HỌC VIÊN THANH THIẾU NIÊN VIỆT NAM
PHÂN VIỆN MIỀN NAM
CHỦ ĐỀ: NGUYÊN TẮC TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH TRONG ĐẢNG
BÀI THU HOẠCH:
KẾT THÚC MÔN NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC ĐẢNG Ở CƠ SỞ
LỚP TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
KHĨA K29B (NĂM HỌC 2021-2022)
TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 01/2022
Một trong những tư tưởng có tính ngun tắc trong xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là Tự phê bình và phê bình. Theo đó, Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển
của Đảng, là phương pháp để giáo dục, rèn luyện đảng viên, là vũ khí sắc bén để chống tả
khuynh và hữu khuynh; uốn nắn những lệch lạc trong nhận thức; ngăn chặn suy thối tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; khắc phục tư tưởng ngại khó, ngại khổ; tư tưởng chủ
quan, nóng vội, duy ý chí; nói thẳng, nói thật; nhận rõ những khuyết điểm, yếu kém, sai
phạm… nhằm mục đích để xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, xây dựng
tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân, tăng cường đoàn kết, thống nhất từ trong tư duy, nhận thức, lý tưởng đến hành động
cách mạng.
Chúng ta vốn đã được nghe rất nhiều về cụm từ Tự phê bình và phê bình nêu trên, tuy nhiên
khơng phải ai cũng hiểu đúng và đầy đủ nguyên tắc này, đặc biệt là trong công tác xây dựng
Đảng. Bên cạnh đó, trên thực tế tự phê bình và phê bình là một việc làm khơng hề đơn giản
hay dễ dàng. Đây là một vấn đề rất nhạy cảm, đụng chạm trực tiếp đến từng cá nhân, tổ
chức. Tâm lý của con người vốn thích được khen hơn bị chê cùng với suy nghĩ cho rằng tự
nói ra khuyết điểm, tự nhận khuyết điểm nghĩa là tự thừa nhận sự non kém của mình. Bởi vì
lịng tự ái của con người luôn tồn tại nên việc chỉ ra cái sai, cái dốt, cái kém của người khác
và thừa nhận những khiếm khuyết của bản thân là một thử thách vô cùng lớn đối với mỗi
con người. Xuất phát từ những vấn đề thực tế nêu trên, bài thu hoạch này sẽ phân tích cụ thể
về ngun tắc Tự phê bình và phê bình trong Đảng và đề xuất một số giải pháp thiết thực để
cơng tác Tự phê bình và phê bình trở nên khả thi, thực chất và hiệu quả hơn.
1. Các khái niệm liên quan đến Tự phê bình và phê bình
Để có thể nắm bắt và vận dụng nguyên tắc Tự phê bình và phê bình, chúng ta cần phải hiểu
rõ khái niệm này. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tự phê bình là cá nhân thật thà nhận khuyết
điểm của mình để sửa chữa, để người khác giúp mình sửa chữa và để người khác biết mà
tránh những khuyết điểm mình đã vi phạm. Phê bình là thấy ai có khuyết điểm thì thành
khẩn nói cho họ biết để họ sửa chữa, để họ tiến bộ.
Tự phê bình và phê bình là một quy luật trong hoạt động của con người dựa trên tinh thần tự
giác, mà tinh thần tự giác chỉ có thể có khi người ta thực lòng tin tưởng sắt son vào một lý
tưởng cao đẹp; niềm tin ấy sẽ giúp con người vượt qua được mọi trở lực, mọi toan tính nhỏ
nhen, thấp hèn.
Trong thực tiễn cuộc sống, tự phê bình thường khó khăn hơn phê bình vì liên quan đến chính
bản thân mỗi người, đặc biệt là lòng tự ái và danh dự nên thường có tư tưởng né tránh hoặc
bao biện. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần tự phê bình tốt để có thể phê bình tốt, do đó
Người thường đặt Tự phê bình trước phê bình.
