Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

BÀI THU HOẠCH MÔN TƯ TƯỜNG CHÍNH TRỊ- Cao cấp chính trị 2022

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.54 KB, 12 trang )

1
BÀI THU HOẠCH
MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Chun đề: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm
quyền và sự quán triệt, vận dụng trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng ta”
MỞ ĐẦU
Đảng cầm quyền hay đảng chính trị (chính đảng) cầm quyền là vấn đề rất
lớn, phổ biến trong lịch sử từ khi xuất hiện các đảng chính trị ở các nước trên thế
giới. Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trở thành lực lượng duy nhất lãnh
đạo cách mạng nước ta và trở thành Đảng cầm quyền sau thắng lợi của cuộc cách
mạng tháng Tám năm 1945. Mặc dù các đảng viên của Đảng được sự ủng hộ to lớn
của nhân dân và thu nhận được đại đa số phiếu trong các kỳ bầu cử Quốc hội,
nhưng vai trò cầm quyền của Đảng không chỉ được xác lập thông qua con đường
bầu cử mà trước hết là thông qua vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt
Nam ngay từ khi Đảng ra đời. Từ năm 1930, Đảng đã được dân tộc lựa chọn là
người lãnh đạo và sự lựa chọn đó ngày càng được khẳng định rõ khi Đảng đã lãnh
đạo đưa nước ta từ nước thuộc địa nửa phong kiến thành nước độc lập; đưa dân ta
thốt khỏi kiếp nơ lệ trở thành người chủ đất nước. Trở thành Đảng cầm quyền,
Đảng tập trung lãnh đạo cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, ác liệt, chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và giành thắng lợi, hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, cả nước tiến hành xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử và vận
mệnh của dân tộc ta đã gắn liền với vận mệnh của Đảng.
Trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người viết “ Đảng ta là một đảng
cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là ngưới lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Trải
qua 92 năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, vượt qua mn vàng khó khăn,
thử thách, với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân chính, dày dạn kinh nghiệm,
ln gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng đã lãnh đạo, tổ chức và phát huy sức
mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân giành được nhiều thắng lợi vĩ đại


trong sự nghiệp cách mạng. Vị thế cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
xã hội được nhân dân thừa nhận, suy tôn và được Hiến pháp nước ta khẳng định.
Ngày nay, với tư cách đảng cầm quyền, Đảng ta nhận rõ trách nhiệm của
mình trước Tổ quốc, trước dân tộc để vạch ra đường lối xây dựng và phát triển đất
nước, trên cơ sở đó phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống chính trị, của cả
xã hội, tổ chức thực hiện thành cơng đường lối đó; đồng thời xác định đúng nội
dung và phương thức hoạt động của Đảng, phát huy mặt thuận lợi, hạn chế mặt khó
khăn, ngăn ngừa những nguy cơ đối với một đảng cầm quyền.


2
PHẦN NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1. Một số vấn đề lý luận chung về đảng cộng sản cầm quyền
Đảng cầm quyền, hay còn gọi là đảng chấp chính, là đảng nắm chính quyền,
lãnh đạo hoặc chi phối hoạt động của bộ máy chính quyền. Đảng cầm quyền là một
khái niệm được sử dụng rộng rãi ở các nước phương Tây ngay khi xã hội bắt đầu
hình thành các đảng chính trị. Theo Lênin, Đảng cầm quyền được hiểu là “Đảng
nắm chính quyền” bằng những người đại diện của Đảng trực tiếp thực hiện công
việc quản lý trong bộ máy nhà nước. Những cán bộ đảng viên trong bộ máy nhà
nước phải bảo đảm vừa là tư cách người đại diện cho Đảng thực hiện việc tuyên
truyền, vận động nhân dân đi theo Đảng, tức là hoạt động “lãnh đạo”; đồng thời là
đại biểu của nhân dân thực hiện công việc quản lý nhà nước, tức là hoạt động “cầm
quyền”. Đảng cầm quyền là khái niệm gắn với quyền lực. Nghĩa là, Đảng có quyền
lực chính trị mà cụ thể là việc “nắm chính quyền”.
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trở thành lực lượng duy nhất
lãnh đạo cách mạng nước ta và trở thành Đảng cầm quyền sau thắng lợi của cuộc
cách mạng tháng Tám năm 1945. Mặc dù các đảng viên của Đảng được sự ủng hộ
to lớn của nhân dân và thu nhận được đại đa số phiếu trong các kỳ bầu cử Quốc
hội, nhưng vai trị cầm quyền của Đảng khơng chỉ được xác lập thông qua con

