TIỂU LUẬN
MÔN: GIỚI THIỆU TÁC PHẨM KINH ĐIỂN CỦA C.MÁCPH.ĂNGGHEN VÀ LÊ NINH VỀ PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT TƯ
BẢN CHỦ NGHĨA
Đề tài:
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HÌNH THÁI TIỀN, QUA ĐĨ CHỈ RA TÍNH
CHẤT BÍ ẨN CỦA TIỀN, ĐƯỢC C.MÁC TRÌNH BÀY Ở
PHẦN I, QUYỂN I “BỘ TƯ BẢN”
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Từ năm 1848 đến những năm 70 của thế kỷ XIX sự phát triển của chủ
nghĩa Mác đó bước vào giai đoạn mới, đó là thời kỳ của chủ nghĩa Mác
trưởng thành C.Mác có những cơng trình nghiên cứu kinh tế xuất sắc đó là bộ
“Tư bản”. đây cũng là thời kỳ bão táp và cách mạng, thời kỳ kết thúc quá
trình hình thành chủ nghĩa tư bản ở châu Âu, các đảng vô sản được thành lập
rộng rãi. V.I.Lênin nhận xét: cách mạng năm 1848 đó giáng một địn chí mạng
vào những hình thức ầm ĩ, sặc sỡ và ồn ào đó của chủ nghĩa cơ hội trước
C.Mác. ở tất cả các nước cách mạng cho thấy các giai cấp cơ hội khác nhau
trong hành động, việc bọn tư sản cộng hòa tàn sát cơng nhân ở Pari xác định
dứt khốt rằng chỉ riêng giai cấp vơ sản mới có bản chất xã hội chủ nghĩa giai
cấp tư sản tự do chủ nghĩa sợ độc lập của giai cấp vô sản nhiều gấp trăm lần
hơn là sợ bất kỳ thế lực phản động nào
Bộ “Tư bản” của C.Mác trình bày lý luận về chủ nghĩa tư bản (CNTB)
trong thời kỳ tự do cạnh tranh dựa trên sự tổng kết tư liệu thực tiễn của nước
Anh, trình bày sự phát sinh, phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa (TBCN) và vạch rõ những mâu thuẫn vốn có trong lịng CNTB (mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản…) tất yếu CNTB sẽ bị diệt
vong, xây dựng xã hội mới đó là xã hội chủ nghĩa (CNXH) trên phạm vi toàn
thế giới.
Học thuyết C.Mác là học thuyết mở, trong giai đoạn hiện nay về kinh tế
- xã hội đã thay đổi rất nhiều so với giai đoạn C.Mác viết tác phẩm “Tư bản”,
nên tuỳ theo điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước mà vận dụng cho phù hợp
để phát triển kinh tế của đất nước mình. Nguyên lý, nhiều quy luật kinh tế
C.Mác đã phát hiện, như những quy luật về sản xuất và lưu thông hàng hoá,
về sản xuất giá trị thặng dư (GTTD), về lợi nhuận, về thương nghiệp, tín
dụng, ngân hàng, về cơ chế thị trường tự do cạnh tranh, về khủng hoảng kinh
2
tế ... mang tính khoa học và ý nghĩa cả lý luận và thực tiễn trong sản xuất
hàng hóa hiện nay.
Tại phần I, quyển I trong “Bộ tư bản”, C.Mác đã nghiên cứu hàng hóa
và tiền tệ. Ơng nhấn mạnh, nếu khơng phân tích hàng hóa và tiền tệ, lưu thơng
hàng hóa và lưu thơng tiền tệ thì khơng thể nào hiểu nổi tư bản. Đồng thời
trong quá trình hình thành phát triển kinh tế hàng hoá, tiền tệ đã lần lượt tồn
tại dưới nhiều hình thái khác nhau nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển của
nền kinh tế, đặc biệt là hoạt động sản xuất, lưu thông, trao đổi hàng hố.
Để tìm hiểu thêm và hiểu rõ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
đặc biệt là để hiểu thêm những bí ẩn của tiền nên em đã chọn đề tài “Sự phát
triển của hình thái tiền, qua đó chỉ ra tính chất bí ẩn của tiền được C.Mác
trình bài ở phần I, quyển I “Bộ tư bản” để viết tiểu luận hết môn tác phẩm
kinh điển - tư bản chủ nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bộ “Tư bản” của C.Mác là một kho tàng quý giá của nhân loại. Được
các chuyên gia kinh tế cũng như các tầng lớp trí thức nghiên cứu tìm ra những
giá trị về kinh tế chính trị của bộ tư bản. Tuy nhiên việc nghiên cứu về những
tính chất bí ẩn của tiền vẫn có rất nhiều ý nghĩa trong thời đại ngày nay.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Làm rõ sự phát triển của hình thái tiền.
- Chỉ ra tính chất bí ẩn của tiền được C.Mác trình bài ở phần I, quyển I
“Bộ tư bản”.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp lý luận, phương pháp duy vật biện chứn,
phương pháp logic lịch sử. Phương pháp phân tích và tổng hợp vấn đề.
Phương pháp thu thập và xử lý thông tin. Phương pháp bình luận và đánh giá
vấn đề.
5. Kết cấu nội dung cần nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, bảng viết
tắt đề tài được kết cấu làm 2 chương và 4 tiết.
