Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

2 vận dụng tư tưởng hồ chí minh về phát triển nông nghiệp ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.36 KB, 25 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: CÁC CHUN ĐỀ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề tài:
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN
NƠNG NGHIỆP


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT NƠNG NGHIỆP.............3
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nơng nghiệp.....................................................3
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về phát triển một nền nông nghiệp ở nước ta
...........................................................................................................................6
Chương 2. SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN
NƠNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY....................................................12
2.1. Các chủ trương và giải pháp cơ bản để tiến hành cơng nghiệp hố, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn......................................................................12
2.2. Thực hiện phong trào xây dựng nông thôn mới.......................................16
2.3. Vận dụng những nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phát
triển nơng nghiệp toàn diện ở nước ta hiện nay..............................................20
KẾT LUẬN....................................................................................................22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................23


MỞ ĐẦU
Trong tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nơng nghiệp có vai trị đặc biệt
quan trọng đối với nền kinh tế nước ta, cũng như đối với việc nâng cao đời
sống của nhân dân. Trong Thư gửi điền chủ nơng gia Việt Nam, ngày
19/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Việt Nam là nước sống về nông
nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong cơng cuộc xây dựng
nước nhà, Chính phủ trơng mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp


một phần lớn. Nơng dân ta giàu thì nước ta giàu. Nơng nghiệp ta thịnh thì
nước ta thịnh!”.
Vào những năm đất nước bước vào giai đoạn chuẩn bị cho nhiệm vụ
thực hiện các kế hoạch dài hạn cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn phát triển cơng nghiệp, phát triển kinh tế
nói chung, phải lấy việc phát triển nơng nghiệp làm gốc, làm chính”.
Trong Bài nói với cán bộ ở Trung ương về xã tham gia cải tiến quản lý
hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật (đăng trên báo Nhân Dân, số 3300, ngày
9/4/1963), Người nói: “... Có gì sung sướng bằng được góp phần đắc lực vào
công cuộc phát triển nông nghiệp, nền tảng để phát triển kinh tế xã hội chủ
nghĩa”. Với tư tưởng coi trọng nông nghiệp trong nền kinh tế nước ta, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện phẩm chất một nhà lãnh đạo am hiểu sâu sắc
thực tiễn của đất nước mình. “Lấy nơng nghiệp làm chính” và “Phải bắt đầu
từ nông nghiệp” đã trở thành quy luật trong nhiệm vụ kinh tế - xã hội giai
đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đối với những nước nơng
nghiệp lạc hậu như nước ta.
Trong q trình lãnh đạo, Đảng ta đã vận dụng và phát triển tư tưởng
nơng nghiệp của Hồ Chí Minh để xây dựng thành đường lối phát triển kinh tế
nói chung, đường lối phát triển nơng nghiệp nói riêng qua các giai đoạn lịch sử,
đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Chính vì vậy,
tơi lưa chọn nghiên cứu "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nông

1


nghiệp " để làm rõ hơn tư tưởng của Hồ Chí Minh về nơng nghiệp khơng
những có ý nghĩa thực tiễn to lớn, mà còn là cơ sở lý luận vô cùng quan trọng
đã và đang được Đảng và Nhà nước ta vận dụng để xây dựng phát triển nền
kinh tế nông nghiệp nước ta, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng Hồ
Chí Minh về nơng nghiệp khơng chỉ có giá trị về mặt lý luận mà nó cịn có giá

trị thực tiễn hết sức sâu sắc.

2


NỘI DUNG
Chương1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT NƠNG NGHIỆP
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nơng nghiệp
Hồ Chí Minh luôn coi công nghiệp và nông nghiệp là hai ngành kinh tế
quan trọng và có tác động qua lại với nhau. Người đã nhiều lần nêu hình ảnh
“cơng nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế”.
1.1.1. Về mối quan hệ và vai trị của phát triển nơng nghiệp, nông
thôn đối với các ngành kinh tế khác.
Cơ cấu phát triển của nền kinh tế quốc dân đã được Hồ Chí Minh xác
định :“Phải lấy nơng nghiệp làm chính, nhưng phải tồn diện, phải chú ý các
mặt cơng nghiệp, thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, giao thơng, kiến trúc,
văn hóa, giáo dục, y tế … các ngành này phải lấy phục vụ nông nghiệp làm
trung tâm” (4). Điều này đòi hỏi mọi chủ trương, đường lối, phương châm, kế
hoạch, mục tiêu phát triển của công nghiệp và các ngành kinh tế khác phải lấy
nông nghiệp, nông thôn làm đối tượng phục vụ, phải có chính sách ưu tiên, ưu
đãi đối với nơng nghiệp và nơng thơn. Người nói: “Nơng thơn tăng gia sản
xuất thực hành tiết kiệm thì ngày càng giàu có. Nơng thơn giàu có sẽ mua
nhiều hàng hóa của cơng nghiệp sản xuất ra. Đồng thời sẽ cung cấp đầy đủ
lương thực, nguyên liệu cho công nghiệp và thành thị. Như thế là nơng thơn
giàu có giúp cho công nghiệp phát triển. Công nghiệp phát triển lại thúc đẩy
cho nông nghiệp phát triển mạnh hơn nữa. Công nghiệp, nơng nghiệp phát
triển thì dân giàu nước mạnh”(5). Như vậy, Người không chỉ nhấn mạnh mối
quan hệ hữu cơ giữa ngành cơng nghiệp với nơng nghiệp mà cịn chỉ rõ vấn
đề có tính quy luật trong q trình điều hành của Nhà nước, thể hiện ý chí của

Đảng, nguyện vọng của nhân dân, là cơ sở để đoàn kết khối liên minh công
nông.

