Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

1 các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội ở nước nga được lênin trình bày trong tác phẩm “bàn về thuế lương thực XONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.76 KB, 31 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Đề tài:
CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ TỪ CHỦ
NGHĨA TƯ BẢN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC NGA ĐƯỢC
LÊNIN TRÌNH BÀY TRONG TÁC PHẨM
“BÀN VỀ THUẾ LƯƠNG THỰC


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
V.I. Lênin đã bảo vệ và phát triển học thuyết của C.Mác và Ph.
Ăngghen, nâng lên trình độ cao mới trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản phát
triển lên giai đoạn cao là chủ nghĩa đế quốc trong hoàn cảnh lịch sử cuối thế
kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Kế thừa học thuyết của C. Mác trong điều kiện
mới, V.I. Lênin đã sáng tạo ra lý luận khoa học về chủ nghĩa đế quốc, khởi
thảo lý luận mới về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người đã xác định kế hoạch
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga. Cách đây hơn 80 năm, vào ngày 21
tháng Giêng năm 1924 V.I.Lênin đã vĩnh viễn ra đi, sự ra đi của vị lãnh tụ giai
cấp vô sản Nga, giai cấp vơ sản tồn thế giới là 1 tổn thất lớn lao cho phong
trào xã hội chủ nghĩa nhưng những quan điểm, tư tưởng của Người vẫn sống
mãi với thời đại. Đặc biệt là lý luận của V.I Lênin về sở hữu và các thành
phần kinh tế - một trong những nội dung cơ bản của Chính sách kinh tế mới,
được Người trình bày trong tác phẩm "Bàn về thuế lương thực".
Theo Lênin, từ một nước tiểu nông đi lên Chủ nghĩa xã hội tất yếu
phải trải qua một "mắt xích trung gian", đó là chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Chủ nghĩa tư bản với chế độ sở hữu và nền kinh tế nhiều thành phần không
chỉ là một biện pháp "quá độ đặc biệt" để quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã


hội, mà còn là "chiếc cầu nhỏ vững chắc" mà giai cấp vô sản cần phải bắc để
xuyên qua nó đi vào chủ nghĩa xã hội và bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội được
củng cố.
Xuất phát từ lý do trên nên em chọn đề tài "Các thành phần kinh tế
trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga
được Lênin trình bày trong tác phẩm “bàn về thuế lương thực” làm đề tài
tiểu luận môn nghiên cứu tác phẩm kinh điển của mình.
Do hạn chế về thời gian và thu thập tài liệu nên không tránh khỏi những
sai sót trong q trình làm bài, rất mong được sự đóng góp thiết thực của q
thầy, cơ và bạn học.

3


NỘI DUNG
I. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ TÁC PHẨM.
1. Tác phẩm “Bàn về thuế lương thực”.
Tác phẩm “Bàn về thuế lương thực” được trích trong Lênin tồn tập,
tập 43 – NXB Tiến bộ Maxcơva 1978 – tr. 244 – 296.
(V.I.Lê nin: tồn tập, tập 42, NXB Chính trị quốc gia ST; 2005, tr.244 –
296)
Tác phẩm “Bàn về thuế lương thực” được Lênin bắt đầu viết vào tháng
3/1921 và viết xong vào ngày 21/4/1921. Những ngày đầu tháng 5/1921, sách
đã được xuất bản, sau đó được đăng trong số 1 của tạp chí “Đất vỡ hoang” rồi
được xuất bản nhiều lần. Cũng năm 1921, sách được dịch sang tiếng Anh,
tiếng Pháp và tiếng Đức.
2. Hoàn cảnh lịch sử.
2.1 Một số sự kiện quan trọng sau cách mạng tháng Mười năm 1917
Sau chiến thắng cách mạng tháng Mười năm 1917, nước Nga xảy ra nội
chiến và sự can thiệp của 14 nước đế quốc. Trước tình hình đó chính quyền

Xơviết đã thực hiện chính sách cộng sản thời chiến với nội dung:
Một là, tiến hành xoá bỏ chế độ sở hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản
xuất.
Hai là, thực hiện trung thu lương thực thừa. Để tập trung lực lượng
chiến thắng thù trong giặc ngồi chính phủ đã: Trưng thu lương thực thừa và
các sản phẩm chủ yếu của nông nghiệp, khơng trả lại cho nơng dân thứ gì.
Nhà nước độc quyền về lương thực, nghiêm cấm trao đổi lương thực. Xoá bỏ
quan hệ hàng hoá tiền tệ.
Ba là, tiến hành qn sự hố nền kinh tế. Có 50 xí nghiệp chuyển sang
sản xuất vũ khí, 330 xí nghiệp chuyển sang sản xuất qn trang. Có lúc 80%
xí nghiệp sản xuất hành trang quân sự, chỉ 20%xí nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng.
4


Nhờ chính sách này, nước Nga đã chiến thắng được kẻ thù, giữ vững
được chính quyền.
Lênin viêt: “Chính sách đó đã hồn thành nhiệm vụ lịch sử của nó. Nó
đã cứu vãn nền chun chính vơ sản trong một nước bị tàn phá và lạc hậu.”
2.2 Tình hình kinh tế xã hội nước Nga sau nội chiến.
*

Về kinh tế
Sau nội chiến,nước Nga lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng.
Nền kinh tế quốc dân bị suy sụp nặng nề. Trên 20 triệu người chết, trong đó
1/7 dân số nước Nga, khoảng 30% là nam giới ở độ tuổi lao động. Nguồn của
cải bị tiêu huỷ trong các cuộc chiến tranh rất lớn, 1/4 tài sản quốc dân bị tiêu
huỷ. Đa số các xí nghiệp cơng nghiệp ở tình trạng đình đốn, nhiều nhà máy
ngừng hoạt động, đặc biệt là các ngành công nghiệp nặng. So với trước chiến
tranh, sản lượng công nghiệp giảm 7 lần. Ngàng giao thông ở vào tình trạng tê

liệt, do nhiên liệu thiếu, lương thực, thực phẩm khơng đủ. “Thêm vào đó, nạn
mất mùa năm 1920, nạn thiếu thức ăn cho gia súc,nạn chết xúc vật” đã làm
cho đời sống vốn đã điêu đứng lại thêm điêu đứng đến mức khơng thể chịu
nổi. Tình hình kinh tế như vậy dẫn đến tình hình chính trị trở nên phức tạp.
Hai giai cấp cơ bản trong xã hội là cơng nhân, nơng dân của chế độ Xơviết

*

đều có vấn đề
Về kết cấu kinh tế, xã hội, giai cấp
Nước Nga rộng lớn và hỗn tạp đang tồn tại “những thành phần, những
bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội”. Cơ cấu xã
hội ở nước Nga rất phức tạp gồm giai cấp tư sản, tiểu tư sản, giai cấp vơ sản,
trong đó “tính tự phát tiểu tư sản chiếm ưu thế và không thể khơng chiếm ưu
thế; số đơng, thậm chí là đại đa số nơng dân đều là những người sản xuất hàng
hố nhỏ.”