Về bản chất, Tự phê bình và phê bình là hoạt động đấu tranh trong nội bộ Đảng để khắc
phục sửa chữa những mặt, những khuynh hướng, những yếu tố tiêu cực lạc hậu trong tổ
chức đảng và đảng viên; tìm ra những ưu điểm, những mặt tích cực để khuyến khích, biểu
dương, phát triển. Nếu so sánh Đảng như một cơ thể sống, thì những khuyết nhược điểm là
bệnh tật trong người và tự phê bình và phê bình là hoạt động “khám bệnh” và trị bệnh cho
con người. Thế nhưng để chữa trị căn bệnh này, để giải quyết những mâu thuẫn trong Đảng
thì tuyệt đối khơng được dùng biện pháp bạo lực thanh trừng, loại bỏ lẫn nhau, mà phải đấu
tranh bằng phê bình và tự phê bình.
Về mục đích và vai trị của Tự phê bình và phê bình, chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định rằng
mọi người cần tự phê bình cho tư tưởng và hành động được đúng đắn. Cách mạng sở dĩ phát
triển mãi, càng gặp nhiều gian khổ càng mạnh mẽ thêm là nhờ có phê bình và tự phê bình.
Việc thực hiện Tự phê bình và phê mình có mục đích chính là giúp nhau sửa chữa, tiến bộ,
từ đó sửa đổi cách làm việc để hiệu quả và phù hợp hơn; mỗi cán bộ, đảng viên hằng ngày
phải kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt nhằm tăng cường sức
mạnh đoàn kết. Điều này được thể hiện rõ nhất trong câu nói của chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Muốn đoàn kết chặt chẽ là phải thật thà tự phê bình, thành khẩn phê bình đồng chí và
những người xung quanh, phê bình, tự phê bình để cùng nhau tiến bộ, để đi đến càng đoàn
kết. Ðoàn kết, phê bình, tự phê bình thật thà để đi đến đồn kết hơn nữa”.
Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tự phê bình và phê bình trong xây dựng Đảng là “luật”, là
“quy luật”, là “vũ khí sắc bén” làm cho Đảng trong sạch vững mạnh. Trước hết, tự phê bình
và phê bình là “luật” – ở chỗ, đó là một trong những nguyên tắc không thể thiếu trong sinh
hoạt Đảng nhằm khơng ngừng nâng cao tinh thần đồn kết trong Đảng. Mọi tổ chức Đảng,
đảng viên phải thấy đó là trách nhiệm của mình. Tự phê bình và phê bình là “quy luật” tồn
tại và phát triển của Đảng; vì thơng qua tự phê bình và phê bình, cán bộ, đảng viên mới thấy
rõ yếu kém để khắc phục sửa chữa, thấy ưu điểm để phát huy. Tự phê bình và phê bình là
“vũ khí sắc bén” vì qua đấu tranh phê phán những việc làm sai trái để làm trong sạch nội bộ
Đảng. Mác, Ăngghen cho rằng tự phê bình và phê bình là quy luật bất di bất dịch về sự phát
triển của Đảng cách mạng. Lênin tại Đại hội IX Đảng Cộng sản Nga cũng đã nói: “Tất cả
những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay đều bị tiêu vong do tự cao tự đại vì khơng
biết cái gì đã tạo nên sức mạnh của mình và vì sợ khơng dám nói lên nhược điểm của mình.
Chúng ta khơng sợ nói lên nhược điểm của chúng ta; những nhược điểm đó chúng ta sẽ học
được cách khắc phục…”.
Liên quan đến vai trị của Tự phê bình và phê bình, nhiều ý kiến cho rằng khi thực hiện tự
phê bình và phê bình là vơ hình trung vạch rõ khuyết điểm của Đảng, của Chính phủ, của
mình cũng như đồng chí mình, từ đó sẽ tạo điều kiện để kẻ địch lợi dụng và phá hoại Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lập luận cho rằng Đảng ta là một tổ chức chính trị tiên phong của giai
cấp cơng nhân, tập hợp những chiến sĩ trung kiên, thông minh, dũng cảm…, nhưng Đảng
cũng từ trong xã hội mà ra, không phải “trên trời rơi xuống” nên không tránh khỏi khuyết
điểm, thiếu sót. Người chỉ ra nhiều lý do khách quan, chủ quan dẫn tới nhiều thiếu sót,
khuyết điểm, thậm chí sai lầm của cán bộ, đảng viên. Điều đó là lẽ bình thường, quan trọng
là thái độ của những người cộng sản ra sao trước những lỗi lầm mắc phải. Nếu “sợ mất uy
tín và thể diện”, khơng quyết tâm sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, đó là điều bất bình thường.