đường bầu cử mà trước hết là thơng qua vai trị lãnh đạo của Đảng đối với cách
mạng Việt Nam ngay từ khi Đảng ra đời. Từ năm 1930, Đảng đã được dân tộc lựa
chọn là người lãnh đạo và sự lựa chọn đó ngày càng được khẳng định rõ hơn thông
qua những thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rất sớm về Đảng cầm quyền. Hồ Chí
Minh thường dùng cách diễn đạt: Đảng lãnh đạo chính quyền, Đảng lãnh đạo cách
mạng, Đảng lãnh đạo dân tộc để nói về vai trò của Đảng khi Đảng trở thành đảng
cầm quyền. Chỉ duy nhất một lần trong Di chúc, Người mới nói rõ “Đảng ta là một
Đảng cầm quyền”. Tuy vậy, trong những bài viết, bài nói của mình, Người ln chỉ
rõ những nhiệm vụ của một đảng cộng sản cầm quyền đó là Đảng phải có trách
nhiệm đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trách nhiệm của đảng cầm
quyền khó khăn hơn, to lớn hơn, phức tạp hơn. Khi Đảng trở thành đảng cầm
quyền, trách nhiệm của Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên là phải phục vụ nhân dân,
chứ không phải trở thành những vị “quan cách mạng”, chỉ biết vinh thân, phì gia.
Người khẳng định “Đảng ta không phải là đảng làm quan mà Đảng phải lo đời
sống cho nhân dân, trước mặt là sản xuất”.
Chính vì điều đó, Người hết sức quan tâm và trăn trở khi Đảng trở thành
đảng cầm quyền là Đảng phải nhận thức và phòng chống những nguy cơ suy thoái
của một đảng cầm quyền. Quán triệt quan điểm của Lênin cảnh báo những người


3
cộng sản phải phòng chống nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chính quyền cách
mạng mới được thành lập, Hồ Chí Minh đã chỉ ra ba nguy cơ đe dọa sự tồn vong
của chế độ và vai trò lãnh đạo của Đảng là: nguy cơ sai lầm về đường lối; quan
liêu, xa rời thực tiễn cuộc sống, xa rời nhân dân; chủ nghĩa cá nhân – căn bệnh gốc,
từ đó mà sinh ra những thói hư tật xấu. Suốt cuộc đời, người ln chú trọng nhắc
nhở và phịng chống ba nguy cơ trên.
Chính vì vậy, từ thực tiễn cách mạng cách mạng Việt Nam, sau ngày Đảng
trở thành đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đã có sự điều chỉnh sát hợp hơn theo

hướng xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp. Người đánh
giá cao vai trị của giai cấp cơng nhân với tư cách là giai cấp lãnh đạo cách mạng,
giai cấp hội tụ những đặc tính tiến tiến của thời đại, nhưng đồng thời cũng nhận rõ
sức mạnh của khối đại đồn kết tồn dân tộc mà giai cấp cơng nhân là một phần
trong đó. Người ln khẳng định “Đảng là đảng của giai cấp lao động mà cũng là
đảng của toàn dân”, “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời
cũng đội tiên phong của dân tộc”.
Cùng với đó, từ rất sớm Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ phương thức lãnh đạo
của Đảng đúng hay sai là căn nguyên thắng lợi hay thất bại của việc thực hiện chủ
trương đường lối. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, nội dung phương thức lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền được thể hiện ở các điểm sau:
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nghị
quyết. Sứ mệnh lãnh đạo của Đảng đối với toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã
hội được thể hiện ở chỗ, trên cơ sở vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
phân tích thực tiễn cách mạng cụ thể, nắm bắt yêu cầu khách quan của cách mạng
và nguyện vọng của nhân dân, Đảng đề ra đường lối, chủ trương, nghị quyết để
đưa cách mạng tiến lên đạt được mục tiêu mà nhân dân mong muốn. Đồng thời,
Đảng phải tổ chức thực hiện, mà trước hết là thể chế hóa các đường lối, chủ trương
thành các văn bản pháp luật.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo bằng công tác cán bộ. Trong điều kiện đảng cầm
quyền, Đảng cử cán bộ, đảng viên vào các cơ quan nhà nước, các đồn thể, vì vậy
cơng tác cán bộ có ý nghĩa rất quan trọng. Cán bộ là dây chuyền của bộ máy nối
Đảng, Chính phủ và nhân dân, nối nhân dân với Đảng và Chính phủ. Nhiệm vụ của
cán bộ là đem đường lối của Đảng và Nhà nước giải thích cho nhân dân hiểu để thi
hành, đồng thời lãnh đạo, tổ chức việc thực hiện cho tốt.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, kiểm sốt. Người chỉ ra rằng
có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân dân,
mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời.
Nếu tổ chức việc kiểm tra chu đáo thì cũng như ngọn đèn “pha”, bao nhiêu tình
hình, bao nhiêu ưu điểm, khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng ta điều rõ.