3
NỘI DUNG
Chương 1
GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ PHẦN I TẬP I BỘ TƯ BẢN
1.1. Sơ lược về tác giả
C. Mác sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 ở thành phố Tơriơ trong gia đình
luật sư Heinrich Marx. Năm mười hai tuổi (1830) C.Mác vào học trường
trung học ở Tơriơ. Sức học của C.Mác thuộc loại giỏi, đặc biệt C.Mác nổi bật
ở những lĩnh vực địi hỏi tính độc lập sáng tạo. C.Mác cũng tỏ ra có năng lực
về tốn học. Mùa thu 1835, C.Mác tốt nghiệp trường trung học, sau đó khơng
lâu, tháng mười 1835, C. Mác vào trường đại học tổng hợp Bonn để học luật.
Hai tháng sau theo lời khuyên của bố C. Mác tiếp tục học ở trường Đại học
Tổng hợp Berlin. ở trường Đại học, năm 1836, ngoài luật học, sử học và
ngoại ngữ C.Mác bắt đầu đi sâu nghiên cứu triết học. Mùa xuân 1837, C.Mác
bắt đầu nghiên cứu kỹ những tác phẩm của Hê-ghen, sang năm 1839 thì vùi
đầu vào nghiên cứu triết học, suốt cả năm 1939 và một phần của năm 1840 C.
Mác tập trung nghiên cứu những vấn đề lịch sử triết học Cổ đại. Ngày 15
Tháng Tư 1841, khi mới 23 tuổi, C.Mác nhận được bằng Tiến sĩ triết học với
luận án Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Démocrite, và triết học tự
nhiên của épicure tại trường Iêna.
Bộ “Tư bản” của C.Mác trình bày lý luận về chủ nghĩa tư bản (CNTB)
trong thời kỳ tự do cạnh tranh dựa trên sự tổng kết tư liệu thực tiễn của nước
Anh, trình bày sự phát sinh, phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa (TBCN) và vạch rõ những mâu thuẫn vốn có trong lịng CNTB (mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản…) tất yếu CNTB sẽ bị diệt
vong, xây dựng xã hội mới đó là xã hội chủ nghĩa (CNXH) trên phạm vi toàn
thế giới.
1.2. Sơ lược về tác phẩm
Quyển I, với tiêu đề “Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa”, nghiên cứu
riêng bản thân q trình đó với tư cách là một quá trình sản xuất trực tiếp,
4
không kể đến những ảnh hưởng thứ yếu do những nhân tố ở bên ngồi q
trình ấy gây ra, tức là chưa xét đến lưu thông của tư bản, tách quá trình sản
xuất của tư bản khỏi quá trình lưu thông của tư bản. Chỉ đề cập đến lưu thông
trong chừng mực cần thiết để 1àm rõ quá trình sản xuất đó. Nhưng vì chỉ dựa
trên cơ sở lưu thơng hàng hố mới có q trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, nếu
khơng phân tích hàng hố, tiền tệ, lưu thơng hàng hố và lưu thơng tiền tệ thì
khơng thể nào hiểu nổi tư bản, nên phần thứ nhất quyển I phải bắt đầu từ phân
tích hàng hố và tiền tệ.
Quyển I khơng nghiên cứu q trình sản xuất nói chung mà nghiên cứu
quá trình sản xuất tư bản. Nhưng q trình này lại vừa là q trình lao động
nói chung vừa là quá trình làm tăng thêm giá trị, nghĩa là nó vừa bao hàm cái
chung vừa mang tính chất đặc thù của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
mà nét tiêu biểu là sức lao động trở thành hàng hố. Quyển I gồm 7 phần
trong đó:
Phần thứ nhất: nghiên cứu hàng hoá và tiền tệ, vạch rõ quan hệ sản
xuất của những người sản xuất hàng hoá thể hiện trong hàng hoá - tiền tệ. Sở
dĩ bắt đầu nghiên cứu từ hàng hố vì cái thống trị trong xã hội tư bản chủ
nghĩa là hàng hố, vì sản xuất tư bản chủ nghĩa là giai đoạn cao của sản xuất
hàng hố, nó chỉ có thể ra đời trên cơ sở sản xuất hàng hoá giản đơn đã đạt
đến một trình độ phát triển nhất định. C.Mác viết: “Lưu thơng hàng hố là
điểm xuất phát của tư bản. Các tiền đề lịch sử cho tư bản ra đời là nền sản
xuất hàng hố và lưu thơng hàng hóa đã phát triển, tức thương nghiệp”1.
Trong phần I của quyển I C.Mác đã phân tích sự thay đổi và phát triển
nhận thức đối với đời sống kinh tế dẫn đến cách hiểu hàng hóa khơng như các
nhà kinh tế cổ điển xác định. Phạm trù hàng hóa mất đi ranh giới của sự hiển
hiện vật lý của vật thể và tiến sát đến gần phạm trù giá trị “Tiền tệ là hàng hoá
đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hoá làm vật ngang giá chung
1
C.Mác và Ph.Ăng ghen, toàn tập, tập 23, NXB CTQG 1993, tr.19, 21.
5
thống nhất cho các hàng hố khác, nó thể hiển lao động xã hội và biểu hiển
quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá”
K.Marx đã khắc phục được sai lầm của các nhà kinh tế học đi trước
trong lí luận về tiền tệ. Cụ thể:
Ông đã hiểu được nguồn gốc và bản chất của tiền tệ.
Để hiểu nguồn gốc của tiền tệ, K.Marx nghiên cứu các hình thái biểu
hiện của giá trị trong nền kinh tế hàng hóa được biểu hiện thơng qua 4 hình
thái cụ thể:
- Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên: giá trị của 1 hàng hóa chỉ
được phát hiện trên 1 hàng hóa nhất định khác với nó, chứ khơng biểu hiện ở
mọi hàng hóa khác. Hình thái này chỉ thích hợp với việc trao đổi ngẫu nhiên
nguyên thủy.
- Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng: là sự mở rộng của hình thái
giản đơn ra nhiều hàng hóa hơn.
- Hình thái chung của giá trị: tất cả các hàng hóa đều biểu hiện giá trị
của mình ở cùng một thứ hàng hóa đóng vai trị là vật ngang giá chung. Các
địa phương khác nhau thì vật ngang giá chung khác nhau.
- Hình thái tiền tệ: hình thành vật ngang giá chung cho mọi địa
phương là vật độc tôn và phổ biến. Cuối cùng, vàng là kim loại được chọn.
Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình sản xuất và trao đổi hàng hóa, khi
tiền tệ ra đời, thế giới hàng hóa được phân thành 2 cực: một bên là các hàng
hóa thơng thường, một bên là hàng hóa đặc biệt đóng vai trị tiền tệ.
Tiền tệ là một hình thái giá trị của hàng hóa, là sản phẩm của q trình
phát triển sản xuất, trao đổi hàng hóa. Ông phát biểu: “tiền tệ là hàng hóa đặc
biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hóa làm vật ngang giá chung thống
nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ
giữa những người sản xuất hàng hóa”.
Thấy được đầy đủ các chức năng của tiền tệ:
6
Thước đo giá trị: Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của hàng
hóa phải là tiền vàng. Cơ sở của nó là thời gian lao động xã hội cần thiết hao
phí để sản xuất ra hàng hóa đó. Giá cả hàng hóa là hình thái biểu hiện bằng
tiền của giá trị hàng hóa.
Phương tiện lưu thơng: Với chức năng làm phương tiện lưu thông, tiền
là môi giới trong q trình trao đổi hàng hóa. Cụ thể, với cơng thức H-T-H,
hàng vi mua và bán có thể tách rời nhau về không gian lẫn thời gian, con
người khơng nhất thiết phải tìm đến trao đổi trực tiếp với người có nhu cầu về
hàng hóa mà họ có và có hàng hóa họ cần. Lưu thơng hàng hóa và lưu thông
tiền tệ là 2 mặt của quá trinh thống nhất với nhau. Lưu thông tiền tệ xuất hiện
dựa trên cơ sở của lưu thơng hàng hóa.
Phương tiện cất trữ: tiền rút ra khỏi lưu thông để đi vào cất trữ vì tiền là
đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thức giá trị, cất trữ tiền là hình thức cất
trữ của cải.
Phương tiện thanh tốn: tiền thể hiện chức năng này khi nảy sinh việc
mua bán chịu.
Tiền tệ quốc tế: Tiền vượt qua biên giới quốc gia làm chức năng tiền tệ
quốc tế. Với chức năng này tiền có đầy đủ giá trị giống như vàng.
Ngồi ra, K.Marx còn chỉ ra chức năng tư bản của tiền: bản thân tiền
không phải là tư bản, tiền chỉ chuyển hóa thành tư bản trong điều kiện nhất
định, khi chúng được sử dụng để bóc lột sức lao động của người khác. Tiền là
tư bản vận động theo công thức T-H-T.
7
Chương 2
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HÌNH THÁI TIỀN VÀ TÍNH CHẤT BÍ ẨN
CỦA TIỂN
2.1. Sự phát triển của hình thái tiền (dạng hồn chỉnh của hình thái
của giá trị):
2.1.1. Định nghĩa Tiền là gì:
Tiền tệ là một phạm trù kinh tế nhưng cũng lại là một phạm trù lịch sử.
Sự xuất hiện của tiền tệ là một phát minh vĩ đại của loại người trong lĩnh vực
kinh tế, nó có tác dụng thúc đẩy nhanh chóng các hoạt động giao lưu kinh tế,
làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội.
Vậy, tiền tệ là cái gì? Nó ra đời từ lúc nào?. Để tìm hiểu rõ về nguồn
gốc ra đời của tiền tệ, có rất nhiều các quan điểm khác nhau.Trong kinh tế
chính trị của các nước phương Tây hình thành nên hai trường phái:
Một trường phái cho rằng tiền tệ ra đời là kết quả tất yếu khách quan
của q trình trao đổi hàng hóa (Trường phái kinh tế chính trị học cổ điển
như: Adam Smith, David Ricardo…)
Trường phái thứ hai giải thích sự xuất hiện của tiền như là một sự kiện
có tính chất tâm lý (như hai nhà tâm lý học W.Gherlop và Smondest). Họ cho
rằng: “Nguồn gốc của tiền tệ khơng nằm trong q trình trao đổi hàng hóa mà
do lịng ham muốn hiểu biết và nhu cầu làm đẹp là bản tính của đàn bà. Cịn
bản tính của đàn ơng lại là danh vọng, và sự ham muốn có nhiều tiền”
Lần đầu tiên, C.Mác vận dụng phương pháp duy vật biện chứng
nghiên cứu các hiện tượng kinh tế. Ông đã nghiên cứu sự phát triển của các
hình thái trao đổi từ hình thái trao đổi ngẫu nhiên đến q trình trao đổi
hàng hóa sử dụng tiền tệ, từ đó ơng xác định bản chất của tiền tệ cũng như
sự ra đời của nó.
