64 năm đã trôi qua, Chiến dịch Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2018) là
một chiến dịch điển hình trong lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
của quân và dân ta. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Tổng Quân ủy, Bộ Tư lệnh chiến dịch cùng các lực lượng vũ trang cách
mạng qua 56 ngày đêm chiến đấu kiên cường, gian khổ, ngày 7-5-1954, Chiến
dịch Điện Biên Phủ đã kết thúc toàn thắng. Chiến thắng “lừng lẫy năm châu,
chấn động địa cầu” tại Điện Biên Phủ đã góp phần quyết định thắng lợi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ
nghĩa thực dân cũ, đánh dấu bước phát triển mới của nhân dân Việt Nam và thế
giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
A. CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
I.
Hoàn cảnh lịch sử.
Thế giới
Thời kỳ này ta đã phá tan được âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của thực
dân pháp năm 1947 buộc pháp phải đánh lâu dài và từ ở vị trí yếu thế trên chiến
trường ta dần dành thế chủ động. Đồng thời tình hình thế giới cũng có một số
thuận lợi cho ta. Tại Đông Âu, các nước theo xã hội chủ nghĩa dần ổn định. Nhà
nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa – ngay sát Việt Nam được thành lập năm
1949. Đặc biệt thời điểm 1950 -1951 vấn đề ngoại giao với nước Việt Nam Dân
chủ cộng hòa được thừa nhận, những giúp đỡ về quân sự được tiến hành.
Pháp và Mĩ:
Nền kinh tế pháp bị tàn phá nặng nề trong thế chiến thứ 2, chi phí chiến
tranh ở Đơng Dương kéo dài đã dẫn đến Pháp không thể kham nổi chi phí chiến
tranh cũng như mất mát về con người nên dần phụ thuộc vào Mĩ. Trong tình thế
kế hoạch NaVa bước đầu bị phá sản, Pháp và Mỹ tập trung xây dựng Điện Biên
Phủ thành một một tập đoàn cứ điểm mạnh, một “Pháo đài không thể công
phá”, nhằm thu hút lực lượng của ta vào đây để tiêu diệt. Điện Biên Phủ trở
thành khâu chính, là trung tâm điểm của kế hoạch quân sự Na Va. Đồng thời
muốn nhanh chóng chấm dứt chiến tranh rút ra trong danh dự nên đầu tư mạnh
cho cứ điểm điện biên phủ nhằm đánh một trận lớn nếu thắng có thể là gây áp
lực ngoại giao và chúng sẽ có lợi về chính trị chính vì vậy Pháp đã bố trí Điện
Biên Phủ thành một hệ thống phòng ngự kiên cố gồm 49 cứ điểm, hai sân bay,
được chia thành ba phân khu:
1
+ Phân khu Bắc: Gồm 3 cứ điểm Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo án ngữ
phía Bắc.
+ Phân khu trung tâm: Đây là trung tâm đầu não của Điện Biên Phủ. Ở
đây có sở chỉ huy địch và sân bay Mường Thanh.
+ Phân khu Nam: Nằm ở phía Nam Điện Biện Phủ có trận địa pháo và sân
bay Hồng Cúm.
Lực lượng của địch ở đây có 16.200 đủ các loại binh chủng và phương
tiện chiến tranh hiện đại. Với cách bố trí như vậy nên cả Pháp lẫn Mỹ đều cho
rằng Điện Biên Phủ là “Một pháo đài bất khả xâm phạm”; là “một con Nhím
khổng lồ ở vùng rừng núi Tây Bắc”; nên chúng sẵn sàng giao chiến với ta ở
Điện Biên Phủ.
Phía ta:
Sau khi đã tổ chức nhiều chiến dịch lớn như Thượng Lào, Tây Bắc,.. ta đã
làm tiêu hao sinh lực địch trên chiến trường, quân pháp dần phải co cụm và mất
thế chủ động trên chiến trường. Lực lượng của ta đã dần chính quy hóa, xây
dựng được nhiều sư đồn, trung đồn mạnh, phía sức dân đã có khả năng cung
cấp đủ lương thực, thực phẩm và quân trang cho một trận chiến lớn chính vì vậy
tháng 12/1953 Đảng ta chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược
giữa ta và Pháp.
+ Phương châm tác chiến của ta là : “Đánh chắc, tiến chắc” mặc dù lúc
đầu là “đánh nhanh thắng nhanh”, nhưng sau khi nghiên cứu kĩ, đại tướng Võ
Nguyên Giáp đã trình lên Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh công tác thay đổi
chiến thuật.