4
Thứ tư, Đảng lãnh đạo thơng qua vai trị tiên phong, gương mẫu của cán bộ,
đảng viên. Tính tiên phong, gương mẫu là một trong những yêu cầu, tiêu chuẩn
đảng viên, đồng thời thể hiện tinh thần tự nguyện hy sinh, phấn đấu vì mục tiêu, lý
tưởng của Đảng, trong đấu tranh giải phóng dân tộc phải như vậy, trong điều kiện
đảng cầm quyền càng phải như vậy.
2. Nội dung Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam cầm quyền.
Trên cơ sở nhận thức, quán triệt và vận dụng sáng tạo luận điểm của Mác,
Ăngghen, Lênin: “Cách mạng vơ sản chỉ có thể giành thắng lợi khi có Đảng Cộng
sản, chính đảng của giai cấp cơng nhân lãnh đạo”, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: cách mạng Việt Nam “trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận
động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vơ sản
giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm
lái có vững thuyền mới chạy”. Người đã sớm nhận thức rõ tầm quan trọng của
cơng tác xây dựng đảng nói chung, xây dựng đảng cộng sản cầm quyền nói riêng.
Khi Đảng trở thành đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh nhiều lần nêu lên vai trị
hết sức quan trọng của cơng tác xây dựng, chỉnh đốn đảng. Người là người đầu tiên
đưa ra quan điểm gắn kết xây dựng đảng với chỉnh đốn đảng và luôn kiên định
quan điểm này.Với Người: gắn kết xây dựng đảng với chỉnh đốn đảng không chỉ
là quy luật tất yếu, mà còn là sự vận động và phát triển của Đảng trong suốt tiến
trình phát triển của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo; xây dựng đảng và
chỉnh đốn đảng là hai mặt của một quá trình thống nhất, có quan hệ chặt chẽ với
nhau, gắn kết với nhau vì mục tiêu đem lại cho Đảng một chất lượng mới, một tầm
cao mới để Đảng luôn tồn tại với tư cách người lãnh đạo cách mạng, luôn phát
triển với tư cách Đảng cầm quyền. Do vậy, xây dựng và chỉnh đốn đảng không chỉ
là nhiệm vụ then chốt mang tầm chiến lược, mà cịn là cơng việc thường xuyên của
Đảng trong vai trò lãnh đạo cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh

đốn đảng đề cấp đến bốn mặt: tư tưởng, chính trị, đạo đức và tổ chức, cụ thể:
Xây dựng Đảng về tư tưởng, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, Đảng phải lấy chủ
nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Theo Hồ
Chí Minh, Đảng muốn tồn tại, phát triển, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng tiến lên thì
trước hết “phải có chủ nghĩa làm cốt”, bởi “Khơng có lý luận cách mạng, thì khơng
có phong trào hành động cách mạng” và trong Đảng ai ai cũng phải hiểu, nắm
vững tinh thần đó làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn. Lấy chủ nghĩa “làm cốt”,
theo Hồ Chí Minh đó là cơ sở nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng để Đảng định ra
cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược và mục tiêu cần đạt tới của cách
mạng, đảm bảo cho sự đoàn kết, thống nhất về tư tưởng và hành động trong Đảng.
Người chỉ rõ: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân


5
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin” nên “Phải theo chủ
nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”. Nhờ đó, làm cho Đảng có thể trở thành hình thức tổ
chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương
tâm của dân tộc. Hồ Chí Minh đề cao giá trị nổi bật của Chủ nghĩa Mác- Lênin là
phương pháp làm việc biện chứng (phép biện chứng). Người cho rằng học chủ
nghĩa Mác- Lênin khơng phải là để lịe thiên hạ, mà để ứng dụng vào thực tiễn và
khi vận dụng phải sáng tạo, phù hợp với thực tiễn, tránh rập khuôn, giáo điều “Chủ
nghĩa Mác- Lênin là kim chỉ nam cho hành động, chứ không phải là kinh thánh”.
Xây dựng Đảng về chính trị, trước hết là xây dựng đường lối chính trị đúng
đắn, đáp ứng được yêu cầu khách quan của tình hình thực tiễn cách mạng, phù hợp
với xu thế phát triển của thời đại. ĐỒng thời, sau khi đã có đường lối chính trị
đúng đắn, cơng tác xây dựng Đảng về chính trị phải làm cho đường lối chính trị
của Đảng thấm sâu vào mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm cho mọi người
nắm vững đường lối của Đảng, tạo sự nhất trí cao trong Đảng và đồng thuận trong
xã hội, trở thành những hành động cụ thể để vượt qua mọi khó khăn, phức tạp, biến
chủ trương, nghị quyết của đảng thành hiện thực. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, để có

đường lối chính trị đúng và để thực thi, kiểm sốt đường lối chính trị đó cho đúng
đắn, điều quan trọng nhất là phải dựa vào nhân dân. Như trong tác phẩm Sửa đổi
lối làm việc (1947), Hồ Chí Minh đã viết “Cố nhiên, khơng phải cứ ngồi trong
phịng giấy mà viết kế hoạch, ra mệnh lệnh”.
Xây dựng Đảng về tổ chức: Để xây dựng Đảng về tổ chức, Hồ Chí Minh
trước hết nhấn mạnh đến các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng sau:
Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là nguyên tắc cơ bản, thường
được Người nhắc đến trước tiên khi nói về nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng.
Theo Người, để Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự là một tổ chức chặt chẽ, thống
nhất và mạnh mẽ của những người cộng sản, một Đảng Mác - Lênin chân chính thì
Đảng phải tn thủ nghiêm ngặt ngun tắc tập trung dân chủ. Nghĩa là, trong hoạt
động, Đảng phải “Có đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh
đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều,
cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương”. Tất cả
mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng; khi chưa có nghị
quyết thì “tha hồ bàn cãi”, nhưng khi có quyết định rồi thì khơng được bàn cãi nữa,
có bàn cãi cũng chỉ là bàn cách thi hành cho được, cho nhanh, chứ không phải là
đề nghị không thực hiện. Để làm được điều đó, Người yêu cầu: “Phải thực sự mở
rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình”; bởi, tập trung và dân
chủ là hai vế của một ngun tắc có quan hệ biện chứng, khơng tách rời, không đối
lập. “Tập trung trên nền tảng dân chủ. Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung”. Cùng
với nguyên tắc tổ chức, Hồ Chí Minh coi “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” là


6
nguyên tắc lãnh đạo của Đảng; “Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là
tập trung”.
Hai là, nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Để tự phê bình và phê bình thực
hiện có hiệu quả, Hồ Chí Minh nêu những yêu cầu: Phải tiến hành thường xuyên,
nghiêm chỉnh như việc rửa mặt mỗi ngày; Phải xuất phát từ tình đồng chí thương