Theo Mác, trong lịch sử phát triển của loài người, lúc đầu con người
sống thành bầy đàn, kiếm ăn một cách tự nhiên, chưa có chiếm hữu tư nhân,
chưa có sản xuất và trao đổi hàng hóa nên chưa có tiền tệ. Tuy nhiên, ngay từ
8
trong xã hội nguyên thủy đã xuất hiện mầm móng của sự trao đổi. Lúc đầu
trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên và được tiến hành trực tiếp vật này lấy vật
khác. Giá trị (tương đối) của một vật được biểu hiện bởi giá trị sử dụng của
một vật khác duy nhất đóng vai trị vật ngang giá.
Khi sự phân công lao động xã hội lần thứ nhất xuất hiện, bộ lạc du mục
tách khỏi toàn khối bộ lạc, hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên hơn.
Tương ứng với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình thái giá trị mở
rộng. Tham gia trao đổi bây giờ khơng phải là hai loại hàng hóa mà là một
loạt các loại hàng hóa khác nhau. Đây là một bước phát triển mới, tiến bộ so
với hình thái giá trị giản đơn, song bản thân nó cịn bộc lộ một số thiếu sót:
-Biểu hiện tương đối của giá trị mọi hàng hóa chưa được hồn tất, vẫn
cịn nhiều hàng hóa làm vật ngang giá.
- Các hàng hóa biểu hiện cho giá trị của một hàng hóa lại khơng
thuần nhất.
Phân cơng lao động xã hội và sản xuất phát triển thì hình thức trao đổi
hàng hóa trực tiếp ngày càng bộc lộ các nhược điểm của nó. Các hàng hóa chỉ
được trao đổi với nhau khi những người chủ của nó có cùng muốn trao đổi,
muốn trùng khớp. Như vậy, cùng với sự phát triển của sản xuất thì trao đổi
trực tiếp ngày càng khó khăn và làm cho mâu thuẫn trong lao động và phân
hóa lao động xã hội ngày càng tăng. Do đó, tất yếu địi hỏi phải có một thứ
hàng hóa đặc biệt đóng vai trị vật ngang giá chung tất ra từ tất cả các thứ
hàng hóa khác và các hàng hóa khác có thể trao đổi được với nó, ví dụ như
súc vật. Thích ứng với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình thái giá trị
chung. Nhưng trong giai đoạn này, tác dụng của vật ngang giá chung vẫn
chưa cụ thể tại một thứ hàng hóa nào, trong những vùng khác nhau tì có
những thứ hàng hóa khác nhau có tác dụng làm vật ngang giá chung.
Cuộc phân công lao động xã hội lần thứ hai xuất hiện, thủ công nghiệp
tách khỏi nông nghiệp làm cho sản xuất hàng hóa phát triển và thị trường mở
rộng. Tình trạng nhiều hàng hóa có tác dụng vật ngang giá chung phát sinh
9
mâu thuẫn với nhu cầu ngày càng tăng của thị trường, thị trường đòi hỏi phải
thống nhất một vật ngang giá đơn nhất. Khi vật ngang giá chung cố định ở
một loại hàng hóa thì sinh ra hình thái tiền tệ. Khi đó, tất cả hàng hóa được
biểu hiện giá trị của nó trong một thư hàng hóa, thứ hàng hóa đó trở thành vật
ngang giá chung.
Như vậy, tiền tệ xuất hiện sau một quá trình phát triển lâu dài của trao
đổi và của các hình thái giá trị.
Tóm lại, tiền tệ là một phạm trù lịch sử, nó là sản phẩm tự phát của nền
kinh tế hàng hóa, sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị. Đồng thời
cũng là sản phẩm của sự phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công lao
động xã hội trong sản xuất hàng hóa. Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn
liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Vậy, tiền là gì? Triết học C.Mác-Lênin, dựa theo nghiên cứu về lịch sử
và bản chất tiền tệ của C.Mác, định nghĩa: “Tiền tệ là hàng hoá đặc biệt được
tách ra từ trong thế giới hàng hoá làm vật ngang giá chung thống nhất cho
các hàng hố khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa
những người sản xuất hàng hố”2
2.1.2. Sự phát triển của hình thái tiền (dạng hồn chỉnh của hình
thái của giá trị):
a) Tiền là một hình thái giá trị của hàng hố vậy vậy trước khi nghiên
cứu hình thái tiền, chúng ta có thể nghiên cứu dựa trên sự phát triển của các
hình thái giá trị trong nền kinh tế hàng hố, cụ thể là các hình thái sau:
Một là, Hình thái giá trị giản đơn
Đây là hình thái phơi thai của giá trị, nó xuất hiện trong giai đoạn đầu
của trao đổi hàng hố khi sự trao đổi vẫn mang tính chất ngẫu nhiên, người ta
trao đổi trực tiếp vật này lấy vật khác.
2
Theo Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin, Nxb Chính trị quốc gia
10
Cơng thức tổng qt: xH1 = yH2. Ở hình thái này hàng hóa H1 biểu giá
trị của nó ở hàng hóa H2. Trong đó H1 là hình thái giá trị tương đối, cịn H2
đóng vai trị vật ngang giá.
Ví dụ: 01 cái rìu = 10kg thóc
Trong hình thái giản đơn này, giá trị cái rìu được biểu hiện ở thóc, cịn
thóc dùng làm hình thái biểu hiện giá trị của cái rìu; ở đây rìu mang hình thái
tương đối, cịn thóc mang hình thái ngang giá. Như vậy giá trị sử dụng của
hàng hóa này trở thành hình thức biểu hiện của hàng hóa kia.