*

Lực lượng giai cấp vơ sản
Ít ỏi, tiểu tư sản rất đông chiếm phần lớn dân cư, nhất là “quần chung
nửa vô sản”. Do các ngành công nghiệp chưa phát triển và đình đốn nên số

5


lượng đội ngũ giai cấp vơ sản đã ít lại giảm đi nhiều. Đời sống bị cùng cực,
một bộ phận trong cơng nhân đã tha hố, biến chất, mất gốc giai cấp và tỏ ra
bất mãn với Chính quyền Xơviết, thậm chí trong hàng ngũ cơng nhân đã có
một bộ phận nảy sinh tư tưởng hồi nghi, thất vọng, khơng tin tưởng vào

đường lối xây dựng phát triển kinh tế của chính quyền Xơviết. Một số trong
đội ngũ những người vô sản, cũng đã diễn ra những cuộc bãi công tại một số
xí nghiệp ở Pêtơrơgrát và thành phố khác. Họ cơng khai địi chính quyền
Xơviết cho bn bán trao đổi sản phẩm cơng, nơng nghiệp, địi hạn chế hoạt
động của các đội kiểm soát đang cản trở tập thể và tư nhân chuyên chở sản
phẩm nông nghiệp vào thành phố.
*

Giai cấp nông dân
Dưới chế độ trưng thu lương thực thừa, cũng bất mãn đối với Chính
quyền Xơviết. Nhiều nơng dân nghĩ rằng sản xuất để làm gì khi sản phẩm làm
ra bị tịch thu hết. Chẳng hạn, nông dân ở Cainô – một làng nhỏ ở ngoại ô
Mátxcơva công khai bày tỏ không mở rộng sản xuất, chỉ gieo trồng đủ lương
thực cho gia đình. Thậm chí, cịn bất bình với chế độ trưng thu lương thực
thừa bằng việc ngừng sản xuất. Lương thực suy giảm, sự bất mãn của
nơng dân đối với chính sách của Chính quyền Xơviết ngày càng tăng.
Trên thực tế nó đã biến thành những cuộc bạo loạn, đặc biệt đáng lưu ý là
cuộc bạo loạn ở Tambốp - tỉnh sản xuất lúa mì chủ yếu của nước Nga lúc
bấy giờ. Hàng nghìn người đã tham gia cuộc bạo loạn đòi bãi bỏ chế độ
trưng thu lương thực thừa.

*

Các thuỷ thủ cũng bất mãn
Các cuộc nổi dậy của nông dân chưa phải là đỉnh cao của bạo loạn.
Đỉnh cao của cuộc bạo loạn là cuộc nổi dậy của thuỷ thủ căn cứ hải quân
Crônstát, tháng 3-1921. Điều đáng nói về cuộc bạo loạn này là nhiều binh lính
đã từng anh dũng bảo vệ Chính quyền Xôviết lại đứng vào hàng ngũ những
người bạo loạn. Những người tham gia bạo loạn đư ra khẩu hiệu đòi bãi bỏ
chế độ trưng thu lương thực thừa, thực hiện chế độ tự do buôn bán sản phẩm,

6


trước hết là lúa mì. Một số người cộng sản đã có biểu hiện bi quan dao động
khơng kiên định lập trường giai cấp.
*

Về phần tử phản cách mạng
Lênin đánh giá tư sản và tầng lớp tiểu tư sản “cất giấu nó để che mắt
nhà nước”, thực ra “họ khơng tin chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản nào
hết, họ chỉ “ngồi chờ” cho qua cơn bão táp vô sản”. Những người tư sản và
tiểu tư sản ấy chờ cơ hội để lật đổ chính quyền cơng nơng. Thực tế, họ ra sức
lợi dụng sự bất bình của cơng nhân, nơng dân, binh lính và sự dao động của
những người cộng sản không kiên định lập trường cách mạng để phá hoại
cơng cuộc xây dựng kinh tế. Tồn bộ tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong
nước nêu trên đã làm suy yếu cơ sở xã hội của chun chính vơ sản, đe doạ sự
tồn tại của Chính quyền Xơviết.
Lênin cho rằng, ngun nhân sâu xa và chủ yếu nhất dẫn đến tình trạng
làm hẹp cơ sở xã hội của Chính quyền Xơviết là do sự bất mãn của đông đảo
quần chúng nhân dân, nhất là nông dân đối với chính sách kinh tế - xã hội của
Đảng Bơnsêvích. Lênin thừa nhận: “Đến năm 1921,… chúng tơi vấp phải một
cuộc khủng hoảng chính trị bên trong nước Nga Xơviết,… đó là cuộc khủng
hoảng lớn nhất. Cuộc khủng hoảng đó làm cho khơng những một bộ phận khá
lớn trong nơng dân, mà cả cơng nhân nữa, bất bình”.

*

Về tình hình chinh trị quốc tế
Bọn đế quốc bị thất bại trong cuộc chiến tranh công khai hằn thù,
chống nước Nga Xơviết, âm mưu bóc lột chính quyền của giai cấp vơ sản

bằng kinh tế. Mặt khác, tình hình quốc tế có những thay đổi mang tính bước
ngoặt. Hy vọng vào thắng lợi đồng loạt cảu cách mạng vô sản ở các nước
phương Tây và phương Đông không thực hiện được. Bối cảnh quốc tế ấy đã
khiến nước Nga Xôviết trẻ tuổi có khả năng tồn tại ở trạng thái biệt lập, đơn
độc trong một thời gian tương đối dài. Bởi vậy, chiến lược về sự cùng tồn tại
hồ bình với thế giới các nước tư bản chủ nghĩa đã được hình thành rõ nét

7


hơn. “Hiện nay, tình hình quốc tế đã sản sinh ra một thế cân bằng, dù là tạm
thời, không ổn định, nhưng dù sao vẫn là một thế cân bằng.”
Tình hình khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội lúc đó là do thực hiện
chế độ trưng thu lương thực thừa và thi hành Chính sách cộng sản thời chiến
trong thời bình; về mặt chính trị lúc đó là sự thiếu tổ chức và khơng đưa ra
được chính sách kinh tế phù hợp với thực tiễn nước Nga lúc đó.
Trước tình hình đó, buộc Đảng cộng sản (b) Nga và nhà nước Xơviết
khơng thể duy trì tiếp Chính sách cộng sản thời chiến. Đại hội X của Đảng
cộng sản (b) Nga đã chủ trương thay Chính sách cộng sản thời chiến bằng
chính sách kinh tế mới. Do đó, V.I.Lênin đã viết tác phẩm này.
Việc thay đổi chính sách kinh tế này không đơn thuần là thay đổi một
vấn đề cụ thể mà là vấn đề hết sức quan trọng – thay đổi một cơ chế quản lý,
một tư duy; cao hơn nữa là bàn về những vấn đề kinh tế trong thời kỳ quá độ
dưới góc độ tư duy mới.
II. NỘI DUNG TÁC PHẨM
Trong tác phẩm này, Lênin tập trung nêu ra những nét lớn về kinh tế
trong thời kỳ quá độ như sau:




Lý luận về thời kỳ quá độ
Lý luận về sở hữu và các thành phần kinh tế
Lý luận về phát triển kinh tế hàng hố có sự quản lý của nhà nước, nhất là vấn




đề Nhà nước và tự do trao đổi
Vấn đề phát triển tiểu thủ công nghiệp
Vấn đê chuộc lại và thuê chuyên gia tư sản




Do hạn chế về thời gian và nội dung của đề tài nên bài tiểu luận chỉ tập
trung nghiên cứu vấn đề: Lý luận về sở hữu và các thành phần kinh tế.
Khi nghiên cứu lý luận về sở hữu và các thành phần kinh tế Lênin đã
đưa ra quan điểm của mình về thời kỳ q độ. Ơng nhận định rằng: “Chủ
nghĩa tư bản nhà nước sẽ là một bước tiến so với tình hình hiện nay trong
nước Cộng hồ Xơ viết của chúng ta. Nếu chẳng hạn trong khoảng nửa năm
nữa, mà ở nước ta đã thiết lập được chủ nghĩa tư bản nhà nước thì đó sẽ là

8


thắng lợi to lớn và là điều đảm bảo chắc chắn nhất rằng qua một năm sau, chủ
nghĩa xã hội nước ta sẽ được củng cố hoàn toàn và trở nên vơ địch”. V.I.Lênin
tồn tập, sđd, t 43, tr.247
Với nhận định trên sẽ có người đồng tình với ơng nhưng cũng sẽ có người
bác bỏ câu nói ấy. Vì vậy, theo Lênin cần phải bàn tỉ mỉ hơn vấn đề này.