3


1.1.2. Về sự cần thiết phải xây dựng và phát triển hợp tác hóa trong
nơng nghiệp, nơng thơn.
Theo Người, nước ta với điểm xuất phát là một nước nông nghiệp lạc
hậu, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa, vì vậy “làm hợp tác xã sẽ có lợi như quy luật tất yếu là: một cây làm
chẳng lên non, nhiều cây chụm lại nên hịn núi cao, đồng bào nơng gia hăng
hái cùng nhau làm việc đó” (7). Bởi hợp tác xã nông nghiệp, nông thôn là
chiếc cầu nối đưa nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, đưa
nông dân từ chỗ làm ăn phân tán, manh mún lên chỗ làm ăn tập thể, tập trung
thống nhất. Phát triển hợp tác xã phải triệt để tuân thủ các nguyên tắc : Tự
nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ, từ thấp lên cao và có sự giúp đỡ của
Nhà nước. Hợp tác xã nông nghiệp là điều kiện cần thiết để xã hội hóa nơng
nghiệp, nơng thơn.
1.1.3. Về tính tất yếu phải thực hiện cơng nghiệp hóa nơng nghiệp, nơng
thơn
Người nhấn mạnh: “Muốn no thì phải sản xuất nhiều gạo. Muốn ấm thì
phải sản xuất nhiều vải. Muốn có vải có gạo thì phải có máy móc, phải có nhiều
máy và máy tốt. Máy móc là do quá trình cơng nghiệp hóa mang lại ” (8).
1.1.4. Về tầm quan trọng của thủy lợi hóa trong phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông thôn
Người khẳng định: phát triển hợp tác hóa phải đi liền với cơng tác thủy
lợi hóa, coi thủy lợi là biện pháp hàng đầu của việc canh nông. “Muốn nhân
dân ăn no phải đẩy nhanh nông nghiệp. Muốn phát triển tốt nơng nghiệp thì
phải làm tốt thủy lợi” (9). Bởi khí hậu nước ta khơng kém phần khắc nghiệt,

nắng lắm mưa nhiều hay gây hạn hán, lũ lụt, làm tốt cơng tác thủy lợi sẽ điều
hịa được nước tưới tiêu, góp phần khắc phục thiên tai. Người gọi lũ, hạn là
“giặc lũ”, “giặc hạn” phải kiên quyết chống. “Phòng lụt chống lụt như là
một chiến dịch lớn trên một mặt trân dài, trong một thời gian khá lâu. Toàn

4


thể đồng bào và cán bộ phải có quyết tâm, vượt mọi khó khăn, làm trịn
nhiệm vụ đắp đê, giữ đê, phòng lụt, chống lụt” (10).
1.1.5. Về vai trò của kết cấu hạ tầng sản xuất đối với phát triển kinh tế
nơng nghiệp, nơng thơn
Hồ Chí Minh hết sức quan tâm, mở rộng hệ thống giao thông nông thôn
là công việc của mọi ngành,mọi cấp.“Đắp đường lớn là do Trung ương phụ
trách, Bộ Giao thông chịu trách nhiệm. Nhưng địa phương có thể làm những
đường nhỏ. Làng này qua làng khác thì xã tự động làm, nhiều xã đã làm tốt.
Nên cho đồng bào thấy rõ lợi ích của việc làm thêm đường xá” (11). Như vậy,
Hồ Chí Minh là người đầu tiên khởi thảo phương châm: “Nhà nước và nhân
dân cùng làm” cơ sở hạ tầng sản xuất nông nghiệp, nông thôn.
1.1.6. Về công tác cán bộ, đặc biệt là cán bộ quản lý trong nông
nghiệp nông
Người nhấn mạnh : “Cán bộ đem chính sách của Đảng và chính phủ
giải thích cho dân chúng hiểu và thi hành, đồng thời đem tình hình dân chúng
báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng. Vì
vậy, cán bộ là gốc của mọi cơng việc…Cán bộ nơng dân phải tránh bệnh chủ
quan hình thức, bệnh giấy tờ. Cán bộ tỉnh phải đến tận các huyện, các xã.
Cán bộ huyện phải đến tận các xã các thôn. Cán bộ phải chân đi, mắt thấy,
tai nghe, miệng nói, tay làm, óc suy nghĩ. Để thiết thực điều tra giúp đỡ kiểm
soát, rút kinh nghiệm, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ nông dân và học tập
dân. Trong các cấp chính quyền cũng như trong các ban lãnh đạo Nơng hội

phải có những anh em bần nơng, cố nơng tham gia thật sự”(12)
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn rất
rộng lớn và phong phú. Trong khn khổ có hạn của bài viết này chúng tôi
chỉ xin lược dẫn một số vấn đề đã được Hồ Chí Minh trình bày dưới hình thức
ngơn ngữ giản dị, dễ hiểu, giàu tính nhân văn, thể hiện tình cảm và sự quan
tâm sâu sắc của Người đối với nông dân, nông nghiệp, nông thôn nước ta.
Hướng tới kỷ niệm lần thứ 120 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta
5


cùng nhau ôn lại và vận dụng tốt những lời dạy của Người về nông dân, nông
nghiệp, nông thôn vào nhiệm vụ cơng tác của mình cũng là việc làm có ý
nghĩa hết sức thiết thực hiện nay
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về phát triển một nền nơng nghiệp
ở nước ta
Nói về tư tưởng Hồ Chí Minh về nơng nghiệp là nói về hệ thống những

luận điểm, lý luận toàn diện và sâu sắc được rút ra từ thực tiễn cách mạng; từ
sự kế thừa và phát triển những kinh nghiệm, truyền thống đặc sắc của dân tộc
và trí tuệ của thời đại nhằm xây dựng và phát triển nền nông nghiệp Việt Nam
từ sản xuất nhỏ, manh mún, lạc hậu tiến dần lên nền nông nghiệp hiện đại,
khoa học – kỹ thuật tiên tiến, có khả năng cải thiện và nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân lao động.
Nơng nghiệp với Hồ Chí Minh ln có một vai trị, vị trí đặc biệt quan
trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội cũng như trong việc nâng
cao đời sống, thu nhập của người nông dân. Với Người: Nông nghiệp là gốc,
nông nghiệp là chính, là mặt trận chính; nơng nghiệp là việc quan trọng
nhất… Người cho rằng, Việt Nam là nước sống về nông nghiệp, nền kinh tế
lấy canh nông làm gốc, do vậy “nơng dân ta giàu thì nước giàu. Nơng nghiệp
ta thịnh thì nước thịnh” . Từ đó, Người coi việc tập trung phát triển nông

nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân và yêu cầu các ngành
phải lấy việc phục vụ nông nghiệp làm trọng tâm.
Như vậy, cái đặc sắc ở Hồ Chí Minh là Người đã chỉ rõ nông nghiệp là
nhân tố đầu tiên, là cội nguồn giải quyết mọi vấn đề xã hội. Nếu nông nghiệp
phát triển, lương thực, thực phẩm dồi dào, nơng dân khá giả thì xã hội sẽ phồn
vinh. Ngược lại, nơng nghiệp đình đốn thì xã hội đình đốn, các ngành khác
theo đó mà suy giảm..
Với Hồ Chí Minh, nền nông nghiệp Việt Nam phát triển phải là một nền
nơng nghiệp phát triển tồn diện, nền nơng nghiệp phát triển đó càng khơng
phải trong một nền kinh tế thuần nông mà là trong một nền kinh tế bền vững
6


hiện đại, với sự phong phú về ngành nghề, đa dạng hóa về sản phẩm...Theo
Người: “Sản xuất phải tồn diện, sản xuất thóc là chính, đồng thời phải coi
trọng hoa màu, cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi, thả cá và nghề
phụ”(14). Người nhắc nhở: “Trung ương thường nói nơng nghiệp phải tồn
diện. Mình khơng những cốt gạo, ngơ, khoai, sắn, bơng mà cịn cốt các thứ
khác nữa. Cho nên phải tồn diện”

(15)

. Nói chuyện với cán bộ miền núi trong

Hội nghị tổng kết cuộc vận động hợp tác hóa nơng nghiệp, phát triển sản xuất,
kết hợp hồn thành cải cách dân chủ ở miền núi, Người cũng nói: “Sản xuất
phải toàn diện, trồng cây lương thực và cây công nghiệp, phát triển chăn nuôi,
phát triển nghề rừng, chú trọng đẩy mạnh chăn ni, vì miền núi có nhiều khả
năng chăn ni”(16). Hồ Chí Minh đã thẳng thắn phê bình đồng bào Tun
Quang vì có “khuyết điểm là khơng tồn diện, khơng chú trọng đầy đủ về cây

cơng nghiệp và hoa màu” (17). Hay nhân dân xã Đại Nghĩa (Hà Đơng) vì: “Sản
xuất chưa tồn diện” vì “xem nhẹ hoa màu và cây công nghiệp”…
Vậy cụ thể như thế nào là một nền nơng nghiệp tồn diện theo tư tưởng
Hồ Chí Minh? Qua các tác phẩm, bài nói và viết của Hồ Chí Minh cho thấy
quan niệm về một nền nơng nghiệp tồn diện theo Người phải là:
Thứ nhất: Nền nơng nghiệp tồn diện trước hết phải là một nền nơng
nghiệp có ngành trồng trọt phát triển. Trong đó “Trồng trọt cũng phải phát
triển tồn diện”.
Hồ Chí Minh cho rằng, trồng trọt, trước hết, phải trồng cây lương thực,
bởi vì “nơng nghiệp là nguồn cung cấp lương thực”

(18)

. Người nói nhiều đến

trồng lúa, coi cây lúa là cây chính trong các cây lương thực: “Sản xuất thóc là
chính”. Sau cây lúa, Người rất chú trọng đến các cây hoa màu như ngô, khoai,
sắn là nguồn lương thực bổ sung cho cây lúa và là nguồn thức ăn chủ yếu cho
chăn ni. Người nói: “Phải hết sức phát triển hoa màu, chỉ có thóc, khơng có
hoa màu là khơng được. Hoa màu không những là cây lương thực quý của
người, mà cịn dùng để chăn ni. Xã Đại Nghĩa vì thiếu chú ý đến hoa màu
cho nên chăn nuôi kém” (19).
7


Thứ hai: Theo Hồ Chí Minh, nền nơng nghiệp tồn diện phải có ngành
chăn ni phát triển. Nói chuyện trong Hội nghị tổng kết phong trào sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp năm 1959, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Về chăn nuôi,
phải chú ý phát triển chăn nuôi càng nhiều càng tốt” (20). Theo Người, “Phải
phát triển mạnh chăn nuôi để đảm bảo có thêm thịt ăn, thêm sức kéo, thêm

phân bón”

(21)

. Người cũng nhấn mạnh lợi ích của chăn ni với trồng trọt:

“Vì chăn ni kém mà phân bón ít, lại vì phân bón ít mà sản lượng lúa và hoa
màu giảm sút”

(22)

. Hay mối quan hệ giữa trồng trọt và chăn ni: “Muốn

ruộng tốt thì phải dùng nhiều phân. Muốn có nhiều phân thì phải đẩy mạnh
chăn ni. Muốn phát triển chăn ni thì phải tăng diện tích trồng thức ăn cho
trâu, bị, lợn…” (23).
Trong chăn ni, Người chú trọng và khuyến khích chăn ni trâu, bị,
lợn, vì “trâu, bò, lợn là nguồn lợi lớn, lại là nguồn phân bón cho ruộng
nương”. Ngồi ra, Người cũng nhắc nhở “cần mở rộng hơn nữa việc chăn
nuôi dê, thỏ, gà, vịt...” (24)
Vì coi trọng và khuyến khích chăn ni, Người đã phê bình việc lạm sát
trâu bị, vừa làm giảm sức kéo, vừa lãng phí, lại gây ra tệ nạn ăn uống lu bù.
Trong Hội nghị toàn Đảng bộ Khu Việt Bắc (ngày 8/6/1959), Người nhắc nhở
và phê bình: “Các nơi phải nắm vững khẩu hiệu cần kiệm xây dựng hợp tác
xã, tránh trình trạng ăn uống lãng phí như một số hợp tác xã lập xong đã mổ
bò, giết lợn liên hoan”(25). Hay khi về thăm cán bộ và bà con xã viên xã Vĩnh
Thành, huyện Yên Thành (Nghệ An), Người nói với đồng bào và cán bộ ở
đây: “Phải tiết kiệm, chớ có gặp một việc gì cũng làm mấy con lợn để liên
hoan, đầu mùa cấy liên hoan, gặt xong liên hoan”(26).
Thứ ba: nơng nghiệp tồn diện, theo Người phải phát triển lâm nghiệp:

Trồng cây, gây rừng, khai thác lâm thổ sản có kế hoạch.
Quan điểm của Hồ Chí Minh là: “cây và rừng là nguồn lợi lớn”, do vậy,
Người luôn nhắc nhở bà con nông dân, đặc biệt là bà con các dân tộc phải
trồng rừng và bảo vệ rừng. Nói chuyện với đồng bào nhân dân Tuyên Quang,
8


Người chỉ rõ: “Đồng bào... phải chú ý bảo vệ rừng và trồng cây gây rừng. Tục
ngữ nói “Rừng vàng, biển bạc”. Chúng ta chớ lãng phí vàng, mà phải bảo vệ
vàng của chúng ta”

(27)

. Người còn nhấn mạnh: “ Phá rừng thì dễ, nhưng gây

lại rừng thì phải mất hàng chục năm” (28).
Nói đến trồng rừng, Người cịn nhắc phải “trồng cây ăn quả và cây làm
thuốc”

(29)

. Theo Người, khí hậu và đất rừng của chúng ta có ưu thế là cung

cấp rất nhiều cây dược liệu quý, nếu như ta biết bảo vệ và nuôi trồng.
Đi đôi với trồng rừng, bảo vệ rừng, Hồ Chí Minh cũng nói về khai thác
lâm, thổ sản, nguồn lợi kinh tế thu được từ rừng. Trong bài nói chuyện tại Hội
nghị cán bộ miền núi, ngày 1/9/1962, Người nhắc nhở: “Phải đẩy mạnh… nghề
rừng”. Nói với đồng bào tỉnh Tuyên Quang, Người chỉ ra: “Về khai thác lâm thổ
sản: Đó là một nguồn lợi cho đồng bào tỉnh ta, nó gần bằng 1 phần 3 giá trị của
lương thực”(30). Với tỉnh Hà Giang, Người cũng nói “việc khai thác lâm thổ sản

trong ba năm qua mỗi năm đưa lại cho đồng bào một số tiền bằng 3.765 tấn
thóc”(31).
Việc khai thác lâm thổ sản là cần thiết, vừa mang lại lợi ích kinh tế, vừa làm
cho rừng phát triển. Nhưng việc khai thác không đúng cách hoặc lợi dụng việc
khai thác để phá rừng thì gây nhiều thiệt hại. Hồ Chí Minh phê bình: “…đồng
bào nơng dân có khuyết điểm là khơng bảo vệ rừng, không giữ rừng được tốt,
làm rừng bừa bãi”(32). Người nhắc nhở: “Nghề rừng phải có kế hoạch chu đáo,
phải chấm dứt tình trạng khai thác bừa bãi như hiện nay”. Phá rừng nhiều, theo
Người “sẽ ảnh hưởng đến khí hậu, ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống rất
nhiều”(33). Đây là những vấn đề lớn, có tính chất tồn cầu mà Hồ Chí Minh sớm
nhận ra, đặc biệt là vấn đề về mối quan hệ giữa trồng cây, gây rừng với môi
trường sinh thái. Và hiện nay chúng ta đang phải gánh chịu cũng như đang tìm
cách khắc phục những hậu quả do nạn phá rừng mà con người đã gây ra.
Thứ tư: nơng nghiệp tồn diện, theo Hồ Chi Minh còn phải đặt trong
mối quan hệ với phát triển ngành ngư nghiệp và các ngành kinh tế gắn liền
với biển.
9


Khi ra thăm và nói chuyện với nhân dân đảo Cơ Tơ, Người dặn dị: “Cần
đẩy mạnh nghề đánh cá, nghề làm muối, nuôi dưỡng và bảo vệ các thứ hải
sâm, trân châu .v.v…”(34) là những nghề gắn với kinh tế biển mà nước ta có
nhiều tiềm năng để phát triển mạnh mẽ trong tương lai.
Khi nói đến nghề cá, cũng phải lưu ý rằng, Hồ Chí Minh khơng chỉ nhắc
đến phát triển nghề cá ở vùng biển, Người còn nhắc phải phát triển nghề cá ở
các vùng đồng bằng ven biển. Do đó, Người từng nhắc nơng dân ta phải trồng
dâu nuôi tằm, lấy tơ làm lưới đánh cá.
Hiểu rõ đặc điểm tự nhiên, khí hậu của nước ta đối với người làm nơng
nghiệp, Hồ Chí Minh đã có ý tưởng kết hợp trồng lúa và nuôi cá trong các ao
hồ, trên sông và cả trên ruộng theo phương thức kết hợp để nâng cao thu

nhập, cải thiện đời sống. Do đó, khi đi thăm nhân dân các tỉnh đồng bằng như
Hưng Yên, Hà Đông, Hải Dương, Người đều nhắc cùng với trồng lúa, hoa
màu, chăn nuôi cần phải thả cá. Người chỉ rõ: “Cần đẩy mạnh thả cá để cung
cấp thêm thực phẩm bổ sung cho thịt, cải thiện đời sống nhân dân. Ni cá
cũng dễ. Có nước và có cơng thì cá phát triển”(35).
Thứ năm: Khi nói đến nơng nghiệp tồn diện, ngồi nơng, lâm, ngư
nghiệp, Hồ Chí Minh cũng nói đến nghề phụ gia đình.
Ở những vùng nông thôn của Việt Nam, thông thường khi năng suất
trồng trọt và chăn ni đạt trình độ nhất định, có một số lao động dư thừa.
Mặt khác, đặc thù của sản xuất nông nghiệp là theo thời vụ, trong một mùa có
một số ngày nơng nhàn, lao động khơng được sử dụng. Số lao động dư thừa
đó chuyển sang làm nghề phụ để có thêm thu nhập. Nắm chắc tình hình thực
tế đó, Hồ Chí Minh đã quan tâm, nhắc nhở đồng bào các địa phương khai thác
mảnh vườn, mở mang nghề phụ. Người nói: “Miếng vườn của mỗi gia đình xã
viên và các loại nghề phụ là nguồn lợi để tăng thu nhập”(36). Từ đó, Người
nhắc nhở: “Phát triển thích đáng nghề phụ của gia đình xã viên”.
Vậy, vì sao Hồ Chí Minh coi trọng phát triển sản xuất nơng nghiệp tồn
diện?
10