Hình thái giá trị này tồn tại vào thời kì sơ khai của lồi người, khi xã
hội đã bắt đầu có sự phân hố về lao động cũng như hình thành nên các hình
thức xã hội đầu tiên. Do sự gia tăng sản xuất dẫn đến dư thừa hàng hoá, là
điều kiện mở đầu cho sự trao đổi trực tiếp giữa các cá thể trong xã hội. Ở hình
thái giá trị này thì tỷ lệ trao đổi là không cố định và bị phụ thuộc bởi nhu cầu
và mong muốn trao đổi của người thực hiện trao đổi.
C.Mác chỉ rõ: “Bí mật của mọi hình thái giá trị đều nằm ở trong hình
thái đơn giản đó”. Bản thân hình thái giá trị này bao gồm hình thái tương đối
và hình thái ngang giá. Hai hình thái này là hai mặt liên quan, không thể tách
rời nhau nhưng cũng là hai cực đối lập của một phương trình giá trị.
Vào thời gian sau, cùng với sự phát triển của hoạt động sản xuất, ngày
càng có nhiều mặt hàng tham gia vào trao đổi, đòi hỏi giá trị một hàng hoá
phải được biểu hiện ở nhiều hàng hoá khác cho nó. Do đó, hình thái giá trị
giản đơn tự nó chuyển sang hình thái mới của giá trị và đây cũng là hình thái
phơi thai của tiền tệ.
Hai là, Hình thái giá trị đầy đủ
Thời kì tiếp theo khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội
phát triển hơn, làm cho năng xuất lao động tăng, sản phẩm thặng dư nhiều
hơn làm cho trao đổi nhiều hơn và đều đặng hơn. Một hàng hoá này có thể
quan hệ trao đổi với nhiều hàng hố khác nhau có tác dụng làm vật ngang giá.
Cơng thức:
xH1 = yH2
11
Hoặc = zH3
Hoặc = …
Ví dụ:
01 con trâu = 20kg chè
hoặc = 05 cái rìu
hoặc = 30kg thóc
hoặc = …
Trong hình thái này, mỗi vật đem trao đổi là một vật ngang giá, do vậy
vật ngang giá cứ được mở rộng ra. Nhưng trao đổi vẫn mang tính chất trao đổi
trực tiếp.
Sự phức tạp trong trao đổi khi số lượng hàng hoá trở nên nhiều và đa
dạng hơn đã manh nha hình thành một hình thái giá trị chung có khả năng làm
thước đo giá trị trao đổi giữa các hàng hố. Đó là tiền thân cho sự ra đời của
“tiền”.
Ba là, Hình thái chung của giá trị
Là hình thái mà ở đó tất cả các hàng hóa đều được biểu hiện giá trị của
nó thơng qua giá trị sử dụng của hàng hóa đặc biệt khác có vai trị làm vật
ngang giá chung:
Công thức:
xH1
Hoặc yH2
= aH5
Hoặc zH3
(H5 là vật ngang giá)
Hoặc …
Ví dụ: - 20kg chè hoặc =
- 05 cái rìu hoặc =
- 30kg thóc
01 con trâu
=
Trong hình thái này, trâu được dùng làm vật ngang giá chung, các hàng
hóa đều đổi lấy trâu rồi dùng trâu đổi lấy hàng hóa khác theo nhu cầu. Nhưng
vì nhiều địa phương, nhiều vùng dùng một vật ngang giá khác nhau nên gây
trở ngại cho quá trình trao đổi khi thị trường mở rộng.
12
Qua nghiên cứu khảo cổ, các nhà khoa học đã nhận định rằng ở nhiều
nơi, vật ngang giá có thể là những chiếc lông chim sặc sỡ và những chiếc vỏ
sị q hiếm.. Ngồi ra cịn có chè lá (với các khu vực đồng bằng không thể
trồng chè) và muối (với các khu vực núi cao không thể làm muối). Không chỉ
thế, ở một nơi nọ trên thế giới, người ta sử dụng răng cá mập như là vật ngang
giá. Lông chim là loại dùng làm vật ngang giá nhẹ nhất từ trước đến nay.
Tuy nhiên, khi quá trình sản xuất phát triển hơn và quy mô trao đổi
được mở rộng giữa các vùng, sự khác biệt về hàng hoá mang hình thái chung
giữa các vùng dẫn đến thêm nhiều khó khăn hơn. Vì thế, tất yếu cần phải
chuyển lên hình thái cao hơn. Đó là hình thái tiền tệ (dạng hồn chỉnh của
hình thái của giá trị).
b) Hình thái tiền tệ (dạng hồn chỉnh của hình thái của giá trị):
Quá trình mở rộng thị trường và sản xuất hàng hố trong tình cảnh tồn
tại rất nhiều vật ngang giá chung giữa các vùng đòi hỏi khách quan một vật
ngang giá chung thống nhất giữa các vùng để đảm bảo trao đổi được thông
suốt. Khi vật ngang giá chung được cố định thì ở một vật độc tơn và phổ biến
thì hình thành hình thái tiền tệ của giá trị.
Lúc đầu có nhiều kim loại đóng vai trị tiền tệ, nhưng về sau được cố
định lại ở kim loại quý như vàng, bạc và cuối cùng là vàng.