“Thứ nhất, cần phân tích xem bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang
chủ nghĩa xã hội là thế nào mà nó lại khiến chúng ta có quyền và có căn cứ để
tự gọi mình là nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Xôviết.
Thứ hai, cần vạch ra sai lầm của những người khơng nhìn thấy những
điều kiện kinh tế tiểu tư sản và tính tự phát tiểu tư sản là kẻ thù chính của chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Thứ ba, cần phải hiểu rõ ý nghĩa của nhà nước Xôviết xét trên phương
diện sự khác biệt về mặt kinh tế giữa nó và nhà nước tư sản.” V.I.Lênin toàn
tập, sđd, t 43, tr.247-248
Theo Lênin: “danh từ “nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Xơ viết” có
nghĩa là Chính quyền Xơ viết quyết tâm thực hiện bước chuyển lên chủ nghĩa
xã hội, chứ hồn tồn khơng có nghĩa là đã thừa nhận chế độ kinh tế hiện nay
là chế độ xã hội chủ nghĩa”. V.I.Lênin toàn tập, sđd, t 43, tr.248
Ông đưa ra quan điểm: “Vậy danh từ q độ có nghĩa là gì? Vận dụng
vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành
phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội
không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có. Song khơng phải mỗi người thừa
nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế xã hội
khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế nào. Mà tất cả then chốt của vấn đề
lại chính là ở chỗ đó”. V.I.Lênin tồn tập, sđd, t 43, tr.248
Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu khách quan và
cần thiết. Lê nin khẳng định nước Nga lúc bấy giờ còn tồn tại năm thành phần
kinh tế:
1.

Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên.
9


2.

3.
4.
5.

Sản xuất hàng hố nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nơng dân bán lua mì).
Chủ nghĩa tư bản tư nhân.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Chủ nghĩa xã hội.
Theo ông, năm thành phần kinh tế đó không những tồn tại khách quan
mà còn tạo nên một cơ cấu kinh tế thống nhất, làm tiền đề, điều kiện cho nhau
mà còn mâu thuẫn với nhau tạo nên hai hệ thống đối lập nhau: “Ở đây không
phải là chủ nghĩa tư bản nhà nước đấu tranh với chủ nghĩa xã hội, mà là giai
cấp tiểu tư sản cộng với chủ nghĩa tư bản tư nhân cùng nhau đấu tranh chống
lại cả chủ nghĩa tư bản nhà bản nhà nước lẫn chủ nghĩa xã hội”. V.I.Lênin
toàn tập, sđd, t 43, tr.249
1. Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng.
Đây là thành phần kinh tế tiền tư bản, sản xuất mang tính tự cấp, tự túc.
Thành phần kinh tế này khơng có sự phân cơng lao động xã hội mà chỉ có
phân cơng theo giới tính và theo tuổi tác.
Mọi hoạt động lao động, sản xuất của họ chủ yếu dựa vào tự nhiên như
săn bắt, hái lượm, cuộc sống du canh, du cư.
Đây là thành phần kinh tế chiếm tỷ trọng rất nhỏ, tập trung chủ yếu ở
các vùng dân tộc ít người, vùng núi cao.
Đối với thành phần kinh tế này, Nhà nước phải đặc biệt quan tâm giúp
đỡ họ về đời sống vật chất và tinh thần.
2. Sản xuất hàng hoá nhỏ.
Thành phần kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ bao gồm đại đa số những
người tiểu nông ở nông thôn và tiểu thủ công nghiệp ở thành thị.
“Nước Nga rộng lớn và hỗn tạp đến mức các loại hình khác nhau của
kết cấu kinh tế - xã hội đều xen kẽ với nhau ở trong nó. Đặc điểm của tình

hình hiện nay chính là ở đó.
Thử hỏi thành phần nào chiếm ưu thế? Rõ ràng, trong một nước tiểu
nơng thì tính tự phát tiểu tư sản chiếm ưu thế và không thể không chiếm ưu

10


thế; số đơng, thậm chí là đại đa số nơng dân đều là những người sản xuất hàng
hoá nhỏ”. V.I.Lênin toàn tập, sđd, t 43, tr.248-249
Lênin cho rằng điểm xuất phát trong q trình xây dựng nền kinh tế
hàng hố nhiều thành phần khi thực hiện Chính sách kinh tế mới phải là đáp
ứng những lợi ích kinh tế cho đại đa số nông dân. Lênin đã nhiều lần nhấn
mạnh: “Cần phải bắt đầu từ nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dựa vào khôi
phục và phát triển kinh tế tiểu nông để khôi phục và phát triển đâị công
nghiệp”.
Thành phần kinh tế này dựa trên sở hữu nhỏ, cá thể về tư liệu sản xuất
theo từng hộ gia đình. Cơng cụ lao động thủ công, năng suất thấp.
Thành phần kinh tế sản xuất hàng hố nhỏ có tính hai mặt: tư hữu và
cách mạng, tệ dầu cơ, tính tự phát tiểu tư sản gây cản trở cho người cách
mạng.
“Ở nước ta, cái vỏ chủ nghĩa tư bản nhà nước (độc quyền lúa mì, sự
giám sát của nhà nước đối với chủ xí nghiệp và thương nhân, những người
hoạt động tổng hợp tác xã tư sản) đang bị bọn đầu cơ trọc thủng khi ở chỗ này
lúc ở chỗ nọ và mặt hàng chính để đầu cơ là lúa mì.” V.I.Lênin toàn tập, sđd, t
43, tr.249
Giai cấp tiểu tư sản chống lại bất cứ sự can thiệp, kiểm kê và kiểm soát
nào của nhà nước, dù là chủ nghĩa tư bản nhà nước hay chủ nghĩa xã hội nhà
nước. Đó là một sự thật không thể tranh cãi vào đâu được, một sự thật mà
khơng hiểu nó thì gây ra nhiều sai lầm về kinh tế.“Bọn đầu cơ, bọn gian
thương, bọn phá hoại độc quyền của nhà nước, đó là kẻ thù chính trong “nội

bộ” nước ta,- kẻ thù của các biện pháp kinh tế của chính quyền Xơviết.”
V.I.Lênin tồn tập, sđd, t 43, tr.249
Người tiểu tư sản cũng đầu cơ: “Người tiểu tư sản tàng trữ một số ít
tiền, vào nghìn rúp, tích luỹ được một cách “chính đáng” và nhất là một cách
khơng chính đáng trong thời kỳ chiến tranh. Đây là thành phần kinh tế tiêu
biểu với tính cách là cơ sở của tệ đầu cơ và của chủ nghĩa tư bản tư nhân”.
11