Sỡ dĩ Người coi trọng phát triển nơng nghiệp tồn diện, vì phát triển
nơng nghiệp tồn diện khơng những đáp ứng được nhu cầu cái ăn, cái mặc,
chỗ ở, ổn định và cải thiện được đời sống nhân dân, mà cịn vì phát triển nơng
nghiệp tồn diện là giải pháp quan trọng để phát triển nơng nghiệp mạnh mẽ.
Hay nói cách khác, đó là giải pháp quan trọng để phát triển bản thân nền nông
nghiệp Việt Nam
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh nền nơng nghiệp tồn diện là
nền nông nghiệp bao gồm cả: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và
ngành nghề phụ có cơ cấu kinh tế nội bộ ngành hợp lý, cân đối, hài hòa,

bổ sung cho nhau cùng phát triển mạnh mẽ, hiệu quả kinh tế cao và bền
vững. Sự đa dạng hóa nơng nghiệp trong tư tưởng của Người có một ý
nghĩa lớn lao đối với sự hịa nhập và thích nghi nhanh của các sản phẩm
nơng nghiệp đối với sự biến động; nó chính là cái đệm giảm sốc khi có
những chấn động vì thiên tai, địch họa, nó làm giảm bớt các hậu quả xấu
do nền kinh tế độc canh cây lúa mang lại, giúp nơng dân có nhiều phương
án lựa chọn tổ chức sản xuất của mình, giúp họ nhanh nhạy và nâng cao
hiệu quả của sản xuất nông nghiệp.

11


Chương2
SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG
NGHIỆP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Các chủ trương và giải pháp cơ bản để tiến hành cơng nghiệp
hố, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn
2.1.1. Về chủ trương.
Để đẩy nhanh cơng nghiệp hố hiện đại hố nơng nghiệp và nông thôn,
Đảng và Nhà nước ta đã xác định mục tiêu tổng quát và lâu dài là xây dựng
một nền nơng nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng
suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa
học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng
nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, cơng bằng, văn minh, có cơ cấu kinh
tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển
ngày càng hiện đại.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
quyết định phấn đấu đưa nước ta đến năm 2020 là cơ bản trở thành một nước
công nghiệp. Để thực hiện được điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra
những mục tiêu phù hợp với tình hình đất nước. Đầu tiên phải phát triển tồn

diện nơng lâm ngư nghiệp, hình thành nên các vùng tập trung chuyên canh có
cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật ni, có sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng
tốt về chất lượng, đảm bảo an toàn về lương thực trong xã hội đáp ứng được
yêu cầu của công nghệ chế biến của thị trường trong và ngồi nước. Ngồi ra
phải phát triển cơng nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, với công nghệ ngày
càng cao gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với cơng nghiệp ở đơ thị. Bên
cạnh đó phải phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành
nghề mới bao gồm: tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên
liệu phi nông nghiệp, các loại hình dịch vụ, phục vụ sản xuất và đời sống
12


nhân dân. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội cũng phải được xây dựng, củng cố và
đổi mới, từng bước hình thành nơng thơn mới văn minh và hiện đại.
Định hướng cuối cùng đó là hồn thành cơ bản việc giao đất giao rừng
cho hộ nơng dân. Có chính sách hợp lý trợ giúp, khuyến khích nơng dân giải
quyết khó khăn về vốn, giá cả vật tư nơng nghiệp, thị trường tiêu thụ sản
phẩm việc Đại hội Đảng lần thứ VIII đề ra định hướng lớn có tính chất chiến
lược và những nội dung cơ bản về công nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp
nước ta trong thời gian phát triển kinh tế xã hội đất nước, là một trong những
tiền đề có ý nghĩa quyết định đối với nước ta khi tiến vào thế kỷ XXI.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục chủ trương phát
triển nơng - lâm - ngư nghiệp tồn diện theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn và đã nêu rõ: “Phát
triển nơng nghiệp tồn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, phát huy
lợi thế của nền nơng nghiệp nhiệt đới.”.
Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định chủ
trương phát huy lợi thế của ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa
lớn, ứng dụng cơng nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn

vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu… Đồng
thời “đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nền nơng nghiệp
sinh thái phát triển tồn diện cả về nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng hiện
đại, bền vững, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và tổ chức lại sản xuất, thúc
đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học,
công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nơng nghiệp và đẩy nhanh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn để tăng năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo đảm chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu
dài; nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân”.
Qua hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và hội nhập, trên cơ sở
phát huy lợi thế, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu khá toàn
13


diện và to lớn, kinh tế nông nghiệp phát triển, đời sống nông dân được cải
thiện, bộ mặt nông thôn đã thay đổi rõ rệt. Tuy nhiên, những hạn chế của
ngành nơng nghiệp, đó là năng suất lao động thấp, thiếu chiến lược quy hoạch
tổng thể dài hạn, giá trị gia tăng thấp, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, trình
độ lao động trong nơng nghiệp thấp, cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
chuyển dịch chậm, đầu tư cho nơng nghiệp có xu hướng giảm, chưa đáp ứng
được nhu cầu phát triển nơng nghiệp tồn diện, khoa học - công nghệ cho
nông nghiệp chậm phát triển…
2.1.2. Giải pháp cơ bản để tiến hành cơng nghiệp hố hiện đại hố
nơng nghiệp nơng thơn
Để hồn thiện q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp nơng
thơn, khắc phục những khó khăn trước mắt, Đảng và Nhà nước đã đưa ra
những giải pháp cơ bản để tiến hành cơng nghiệp hố nông thôn.
Đầu tiên phải phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn. Đối với cây lương thực phải xây dựng các vùng sản xuất lúa tập