u, giúp đỡ lẫn nhau, có lý, có tình, khơng phải để xoi mói, nói xấu nhau, đập cho
tơi bời, phải phê bình việc, chứ khơng phải phê bình người; Phải bảo đảm dân chủ,
từ dưới lên và từ trên xuống; phải nhắm đến mục tiêu đoàn kết hơn, đoàn kết từ
trên cơ sở mới; Khơng chỉ đúng mà cịn khéo.
Ba là kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Đây là một nguyên tắc góp phần quan
trọng làm nên sức mạnh của Đảng. Nguyên tắc này yêu cầu phải thực hiện nghiêm
kỷ luật, Điều lệ Đảng, mọi đảng viên đều bình đẳng trước Điều lệ Đảng và pháp
luật của Nhà nước. Kỷ luật Đảng bắt nguồn từ bản chất của Đảng là tổ chức chính
trị tự nguyện, nhưng lại hết sức chặt chẽ của những người có trình độ giác ngộ cao.
Vì vậy Người xác định “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như
một người. Đó là nhờ có kỷ luật. Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc
và tự giác. Các đồng chí chúng ta cần phải ra sức giữ gìn kỷ luật sắt của Đảng”.
Bốn là, đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đây là một nguyên tắc bảo đảm sức
mạnh của Đảng và làm hạt nhân để thực hiện đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Nguyên tắc này đòi hỏi các cán bộ, đảng viên từ Trung ương đến các chi bộ phải
giữ gìn sự đồn kết thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Để xây dựng Đảng về tổ chức, Hồ Chí Minh u cầu Đảng phải gắn bó mật
thiết với nhân dân. Sức sống, sự lớn mạnh của Đảng phụ thuộc rất nhiều vào mối
quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng, của dân
tộc đã chứng minh: bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, Đảng liên hệ chặt chẽ với quần
chúng, được quần chúng tin tưởng, ủng hộ thì Đảng vững mạnh, lãnh đạo cách
mạng thành cơng; cịn nếu xa rời quần chúng, không được quần chúng tin tưởng,
ủng hộ thì sẽ suy yếu, giảm sút sức chiến đấu và có khi vấp phải thất bại. Theo Hồ
Chí Minh, sau khi Đảng cầm quyền, để tăng cường quan hệ Đảng – Dân, cần chú
trọng 4 điểm sau: (1) Mọi chủ trương, chính sách, mọi hoạt động đều phải xuất
phát từ lợi ích chính đáng của nhân dân; (2) Phải vận động nhân dân tham gia xây
dựng Đảng bằng những hình thức, biện pháp thích hợp: kiểm tra cơng tác, giám
sát, góp ý phê bình cán bộ, đảng viên giới thiệu những người ưu tú để Đảng kết
nạp vào hàng ngũ, kiến nghị với Đảng, Nhà nước thi hành kỷ luật những phần tử
thối hóa, biến chất; (3) Phải nhận thức và thực hiện nghiêm chỉnh rằng cán bộ,

đảng viên của Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân; (4) Phải nâng cao dân trí, trọng dụng nhân tài, đặc biệt là những
người ngoài đảng.


7
Xây dựng Đảng về đạo đức: Với Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng về đạo đức
càng có ý nghĩa quan trọng khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền. Bởi vì trong
điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều thói hư tật xấu dễ nảy sinh, đặc biệt là căn bệnh
chủ nghĩa cá nhân. Suy thoái về đạo đức sẽ đi cùng với suy thối về tư tưởng chính
trị và trầm trọng hơn sẽ dẫn đến phản bội lại mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn, phản
bội lại đồng chí, đồng bào.
Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng Đảng về đạo đức trên hai phương diện là
đạo đức của tổ chức Đảng và đạo đức của người cán bộ đảng viên. Đối với đạo đức
của tổ chức đảng, xây dựng đảng về đạo đức là yêu cầu hết sức quan trọng, giúp
tạo thành sức mạnh nội sinh vô cùng to lớn để làm cho Đảng trong sạch, vững
mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ thực tiễn cách mạng đặt ra. Đối với đạo đức của mỗi cán bộ, đảng
viên, Hồ Chí Minh xác định đạo đức cách mạng là nền gốc cho tư duy và hành
động đúng đắn của mỗi người, là yếu tố không thể thiếu của người cách mạng. Để
xây dựng, rèn luyện đạo đức của tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, Hồ Chí
Minh chỉ ra những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo quá trình tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức, đó là: nói đi đơi với làm, phải nêu gương đạo đức; phải tu dưỡng đạo đức suốt
đời; kết hợp giữa xây dựng đạo đức cách mạng với đấu tranh chống những hiện
tượng phi đạo đức. Đồng thời việc xây dựng Đảng về đạo đức phải gắn chặt với
các nội dung xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức; gắn liền giáo dục,
rèn luyện đạo đức cách mạng với các nhiệm vụ chính trị và các biện pháp tổ chức,
kỷ luật.
3. Sự quán triệt và vận dụng trong Đại hội XIII của Đảng ta
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền mãi mãi là