V.I.Lênin toàn tập, sđd, t 43, tr.250. Tiền là giấy chứng nhận để nhận của cải
xã hội, và tầng lớp tiểu tư hữu đông hàng chục triệu người đang nắm chắc lấy
giấy chứng nhận đó, cất giấu nó để che mắt “nhà nước”, họ không tin chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản nào hết, họ chỉ “ngồi chờ” cho qua cơn
bão táp vô sản.
“Người tiểu tư sản cất giữ vài nghìn rúp là kẻ thù của chủ nghĩa tư bản
nhà nước, họ chỉ muốn dùng khoản tiền ấy cho riêng họ thôi, chống lại dân
nghèo, chống lại bất cứ sự kiểm soát chung nào của nhà nước; nhưng số tiền
vài nghìn ấy lại đem lại cơ sở hàng tỷ cho tệ đầu cơ đang phá hoại công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta”. V.I.Lênin toàn tập, sđd, t 43, tr.250251
Ơng đưa ra ví dụ: một số công nhân trong vài ngày tạo ra một tổng số
giá trị biểu hiện bằng con số 1000. Lại giả dụ là trong con số đó, có 200 bị rơi
mất vì có tệ đầu cơ nhỏ, vì có mọi thứ ăn cắp của cơng, vì bọn tiểu tư sản
“trốn tránh” các sắc lệnh và quy định của Chính quyền Xơviết. Bất cứ người
cơng nhân giác ngộ nào cũng sẽ nói: Nếu tơi có thể bỏ ra 300 trong số một
nghìn đó để xây dựng nên một nền trật tự và một tổ chức tốt hơn thi tôi nhất
định sẽ vui lịng đồng ý bỏ ra ba trăm chứ khơng phải hai trăm, vì một khi
chấn chỉnh được trật tự và tổ chức, một khi triệt để đập tan được hành động
của bọn tiểu tư hữu phá hoại mọi sự độc quyền của nhà nước thì, dưới Chính
quyền Xơviết, việc giảm bớt cái “khoản cống” ấy, ví dụ giảm xuống một trăm
hay năm mươi, sau đó sẽ là một nhiệm vụ hồn tồn dễ dàng.

Thành phần kinh tế này có đặc điểm khơng cố định nhất, khơng định
hình nhất và khơng tự giác nhất.
Hạn chế của kinh tế tiểu tư sản là ở chỗ: “Chúng ta thừa biết rằng: cơ
sở kinh tế của tệ đầu cơ là tầng lớp những kẻ tiểu tư hữu vô cùng rộng rãi ở
đất nước Nga và chủ nghĩa tư bản tư nhân, có đại diện của mình trong mỗi
người tiểu tư sản. Chúng ta biết rằng hàng triệu vòi của con thuồng luồng tiểu
tư sản ấy đang quấn lấy một số tầng lớp của công nhân lúc ở chỗ này lúc ở
12


chỗ nọ, rằng nạn đầu cơ đang chui vào mọi chân lơng kẽ tóc của đời sống
kinh tế - xã hội nước ta, chứ không phải là độc quyền nhà nước”. V.I.Lênin
tồn tập, sđd, t 43, tr.250
Trước tình hình trên, nhà nước cần có những giải pháp để động viên
tinh thần người lao động, có những chính sách hỗ trợ, giúp đỡ về vốn, kinh tế,
đào tạo quản lý. Tại Đại hội X Đảng Cộng sản (b) Nga, Lênin đã u cầu
chính quyền Xơ viết phải nhanh chóng phát triển nền sản xuất tiểu nơng bằng
cách khuyến khích nền kinh tế nông dân cá thể với những biện pháp “quá độ”,
những hình thức “trung gian” có khả năng cải tạo nông dân, đổi mới nông
thôn và chuyển đổi nền kinh tế tiểu nông của những người nông dân cá thể
thành sản xuất tập thể có tính xã hội chủ nghĩa, diễn ra một cách “tuần tự”,
“có tính kế thừa”, “thận trọng”.
Lênin cho rằng với bối cảnh hiện thực của Nga thì một trong những
biện pháp trung gian thích hợp là “không đập tan cái cơ cấu kinh tế và xã hội
cũ,… mà là chấn hưng…bằng cách cố gắng nắm vững… từng bước, hoặc
bằng cách nhà nước điều tiết”. Lênin đã hướng nước Nga vào việc tạo khâu
trung gian và khẳng định công cuộc xây dựng xã hội mới ở một nước tiểu
nông nhất thiết phải bắt đầu từ sự phát triển nền kinh tế nông dân cá thể.
Lênin cho rằng việc chuyển lên chế độ sở hữu tập thể về ruộng đất, việc
chuyển lên chế độ canh tác tập thể là công việc không thể chốc lát mà “phải

trải qua cả một giai đoạn sơ bộ, tuần tự, kế thừa, thận trọng, không vội vã”.
Trong những năm cuối đời, Lê nin đã vạch ra con đường với hình thức hợp
tác xã để cải tạo nông dân và nền kinh tế tiểu nông. Trong tác phẩm Bàn về
chế độ hợp tác xã, Lênin khẳng định: Những điều chúng ta phải làm dưới chế
độ Chính sách kinh tế mới là tập hợp những tầng lớp nông dân Nga thật sâu
rộng vào các hợp tác xã, trên cơ sở phải kết hợp lợi ích tư nhân, lợi ích
thương nghiệp tư nhân với việc Nhà nước kiểm sốt được lợi ích đó, sao cho
lợi ích tư nhân phục tùng lợi ích chung. “Chế độ hợp tác xã văn minh” đó có

13


khả năng đem lại “bước quá độ sang một chế độ mới bằng con đường đơn
giản nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông dân”.
3. Chủ nghĩa tư bản tư nhân.
Chủ nghĩa tư bản tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên cơ sở sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất, nó đối lập với chủ nghĩa xã hội, song chủ nghĩa tư
bản tư nhân đã khơng cịn ngun vẹn như trước đây.
Chủ nghĩa tư bản tư nhân chịu sự quản lý và kiểm soát của nhà nước.
Nó có vai trị đáng kể, xét về đời sống kinh tế - xã hội, vì nó có tiềm năng về
vốn, kỹ thuật hiện đại và kinh nghiệm quản lý, nó góp phần tạo ra nhiều sản
phẩm, nâng cao đời sống nhân dân và chống lại tình trạng phân tán, bệnh
quan liêu của sản xuất nhỏ.
Thành phần kinh tế này có mối liên hệ với những người ản xuất hàng
hoá nhỏ và tư bản quốc tế.
Khi thực thi Chính sách kinh tế mới trên thực tế, Lênin hiểu rất rõ rằng
Chính sách kinh tế mới sẽ làm cho chủ nghĩa tư bản sống lại. Nhưng ông cho
rằng không sợ nó mà kêu gọi chính quyền Xơviết cần sử dụng tư nhân nông
dân, tư nhân thợ thủ công, thương nhân, các nhà doanh nghiệp để phát triển
nền kinh tế đất nước, tạo ra nhiều hàng hoá tiêu dùng cho xã hội đó là cơ sở

để ổn định chính trị. Với Chính sách kinh tế mới, kinh tế tư bản tư nhân đã
được phép tồn tại và phát triển.
Từ buổi đầu thi hành chính sách kinh tế mới, Lênin đã kêu gọi Chính
quyền Xơviết cần sử dụng mọi biện pháp làm sống động sự giao lưu giữa
công nghiệp với nông nghiệp theo phương thức lưu thơng, trao đổi hàng hố.
Lênin nhấn mạnh: “Trong lĩnh vực này, người nào thu được nhiều kết quả
nhất, dầu là bằng con đường kinh tế tư bản tư nhân, thậm chí khơng phải bằng
con đường hợp tác xã, không trực tiếp biến chủ nghĩa tư bản ấy thành chủ nghĩa
tư bản nhà nước, thì người đó sẽ giúp ích cho cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong toàn bộ nước Nga nhiều hơn những kẻ chỉ ngồi “lo lắng” đến sự thuần
tuý của chủ nghĩa cộng sản”. V.I.Lênin toàn tập, sđd,t 43 ,tr.280-281