trung ở các khu vực đồng bằng rộng lớn, sử dụng các giống mới có năng suất
chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của thị trường, áp dụng các biện pháp đồng
bộ để hạ giá thành và đảm bảo chất lượng. Đối với cây công nghiệp, thực
phẩm phải thường xuyên nghiên cứu các loại công nghệ sinh học tiên tiến để
lai tạo và nhân giống để sản xuất ra giống cây trồng có năng suất chất lượng
cao cung ứng đủ cho nhu cầu sản xuất, thực hiện cơ giới hoá các khâu sản
xuất trước hết là khâu nặng nhọc, độc hại, thời vụ khẩn trương, cơ giới hoá
các khâu sau thu hoạch để nâng cao năng suất lao động, phát triển các cơ sở
công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu. Hướng dẫn, khuyến khích và
hỗ trợ các cơ sở ngành nghề thơn thơn sử dụng máy móc, cơng cụ cải tiến,
thực hiện cơ khí hố các khâu sản xuất nâng cao năng suất và chất lượng, hạ
giá thành để có khả năng cạnh tranh tốt trên thị trường trong nước và quốc tế.
Nhà nước cũng đóng một phần vơ cùng quan trọng khi đưa ra những chính
sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển mạnh các ngành cơng nghiệp về nông
14


thôn để thu hút và thực hiện việc phân công lao động ngay trên địa bàn, trước
hết là các ngành sử dụng nguyên liệu tại chỗ, cần nhiều lao động như: chế
biến nông lâm thuỷ sản, sản xuất vật liệu xây dựng…. Hình thành ngay từ đầu
các khu cơng nghiệp ở nơng thơn gắn kết ngay từ đầu lợi ích kinh tế giữa
người sản xuất nguyên liệu với các cơ sở thu mua chế biến kinh doanh nông
lâm thuỷ sản.
Phải xây dựng được mối quan hệ sản xuất phù hợp kinh tế hộ nông dân
và nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại lâu dài trong q trình cơng nghiệp
hố hiện đại hố nơng nghiệp nơng thơn. Mọi thành phần kinh tế đều có vai
trị quan trọng và đều được phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà
nước cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để kinh tế hộ gia đình phát triển, quy mơ
sản xuất hàng hố ngày càng lớn và phát triển kinh tế trang trại. Khuyến khích
hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở liên kết hợp tác

tự nguyện giữa các hộ gia đình và các trang trại bằng nhiều hình thức, nhiều
quy mơ nhiều cấp độ đa dạng để nâng cao hiệu quả kinh tế hộ gia đình và
kinh tế xã hội nơng thơn. Hợp tác xã phải tập trung tìm đầu vào và đầu ra cho
sản xuất nông nghiệp, tổ chức thực hiện tốt việc quy hoạch và hướng dẫn
nông dân ứng dụng khoa học công nghệ mới, chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Nhà
nước hỗ trợ hợp tác xã đào tạo cán bộ và có chính sách thuế phù hợp đối với
các hoạt động dịch vụ. Phát triển quỹ tín dụng nhân dân ở xã để phát triển
nơng nghiệp nơng thơn. Khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển sản xuất,
kinh doanh các ngành nghề truyền thống đa dạng và phong phú. Đây là lực
lượng quan trọng có khả năng thu hút được nhiều lao động, tăng năng lực chế
biến tiêu thụ nông sản, dịch vụ kỹ thuật và đời sống nông thôn. Cần có chính
sách phù hợp và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác nhau, nhất là các
chính sách về đất đai, tài chính, tín dụng…
Phát triển kết cấu hạ tầng và đơ thị hố nơng thơn. Nhà nước ưu tiên phát
triển hệ thống thuỷ lợi theo hướng sử dụng tài nguyên nước, khai thác lưu vực
sông để cấp nước cho sản xuất nơng nghiệp ni trồng thuỷ sản, phịng chống
15


và giảm nhẹ thiên tai. Trong xây dựng và quản lý các cơng trình thuỷ lợi, áp
dụng các cơng nghệ tiên tiến, công nghệ tưới kết kiệm nước thực hiện xã hội
hố đầu tư và quản lý cơng trình thuỷ lợi, phát triển các tổ chức hợp tác sử
dụng nước và quản lý thuỷ nông của nông dân.
Trong từng lĩnh vực, tiến hành rà soát, xây dựng các vùng sản xuất nông
nghiệp theo 3 trục sản phẩm (chủ lực quốc gia; chủ lực cấp tỉnh; đặc sản địa
phương theo mô hình "mỗi xã một sản phẩm"), lồng ghép vào các quy hoạch
phát triển ngành cấp quốc gia, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
của cả nước, các vùng và từng địa phương.
Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, nông
nghiệp hữu cơ gắn với công nghiệp chế biến, kết nối với thị trường tiêu thụ;