+ Công tác chuẩn bị: Quân dân ta đã chuẩn bị tích cực với tinh thần “Tất
cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, ta đã huy động 261.464 lượt dân công
vận chuyển hàng ngàn tấn lương thực, vũ khí , làm hàng ngàn km đường để vận
chuyển, đào hàng trăm km đường hầm ôm chặt lấy Điện Biên Phủ.
II.
Diễn biến.
Trận đánh diễn ra trong 55 ngày đêm vì qn Việt Minh có khó khăn
trong hậu cần nên không thể tiến công liên tục mà chia thành các đợt tiến công.
Sau mỗi đợt lại tổ chức lại quân số, bổ sung hậu cần.
Đợt 1: từ 13/3 - 17/3, Quân Việt Minh tiêu diệt phân khu Bắc của tập
đoàn cứ điểm. 17h5' chiều ngày 13/3/1954, trận đánh bắt đầu.
2
Quân đội Nhân dân Việt Nam sau đợt bắn pháo dữ dội, tiến công một
trong các cứ điểm kiên cố nhất là cụm cứ điểm Him Lam và sau một đêm đã
chiếm xong cụm cứ điểm này; sau đó đến 17/3 Việt Minh lần lượt mỗi ngày diệt
một cứ điểm: đồi Độc Lập, Bản Kéo và toàn bộ phân khu Bắc.
Ngay từ đầu (từ 23/3) pháo binh của Việt Nam đã loại bỏ khả năng cất, hạ
cánh của sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm, từ đó trở đi các máy bay Pháp
chỉ cịn tiếp tế được cho tập đồn cứ điểm bằng cách thả dù điều này cho thấy
cầu hàng không mà bộ chỉ huy Pháp đặt nhiều kỳ vọng thực tế là rất yếu kém
trước cách đánh áp sát của đối phương.
Ngay từ những ngày đầu của đợt 1 quân Pháp đã nhận thức rõ được những
điểm yếu chết người của mình và tương lai thất bại rõ ràng nhưng họ vẫn tăng
cường cầm cự Điện Biên Phủ đến mức tối đa vì hy vọng khi mùa mưa đến Việt
Minh không thể giải quyết vấn đề hậu cần và sẽ bỏ cuộc, Điện Biên Phủ sẽ tránh
được đầu hàng. Sau đó khi mùa mưa khơng giúp được, bộ chỉ huy Pháp hy vọng
cầm cự càng lâu càng tốt để Hội nghị Genève sẽ nhóm họp vào đầu tháng 5, sẽ
có ngừng bắn trước khi tập đồn sụp đổ. Nhưng hy vọng này cũng khơng có
được, Điện Biên Phủ đầu hàng một ngày trước khi nhóm họp Hội nghị Genève
về vấn đề Đông Dương.
Đợt 2: từ 30/3 -30/4, Việt Minh đánh phân khu trung tâm đặc biệt là dẫy
điểm cao quan trọng phía đơng, vây lấn bóp nghẹt tập đồn cứ điểm. Đây là đợt
tiến cơng vào phân khu trung tâm chủ yếu nhằm chiếm dẫy đồi phía đông khống
chế cánh đồng Mường Thanh.
Tại đây hai bên đánh nhau giành đi giật lại các mỏm đồi có tính sống cịn
đối với tập đồn cứ điểm, đặc biệt là các đồi A1, C1, D1, thương vong của hai
bên rất lớn. Phía Pháp dựa vào hầm ngầm, lơ cốt để cố thủ và đưa quân từ các
điểm khác dùng xe tăng và lính dù, lính lê dương để phản kích, các cứ điểm này
vì có tính sống cịn với qn Pháp đã được quân phòng ngự chiến đấu ngoan
cường, quyết liệt phản kích liên tục để giữ vững và đã chống cự đến ngày cuối
cùng của tập đoàn cứ điểm.
Để chống lại các cứ điểm phòng ngự kiên cố của quân Pháp, quân đội Việt
Minh đã áp dụng chiến thuật "vây lấn" rất có hiệu quả bằng hệ thống chiến hào
họ đào các giao thông hào dần dần bao vây và siết chặt, tiếp cận dần vào các vị
trí của Pháp. Các chiến hào này tránh cho quân tiến công thương vong vì pháo
3
binh và không quân địch và vào sát được vị trí của qn địch, làm vị trí bàn đạp
tấn cơng rất thuận lợi.
Quân Pháp ngay từ ngày đầu tiên của trận đánh đã nhận thức rất rõ sự
nguy hiểm của cách đánh này mà khơng có phương sách nào để khắc chế. Quân
Việt Minh vây lấn đào hào cắt ngang cả sân bay, đào hào đến tận chân lô cốt cố
thủ, khu vực kiểm soát của quân Pháp bị thu hẹp đến mức không thể hẹp hơn.