14


Trong những năm thực hiện Chính sách kinh tế mới, những xí nghiệp
vừa và nhỏ khơng thuộc quyền sở hữu của nhà nước phát triển mạnh, kể cả
những xí nghiệp đã chuyển sang sở hữu nhà nước trong những năm thực hiện
Chính sách cộng sản thời chiến song khơng hoạt động hoặc hoạt động kém
hiệu quả thì trả lại cho chủ cũ. Việc phục hồi các xí nghiệp tư nhân đã góp
phần quan trọng phát triển nền kinh tế Nga. Lênin đã khẳng định: “Việc phục
hồi lại sự hoạt động kinh tế, - điều này rất cần thiết đối với chúng ta… Kết
quả sẽ tiếp tục tốt nếu chúng ta biết khéo làm, nếu sau này chúng ta biết chấp
hành đúng đắn chính sách ấy”. V.I.Lênin tồn tập, sđd, t 44 , tr.278
Việc phát triển thành phần kinh tế tư bản tư nhân góp phần đư đất nước
thốt khỏi khủng hoảng kinh tế.
Lênin cho rằng: “Chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã hội. Chủ
nghĩa tư bản lại là tốt so với thời trung cổ, với nền tiểu sản xuất, với chủ nghĩa
quan liêu do tình trạng phân tán của những người tiểu sản xuất tạo nên. Vì chúng
ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã

hội, bởi vậy, trong một mức độ nào đó, chủ nghĩa tư bản là khơng thể tránh khỏi,
nó là sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi; bởi vậy, chúng ta phải lợi
dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư
bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã
hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng
sản xuất lên”. V.I.Lênin toàn tập, sđd, t 43, tr.276
4. Chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Lênin đánh giá rất cao vị trí và vai trị của kinh tế nơng dân sản xuất
hàng hoá nhỏ, song chưa bao giờ coi chúng là thành phần kinh tế độc lập.
Chúng luôn tồn tại và phát triển cùng với các thành phần kinh tế khác, tạo nên
tính chất phức tạp, tính chất đan xen của “kết cấu kinh tế - xã hội” quá độ.
Lênin khẳng định đó là thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Xét đến trình độ
tiến bộ, trình độ phát triển, khả năng thực hiện và tính hữu ích của nó đối với
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở một nước tiểu nông phải là chủ nghĩa tư bản nhà nước.
15


Lênin nói khá nhiều và cụ thể về chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Thứ nhất, Lênin khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản nhà nước tồn tại là
một tất yếu.
Ông đã khẳng định rằng: “… có thể kết hợp, liên hợp, phối hợp nhà
nước Xơviết, nền chun chính vơ sản, với chủ nghĩa tư bản nhà nước được
không?
Tất nhiên là được. Đó là điuề mà tơi đã cố gắng chứng minh hồi tháng
Năm 1918. Và điều đó tơi đã chứng minh được hồi tháng Năm 1918, tôi hy
vọng như thế. Hơn nữa, ngay hồi đó tơi đã chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản
nhà nước là một bước tiến so với thế lực tự phát tiểu tư hữu (và tiểu gia
trưởng, và tiểu tư sản). Người ta sẽ phạm vô số sai lầm nếu chỉ đối chiếu hoặc
so sánh chủ nghĩa tư bản nhà nước với chủ nghĩa xã hội thơi, khi mà trong

hồn cảnh chính trị và kinh tế hiện nay, người ta nhất định phải so sánh chủ
nghĩa tư bản nhà nước cả với nền sản xuất tiểu tư sản nữa.” V.I.Lênin toàn
tập, sđd, t 43, tr.268
Thứ hai, ông chỉ ra lợi ích của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Giai cấp công nhân sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước như một cơng
cụ để chống lại tín tự phát tiểu tư sản, sự đầu sơ buôn lậu của kinh tế sản xuất
nhỏ và tư bản tư nhân. “Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến to lớn dù
cho (tơi cố ý nêu ví dụ về con số để nêu bật lý lẽ đó) chúng ta phải trả một
khoản lớn hơn hiện nay, bởi vì trả “học phí” là một việc đáng giá, vì cái đó có
lợi cho cơng nhân, vì việc chiến thắng được tình trạng hỗn độn, tình trạng suy
sụp về kinh tế và hiện tượng lỏng lẻo là cái quan trọng hơn hết, vì việc để tình
trạng vơ chính phủ của những kẻ tiểu tư hữu tiếp tục tồn tại là một mối nguy
lớn nhất, đáng sợ nhất, nó sẽ làm cho chúng ta bị diệt vong (nếu chúng ta
khơng chiến thắng nó) một cách dứt khốt, cịn trả một khoản lớn hơn cho chủ
nghĩa tư bản nhà nước thì điều ấy khơng những không làm cho chúng ta bị
diệt vong, trái lại, nó sẽ đua chúng ta đến chủ nghĩa xã hội bằng con đường
chắc chắn nhất”. V.I.Lênin toàn tập, sđd, t 43, tr.251-252

16


Thơng qua chủ nghĩa tư bản nhà nước có thể liên hợp những người sản
xuất nhỏ lại dưới sự kiểm sốt của nhà nước, có thể tăng cường độ mối liên hệ
giữa công nhân và nông dân để tăng sản xuất. “Chính quyền Xơviết tăng
cường được nền đại sản xuất đối lập với nền tiểu sản xuất, nền sản xuất tiên
tiến đối lập với nền sản xuất lạc hậu, nền sản xuất cơ khí hố đối lập với nền
sản xuất thủ cơng, nó tăng thêm số sản phẩm mà nó thu được của đại cơng
nghiệp (phần chia cho nó), nó củng cố được những quan hệ kinh tế do nhà
nước điều chỉnh đối lập với những quan hệ tiểu tư sản vơ chính phủ”.
V.I.Lênin tồn tập, sđd, t 43, tr.270

Thơng qua chủ nghĩa tư bản nhà nước mà chống lại chủ nghĩa quan
liêu. “Chủ nghĩa quan liêu, di sản của “tình trạng bị bao vây”, thượng tầng
kiến trúc dựa trên tình trạng phân tán và nản chí của người tiểu sản xuất, đã
hoàn toàn bộc lộ”. V.I.Lênin toàn tập, sđd, t 43, tr.278
Ông cho rằng: “Cần phải biết thừa nhận bệnh đó, khơng sợ sệt, để có
thể chống lại nó một cách kiên quyết hơn, để có thể làm đi làm lại từ đầu trong tất cả mọi lĩnh vực của cơng cuộc xây dựng, chúng ta cịn phải nhiều lần
làm lại từ đầu, sửa chữa những cái làm chưa tốt, tìm nhiều cách khác nhau để
hồn thành nhiệm vụ”. V.I.Lênin tồn tập, sđd, t 43, tr.278 Và “Chúng ta
khơng nên sợ thú nhận rằng ở đây chúng ta có thể và phải học tập nhiều hơn
nữa ở bọn tư bản”. V.I.Lênin tồn tập, sđd, t 43, tr.280
Giai cấp cơng nhân có thể học được cách quản lý và tổ chức một nền
sản xuất lớn thông qua chủ nghĩa tư bản nhà nước.
“Chừng nào mà giai cấp công nhân học biết cách giữ gìn trật tự nhà
nước chống tình trạng vơ chính phủ của tiểu tư hữu, chừng nào mà giai cấp
công nhân học được cách sắp đặt tổ chức sản xuất với quy mơ lớn tồn quốc,
trên cơ sở chủ nghĩa tư bản – nhà nước, thì khi ấy tất cả những con chủ bài
đều nằm trong tay công nhân và sẽ đảm bảo cho chủ nghĩa xã hội được củng
cố”. V.I.Lênin tồn tập, sđd, t 43, tr.252
Ơng đề cao việc ứng dụng kỹ thuật hiện đại của chủ nghĩa tư bản.
“Khơng có kỹ thuật đại tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên những phát minh
17