kim chỉ nam cho Đảng ta xác định phương hướng xây dựng Đảng qua các kỳ đại
hội, nhất là là Đại hội XIII vừa qua. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đặc biệt
chú trọng công tác xây dựng Đảng và chỉ rõ "Trong những năm tới, phải đặc biệt
coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ". Đại hội dành nhiệm vụ trọng tâm thứ nhất cho
công tác xây dựng Đảng với 6 nội dung quan trọng. Đề ra 10 nhóm nhiệu vụ, giải
pháp trong đó xác định 03 nhiệm vụ trọng tâm, 03 giải pháp đột phá về công tác
xây dựng Đảng để thực hiện.
Vận dụng tư tưởng của Người trong tình hình hiện nay, Đảng ta xác định
phải xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; gắn
xây dựng với chỉnh đốn Đảng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,
xây dựng Đảng ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ.


8
Một là, nâng cao bản lĩnh chính trị và trí tuệ của Đảng. Bản lĩnh chính trị
của Đảng thể hiện ở việc kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vào thực tiễn
Lãnh đạo cách mạng của Đảng. Do đó, cần phải thường xuyên bồi dưỡng cho cán
bộ, đảng viên lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương
của Đảng, truyền thống dân tộc và kiến thức mới của thời đại; kiên định đường lối
đổi mới và những nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng; giữ vững bản chất
giai cấp công nhân; nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, tính chiến đấu của cán bộ, đảng viên,
trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp. Thực hành dân chủ gắn với
tăng cường kỷ cương; phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng
viên, nhất là người đứng đầu. Trí tuệ, sự sáng suốt trong lãnh đạo của Đảng thể
hiện ở việc vạch ra đường lối, chủ trương, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm và điều kiện của nước ta; nâng cao năng
lực dự báo, ứng phó với các thách thức, biến động của tình hình. Kiên quyết đấu

tranh có hiệu quả với những biểu hiện cơ hội, giáo điều, bảo thủ, suy thối, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Hai là, coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng. Tập trung đổi mới mạnh mẽ
nội dung, phương thức cơng tác tư tưởng, bảo đảm tính đảng, tính khoa học, tính
chiến đấu, tính thực tiễn; nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục, học
tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tiếp tục đổi mới nội dung, chương
trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị; kết hợp chặt chẽ giáo dục, học tập lý
luận với rèn luyện, thử thách trong thực tiễn, góp phần nâng cao nhận thức, hành
động trong Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. Thường xuyên làm tốt cơng tác dự báo,
nắm chắc tình hình tư tưởng, không để bị động, bất ngờ; tăng cường bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch; chủ động phòng, chống “diễn biến hịa bình”, thơng tin xấu độc trên Internet,
mạng xã hội. Tăng cường quản lý, định hướng hoạt động các cơ quan báo chí; xây
dựng đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm
chất đạo đức trong sáng, tinh thông nghề nghiệp; phát huy vai trò của văn học,
nghệ thuật trên lĩnh vực tư tưởng. Đồng thời, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận, nhất là những vấn đề khó, phức tạp nảy sinh từ thực tiễn.
Ba là, tập trung xây dựng Đảng về đạo đức. Kiên quyết, kiên trì thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với
thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; ngăn chặn, đẩy lùi suy thối
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ. Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đấu tranh phịng, chống
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và những hành vi bao che, dung túng, tiếp tay cho


9
những tệ nạn đó. Tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho cán bộ, đảng
viên thấy rõ bổn phận, trách nhiệm của mình, khơng bị cám dỗ bởi vật chất, tiền

