghị định khơng
chính xác.
Thứ ba, các Bộ, cơ quan ngang Bộ quan tâm hơn đến việc xây dựng nghị
định nói chung và lập đề nghị xây dựng nghị định nói riêng, trong đó đặc biệt ưu
tiên nguồn lực thực hiện hoạt động đánh giá tác động của chính sách.
Thứ tư, quy định linh hoạt việc xem xét, thơng qua nghị định của Chính
phủ tại tại phiên họp Chính phủ hoặc thơng qua việc gửi phiếu lấy ý kiến thành
viên Chính phủ để bảo đảm cho cơng tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ được
8
kịp thời, hiệu quả những vẫn đảm bảo được tính khả thi, hợp lý, hợp pháp của
các nghị định được xây dựng, ban hành.
KẾT LUẬN
Nghị định là một văn bản pháp luật quan trọng trong hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật ở nước ta, vai trò của nghị định đối với việc nhà nước quản
lý xã hội nói chung và với việc Chính phủ quản lý, điều hành các lĩnh vực thuộc
thẩm quyền của Chính phủ là khơng thể phủ nhận. Khơng chỉ vậy, nghị định cịn
góp phần không nhỏ để các văn bản pháp luật khác được triển khai thực hiện có
hiệu quả, chính xác trên thực tế. Nghị định có vị trí, vai trị quan trọng như vậy
nên quá trình xây dựng và ban hành nghị định cũng rất quan trọng, tuy nhiên,
thực tế vẫn còn có những bất cập trong q trình xây dựng, ban hành nghị định
ảnh hưởng đến hiệu quả điều chỉnh của nghị định trên thực tế, do đó việc khắc
phục những bất cập, hồn thiện quy trình xây dựng, ban hành nghị định trên cả
phương diện quy định của pháp luật và thực tế là rất cấp thiết.
9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản quy phạm pháp luật
1. Hiến pháp năm 2013
2. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015
3. Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015
II. Một số bài viết tham khảo
4. Hồng Quốc Hồng (2020), Vai trị của nghị định trong hoạt động quản lý
hành chính nhà nước, đường dẫn bài viết: />handle/11742/58426
5. Hồng Quốc Hồng (2020), Vai trị của nghị định trong hoạt động quản lý
hành
chính
nhà
nước,
đường
dẫn
bài
viết:
/>6. NCS.Ths.Lê Tuấn Phong (2020), Quy trình, thực trạng xây dựng Nghị
định ở Việt Nam và một số đề xuất, kiến nghị, đường dẫn bài viết:
/>
10