mới nhất của khoa học hiện đại, khơng có một tổ chức nhà nước có kế hoạch
khiến cho hàng chục triệu người phải tuân theo hết sức nghiêm ngặt một tiêu
chuẩn thống nhất trong công việc sản xuất và phân phối sản phẩm, thì khơng
thể nói đến chủ nghĩa xã hội được”. V.I.Lênin toàn tập, sđd, t 43, tr.253
Lênin đánh giá cao công tác tổ chức: “…việc tổ chức gương mẫu trong
công tác địa phương, ngay cả trong một phạm vi rất nhỏ, lại có ý nghĩa rất lớn
đối với nhà nước hơn là sự hoạt động của nhiều cơ quan trung ương trong lĩnh

vực này lĩnh vực nọ……việc tổ chức gương mẫu trong công tác, dầu chỉ trong
phạm vi một tổng, nhưng đối với nhà nước, vẫn có giá trị lớn hơn là việc cải
thiện một cách “gương mẫu” bộ máy trung ương của bộ dân uỷ này hoặc bộ
dân uỷ nọ”. V.I.Lênin tồn tập, sđd, t 43, tr.281
Ơng cho rằng: “Muốn cải thiện bộ máy đó một cách triệt để hơn, muốn
cho nó được bổ sung nhiều sinh lực mới, muốn chiến thắng chủ nghĩa quan
liêu, muốn khắc phục tình trạng thủ cựu nguy hại đó, thì phải có sự giúp đỡ
của các tổ chức ở địa phương, của cơ sở. của tổ chức gương mẫu của một
“chỉnh thể”, quy mô nhỏ thật đấy, nhưng là của một “chỉnh thể”, nghĩa là
không phải của chỉ một doanh nghiệp, của chỉ một ngành kinh tế, của chỉ một
xí nghiệp mà là của tổng số tất cả những mối quan hệ kinh tế, tổng số tất cả
những trao đổi, dầu chỉ trong một địa phương nhỏ”. Và “những người nào
trong chúng ta phải công tác ở các cơ quan trung ương sẽ tiếp tục cải thiện bộ
máy trung ương và tẩy trừ bệnh quan liêu khỏi bộ máy đó, dầu chỉ là trong
mức độ nhỏ bé, nhưng có thể thực hiện ngay được”. V.I.Lênin toàn tập, sđd, t
43, tr.282
Là người cộng sản thì phải khơng ngừng học tập. “Người cộng sản
không được sợ “học” các chuyên gia tư sản, kể cả những thương gia, những
nhà tư bản nhỏ tham gia hợp tác xã và các nhà tư bản khác. Học tập những
người đó dưới hình thức khác, nhưng căn bản cũng vẫn theo cách các đồng
chí ta đã học tập các chuyên gia quân sự. Chỉ cần dùng kinh nghiệm thực tiễn
để kiểm tra kết quả của việc “học tập” ấy: hãy làm tốt hơn các chuyên gia tư
sản làm việc bên cạnh mình; hãy biết dùng cách này hay cách khác mà đẩy
18


mạnh nông nghiệp, công nghiệp lên, mà cho sự phát triển trao đổi giữa nông
nghiệp và công nghiệp. Chớ nên suy tính về “học phí”, chớ có sợ phải trả đắt,
miễn là thu được kết quả tốt”. V.I.Lênin toàn tập, sđd, t 43, tr.295
Dựa vào chủ nghĩa tư bản nhà nước mà có thể sử dụng được những nhà

tư sản phục vụ chủ nghĩa xã hội bằng phương pháp thoả hiệp hoặc chuộc lại.
Lênin đã nhận định rằng: “Chủ nghĩa tư bản nhà nước về kinh tế cao
hơn rất nhiều so với nền kinh tế hiện nay của nước ta……chủ nghĩa tư bản
nhà nước khơng có gì là đáng sợ đối với Chính quyền Xơviết, vì nước Xơviết
là một nước mà trong đó chính quyền của cơng nhân và nơng dân nghèo đã
được đảm bảo…” V.I.Lênin toàn tập, sđd, t 43, tr.252
Theo Lênin: “ở nước ta, khơng có trình độ văn hố cao mà cũng khơng
có thói quen thoả hiệp. Nếu nghĩ kỹ về những điều kiện cụ thể ấy thì sẽ thấy
rõ là hiện nay chúng ta có thể và phải kết hợp những biện pháp trừng trị
thẳng tay bọn tư bản không văn minh, - tức là bọn tư bản không chịu chấp
nhận bất cứ thứ “chủ nghĩa tư bản nhà nước” nào và cũng khơng nghĩ gì đến
một sự thoả hiệp nào mà chúng vẫn dùng những hành động đầu cơ, mua
chuộc dân nghèo v.v. để phá hoại những biện pháp của Chính quyền Xơviết –
với những biện pháp thoả hiệp hoặc mua chuộc lại đối với những nhà tư bản
văn minh, tức là những nhà tư bản chấp nhận “chủ nghãi tư bản nhà nước”, có
khả năng thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước, tỏ ra có ích đối với giai cấp vơ
sản về phương diện họ là những người tổ chức thông minh và có kinh nghiệm
trong những xí nghiệp hết sức to lớn thực sự đảm nhận được việc cung cấp
sản phẩm cho hàng chục triệu người”. Và sử dụng tư bản một cách hồ bình
“…giữ gìn tổ chức sản xuất quy mơ hết sức to lớn, chính là để làm cho sự quá
độ lên chủ nghĩa xã hội được dễ dàng, và khi Người dạy là hồn tồn có thể
cho phép nghĩ đến việc trả cho bọn tư bản một giá cao, việc chuộc lại của
chúng, nếu (coi như là ngoại lệ: nước Anh hồi ấy là ngoại lệ) hoàn cảnh buộc
bọn tư bản chịu khuất phục một cách hồ bình và chuyển lên chủ nghĩa xã hội

19


một cách văn minh, có tổ chức, theo điều kiện chuộc lại”. V.I.Lênin toàn tập,
sđd, t 43, tr.259