kết nối với mạng lưới tiêu thụ toàn cầu; nâng cao vị thế và khả năng cạnh
tranh của hàng nông sản Việt Nam, cả thị trường nội địa và quốc tế.
Đồng thời, đẩy mạnh cơ giới hóa nơng nghiệp, phát triển công nghiệp,
ngành nghề dịch vụ ở nông thôn nhằm nâng cao hiệu quả lao động, tăng thu
nhập, chất lượng đời sống người dân khu vực nông thôn. Tăng cường đầu tư,
ứng dụng cơ giới hóa trong tất cả các khâu của chuỗi giá trị sản xuất nông
nghiệp, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng loại cây trồng, vật nuôi
nhằm nâng cao năng suất lao động, giảm tổn thất sau thu hoạch, thích ứng với
biến đổi khí hậu, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm.
Đẩy mạnh phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến nông lâm thủy sản;
khuyến khích phát triển cơng nghiệp chế biến sâu, chế biến tinh, chế biến
công nghệ cao. Phát triển các cụm công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn, các
ngành nghề, công nghiệp, dịch vụ, đặc biệt là các ngành sử dụng nhiều lao
động gắn với q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đơ thị hóa, chuyển dịch
cơ cấu lao động nông thôn.
2.2. Thực hiện phong trào xây dựng nông thôn mới
Quán triệt Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị Trung Ương lần thứ bảy
(khóa X) ra Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 đã nêu một
16


cách toàn diện quan điểm của Đảng ta về xây dựng nông thôn mới. Nghị
quyết khẳng định nông nghiệp, nông dân, nơng thơn có vai trị to lớn, có vị trí
quan trọng trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Chính vì
vậy các vấn đề nơng nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng
bộ, gắn với q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Nơng nghiệp,
nơng thơn nước ta cịn là khu vực giàu tiềm năng cần khai thác một cách có
hiệu quả. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải

phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Giải quyết vấn đề nông nghiệp,
nông dân, nông thôn không phải chỉ là nhiệm vụ của nông dân, ở khu vực
nông thôn mà là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và tồn xã hội. Xây dựng
nông thôn mới là xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại ở nông
thôn; xây dựng cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn
nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch;
Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nơng dân - trí
thức vững mạnh; Khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân
cư nơng thơn, hài hồ giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các
vùng cịn nhiều khó khăn; nơng dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang
bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai
trị làm chủ nơng thơn mới.
Nghị quyết 26/NQTW ngày 28/05/2008 đã nêu một cách tổng quát về
mục tiêu, nhiệm vụ cũng như phương thức tiến hành q trình xây dựng nơng
thơn mới trong giai đoạn hiện nay, phù hợp với điều kiện thực tiễn phát triển
của đất nước. Quan điểm đó của Đảng là sự kế thừa và phát huy những bài
học kinh nghiệm lịch sử về phát huy sức mạnh toàn dân, huy động mọi nguồn
lực để tạo ra sức mạnh tổng hợp xây dựng nông thôn mới.
Thực hiện đường lối của Đảng, ngày 28/10/2008, Chính phủ đã ra Nghị
quyết số 24/2008/NQ-CP ban hành một chương trình hành động của Chính
phủ về xây dựng nông nghiệp, nông dân và nông thôn, thống nhất nhận thức,
17


hành động về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Chương trình mục tiêu
Quốc gia về xây dựng nơng thơn mới.
Nội dung chính của Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông
thôn mới là: xây dựng, tổ chức cuộc sống của dân cư nông thôn theo hướng
văn minh, hiện đại, giữ gìn bản sắc văn hóa và mơi trường sinh thái gắn với
phát triển đô thị, thị trấn, thị tứ.

Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nơng thơn mới là chương
trình mang tính tổng hợp, sâu, rộng, có nội dung tồn diện; bao gồm tất cả các
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, an ninh - quốc phịng. Mục tiêu
chung của chương trình được Đảng ta xác định là: xây dựng nông thôn mới có
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình
thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nơng nghiệp với phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội
nông thơn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh
thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần
của người dân ngày càng được nâng cao.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta khẳng định xây dựng nông thôn
mới là một nhiệm vụ quan trọng trong định hướng phát triển kinh tế xã hội
của đất nước. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đã nêu rõ phương
hướng, nhiệm vụ của xây dựng nông thôn mới đến năm 2020 là: Tiếp tục triển
khai chương trình xây dựng nơng thơn mới phù hợp với đặc điểm từng vùng
theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn, giữ gìn và phát huy
nét văn hóa bản sắc của nơng thơn Việt Nam.
Thực hiện đường lối của Đảng, trong thời gian qua, phong trào xây dựng
nông thôn mới đã diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương trên cả nước, thu hút
sự tham gia của cả cộng đồng, phát huy được sức mạnh của cả xã hội. Quá
trình xây dựng nơng thơn mới đã đạt được thành tựu khá tồn diện. Kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội cơ bản đảm bảo, tạo sự thuận lợi trong giao lưu buôn bán
18


và phát triển sản xuât; Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công
nghiệp, dịch vụ, ngành nghề, đã xuất hiện nhiều mơ hình kinh tế có hiệu quả
gắn với xây dựng nông thôn mới, nâng cao thu nhập và đời sống vật chất tinh
thần cho người dân; Hệ thống chính trị ở nơng thơn được củng cố và tăng

cường; Dân chủ cơ sở được phát huy; An ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội
được giữ vững; Vị thế của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.
Những thành tựu đó đã góp phần thay đổi tồn diện bộ mặt nơng thơn, tạo cơ
sở vững chắc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Tuy nhiên, q trình xây dựng nơng thơn mới cịn bộc lộ nhiều khó khăn
hạn chế, nhất là về cơng tác quy hoạch. Quy hoạch nông thôn mới là một vấn
đề mới, liên quan đến nhiều lĩnh vực và phải mang tính chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội. Đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế về năng lực, nên trong q
trình triển khai cịn nhiều lúng túng. Bên cạnh đó chúng ta cịn gặp khó khăn
về huy động nguồn vốn cho xây dựng nông thôn mới. Đời sống của người dân
nơng thơn cịn nhiều khó khăn. Mặt khác, trong nhận thức nhiều người còn
cho rằng xây dựng nông thôn mới là dự án do nhà nước đầu tư xây dựng nên
cịn có tâm lí trơng chờ, ỷ lại. Chính vì vậy trong thời gian tới bên cạnh việc
đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, chúng ta cần phải đẩy mạnh công
tác giáo dục tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng, để mọi người dân
đều nhận thức rằng: "Xây dựng nông thôn mới là công việc thường xuyên của
mỗi người, mỗi nhà, mỗi thôn xóm và từng địa phương; tất cả cùng chung sức
dưới sự lãnh đạo của Đảng..." nhằm thực hiện thành công xây dựng nông thôn
mới.
Xây dựng nông thôn mới được xác định là nhiệm vụ của cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, chính vì vậy nó
phải có hệ thống lí luận soi đường. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng nơng
thơn mới là sự vận dụng sáng tạo lí luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh vào thực tiễn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, hướng đến
thực hiện mục tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa, từng bước xóa bỏ sự khác
19


biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động chân tay và lao động trí óc, để
đi đến kết quả cuối cùng là giai cấp công nhân, nông dân và trí thức sẽ trở

thành những người lao động của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Thực tiễn cũng cho thấy, những xã hội tiến bộ bao giờ cũng chú ý tới
việc thu hẹp khoảng cách sự phát triển giữa thành thị và nông thôn, phát triển
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội, cải thiện điều kiện
sinh hoạt ở nông thôn, làm cho thành thị và nơng thơn xích lại gần nhau.
Chính vì vậy, bên cạnh phải đẩy mạnh cơng tác nghiên cứu lí luận, tổng kết
thực tiễn q trình xây dựng nơng thơn mới, chúng ta cần vận dung tư tưởng
Hồ Chí Minh về phát triển nông thôn tiên tiến hiện đại, để xây dựng hồn
thiện hệ thống các quan điểm lí luận về phát triển nông nghiệp, nông dân và
nông thôn làm cơ sở khoa học cho thực tiễn. Xây dựng nông thôn nước ta trở
nên văn minh, tiên tiến hiện đại nhưng vẫn mang đậm bản sắc văn hóa và nét
đẹp truyền thống của nông thôn Việt Nam.
2.3. Vận dụng những nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về phát triển nơng nghiệp tồn diện ở nước ta hiện nay
Thứ nhất, cần rà sốt, điều chỉnh, hồn thiện chiến lược quy hoạch, kế
hoạch của các ngành, các lĩnh vực, các sản phẩm nhằm phát huy tiềm năng,
lợi thế của quốc gia, của vùng, của địa phương, lựa chọn những vùng trồng
cây lương thực và cây công nghiệp cho tiêu dùng, sản xuất và cho xuất khẩu
có năng suất cao nhất và giá trị gia tăng cao. Bởi, trên thực tế, một số sản
phẩm nông nghiệp hiện nay sản xuất đã vượt xa so với các chỉ tiêu quy hoạch
đề ra. Chẳng hạn, cà-phê vượt 21,9%, cao-su vượt 25%, hồ tiêu vượt 149%...
Như vậy, chất lượng quy hoạch chưa phù hợp, những dự báo trong quy hoạch
cịn thiếu chính xác.
Thứ hai, phát triển công nghiệp hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp, gắn
kết phát triển công nghiệp với nông nghiệp, công nghiệp phải phục vụ nơng
nghiệp, đa dạng hóa ngành, nghề ở nơng thơn để một mặt, cơng nghiệp hóa
nơng nghiệp, phát triển công nghiệp chế biến, mặt khác giải quyết vấn đề thừa
20



lao động trong nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng của ngành nông nghiệp,
tạo điều kiện cho người dân cải thiện, nâng cao đời sống.
Thứ ba, hình thành các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, quy mô
lớn tạo thuận lợi cho ứng dụng khoa học - công nghệ và phát huy lợi thế nhờ
quy mô, tập trung các nhóm sản phẩm chủ lực quốc gia, của vùng, của địa
phương, đa dạng hóa các hình thức liên kết gắn với việc xây dựng thương
hiệu, gắn nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế, đáp ứng nhu cầu, cơ cấu
tiêu dùng trong nước và thị trường quốc tế thay đổi./.

21


KẾT LUẬN
Qua các tác phẩm, bài nói và bài viết của Hồ Chí Minh, chúng ta có thể
khẳng định một cách ngắn gọn quan niệm của Người về một nền nơng nghiệp
tồn diện phải là nền nơng nghiệp phát triển; đó càng khơng phải trong một
nền kinh tế thuần nơng mà là một nền kinh tế bền vững hiện đại, với sự phong
phú về ngành nghề, đa dạng hóa về sản phẩm có cơ cấu kinh tế nội bộ ngành
hợp lý, cân đối, hài hòa, bổ sung cho nhau cùng phát triển mạnh mẽ, hiệu quả
kinh tế cao và bền vững. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nơng nghiệp khơng chỉ có
giá trị về mặt lý luận mà nó cịn có giá trị thực tiễn hết sức sâu sắc. Trong quá
trình lãnh đạo, Đảng ta đã vận dụng và phát triển tư tưởng nơng nghiệp của
Hồ Chí Minh để xây dựng thành đường lối phát triển kinh tế nói chung,
đường lối phát triển nơng nghiệp nói riêng qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt
là trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Sau hơn 20 năm
thực hiện đường lối đổi mới, trên lĩnh vực nông nghiệp, mặc dù còn những
hạn chế, yếu kém, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp nước ta đã
đạt được thành tựu “khá tồn diện và to lớn”. Nơng nghiệp tiếp tục phát triển
với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số

mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Việt Nam trở
thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Ổn định lương
thực đã tạo nền tảng vững chắc cho nền kinh tế vượt qua khủng hoảng, phục
hồi và phát triển mạnh mẽ trong suốt hơn 20 năm qua. Cho đến nay, tư tưởng
của Hồ Chí Minh về nơng nghiệp vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh.

22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Xuân Ngọc (chủ biên): Lịch sử tư tưởng chính trị, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
2. Đặng Xuân Kỳ: Phương pháp cách mạng và phong cách Hồ Chí
Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
3. Lê Minh Quân: Tư tưởng chính trị của C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I
Lênin và Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009.
4. Hồ Chí Minh tồn tập Nxb Chính trị Quốc gia

23


×