tài, danh vọng, tránh xa chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm, tham vọng quyền lực;
nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên. Thực hiện nghiêm tự phê bình
và phê bình; coi trọng cơng tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ. Thực
hiện tốt quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ
chốt các cấp, cán bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu; nêu gương phải
trở thành một nội dung quan trọng trong phương thức lãnh đạo của Đảng. Cùng với
đó, cần giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng, đề cao pháp luật của Nhà nước; kịp
thời biểu dương những tấm gương về đạo đức, lối sống; đấu tranh với những biểu
hiện lệch lạc, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm đạo đức, lối sống.
Bốn là, xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng thực sự là nền tảng và hạt
nhân chính trị ở cơ sở. Tổ chức cơ sở đảng có vị trí vai trị hết sức quan trọng, là
cầu nối Đảng với quần chúng, nơi trực tiếp tổ chức, hướng dẫn cho quần chúng
thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Do vậy, cần khảo sát, đánh giá thực trạng từng tổ chức cơ sở đảng để có biện pháp
đổi mới, chỉnh đốn cho phù hợp, bảo đảm mỗi loại hình cơ sở hoạt động theo đúng
chức năng, nhiệm vụ và tương thích với tổ chức bộ máy hệ thống chính trị; tăng
cường chấn chỉnh, củng cố các cơ sở yếu kém; nguyên tắc tập trung dân chủ, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách và các nguyên tắc của Đảng phải được quán triệt,
thực hiện nghiêm túc. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ cán bộ cơ sở, bố trí
đúng đội ngũ cán bộ chủ chốt, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, kỹ năng,
nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở, nhất là bí thư cấp ủy. Phát
huy vai trị của tổ chức cơ sở đảng trong quy tụ sức mạnh, lãnh đạo đơn vị hồn
thành nhiệm vụ chính trị; làm tốt công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện, kết nạp
đảng viên và thường xuyên rà soát, sàng lọc đưa những đảng viên khơng cịn đủ tư
cách ra khỏi Đảng.
Năm là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược
và người đứng đầu vững mạnh. Chất lượng cán bộ ảnh hưởng trực tiếp tới bản chất
giai cấp, vai trò, hiệu quả lãnh đạo và uy tín của Đảng. Bởi vậy, cần tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đầy đủ
phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm sự chuyển tiếp liên

tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh phân
cấp, phân quyền gắn với kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ. Việc
xây dựng đội ngũ cán bộ phải quán triệt tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ
tịch nước Nguyễn Phú Trọng: “đừng nhìn gà hố cuốc”, “đừng thấy đỏ tưởng là
chín”, đừng chỉ thấy “cái mã bên ngồi, nó che đậy cái sơ sài bên trong”. Vì thế,
cần đổi mới mạnh mẽ cơng tác đánh giá cán bộ; không để lọt những người cơ hội
chính trị, tham vọng quyền lực, chạy chức, chạy quyền, lợi ích nhóm, … vào đội


10
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; đồng thời, khơng để sót những cán bộ thực
sự có đức, có tài. Tăng cường bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện nâng cao trình độ mọi
mặt cho cán bộ; phân cơng, giao nhiệm vụ cụ thể, đúng người, đúng việc và đưa
cán bộ, đảng viên vào hoạt động thực tiễn để rèn luyện.
Sáu là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới; tăng
cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Việc đổi mới phải theo
hướng nâng cao năng lực dự báo, tầm chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ
trương; khắc phục tình trạng ban hành nghị quyết khơng sát thực tiễn, thiếu tính
khả thi. Tiếp tục thể chế hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ”. Với Nhà nước, Đảng không buông lỏng lãnh đạo, đồng thời không
bao biện làm thay mà phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước
trong quản lý đất nước. Với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, cần chú ý
xác định mục tiêu, phương hướng và nội dung hoạt động từng thời kỳ; phát huy
tinh thần tự chủ, sáng tạo của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong tổ chức và
hoạt động. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn với đổi mới phong cách
hoạt động, lề lối làm việc dân chủ, thiết thực, nói và làm thống nhất, khắc phục
bệnh quan liêu, tùy tiện, chủ quan, hình thức.
Xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân là một trong
những mối quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cơng tác xây dựng
Đảng. Bởi theo Người: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, thắng lợi của cách

mạng là sự phấn đấu hy sinh và trí thơng minh sáng tạo của hàng triệu nhân dân.
Vì vậy, sự gắn bó với quần chúng, trước hết, người đảng viên phải tin vào khả
năng và lực lượng của nhân dân. Nêu cao tinh thần phục vụ, trách nhiệm trước
quần chúng, chăm lo đến lợi ích và đời sống của người dân. Phải hồ mình với
quần chúng thành một khối, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng,
gương mẫu trước quần chúng từ lời nói đến việc làm, tôn trọng quyền làm chủ của
nhân dân. Thông qua phong trào cách mạng của quần chúng mà rèn luyện và sàng
lọc đội ngũ cán bộ, đảng viên.
4. Liên hệ thực tiễn
(Mục 8- Đề cương tuyên truyền đại hội đảng bộ Tỉnh phú yên- Trang 14, 15)

KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền và cùng với
thực tiễn hành động trong xây dựng Đảng và tấm gương đạo đức của Người là tài
sản vô giá mà Đảng ta, nhân dân ta mãi mãi giữ gìn, phát huy. Xây dựng Đảng ta
trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là “Đảng lãnh đạo và đày tớ thật trung thành


11
của nhân dân” phải là sự nghiệp của toàn Đảng, tồn dân, vì đây là vấn đề then
chốt, là bảo đảm chắc chắn nhất cho mọi thắng lợi của cách mạng, của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiến tới “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh” do Đảng phát động là rất đúng, rất trúng, cần tiếp
tục thực hiện bằng nhiều hình thức, biện pháp, giải pháp mạnh mẽ, cụ thể, thiết
thực, hiệu quả hơn, tuyệt đối chống bệnh hình thức, phong trào. Dựa vào nhân dân
để xây dựng chỉnh đốn Đảng; phát động, huy động, tạo cơ chế, điều kiện để toàn
dân tham gia xây dựng chỉnh đốn đảng. Chỉ khi nào làm được điều này thì xây
dựng chỉnh đốn đảng mới thành cơng mỹ mãn. Bởi vì:

Thứ nhất, Đảng là đội tiên phong, đại biểu cho ý chí, quyền lợi khơng chỉ
của GCCN mà cịn là của tồn thể nhân dân, dân tộc Việt Nam. Cần loại bỏ quan
niệm coi việc xây dựng chỉnh đốn đảng chỉ là công việc nội bộ của Đảng khi nhân
dân đã tin u giao phó vị trí lãnh đạo độc tôn cho Đảng, khi mà sự mạnh – yếu,
mất – cịn của Đảng có quan hệ trực tiếp đến vận mệnh của đất nước, của nhân
dân.
Đảng cần khẳng định phải dựa hẳn vào dân, có chuyên đề nghiên cứu sâu và
ra nghị quyết về nhân dân tham gia xây dựng chỉnh đốn đảng. Nghị quyết của
Đảng, Hiến pháp cũng đã nêu vấn đề nhân dân, thông qua Mặt trận Tổ quốc tham
gia phản biện, giám sát, xây dựng đảng. Chỉ cần cụ thể hóa bằng cơ chế, chính
sách để sao cho kẻ địch khơng thể lợi dụng, mà mọi người dân có quyền, có điều
kiện tham gia góp ý, phản biện, giám sát việc xây dựng chỉnh đốn đảng một cách
thuận lợi, có hiệu quả.
Thứ hai, vì xây dựng chỉnh đốn đảng là việc lớn, việc khó, đặc biệt việc
chống tham nhũng, phát hiện tham nhũng, đưa những “con sâu mọt” trong Đảng ra
ánh sáng là công việc rất khó khăn, phức tạp. Những “con sâu mọt” trong Đảng
thường kéo bè kéo cánh theo “lợi ích nhóm”, nhất thời và cục bộ đâu đó, có khi
chúng cịn mạnh hơn cả những cán bộ, đảng viên chân chính. Vậy thì Đảng, những
cán bộ đảng viên chân chính phải dựa vào nhân dân thì mới có sức mạnh chiến
thắng tiêu cực này. Sức mạnh của nhân dân là phương tiện quan trọng, quá trình
cách mạng của Đảng cho thấy “dễ trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân
liệu cũng xong”. Đó là chân lý!
Tăng cường cơng khai, minh bạch trong xây dựng chỉnh đốn đảng. Bởi vì,
sự nghiệp của Đảng là của nhân dân, vận mệnh của Đảng gắn liền với vận mệnh
của nhân dân, của đất nước. Bác Hồ nói: “Một Đảng mà che giấu khuyết điểm của
mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch


12
rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hồn cảnh sinh ra khuyết

điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến
bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.



×