Người khẳng định: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một
Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết
điểm đó, xét rõ hồn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết
điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng khuyết điểm cũng như chứng bệnh cịn phê bình thì giống
như uống thuốc. Nếu sợ phê bình thì chẳng khác nào là có bệnh mà giấu bệnh, không dám
uống thuốc và khiến cho bệnh tình ngày càng nặng thêm. Đặt vấn đề như vậy, rõ ràng Chủ
tịch Hồ Chí Minh xem việc tự phê bình và phê bình chính là liều vaccine hữu hiệu trong việc
ngăn ngừa, phòng chống và đẩy lùi những khuyết điểm, thiếu sót của cán bộ đảng viên, từ đó
giúp họ sống cao đẹp và phục vụ nhân dân hiệu quả hơn.
Về đối tượng của tự phê bình và phê bình, theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là cái cũ, cái
tiêu cực, lỗi thời, cái không phù hợp với thời đại, cái sai trái trong nhận thức và hành động
của mỗi cán bộ đảng viên.
Về phương pháp, Tự phê bình là cá nhân cơ quan hoặc đoàn thể thật thà nhận khuyết điểm
của mình để sửa chữa, để người khác giúp mình sửa chữa và cũng để người khác biết để
tránh những khuyết điểm mà bản thân mình đã phạm. Yêu cầu các tổ chức Đảng và đảng
viên phải nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, cấp trên phải tự phê bình trước cấp dưới và
tổ chức tốt phê bình, tự phê bình từ dưới lên. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, Tự phê bình phải
thẳng thắn, thật thà và trung thực, đồng thời cần phải tránh việc lợi dụng phê bình để đả
kích, vu cáo gây bè kết phái hay trù dập người phê bình thẳng thắn. Phê bình là quyền lợi và
nghĩa vụ của mọi người, là thực hành dân chủ, do vậy người phê bình phải thành khẩn
nghiêm trang đúng mực, phê bình phải đúng với thực tiễn khách quan, không được đem ý
chủ quan của mình để áp đặt cho người khác.
2. Nguyên tắc Tự phê bình và phê bình
Để sử dụng vũ khí tự phê bình và phê bình trong Đảng một cách có hiệu quả, theo chủ tịch
Hồ Chí Minh trước hết phải nhận thức những khuyết điểm của mình, qua đó vạch rõ những
điểm yếu, tìm hiểu ngun nhân, hồn cảnh sinh ra khuyết điểm và đề ra các giải pháp để
sữa chữa và khắc khục các khuyết điểm đó. Tuy nhiên trên thực tế, việc thực hiện công tác
này thực sự rất khó, vì vậy để có thể vận dụng một cách hiệu quả, cần nắm vững những
nguyên tắc cơ bản của Tự phê bình và phê bình, thể hiện tính Đảng, tính giáo dục, tính
khách quan trung thực, thẳng thắn, dân chủ và đồng bộ, cụ thể như sau:
Thứ nhất, Tự phê bình và phê bình phải hướng tới mục đích cùng giúp nhau tiến bộ nên
động cơ phải trong sáng trên cơ sở tình đồng chí thương u nhau; khơng vì phê bình mà
cơng kích áp đặt khuyết điểm, phê phán lẫn nhau. Khi phê bình người khác, khơng được để
tình cảm lấn át, khơng được để rơi vào chủ đích xoi mói “bới lơng, tìm vết” để tìm cơ hội
“hạ bệ’ lẫn nhau; tránh cơng kích cá nhân, cãi bướng, để bụng hay trả thù, phải "chú trọng
nhìn việc chứ khơng nhìn người", khi phê bình đồng chí, đồng đội thì phải "vừa có lý, vừa
có tình", quan trọng nhất là phải chỉ rõ ra được nguyên nhân, khuyết điểm và đề xuất biện
pháp khắc phục. Thực hành tự phê bình và phê bình phải dân chủ, khơng mệnh lệnh, áp đặt,
duy ý chí chủ quan và đặc biệt khơng đặt nặng vấn đề cảm tính, chung chung.