Công thức:
xH1
Hoặc yH2
= a gram vàng
Hoặc zH3
(vàng trở thành tiền)
Hoặc …
Ví dụ: - 20kg chè hoặc
=
- 05 cái rìu hoặc =
- 30kg thóc
01 gram vàng
=
Khơng ai biết chính xác người ta bắt đầu sử dụng tiền dưới những hình
thức đồng tiền kim loại từ khi nào. Các nhà khảo cổ đã phát hiện những đồng
tiền kim loại có từ năm 600 trước cơng nguyên, vì thế ta biết chúng đã được
13
lưu hành trong suốt một thời gian dài. Lúc đầu người ta sử dụng những kim
loại quý như vàng và bạc để chế tiền xu. Họ in hình người hoặc (con) thú trên
mỗi đồng tiền để xác định giá trị của nó. Trong những năm 1200, người Trung
Quốc đúc những đồng tiền bằng sắt. Những đồng tiền này giá trị chẳng là bao,
cho nên người dân phải sử dụng một số lượng lớn khi mua hàng. Do đó rất bất
tiện khi phải mang một số lượng lớn những đồng tiền sắt nặng nề nên chính
phủ đã cho in những giấy biên nhận. Người ta mang các biên nhận này đến
ngân hàng để đổi ra tiền xu. Đây là ví dụ đầu tiên ta có được về việc phát
hành và sử dụng tiền giấy. Ngày nay, hầu hết các nước đều sử dụng cả tiền xu
lẫn tiền giấy. Ở Mỹ, các loại tiền giấy đều có cùng kích cỡ và màu sắc như
nhau. Chẳng hạn, tờ một đơ la có cùng kích cỡ và màu sắc y như tờ một trăm
đơ la. Ở nhiều quốc gia khác, tiền giấy được in dưới nhiều kích cỡ và màu sắc
khác nhau. Tờ có kích thước nhỏ hơn thì có giá trị thấp hơn. Việc này tạo điều
kiện cho chúng ta chỉ cần nhìn thống qua là có thể xác định được giá trị của
chúng.
Nếu như trước kia tiền thường được liên kết với các phương tiện trao
đổi hiện thực có giá trị, thí dụ như đồng tiền bằng vàng thì tiền ngày nay
thơng thường là từ vật liệu mà chính nó khơng có giá trị (tiền giấy). Điều đó
đồng nghĩa là bản thân tiền khơng có giá trị gì cả nếu xét về vật liệu làm ra
tiền nhưng nó mang giá trị bởi giá trị của tiền hình thành từ trị giá đối ứng mà
tiền đại diện cho chúng. Trước kia ở Châu Âu đã sử dụng Vàng và Bạc làm
giá trị đối ứng của tiền, đó là chế độ bản vị vàng và bản vị bạc. Tuy nhiên chế
độ bản vị này đã góp phần gây nên cuộc Đại khủng hoảng 1929 gây ảnh
hưởng lớn đến nền kinh tế Thế giới nên ngày nay việc này khơng cịn thơng
dụng nữa và tiền là tượng trưng cho giá trị của hàng hóa mà người ta có thể
mua được.
2.2. Tính chất bí ẩn của tiền được C.Mác trình bày ở phần I, quyển
I “Bộ tư bản”:
Hàng hóa vốn là sản phẩm của con người. Thoạt nhìn, hàng hóa có vẻ
là một vật chất rất đơn giản và tầm thường, nhưng một khi vật đó trở thành
14
hàng hóa thì nó lại biến thành một vật vừa có thể biết được nhờ giác quan, lại
khơng thể biết được qua giác quan. Tính thần bí của hàng hóa không phải do
giá trị sử dụng, cũng không phải do nội dung những tính quy định của giá trị
sinh ra. Thế thì tính chất bí ẩn của hàng hóa do đâu mà có?
C.Mác nói "Bây giờ, chúng ta cần phải làm một việc mà ngay cả khoa
kinh tế chính trị học tư sản cũng chưa bao giờ thử làm cả, cụ thể là chỉ rõ sự
phát sinh của hình thái tiền đó, nghĩa là theo dõi sự phát triển của biểu hiện
giá trị nằm ở trong mối quan hệ giá trị của các hàng hố, từ hình thái đơn
giản nhất và ít thấy rõ nhất của nó cho đến hình thái tiền chói lọi. Làm được
như thế thì cái tính chất bí ẩn của tiền cũng sẽ mất đi"3.
C.Mác cho rằng hình thái đơn giản lại hàm chứa tất cả các bí mật của
sự phát triển về sau. "Bí mật của mọi hình thái giá trị đều nằm ở trong hình
thái đơn giản đó của giá trị. Cho nên điều khó khăn chính là việc phân tích
hình thái này"4.
C.Mác ví "Giá trị của các hàng hoá khác với mụ goá Qui-cly ở chỗ là
người ta khơng biết nắm lấy nó ở chỗ nào. Hồn tồn trái ngược với tính
vật chất thơ kệch của các vật thể hàng hố đối với các giác quan, trong giá
trị khơng có lấy một ngun tử vật chất nào của tự nhiên cả. Người ta có
thể lấy từng hàng hố riêng ra để sờ nắn, lật đi lật lại đến tuỳ thích, nhưng
với tư cách là một giá trị thì người ta vẫn khơng thể nắm được nó. Nhưng
nếu ta nhớ lại rằng các hàng hố chỉ có giá trị trong chừng mực chúng là
những biểu hiện của cùng một thể thống nhất có tính chất xã hội, tức là của
lao động của con người, rằng do đó, giá trị của hàng hố chỉ có một tính
chất thuần t xã hội, thì tự nhiên chúng ta sẽ hiểu được rằng giá trị chỉ có
thể thể hiện ra trong mối quan hệ xã hội giữa hàng hố này với hàng hố
khác mà thơi. Thật vậy, chúng ta xuất phát từ giá trị trao đổi, hay từ quan
3
C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Tập 23, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 1993, trang
80-81
4
SĐD trang 81
15
hệ trao đổi của các hàng hố, để lần mị ra vết tích của giá trị ẩn nấp trong
những hàng hố đó" 5.