Thứ ba, Lênin nêu ra bốn hình thức cơ bản của chủ nghĩa tư bản nhà
nước. Đó là những hình thức: Hình thức tơ nhượng, hình thức hợp tác xã, hình
thức đại lý, hình thức cho th.
* Hình thức tơ nhượng
Lênin đã nêu định nghĩa về tơ nhượng: “Đó là một giao kèo, một sự
liên kết, một liên minh giữa chính quyền nhà nước Xôviết, nghĩa là nhà nước
vô sản, với chủ nghĩa tư bản nhà nước, chống lại thế lực tự phát tiểu tư hữu
(có tính chất gia trưởng và tiểu tư sản). Người nhận tô nhượng là nhà tư bản.
Họ kinh doanh theo phương thức tư bản để lấy lợi nhuận; họ đồng ý thoả
thuận với chính quyền vơ sản để cốt thu được lợi nhuận bất thường, lợi nhuận
siêu ngạch hoặc để có loại ngun liệu mà họ khơng thể tìm được hoặc khó
tìm được bằng cách khác”. V.I.Lênin tồn tập, sđd, t 43, tr.269
Tác dụng của tô nhượng: Chẳng hạn, chúng ta có, một trăm xí nghiệp,
hầm mỏ, khu rừng. Do thiếu máy móc, lương thực và phương tiện vận tải,
chúng ta không thể khai thác tất cả được. Cũng vì lý do ấy mà chúng ta khơng
khai thác được tốt các khu vực khác. Do khai thác kém và khơng đầy đủ các
xí nghiệp lớn, nên kết quả là thành phần tiểu tư hữu tăng lên về mọi mặt: kinh
tế nông dân ở vùng xung quanh bị suy yếu (rồi tồn bộ nền kinh tế nơng dân
cũng thế), các lực lượng sản xuất nông nghiệp bị lung lay, tín nhiệm của nơng
dân đối với Chính quyền Xơviết bị giảm sút, tình trạng trộm cắp của cơng
nặng nề và nạn đầu cơ nhỏ tràn lan. “Khi du nhập chủ nghĩa tư bản nhà nước
dưới hình thức tơ nhượng Chính quyền Xôviết tăng cường được nền đại sản
xuất đối lập với nền tiểu sản xuất, nền sản xuất tiên tiến đối lập với nền sản
xuất lạc hậu, nền sản xuất cơ khí đối lập với nền sản xuất thủ cơng, nó tăng
thêm số sản phẩm mà nó thu được của đại cơng nghiệp (phần chia cho nó), nó
củng cố được những quan hệ kinh tế do nhà nước điều chỉnh đối lập với
những quan hệ kinh tế tiểu tư sản vơ chính phủ. Áp dụng một cách có chừng
20



mục và thân trọng, chính sách tơ nhượng sẽ nhất định giúp chúng ta cải thiện
được nhanh chóng (đến một mức đọ nào đó khơng cao lắm) tình trạng sản
xuất, đời sống của cơng nhân và nơng dân”. V.I.Lênin tồn tập, sđd, t 43,
tr.269-270
Cuối cùng ông đã kết luận về hình thức tơ nhượng rằng: “So với những
hình thức khác của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong lòng chế độ Xơviết, thì
chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới hình thức tơ nhượng có lẽ là hình thức đơn
giản nhất, rành mạch nhất, sáng tỏ nhất, có hình thù rõ rệt nhất”. V.I.Lênin
toàn tập, sđd, t.43, tr.270. Ở đây chúng ta có một hợp đồng trực tiếp, chính
thức viết trên giấy tờ, với chủ nghĩa tư bản Tây Âu, là chủ nghĩa tư bản văn
minh nhất, tiên tiến nhất. Chúng ta biết đích xác những cái lợi và cái hại cho
chúng ta, những quyền hạn và nghĩa vụ của chúng ta; chúng ta biết đích xác
thời hạn chúng ta cho tô nhượng, chúng ta biết nhưng điều kiện để chuộc
lại trước kỳ hạn, nếu hợp đồng có nói đến quyền ấy. Chúng ta trả một
“cống nạp” cho chủ nghĩa tư bản thế giới, về một mặt nào đó, chúng ta trả
cho họ một món tiền chuộc nhưng chúng ta có ngay được một biện pháp
nhất định để củng cố chính quyền Xôviết, để cải thiện những điều kiện làm
ăn của chúng ta.
Lênin cũng chỉ ra những lưu ý khi thực hiện tơ nhượng: “Về các tơ
nhượng, thì tất cả khó khăn của nhiệm vụ là phải suy nghĩ, phải cân nhắc hết
mọi điều khi kí hợp đồng tơ nhượng và sau đó phải biết theo dõi việc chấp
hành nó. Cố nhiên, như vậy có khó khăn, và trong thời gian đầu không thể
tránh khỏi những sai lầm. Nhưng so với những nhiệm vụ khác của cách mạng
xã hội và nói riêng so với những hình thức khác để phát triển, dung nạp và du
nhập chủ nghĩa tư bản nhà nước, thì khó khăn ấy là rất nhỏ”. V.I.Lênin tồn
tập, sđd, t 43, tr.271
* Hình thức hợp tác xã
Trong hình thức hợp tác xã bao gồm hợp tác xã sản xuất và hợp tác xã
tiêu thụ.
21



Hợp tác xã là kiểu tổ chức của những người tiểu nông, thợ thủ công
liên kết nhau lại để sản xuất kinh doanh hoặc cung cấp và phân phối một hay
một số hàng hố nào đó.
Theo Lênin thì hợp tác xã là hình thức khơng rõ rệt và phức tạp hơn
nhiều so với tơ nhượng. “Chúng ta hãy nói về hợp tác xã. Khơng phải là
khơng có lý do mà sắc lệnh về thuế lương thực đã làm cho phải duyệt lại ngay
bản điều lệ của hợp tác xã và mở rộng, trong một mức độ nào đó, “tự do” và
quyền hạn của các hợp tác xã. Cac hợp tác xã cũng là hình thức của chủ nghĩa
tư bản nhà nước nhưng ít đơn giản hơn, có hình thù ít rõ rệt hơn, phức tạp hơn
và vì thế, trong thực tế, nó đặt Chính quyền Xơviết trước những khó khăn lớn
hơn.” V.I.Lênin toàn tập, sđd, t 43, tr.271 Các hợp tác xã của những người
sản xuất nhỏ (ở đây nói đến những hợp tác xã này là những hợp tác xã chiếm
đa số, điển hình trong một nước tiểu nơng, chứ khơng nói đến những hợp tác
xã cơng nhân) nhất định sản sinh ra những quan hệ tư bản, tiểu tư sản, góp
phần phát triển những quan hệ ấy, đẩy những nhà tư bản nhỏ lên hàng đầu,
mang lại cho họ những lợi ích lớn nhất.
Tác dụng của hợp tác xã:
Tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm kê, kiểm soát, theo dõi: “Chủ
nghĩa tư bản hợp tác xã giống như chủ nghĩa tư bản nhà nước ở chỗ nó tạo
điều kiện thuận lợi cho việc kiểm kê, kiểm soát, theo dõi, cho những quan hệ
đã ghi trong hợp đồng giữa nhà nước (ở đây là nhà nước Xôviết) với nhà
nước tư bản”. V.I.Lênin toàn tập, sđd, t 43, tr.272
Hợp tác xã tạo thuận lợi cho sự liên hợp và tổ chức hàng triệu người:
“Nếu xét về hình thức thương nghiệp thì hợp tác xã có lợi và có ích hơn
thương nghiệp tư nhân, chẳng những vì những lí do đã kể trên, mà cịn vì nó
tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên hợp và tổ chức hàng triệu người, sau đó
tồn thể dân chúng; và tình hình ấy lại là một điều lợi rất lớn cho bước quá độ
tương lai từ chủ nghĩa tư bản nhà nước lên chủ nghĩa xã hội”. V.I.Lênin toàn