Thứ hai, Tự phê bình và phê bình cần có thái độ chân tình cầu thị, nói đúng ưu điểm và
khuyết điểm, phê bình phải đúng lúc, kịp thời; phải biết lắng nghe và chờ đợi đối tượng tiếp
thu để tránh việc làm cho người bị phê bình cảm thấy “nản chí, ốn ghét”. Bên cạnh đó, Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc phê bình phải được tiến hành một cách thường xuyên liên
tục thì các sai lầm khuyết điểm sẽ được rửa sạch ngay khi nó mới phơi thai. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng: “Người mắc khuyết điểm hôm nay, ngày mai chưa chắc đã mắc khuyết điểm.
Người hôm nay chưa mắc khuyết điểm chưa chắc ngày mai cũng không mắc khuyết điểm”.
Do đó, khuyết điểm sớm được phát hiện sẽ dễ được khắc phục và sữa chữa hơn khi đã phát
triển trở thành căn bệnh trầm kha. Còn “nếu để sai lầm, khuyết điểm trở nên to tát rồi mới
đem ra “chỉnh” một lần thì người bị phê bình sẽ mất hết lịng tự tin, người hăng hái mấy
cũng hố thành nản chí, từ nản chí đi đến vơ dụng, như thế là khơng thực hiện đúng mục
đích của tự phê bình, phê bình, khơng vì sự tiến bộ mà cịn mất dần đảng viên và cán bộ.
Thứ ba, Tự phê bình và phê bình phải có thái độ kiên quyết khơng khoan nhượng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng: “Tự phê bình và sữa chữa có khi dễ, nhưng có khi cũng khó khăn,
đau đớn vì tự ái, vì thói quen, hoặc vì ngun nhân khác. Đó là một cuộc đấu tranh”. Vì thế
thực hiện tự phê bình và phê bình phải “kiên quyết không khoan nhượng, đúng mức, thật thà
không nể nang, khơng thêm bớt. Thực hành tự phê bình và phê bình mà làm hời hợt, quanh
co, chiếu lệ sai đúng không rõ ràng sẽ tạo môi trường cho khuyết điểm tồn tại và phát triển
nặng thêm. Bởi vậy phải có thái độ khen chê thẳng thắn, đúng mức thì mới giúp cho người
có khuyết điểm có động lực để khắc phục,sữa chữa; đồng thời giúp người khác noi gương để
đề phòng và tránh gặp những khuyết điểm tương tự.
Thứ tư, Tự phê bình và phê bình muốn có hiệu quả tốt cần có phương pháp tốt. Khi có người
mắc phải sai lầm, khuyết điểm, thái độ đúng của cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng là không
“đao to búa lớn”, vội vàng chụp mũ cho họ là “cơ hội chủ nghĩa” rồi đi đến cảnh cáo “khai
trừ” một cách áp đặt. Muốn cho họ thành tâm sửa chữa, phải tiến hành giải thích rõ ràng,
làm cho họ tự nhận thấy sai sót của mình để vui lịng sửa chữa. Tự phê bình và phê bình phải
“biết cách phê bình sáng suốt, khơn khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu
những khuyết điểm của mình, để tự mình sữa chữa”. Phê bình “khơn khéo” ở đây, theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh là phải đồng thời vạch rõ ưu điểm và khuyết điểm, tránh dùng những lời
mỉa mai, chua cay đâm thọc, không được hữu khuynh “a dua” và “tâng bốc”. Sự “khơn
khéo” cịn thể hiện ở chỗ tiến trình tự phê bình và phê bình phải được đặt trong khn khổ
của tổ chức, chứ khơng phải gặp đâu nói đó. Người đứng đầu phải rất công minh, tạo được
chỗ dựa tin cậy, khơi dậy được khơng khí dân chủ, thẳng thắn để ai cũng có thể nói rõ chính
kiến của mình, phải tạo điều kiện tốt nhất để những người cần lấy ý kiến phê bình đồng chí
mình có thời gian nghiên cứu nguyên nhân, hậu quả, mức độ, tác hại của sự việc của người
bị phê bình. Tránh tạo cảm giác “thậm thà thậm thụt”, "việc quá bất ngờ", “việc bé xé ra to”
trong dư luận trước và sau khi tổ chức cuộc họp phê bình và tự phê bình, đây là ngun nhân
chính của sự mất đồn kết.