Cuộc chiến đấu tại Điện Biên Phủ càng ngày càng yếu thế cho phía Pháp. Qn
Pháp chỉ cịn trơng đợi vào dù tiếp tế nhưng phạm vi chiếm đóng bị thu hẹp và
máy bay bị hệ thống phịng khơng của Việt Minh đánh mạnh nên dù tiếp tế và cả
lính nhảy dù phần nhiều rơi sang phía đối phương. Mùa mưa lại tới, hầm hố của
quân phòng thủ trở nên lầy lội thương binh khơng di tản đi được, lính chết
khơng có chỗ chơn, bệnh tật, đường ruột phát sinh, đối phương lại áp sát bắn tỉa,
tiếp tế thiếu mà việc lấy được dù cũng vơ cùng khó khăn đi kèm với thương
vong: qn Pháp thường phải đói khát đến đêm mới dám ra lấy dù. Tình cảnh
của quân Pháp ngày càng bi đát và đi đến cùng cực. Điện Biên Phủ cho thấy khi
bị bao vây cơ lập thì một tiền đồn dù mạnh đến đâu rồi cũng sẽ bị tiêu diệt.
Đợt 3: từ 1/5 -7/5, Việt Minh đánh dứt điểm dẫy đồi phía đơng và tổng
tiến cơng tiêu diệt các vị trí cịn lại. Sau khi lực lượng của Pháp đã trở nên tuyệt
vọng, suy kiệt, bổ sung bằng dù không cịn đủ để duy trì sức chiến đấu, và qn
Pháp ở Bắc bộ cũng đã hết lính dù và lính lê dương có thể ném tiếp xuống Điện
Biên Phủ, quân Việt Minh tổ chức đợt đánh dứt điểm các quả đồi phía đơng.
Để chống lại hệ thống hầm ngầm cố thủ không thể xung phong đánh
chiếm được trên đồi A1 có vị trí quyết định, bộ đội cơng binh Việt Nam đã đào
một hầm ngầm phía dưới và cho nổ 1 tấn thuốc nổ hất tung hệ thống hầm ngầm
cố thủ cuối cùng. Đến sáng 7/5 các quả đồi phía đơng này đã thất thủ hồn tồn
mà phía Pháp khơng còn lực lượng khả dĩ chiếm lại, Quân đội Nhân dân Việt
Nam tổng tiến công trên khắp các mặt trận quân Pháp đã sức tàn lực kiệt quyết
định đầu hàng. Đến 17h30 ngày 7/5/1954, lá cờ quyết chiến quyết thắng bay trên
nóc hầm De Castries, Quân đội Nhân dân Việt nam bắt Thiếu tướng chỉ huy
Christian De Castries và toàn ban tham mưu tập đoàn cứ điểm.
Cụm phân khu Nam Hồng Cúm mưu toan chạy sang Lào nhưng bị quân
Việt Minh đuổi theo tất cả đã bị bắt không đi thốt. Gần 10.000 số qn Pháp
cịn lại tại Điện Biên Phủ đã bị bắt làm tù binh.
4
III. Kết quả:
Sự kiện năm 1972 kết thúc dưới phần thắng thuộc về quân đội nhân dân
Việt Nam, buộc tổng thống Mĩ, Richard Nixon, đề nghị nối lại đàm phán tại
Paris và nhanh chóng kí Hiệp định Paris.
Thiệt hại của Pháp: Dù quân Pháp đã phải gia tăng quân số lên đến
16 nghìn người, họ đã khơng thể nào lật ngược thế cờ. Toàn bộ quân Pháp ở
Điện Biên Phủ bị tiêu diệt và bị bắt làm tù binh. Thiệt hại về phía Pháp là 1.747
người chết, 5.240 người bị thương, 1.729 người mất tích và 11.721 bị bắt làm tù
binh. Ngồi ra cịn có 2 phi cơng Mỹ chết và 1 bị thương.
Thiệt hại của nước ta: 4.020 người chết, 10.130 người bị thương,
và 792 mất tích. Hiện nay tại Điện Biên Phủ, có 3 nghĩa trang liệt sỹ trận này là
nghĩa trang phía gần đồi Độc Lập, nghĩa trang gần đồi Him Lam và nghĩa trang
gần đồi A1, lần lượt các nghĩa trang trên có 2.432, 896 và 648 ngôi mộ. Tổng
cộng là 3.976 ngôi. Do một trận lũ lớn vào năm 1954 mà 3.972 mộ là liệt sỹ
chưa biết tên. Chỉ có 4 ngơi được đặt riêng biệt là mộ các anh hùng Bế Văn Đàn,
Tô Vĩnh Diện, Phan Đình Giót, Trần Can là cịn biết được.