tập, sđd, t 43, tr.272
22


Hợp tác xã giúp cho nền kinh tế nhỏ phát triển lên sản xuất lớn một
cách tự nguyện: “Chính sách hợp tác xã một khi thành công, sẽ giúp cho nền
kinh tế nhỏ phát triển và sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nhỏ quá độ
- trong một thời hạn không nhất định – lên nền đại sản xuất trên cơ sở tự
nguyện kết hợp”. V.I.Lênin toàn tập, sđd, t 43, tr.273
Lê nin đã so sánh giữa chế độ hợp tác xã và hình thức tơ nhượng là
những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Hợp tác xã dựa trên cơ sở tiểu cơng nghiệp, cịn tô nhượng dựa trên nền
đại sản xuất: “Tô nhượng dựa trên cơ sở đại cơng nghiệp cơ khí hố; chế độ
hợp tác thì dựa trên cơ sở tiểu cơng nghiệp, trên nền sản xuất thủ công mà
một bộ phận thậm chí cịn có tính chất gia trưởng”. V.I.Lênin tồn tập, sđd, t
43, tr.272
Hợp tác xã phải chăm lo hàng ngàn hoặc hàng vạn nghiệp chủ, cịn tơ
nhượng chỉ quan hệ với một nhà tư bản: “Trong mỗi hợp đồng tô nhượng, tô
nhượng chỉ quan hệ đến độc một nhà tư bản hay độc một hãng, một xanh-đica, các-ten hay tơ-rớt thôi. Hợp tác xã lại bao gồm hàng ngàn, thậm chí hàng
triệu tiểu nghiệp chủ”. V.I.Lênin tồn tập, sđd, t 43, tr.272
Hợp tác xã khơng có hợp đồng và thời hạn chính xác, cịn tơ nhượng thì
ngược lại: “Tơ nhượng thì cho phép và thậm chí là nhất thiết phải có một hợp
đồng chính xác và một thời hạn chính xác. Hợp tác xã thì khơng có hợp đồng
và cũng khơng có thời hạn thật chính xác. Thủ tiêu một đạo luật về hợp tác xã
dễ hơn nhiều so với bãi bỏ một hợp đồng tô nhượng, nhưng bãi bỏ hợp đồng
tơ nhượng có nghĩa là lập tức và đơn giản cắt đứt ngay những quan hệ thực tế
của sự liên minh kinh tế hay của sự “chung sống” về mặt kinh tế với nhà tư
bản; trái lại, khơng có sự thủ tiêu một đạo luật nào về hợp tác xã và khơng
một đạo luật nào nói chung có thể cắt đứt ngay được chẳng những sự “chung
sống” thực tế của Chính quyền Xơviết với các nhà tư bản nhỏ, mà nói chung,

cịn khơng thể cắt đứt được các mối quan hệ kinh tế hiện có. “Giám sát” một

23


kẻ được tô nhượng là việc dễ, nhưng giám sát các xã viên hợp tác xã là một
việc khó”. V.I.Lênin toàn tập, sđd, t 43, tr.273
Việc chuyển hợp tác xã lên chủ nghĩa xã hội là chuyển nền tiểu tư sản
lên đại sản xuất nên phức tạp hơn tô nhượng: “Chuyển từ chế độ tô nhượng
lên chủ nghĩa xã hội là chuyển từ một hình thức đại sản xuất này sang một
hình thức đại sản xuất khác. Chuyển từ chế độ hợp tác xã của nhà sản xuất
nhỏ lên chủ nghĩa xã hội là chuyển từ tiểu sản xuất sang đại sản xuất, nghĩa là
một bước quá độ phức tạp hơn, nhưng nếu thành cơng, lại có thể bao gồm
được những khối quần chúng nhân dân đông đảo hơn, nhổ được những gốc rễ
sâu xa hơn và dai dẳng hơn của những quan hệ cũ tiền xã hội chủ nghĩa, thậm
chí tiền tư bản, là những quan hệ phản kháng mọi sự “đổi mới” một cách kịch
liệt hơn. Chính sách tô nhượng, một khi thắng lợi, sẽ đưa lại cho chúng ta một
số ít xí nghiệp lớn kiểu mẫu – kiểu mẫu so với những xí nghiệp của chúng ta
– ngang trình độ của chủ nghĩa tư bản tiên tiến hiện đại; mấy chục năm nữa,
những xí nghiệp ấy sẽ hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của chúng ta”. V.I.Lênin
toàn tập, sđd, t 43, tr.273
* Hình thức đại lý
Là hình thức nhà nước sử dụng các nhà tư bản thương nghiệp với tư
cách là một nhà buôn và trả cho họ một số tiền hoa hồng để họ bán sản phẩm
của nông nghiệp và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ. “ Nhà nước lôi
cuốn nhà tư bản với tư cách một nhà buôn, trả cho họ một số tiền hoa hồng để
họ bán sản phẩm của nhà nước và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ.”
V.I.Lênin toàn tập, sđd, t 43, tr.274
* Hình thức cho thuê
Hình thức cho thuê là hình thức: “ Nhà nước cho một nhà kinh doanh –

tư bản thuê một xí nghiệp hoặc vùng mỏ, hoặc khu rừng, khu đất, v.v.;ở đây,
hợp đồng cho thuê giống hợp đồng tô nhượng hơn cả”. V.I.Lênin tồn tập,
sđd, t.43, tr.274
Tác dụng của hình thức cho th:
24


Phát huy ưu thế của sản xuất lớn, hiện đại, thu hút vốn, khoa học cơng
nghệ từ bên ngồi, học tập được kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất. “ Nếu
chúng ta xây dựng được hàng chục trung tâm điện lực địa phương (ngày nay
chúng ta đã biết rõ có thể và phải xây dựng những nhà máy ấy ở đâu và như
thế nào), nếu chúng ta cung cấp được cho tất cả các làng xóm điện lực của
những nhà máy ấy, nếu chúng ta có được một số lượng đầy đủ động cơ điện
và các máy móc khác, thì lúc đó khơng cần phải hoặc hầu như khơng cần phải
có những bậc thang q độ, những mắt xích trung gian để chuyển từ chế độ
gia trưởng lên chủ nghĩa xã hội” V.I.Lênin tồn tập, sđd, t 43, tr.275
Hình thức cho th cịn có tác dụng khắc phục tính tản mạn của sản
xuất nhỏ và bệnh quan liêu do nó sinh ra, tạo điều kiện để xây dựng một cơ
cấu kinh tế mới hợp lý, đảm bảo cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
5. Chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội là thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất dưới hai hình thức tồn dân và tập thể.
Trong những năm thực thi Chính sách kinh tế mới, những mạch máu
kinh tế cơ bản như cơng nghiệp, ngân hàng, tài chính, tín dụng ln nằm
trong tay Chính quyền Xơviết, thuộc sở hữu nhà nước, tạo thành thành phần
kinh tế xã hội chủ nghĩa. Khi Chính sách kinh tế mới được thực hiện, mối
quan hệ hàng hoá - tiền tệ đã được xác lập trên phạm vi cả nước, Lênin chủ
trương chuyển các xí nghiệp quốc doanh sang chế độ tự hồn vốn, chế độ
hạch tốn kinh tế. Nhờ đó các xí nghiệp quốc doanh được giải phóng khỏi
những quy định hết sức ngặt nghèo đối với sản xuất trong những năm thi hành

mơ hình Chính sách cộng sản thời chiến. Các xí nghiệp này được tự do hành
động, tự chịu trách nhiệm vật chất với kết quả hoạt động của mình.
Việc cho phép các xí nghiệp quốc doanh hoạt đọng theo chế độ hạch
toán kinh tế, tự quản và tự chủ trong sản xuất kinh doanh khơng có nghĩa là từ
bỏ chế độ kế hoạch hố. Khi thực hiện Chính sách kinh tế mới, dưới sự chỉ
đạo của Lênin, kế hoach hoá ở đây được hiểu là kế hoach hoá mang tính chất
25


×