3. Thực trạng Tự phê bình và phê bình và các giải pháp để nâng cao chất lượng công
tác Tự phê bình và phê bình
Chúng ta vẫn thường xun nói “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “tự
phê và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, nhưng chắc hẳn nhiều người sẽ cảm thấy
không dễ dàng để thực hiện trong thực tế. Đơn cử như việc một số người khi thực hiện tự
phê bình ln bị ám ảnh bởi nỗi lo làm khơng khéo, nói khơng hay thì sẽ là: “Lạy ơng tơi ở
bụi này”. Hoặc như lúc đóng góp, nhắc nhở, phê bình khuyết điểm của đồng chí cấp cao hơn
mình thì lại cả nể, sợ bị trù dập, hoặc cho rằng "một con én chẳng làm nên mùa xuân" nên
lựa chọn làm theo phương châm "Im lặng là vàng". Đây hoàn toàn là những suy nghĩ sai trái
và thiếu tích cực.
Trong thực tế việc tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi hiện nay được thực hiện mang tính
hình thức, khơng có hiệu quả, tính chiến đấu cao và thường kiểu “dĩ hịa vi q”, đó chính là
hạn chế mà các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nhất là Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ
ra. Trong thực tế ở nhiều tổ chức đảng hiện nay, đa phần các buổi phê bình, tư phê bình
thường có một kết quả chung đều là “nhất trí cao”.
Ngược lại, một thực trạng khác đó là các buổi phê bình, tự phê bình đơi khi lại biến thành
những cuộc cãi vã và xung đột khi đụng chạm đến lòng tự ái và danh dự của người khác khi
cách phê bình và tự phê bình không phù hợp. Điều quan trọng nhất đối với tự phê bình và
phê bình trước tiên là phải thành thật nhận ra khuyết điểm của mình nhưng nhiều người lại
khơng nhận ra chân lý đơn giản ấy.
Để có thể vận dụng một cách thường xuyên, nghiêm chỉnh việc tự phê bình và phê bình
trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay,
mỗi đảng viên và tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, thường xuyên nâng cao nhận thức, đề cao trách nhiệm tự phê bình và phê bình của
các cấp ủy đảng. Tự phê bình và phê bình chỉ có thể đem lại hiệu quả thiết thực khi cấp ủy
đảng các cấp có nhận thức đúng và thường xuyên tổ chức thực hiện nghiêm túc ở cấp mình.
Nhận thức khơng đúng về ý nghĩa, tầm quan trọng của nguyên tắc tự phê bình và phê bình
tất dẫn tới việc thực hành tự phê bình và phê bình khơng thường xun, thiếu nghiêm túc,
thậm chí bng lỏng, coi nhẹ hoặc chỉ mang tính hình thức, qua loa, chiếu lệ… Để có nhận
thức đúng và bảo đảm tự phê bình và phê bình được tiến hành thường xun, nghiêm chỉnh,
có chất lượng thì cấp ủy đảng cần quán triệt cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nắm vững nội
dung nguyên tắc tự phê bình và phê bình, hiểu rõ khái niệm, mục đích, vai trị đối tượng,
phương pháp, thái độ tự phê bình và phê bình theo Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được trình bày
ở phần đầu của bài thu hoạch này.