Một ngày sau khi Pháp để Điện Biên Phủ thất thủ, ngày 8/5/1954, Hội
nghị Genève bắt đầu bàn về vấn đề Đông Dương. Sau hội nghị này, Pháp công
nhận quyền tự do, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước
Đơng Dương trong đó có Việt Nam, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp
tại Đông Dương.
IV. Ý nghĩa lịch sử:
Trong nước:
Đây là chiến thắng oanh liệt nhất của quân và dân ta trong 4000 năm lịch
sử gìn giữ độc lập dân tộc, tính đến thời điểm đó và tính từ 1946-1954 thì đây là
địn đánh quyết định làm gục gã thực dân/đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ.
Đòn đánh quyết định để nước ta thốt khỏi gần 100 năm Nơ Lệ của Pháp, một
chiến thắng thể hiện sức mạnh dân tộc và tầm vóc thời đại.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược
Đông Xuân 1953-1954 của quân và dân ta, đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp trên đất nước ta cũng như trên bán đảo Đông Dương.
5
Chiến thắng này đã trực tiếp đưa đến việc ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt
chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đơng Dương.
Thắng lợi này đã bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng Tháng Tám,
mở ra giai đoạn cách mạng mới, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ mãi mãi là niềm tự hào của
Đảng ta, nhân dân ta, quân đội, xứng đáng với truyền thống anh hùng của dân
tộc ta.
Tinh thần Điện Biên Phủ sống mãi và là sức mạnh, là động lực, là nguồn
cổ vũ nhân dân ta tiến lên giành những thắng lợi mới trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là sự thể hiện đầy đủ nhất
sức mạnh dân tộc và sức mạnh của thời đại trong lịch sử hàng nghìn năm đấu
tranh giành độc lập tự do của dân tộc ta.
Thể hiện cao độ truyền thống yêu nước, tinh thần quyết chiến quyết thắng,
chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân ta. Củng cố niềm tin vào đảng
vào chính phủ, quyết tâm theo đuổi con đường độc lập dân tộc lên chủ nghĩa xã
hội. Đồng thời góp phần quyết định vào thắng lợi của Hội nghị Gioneve.
Thế giới:
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là một sự kiện chấn động địa cầu, là
một mốc vàng của thời đại, đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên
phạm vi thế giới, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức khắp Châu lục Á, Phi, Mỹ La
tinh đứng lên đấu tranh giành độc lập, tự do.
Đây không chỉ là chiến thắng của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược mà còn là chiến thắng của nhân dân Lào và
Campuchia chung chiến hào chống Pháp trên bán đảo Đông Dương, chiến thắng
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào đấu tranh chống
chiến tranh xâm lược, vì hịa bình và tiến bộ xã hội trên tồn thế giới, trong đó
có nhân dân Pháp.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đánh sập thành lũy của chủ nghĩa thực
dân cũ ở vị trí xung yếu nhất, thu hẹp dinh lũy của chúng, làm thất bại ngay từ
đầu chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa thực dân mới. Chiến
thắng này không chỉ soi sáng con đường các dân tộc đấu tranh tự giải phóng mà
6
còn chỉ rõ sự thất bại tất yếu của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên phạm vi toàn
thế giới.
Chứng minh một chân lý của thời đại: “Trong điều kiện thế giới ngày nay
một dân tộc dù đất không rộng, người khơng đơng, nếu quyết tâm chiến đấu vì
độc lập tự do, có đường lối qn sự chính trị đúng đắn, được quốc tế ủng hộ thì
hồn tồn có khả năng đánh bại mọi thế lực đế quốc hung bạo”.
Như vậy, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là dấu mốc vàng son, là niềm
tự hào của toàn dân tộc Việt Nam. Đó cũng là nơi bao máu, mồ hôi và nước mắt
các anh hùng Việt Nam rơi xuống. Hiểu thêm về chiến thắng lịch sử Điện Biên
Phủ là niềm yêu thương và tự hào về đất nước.
B. MỐC SON CHĨI LỌI CỔ VŨ TỒN ĐẢNG, TỒN DÂN, TỒN
QN TA TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC.
Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc với thắng lợi hoàn toàn thuộc về nhân
dân Việt Nam. Chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ không những ghi vào lịch sử
dân tộc Việt Nam như một mốc son rực sáng nhất trong thế kỷ XX, mà ý nghĩa
và tầm vóc của sự kiện lịch sử trọng đại này không hề phai mờ. Đây là chiến
thắng vĩ đại nhất, giáng đòn quyết định, tạo bước ngoặt lịch sử làm thay đổi hẳn
cục diện chiến tranh giữa ta và địch, trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp định
Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hịa bình ở Đơng Dương, bảo vệ và
phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám; một nửa đất nước được giải phóng,
tạo cơ sở và điều kiện vững chắc để nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại
trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Những bài học lịch sử về chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn còn nguyên giá trị
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đánh
giá về ý nghĩa, tầm vóc của Chiến thắng Điện Biên Phủ, Đảng ta từng khẳng
định, Chiến thắng Điện Biên Phủ đã ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng,
một Chi Lăng, một Đống Đa của thế kỷ 20 và đi vào lịch sử thế giới như một
mốc son chói lọi, đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân.
Chiến thắng Điện Biên Phủ "chấn động địa cầu", luôn mãi là niềm tự hào
của dân tộc Việt Nam. Trong cuộc chiến đấu đầy gian khổ đó, những tấm gương
dũng cảm hy sinh của cán bộ, chiến sỹ ta như: Anh hùng Tơ Vĩnh Diện, Phan
Đình Giót, Bế Văn Đàn, Hồng Văn Nô…đã là nguồn cổ vũ, động viên tinh thần
7
vơ cùng to lớn, tiếp thêm ý chí quyết chiến, quyết thắng đối với toàn quân và
dân ta trên mọi mặt trận chống kẻ thù xâm lược. Chiến thắng Điện Biên Phủ
chứng minh rằng dù một đất nước nhỏ nhưng với ý chí quật cường đã đánh
thắng thực dân Pháp xâm lược; là bài học kinh nghiệm vừa là nguồn cổ vũ động
viên cho những nước thuộc địa trên toàn thế giới đứng lên chiến đấu để giải
phóng đất nước, giành lại độc lập dân tộc.
Chiến thắng Điện Biên Phủ không chỉ là chiến thắng của nhân dân Việt
Nam mà còn là chiến thắng của nhân dân Lào, Campuchia - những người bạn
chiến đấu cùng chung chiến hào, chống lại kẻ thù là đế quốc xâm lược để tự giải
phóng mình. Chiến thắng Điện Biên Phủ và thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Pháp của Việt Nam đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên
tồn thế giới, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh của nhân loại tiến
bộ; vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Là mốc son chói lọi,
mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hịa bình,
tiến bộ của nhân loại; đã chứng minh một chân lý của thời đại: Các dân tộc bị
áp bức, bị xâm lược, nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo,
biết đồn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của sự kế thừa, phát huy truyền
thống, lịch sử vẻ vang hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước, truyền thống đấu
tranh chống giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất của dân tộc ta. Trong thế kỷ
20, truyền thống đó, sức mạnh đó được nhân lên, trước hết nhờ sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng ta
đã đề ra đường lối chiến tranh nhân dân, đường lối kháng chiến đúng đắn – yếu
tố quyết định để chúng ta chiến thắng quân đội viễn chinh Pháp – một đội quân
thực dân đế quốc nhà nghề, từng chiến thắng và áp đặt sự cai trị ở nhiều nơi trên
thế giới.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, dân tộc ta và nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đứng trước những thách thức cực
kỳ hiểm nghèo: quân Tưởng tràn vào miền Bắc kéo theo các đảng phái phản
động; được sự che chở của quân Anh, quân đội Pháp quay lại đánh chiếm miền
Nam, chúng đã đề ra kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” với mục đích chung
là bóp chết nhà nước cơng nơng đầu tiên cịn non trẻ ở Đơng Nam Á. Trước tình
thế “nghìn cân treo sợi tóc”, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí
8
Minh đã tập trung lãnh đạo kháng chiến, đề ra đường lối kháng chiến toàn dân,
toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, khơn khéo loại dần những kẻ thù,
vừa tranh thủ thời gian phát động phong trào tồn dân diệt giặc đói, giặc dốt,
giặc ngoại xâm, động viên toàn dân tăng gia sản xuất để chuẩn bị điều kiện và
lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài. Nhờ đường lối đúng đắn đó, chúng ta
đã huy động được sức mạnh của toàn dân tộc trên tất cả các lĩnh vực: Chính trị,
qn sự, kinh tế, văn hố, ngoại giao…; đã kiên trì chủ trương đánh lâu dài, biến
nhỏ thành lớn, yếu chuyển thành mạnh; phát huy lợi thế, thế mạnh của chiến
tranh nhân dân, sức mạnh từ nhân dân. Bộ đội chủ lực của ta lúc đầu còn nhỏ bé,
nhưng càng đánh càng được bổ sung lực lượng, vũ khí trang bị, ngày càng lớn
mạnh, trưởng thành.
Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, quân Pháp muốn tập trung binh
lực, dựa vào quân đội nhà nghề để giành thế chủ động trên chiến trường chính
Bắc Bộ. Trong khi đó, Bác Hồ, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy
đề ra chủ trương của chúng ta là dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, lấy
LLVT nhân dân làm nòng cốt, giành thế chủ động, buộc quân Pháp phải phân
tán binh lực. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến thắng lợi
của Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Chiến thắng Điện Biên Phủ cho thấy, Đảng ta có chủ trương chiến lược
quân sự đúng đắn, nghệ thuật chiến dịch, chiến đấu tài tình. Trong xây dựng
quân đội, xây dựng LLVT, luôn giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt Quân đội nhân dân và các LLVT nhân dân. Lực lượng đó
đặt dưới sự chỉ huy thống nhất của Bộ Tổng tư lệnh tối cao. Việc phát huy sức
mạnh của thế trận chiến tranh nhân dân thể hiện trong suốt quá trình chuẩn bị và
tiến hành chiến tranh. Chúng ta đã thực hiện tốt chủ trương: Mỗi người dân là
một chiến sĩ, cả nước trở thành hậu phương, cả nước là chiến trường, nhằm đánh
tiêu hao, tiêu diệt, căng kéo quân chủ lực Pháp. Đó cịn là nghệ thuật lấy nhỏ
thắng lớn, lấy yếu thắng mạnh, lấy trường kỳ kháng chiến để đánh bại ý đồ đánh
nhanh, thắng nhanh của quân Pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh có vai trị đặc biệt quan trọng trong những thời
điểm có ý nghĩa quyết định của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cũng
như trong trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ. Đại tướng Võ Nguyên
Giáp, qua khảo sát thực tế chiến trường, lấy ý kiến dân chủ của cán bộ lãnh đạo
9
trong Đảng ủy, Bộ Chỉ huy chiến dịch và cố vấn nước bạn, đã đề xuất Bộ Chính
trị, Tổng Quân ủy đi đến quyết định lịch sử: Thay đổi phương châm tác chiến từ
đánh nhanh, thắng nhanh, sang đánh chắc, tiến chắc. Quyết định đó cũng là thể
hiện sự chỉ đạo hết sức cụ thể của Bác Hồ: “Trận này hết sức quan trọng, chắc
thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh!”.
Sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh làm cho sức mạnh dân
tộc ta được tăng cường bằng sức mạnh của thời đại. Chúng ta đã tranh thủ được
sự giúp đỡ, ủng hộ to lớn của các nước bạn bè, đặc biệt là các nước XHCN, trực
tiếp là của Liên Xơ, Trung Quốc… góp phần tăng cường sức mạnh chính trị,
tinh thần, vật chất… để chúng ta giành thắng lợi quyết định tại chiến trường
Điện Biên Phủ.
Để có Chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”, cùng với tinh
thần chiến đấu ngoan cường, quả cảm của bộ đội ta tại mặt trận, một yếu tố hết
sức quan trọng là tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” của
toàn dân, toàn quân ta. Chiến thắng Điện Biên Phủ có sự phối hợp của các chiến
trường cả nước, bằng các cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953-1954, từ
Tây Bắc, Việt Bắc đến Đồng bằng sông Cửu Long, chiến trường Tây Nguyên và
cả bên nước bạn Lào, Cam-pu-chia, góp phần “chia lửa” với Điện Biên Phủ,
căng kéo quân địch ra, không cho chúng tập trung binh lực, vật lực chi viện cho
tập đoàn cứ điểm.