"Như vậy tính thần bí của hàng hố khơng phải do giá trị sử dụng của
nó sinh ra. Tính thần bí đó cũng khơng phải do nội dung những tính quy định
của giá trị sinh ra"6.
"Thế thì tính chất bí ẩn của sản phẩm lao động khi sản phẩm ấy bắt đầu
mang hình thái hàng hố, do đâu mà có? Rõ ràng là do chính bản thân hình
thái ấy. Tính bình đẳng của các loại lao động khác nhau của con người lại
mang hình thái vật có tính vật thể giống nhau của giá trị của những sản phẩm
lao động; thước đo các chi phí về sức lao động của con người bằng độ dài của
các chi phí ấy lại mang hình thái đại lượng giá trị của các sản phẩm lao động;
cuối cùng, những mối quan hệ giữa những người sản xuất, trong đó những
tính quy định xã hội của lao động của họ được thực hiện, lại mang hình thái
một quan hệ xã hội giữa các sản phẩm lao động"7.
"Do đó, tính chất bí ẩn của hình thái hàng hố chỉ là ở chỗ: hình thái đó
phản ánh cho người ta thấy tính chất xã hội của lao động của bản thân họ là
như là một tính chất vật thể của chính ngay những sản phẩm lao động, như là
những thuộc tính xã hội của các vật đó, do tự nhiên đem lại; vì vậy, cả mối
quan hệ xã hội của những người sản xuất đối với tồn bộ lao động cũng được
họ hình dung như là một mối quan hệ xã hội của các vật nằm ở bên ngoài họ.
Nhờ quid pro quo (việc lấy cái nọ thay cái kia) đó mà những sản phẩm lao
động trở thành hàng hoá, thành những vật mà người ta vừa có thể biết được
lại vừa khơng thể biết được nhờ các giác quan, hay là những vật xã hội. Tác
động quang học mà một vật gây ra cho thần kinh thị giác thì cũng vậy: người
ta khơng cảm xúc thấy đó là một sự kích thích chủ quan của bản thân thần
kinh thị giác mà là một hình thù khách quan của một vật ở ngoài con mắt.
Nhưng trong thị giác, ánh sáng đã thực sự được một vật, một vật thể bên
5
C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Tập 23, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 1993, trang 80
SĐD Trang 114
7
SĐD Trang 115
6
16
ngoài, chiếu vào một vật khác tức là con mắt. Đó là quan hệ vật lý giữa các
vật thể. Nhưng hình thái hàng hố và quan hệ giá trị giữa các sản phẩm lao
động trong đó nó được biểu hiện ra, thì tuyệt nhiên khơng có gì giống với bản
chất vật lý của các vật và những quan hệ của các vật bắt nguồn từ bản chất vật
lý đó cả. Đó là chỉ một quan hệ xã hội nhất định của chính con người, nhưng
dưới con mắt của họ thì quan hệ ấy lại mang cái hình thái kỳ ảo của mối quan
hệ giữa các vật. Muốn tìm được một thí dụ tương tự với hiện tượng đó, chúng
ta phải đi vào cõi mù mịt của thế giới tôn giáo.
Trong cái cõi ấy, các sản phẩm của bộ óc con người thể hiện ra thành
những sinh vật độc lập, có cuộc sống riêng của chúng, có những mối quan hệ
nhất định với con người và giữa chúng với nhau. Trong thế giới hàng hoá, các
sản phẩm do bàn tay con người làm ra cũng thế. Tơi gọi cái đó là tính chất bái
vật giáo gắn liền với các sản phẩm của lao động khi những sản phẩm này
được sản xuất ra với tư cách là hàng hố, và do đó, tính chất bái vật giáo ấy
khơng thể tách rời khỏi phương thức sản xuất hàng hoá được" (C. Mác và Ph.
Ăng-ghen, Tồn tập, Tập 23, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội
1993, trang 115-116).
"Phải đợi đến khi có một nền sản xuất hàng hố hồn tồn phát triển thì
mới có thể từ bản thân kinh nghiệm mà rút ra được một nhận thức khoa học
là: các lao động tư nhân, được tiến hành một cách độc lập đối với nhau nhưng
lại gắn liền với nhau về mọi mặt với tư cách là những khâu của sự phân công
lao động xã hội tự phát luôn luôn được quy thành thước đo xã hội của chúng
một cách tỷ lệ. Cần phải có một nền sản xuất hàng hố hoàn toàn phát triển để
cho nhận thức khoa học ấy xuất hiện, bởi vì trong những quan hệ trao đổi
ngẫu nhiên và thường xuyên biến động giữa các sản phẩm của những lao
động ấy, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra các sản phẩm ấy chỉ
dùng bạo lực để tự mở đường cho mình với tư cách là một quy luật tự nhiên
có tác dụng điều tiết, cũng giống như quy luật trọng lực làm cho người ta biết
đến nó khi chiếc nhà sụp đổ xuống đầu mình. Vì thế, việc quy định đại lượng
17
của giá trị bằng thời gian lao động là một điều bí mật ẩn giấu đằng sau sự vận
động có thể thấy được của giá trị tương đối của các hàng hố. Việc khám phá
ra điều bí mật ấy xố bỏ được cái ảo ảnh cho rằng hình như đại lượng của giá
trị của sản phẩm lao động được quy định một cách thuần tuý ngẫu nhiên,
nhưng việc ấy tuyệt nhiên khơng xố bỏ được cái hình thái vật thể của sự quy
định đại lượng của giá trị"8
“Như vậy là chỉ có sự phân tích giá cả các hàng hố mới dẫn đến việc
xác định đại lượng của giá trị, và chỉ có biểu hiện chung bằng tiền của các
hàng hố mới dẫn đến chỗ cố định được tính chất giá trị của các hàng hố.