Hai là, thường xuyên, nghiêm chỉnh thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh
hoạt đảng. Mỗi tổ chức đảng và mọi cán bộ, đảng viên cần coi tự phê bình và phê bình là
việc làm thường xuyên và phải nghiêm chỉnh thực hiện mỗi ngày, từ đó nâng cao tinh thần tu
dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng; kịp thời phát hiện, cảnh tỉnh, ngăn chặn những cán bộ,
đảng viên có khuyết điểm. Định kỳ phải tổ chức cho quần chúng tham gia đóng góp ý kiến
cho cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Những ý kiến đúng đắn, hợp lý, sáng tạo phải được
tiếp thu và quyết liệt tập trung khắc phục sửa chữa, trong khi đó những ý kiến chưa đúng
phải được giải thích cho quần chúng thấu hiểu và đồng thuận.
Ba là, thường xuyên phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của người đứng đầu, cấp ủy
viên và trách nhiệm của các tổ chức quần chúng trong thực hành tự phê bình và phê bình.
Phát huy vai trị gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cấp ủy viên và người
đứng đầu trong thực hành tự phê bình và phê bình có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Tự phê
bình và phê bình trong các tổ chức đảng cần tiến hành từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài,
từ cấp uỷ, người đứng đầu đến cán bộ, đảng viên. Cấp trên phải gương mẫu kiểm điểm trước
để cấp dưới noi theo; tập thể kiểm điểm trước, cá nhân kiểm điểm sau; cấp uỷ viên và cán bộ
giữ chức vụ lãnh đạo điểm điểm trước, đảng viên kiểm điểm sau; cấp trên phải gương mẫu
tự phê bình trước cấp dưới; cấp dưới phải mạnh dạn phê bình cấp trên; tổ chức đảng và đảng
viên phải lắng nghe ý kiến phê bình của quần chúng. Bí thư và thủ trưởng đơn vị cần phải đi
đầu, gương mẫu, dám tự phê bình, dám nhận khuyết điểm trước tập thể, trước cấp trên, cấp
dưới và đồng cấp; thật sự tạo ra không khí cởi mở, khuyến khích động viên mọi cán bộ, đảng
viên, quần chúng mạnh dạn tự phê bình và phê bình.
Bên cạnh đó, cần phát huy vai trị của các tổ chức quần chúng trong cơ quan, đơn vị tham
gia phê bình tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên. Mọi hoạt động của tổ chức cơ sở đảng đều
được quần chúng nắm bắt, giám sát.
Bốn là, gắn tự phê bình và phê bình với cơng tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng. Như
chúng ta đã biết, Tự phê bình và phê bình là một khâu của cơng tác kiểm tra, giám sát, là
một trong những phương pháp cơ bản khi tiến hành kiểm tra, giám sát. Tự phê bình và phê
bình tốt sẽ góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát. Ngược
lại, khơng làm tốt tự phê bình và phê bình thì cơng tác kiểm tra, giám sát sẽ mang tính hình
thức, khơng mang lại hiệu quả thiết thực.
Tóm lại, Tự phê bình và phê bình ln là vũ khí sắc bén để xây dựng Đảng và giáo dục, rèn
luyện cán bộ và Đảng viên. Mặc dù đã hơn nửa thế kỷ đã qua đi nhưng Di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh vẫn cịn ngun vẹn tính thời sự và đang tiếp tục định hướng cho công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng đi đúng hướng. Để vũ khí này ln sắc bén thì phải ln được sử
dụng và mài dũa, đặc biệt là vận dụng vào thực tế một cách thường xuyên, nghiêm túc và
đúng đắn nhằm ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng hiện nay, góp phần quan trọng đưa sự nghiệp
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước đến thành cơng.
Tài liệu tham khảo:
Tạp chí xây dựng Đảng, Cần hiểu đúng về tự phê bình và phê bình theo Tư tưởng Hồ Chí
Minh