Để chi viện sức người, sức của cho Chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta
đã huy động tối đa sức mạnh của hậu phương, của hậu cần nhân dân. Hàng chục
vạn dân công, thanh niên xung phong được huy động vận chuyển lương thực,
nhu yếu phẩm từ Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Yên Bái, Phú Thọ… lên Tây
Bắc. ở hậu phương, Đảng, Nhà nước ta thực hiện chính sách giảm tơ, cải cách
ruộng đất, mang lại quyền lợi chính đáng cho gia đình, hậu phương bộ đội, dân
công, thực sự tăng thêm niềm tin, sức mạnh của mọi người, ở cả hậu phương và
tiền tuyến… tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn chiến thắng quân thù.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của sức mạnh đại đoàn kết dân
tộc, của chiến tranh nhân dân, của LLVT nhân dân, trong đó Quân đội nhân dân
Việt Nam làm nịng cốt, ln trung thành, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo
của Đảng và Bác Hồ. Trước Chiến dịch Điện Biên Phủ, quân đội ta đã trưởng
thành, lớn mạnh vượt bậc cả về tổ chức, vũ khí, trang bị và cách đánh; đã được
10
rèn luyện, thử thách qua nhiều chiến dịch của 9 năm kháng chiến; đã rút ra nhiều
bài học kinh nghiệm thành công cũng như chưa thành công và được vận dụng
triệt để trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Qua chỉnh huấn, chỉnh quân và tiến
hành tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nên cán bộ, chiến sĩ tham gia
Chiến dịch Điện Biên Phủ có ý chí quyết tâm rất cao, sẵn sàng chấp nhận gian
khổ, hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ.
Chiến thắng Điện Biên Phủ khẳng định, trong chiến tranh, yếu tố con
người là quyết định, trong đó nhân tố chính trị tinh thần có vai trị đặc biệt quan
trọng và là ưu thế tuyệt đối của chúng ta trước kẻ thù xâm lược. Trước Chiến
dịch Điện Biên Phủ, hệ thống tổ chức đảng trong quân đội được củng cố, cơ
quan chính trị các cấp được tăng cường; cơng tác đảng, cơng tác chính trị thực
sự trở thành “linh hồn”, “mạch sống” của quân đội. Công tác đảng, cơng tác
chính trị trong Chiến dịch Điện Biện Phủ đã biến sức mạnh chính trị tinh thần
của quân và dân ta thành sức mạnh vật chất to lớn để làm nên chiến thắng vĩ đại,
tô thắm truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, đất
nước ta, tuy vẫn tạm thời bị chia cắt, song miền Bắc đã hồn tồn giải phóng, đi
lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta có một hậu phương lớn mạnh, vững chắc cho
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của cả nước và chiến trường 3 nước
Đông Dương, đồng thời tạo tiền đề để sau này cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là thành quả của đường lối chiến tranh nhân dân Việt
Nam, sức mạnh của LLVT nhân dân và của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, kết hợp với sức mạnh thời đại. Tiếp nối
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, dân tộc ta đã viết tiếp bản anh hùng ca chói
lọi trong thời đại Hồ Chí Minh, lập những chiến cơng hiển hách “Điện Biên Phủ
trên không” năm 1972, Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, giải phóng hồn
tồn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, giành
nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới gần 30 năm
qua, đưa đất nước ta lên một tầm cao mới, với thế và lực mới, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế.
Chiến thắng Điện Biên Phủ bắt nguồn từ đường lối chính trị, đường lối
quân sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng; từ tinh thần yêu nước nồng nàn và nghệ
thuật quân sự truyền thống Việt Nam được kế thừa, phát triển lên tầm cao mới
11
trong thời đại Hồ Chí Minh. Chiến thắng đó bắt nguồn từ tình đồn kết và liên
minh chiến đấu giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương, sự giúp đỡ quan
trọng của Trung Quốc, Liên Xô và sự đồng tình, ủng hộ từ bè bạn quốc tế, trong
đó có nhân dân tiến bộ Pháp. Nhưng nguồn gốc sâu xa nhất chính là từ tình u
q hương đất nước, là khát vọng độc lập, tự do đến cháy bỏng trong mỗi con
dân đất Việt. Đó cũng là nhân tố nền tảng tạo nên sự đồng thuận rộng lớn, vững
chắc của khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sức sống mãnh liệt và sức mạnh to
lớn để dân tộc Việt Nam vượt qua bao thăng trầm lịch sử, mà chiến thắng Điện
Biên Phủ là một trong những minh chứng hùng hồn trong lịch sử Việt Nam hiện
đại.
Chiến thắng Điện Biên Phủ trở thành di sản tinh thần quý báu, mãi mãi là
niềm tự hào, là nguồn sức mạnh cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ra sức
phấn đấu thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và các nghị quyết, kết luận Hội nghị Trung ương,
thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Quân đội ta đang xây dựng theo hướng cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng
tiến thẳng lên hiện đại. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Quân đội theo Nghị
quyết Đại hội XI và Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ
Tổ quốc trong thời kỳ mới” đặt ra những vấn đề mới. Những bài học kinh
nghiệm về cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong Chiến dịch Điện Biên Phủ vẫn
còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn, cần được nghiên cứu, quán triệt sâu sắc,
tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận, vận dụng vào thực tiễn, để công tác đảng,
công tác chính trị ln là “linh hồn”, “mạch sống” của qn đội, góp phần quan
trọng bảo đảm và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng đối với quân đội, xây dựng quân đội ta vững mạnh về chính trị, làm cơ sở
nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ được giao.
Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 đã để lại cho cách mạng Việt Nam nhiều
bài học - kinh nghiệm rất quý báu. Đó là: Giữ vững và tăng cường phát huy vai
trò lãnh đạo của Đảng; thực hiện tốt tư tưởng “dân là gốc”, biết dựa vào dân,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng
của nhân dân. Đó còn là việc phát huy thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc,
không ngừng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng lớn mạnh, đặc biệt là bộ
12
đội chủ lực để sẵn sàng thực hiện tốt mọi nhiệm vụ. Cùng với đó là khơng
ngừng chăm lo, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp cơng nơng làm nền tảng, tích cực đấu tranh vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xây dựng tinh thần đoàn kết
quốc tế trong sáng trên cơ sở bình đẳng, tơn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn
lãnh thổ, đều hướng đến mục tiêu vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ
xã hội.
Đã 64 năm kể từ ngày lá cờ Việt Nam quyết chiến quyết thắng bay trên
nóc hầm De Castries đến nay, nhưng tầm vóc, ý nghĩa, bài học và tầm ảnh
hưởng của chiến thắng sẽ còn mãi vang vọng, truyền lại mãi đến hôm nay và
mai sau. Phát huy tinh thần quyết chiến, quyết thắng của Điện Biên Phủ, toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta chủ động nắm bắt thời cơ, vượt mọi khó khăn, thử
thách, kiên định Chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, củng cố niềm
tin vững chắc vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới mà
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn. Những bài học kinh nghiệm quý
báu được đúc kết từ Chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn cịn ngun giá trị để tồn
Đảng, tồn dân, tồn qn ta khơi dậy lịng u nước, niềm tự hào dân tộc, chủ
nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và của
cả hệ thống chính trị, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.
C.TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN
Kỷ niệm 64 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, chúng ta càng thêm tự
hào về truyền thống vẻ vang của dân tộc Việt Nam, tự hào về Tổ quốc ta, Đảng
ta, nhân dân ta và sự nghiệp cách mạng của quân dân ta. Từ đó, nhận thấy bản
thân là sinh viên được sinh sống và học tập trên mảnh đất Việt Nam phải có
trách nhiệm:
- Ra sức thi đua lao động, học tập, rèn luyện, quyết tâm bảo vệ vững
chắc toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, góp phần xây dựng đất nước ngày
càng văn minh, dân chủ, giàu đẹp; xứng đáng với sự hy sinh của thế hệ cha, anh.
- Thường xun học tập để khơng ngừng nâng cao trình độ học vấn,
nhanh chóng tiếp cận và làm chủ được khoa học và công nghệ mới.
13
- Nâng cao ý thức cảnh giác, kiên quyết đập tan âm mưu chống phá
của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ đất nước, phòng chống các tệ nạn
xã hội, góp phần tích cực trong giữ gìn trật tự an tồn giao thơng và an ninh xã
hội, quốc gia. Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.
- Tiếp thu và phát huy truyền thống cách mạng của Đảng, của dân
tộc, xây dựng lòng yêu nước nồng nàn, ý thức trách nhiệm công dân, phát huy
tinh thần sáng tạo, vượt khó khăn, ý chí tự lực, tự cường dân tộc, phấn đấu vì
dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng , văn minh.
- Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt nam, tiếp thu tinh hoa-văn
hóa nhân loại.
- Phát huy tinh thần sẵn sàng, thực hiện tốt lời Bác Hồ dạy.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Điện Biên Phủ như là một cái
mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống
dốc và tan rã, đồng thời, phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên
cao đến thắng lợi hoàn toàn”. “Đó là thắng lợi vĩ đại của Nhân dân ta mà cũng
là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới”. Chiến thắng
vĩ đại ở Điện Biên Phủ không những ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một
mốc son rực sáng nhất trong thế kỷ XX, mà ý nghĩa và tầm vóc của sự kiện lịch
sử trọng đại này không hề phai mờ, trái lại, những bài học lịch sử vẫn còn
nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Đó là mốc son chói lọi cổ vũ tồn Đảng, tồn qn, tồn dân ta trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
~~~~~~~~~~~~~~~
14