Nhưng chính cái hình thái hồn chỉnh ấy của thế giới hàng hố - hình thái tiền
lại che giấu tính chất xã hội của các lao động tư nhân vào đằng sau lưng các
vật, và do đó che giấu cả những quan hệ xã hội của những người lao động tư
nhân, trong lúc lẽ ra phải bóc trần những quan hệ ấy".
Tóm lại: Tất cả những tính chất trừu tuợng và mâu thuẫn chứa đựng
trong sản phẩm lao động mang hình thái hàng hố trong xã hội hàng hố, khi
đi vào chu kỳ lưu thơng trên thị trường tư bản chủ nghĩa đã được Marx cơ
đọng lại trong một quy luật nền móng và gọi là “quy luật giá trị”: từ hình thái
trừu tượng trong trao đổi, lưu thông, giá trị khi biểu hiện thành hình thái cụ
thể của nó là đại lượng giá trị thì chính đại lượng giá trị ấy sẽ điều tiết quan hệ
trao đổi hàng hố đó, chứ khơng phải là ngược lại 9. Tính chất trừu tượng, tự
động của giá trị dưới hình thái đại lượng giá trị đã giữ vai trò chi phối thị
trường.
Điều này bộc lộ khá rõ rệt khi giá trị biểu hiện thành hình thái tiền tệ.
Theo sự phân tích của Marx, từ hình thái giá trị kết tinh của lao động trong
trao đổi đơn giản, bước sang những hình thái trao đổi mở rộng, một hàng hố
nào đó có thể xuất hiện đại diện cho một hình thái ngang giá chung, hình thái
này từ chỗ tìm được một chất liệu thích hợp q hiếm để đại diện (vàng,
8
C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Tập 23, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 1993, trang
120
9
Tư bản I/1, Nhà xuất bản Tiến bộ (Matxcơva) và nhà Nhà xuất bản Sự thật 1985, tr. 87
18
bạc…) về sau có thể vượt lên trên mọi vật thể cụ thể để trở thành hình thái
tiền trên danh nghĩa, tiền trên ý niệm (tiền giấy, tín dụng…).
Dưới hình thái thuần tuý ý niệm này, trong lưu thông, tiền với tư cách
là đại diện cho giá trị, đã có điều kiện để tách khỏi mọi ràng buộc với những
quy trình sản xuất để chuyển từ hình thái này sang hình thái khác “nhưng
khơng bao giờ mất đi trong cuộc vận động ấy, và như vậy là nó biến thành
một chủ thể tự động.”10. Tự động, đó cũng là một khái niệm mà Marx đã nhắc
đi nhắc lại nhiều lần để chỉ định tính chất tự bành trướng, tự vận động, thốt
khỏi mọi toan tính chủ quan của con người, nhất là khi tiền đã được tập trung
vào tay những chủ thể tư nhân để biến thành tư bản, sử dụng trong việc đầu tư
để sản xuất và tái sản xuất.
10
Tư bản I/1, Nhà xuất bản Tiến bộ (Matxcơva) và nhà Nhà xuất bản Sự thật 1985, tr. 201
19
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu hình thái tiền (dạng hồn chỉnh của hình thái của giá
trị), và tính chất bí ẩn của tiền được C.Mác trình bài ở phần I, quyển I “Bộ tư
bản cho ta thấy nó có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng của nhân loại, nó được ví
như là máu trong cơ thể của nền kinh tế. Tiền với tư cách là đại diện cho giá
trị, đã có điều kiện để tách khỏi mọi ràng buộc với những quy trình sản xuất
để chuyển từ hình thái này sang hình thái khác.
Ở nước ta, đang tiến hành nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước thì việc nghiên cứu vấn đề này lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn, nó
chỉ rõ quy tắc hoạt động sản xuất, lưu thơng, trao đổi hàng hố, đồng thời nó
có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng
trưởng, lạm phát... Nếu như chúng ta nghiên cứu rõ vấn đề này và vận dụng
việc nghiên cứu này vào nền kinh tế của nước ta một cách linh hoạt sẽ làm
cho nền kinh tế nước ta phát triển một cách bền vững.
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Giáo trình của Khoa kinh tế, Học viện Báo chí và Tuyên truyền do
TS Cao Quang Xứng – Chủ nhiệm đề tài.
2- Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin của Nhà xuất bản chính trị
quốc gia do TS Ngô Văn Lương và ThS Vũ Xn Lai đồng chủ biên.
3- Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin của Nhà xuất bản chính trị
quốc gia do ThS Vũ Xuân Lai chủ biên.
4- C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Tập 23, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội 1993
5- Hỏi đáp mơn Kinh tế - chính trị Mác – Lênin của Nhà xuất bản Đại
học quốc gia Hà Nội do TS An Như Hải chủ biên.
6- Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin, Nxb
Chính trị quốc gia.
7- Các trang Báo điện tử:
www.dangcongsan.vn
www.kinhtehoc.com
www.vietnamnet.vn
www.dantri.com.vn
21
MỤC LỤC
22