Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Vì sao nguyên tắc tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng Cộng sản? Làm rõ thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình ở các tổ chức cơ sở đảng hiện nay?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.32 KB, 12 trang )

BÀI THU HOẠCH
Phần II: Những vấn đề cơ bản về Đảng Cộng sản
và Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
-----Câu hỏi 6: Vì sao nguyên tắc tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của
Đảng Cộng sản? Làm rõ thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực
hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình ở các tổ chức cơ sở đảng hiện nay?
Bài làm
I.MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của
cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Trong suốt hơn 90 năm xây dựng và
trưởng thành Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam làm cách mạng, giành độc lập
tự do cho đất nước và nhân dân Việt Nam. Mục tiêu của Đảng là xây dựng một
nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng
đã khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước, sau hơn 35 năm đã đưa đất nước Việt
Nam đạt được các thành tựu rất khả quan được thế giới cơng nhận. Trong tình hình
thế giới biến đổi không lường, công cuộc đổi mới đất nước Việt Nam có nhiều
thuận lợi, nhưng cũng khơng ít khó khăn và thách thức. Để Đảng có vai trị lãnh
đạo đất nước trong xu thể phát triển của thế giới và khu vực, Đảng Cộng sản Việt
Nam phải không ngừng xây dựng, chỉnh đốn Đảng, một trong những giải pháp
quan trọng là thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình.
Qua quá trình hoạt động, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: tự phê
bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là thuộc tính bản chất của một
chính đảng cách mạng, là cơng cụ sắc bén để giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên
của Đảng và củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng. Vì vậy, tự phê bình và
phê bình ln là việc làm không thể thiếu trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Tự phê bình và phê bình giúp cho cán bộ, đảng viên và tổ
chức đảng thấy được những ưu điểm, khuyết điểm của mình, qua đó tìm cách khắc
phục khuyết điểm, phát huy ưu điểm, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức đảng và cán bộ đảng viên.


II. NỘI DUNG
1. Khái niệm tự phê bình và phê bình trong Đảng
1


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm hồn chỉnh về tự phê bình và phê
bình. Người viết: “Tự phê bình là cá nhân (cơ quan hoặc đồn thể) thật thà nhận
khuyết điểm của mình để sửa chữa, để người khác giúp mình sửa chữa, mà cũng để
người khác biết mà tránh những khuyết điểm mình đã phạm.
Phê bình là thấy ai (cá nhân, cơ quan, đồn thể) có khuyết điểm thì thành
khẩn nói cho họ biết để họ sửa chữa, để họ tiến bộ. Mục đích của tự phê bình và
phê bình đều nhằm giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm, cùng nhau
tiến bộ”1.
Từ tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự phê bình, phê bình và thực tiễn
cho thấy: Tự phê bình và phê bình trong Đảng, là hoạt động của đảng viên và tổ
chức đảng chủ động chỉ ra ưu điểm để phát huy và vạch rõ khuyết điểm để khắc
phục, nhằm làm cho làm cho đảng viên và tổ chức Đảng ln giữ vững vai trị
người chiến sĩ tiên phong, người lãnh đạo.
2. Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng
Tính tất yếu (hay tính quy luật) của ngun tắc tự phê bình và phê bình đối
với Đảng xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn sau:
Tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để Đảng chủ động phát hiện và sửa
chữa sai lầm, khuyết điểm.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng phải giải quyết nhiều vấn đề mới
phức tạp, không thể nắm bắt, nhận thức đầy đủ và sâu sắc ngay được những vấn đề
mới đang hàng ngày, hàng giờ nảy sinh trong xã hội, vì vậy thường khó tránh sai
lầm, khuyết điểm. Ph.Ăngghen khẳng định: “Giai cấp vô sản, cũng như tất cả các
đảng khác, sẽ học tập nhanh nhất qua những sai lầm bản thân, những sai lầm này
khơng ai có thể tránh hồn tồncho họ được” 2, V.I.Lênin tiếp tục khẳng định trong
hoạt động, giai cấp vơ sản và đảng của nó khó tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm:

“Trong lịch sử, vị tất đã có một cuộc tiến quân thắng lợi nào mà kẻ chiến thắng lại
khơng phạm sai lầm nào đó...”3. Vấn đề là thái độ đối với sai lầm như thế nào.
V.I.Lênin chỉ rõ: “Tất cả những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay, đều bị
tiêu vong vì tự cao, tự đại, vì khơng biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình,
và vì sợ sệt khơng đám nói lên những nhược điểm của mình.”4.

1 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.2011, tập 10, trang 386.
2 C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.1997, tập 37, trang 450.
3 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xơ-cơ-va.1978, tập 36, trang 219.
4 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xơ-cơ-va.1978, tập 45, trang 141.

2


Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Chúng ta khơng sợ có sai lầm và
khuyết điểm, chỉ sợ khơng chịu cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết điểm” 5. Người
chỉ rõ: “Một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một
Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có
khuyết điểm đó, xét rõ hồn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để
sửa chữa tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”6.
Như vậy, việc Đảng mắc sai lầm, khuyết điểm là khó tránh khỏi nếu khơng
nói đây là quy luật, Cách giải quyết tốt nhất đối với những sai lầm, khuyết điểm đó
của Đảng là tự phê bình và phê bình, cơng khai thừa nhận sai lầm, tìm cách sửa
chữa.
Trong quá trình xây dựng Đảng và lãnh đạo cách mạng, Đảng ta ln ln
coi trọng tự phê bình và phê bình: “Phải làm cho vũ khí tự phê bình và phê bình,
nhất là phê bình từ dưới lên, thật sự trở thành vũ khí sắc bén của tồn Đảng, làm
cho tự phê bình và phê bình thật sự là một quy luật phát triển của Đảng”7.
Tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để giáo dục, rèn luyện cán bộ,
đảng viên; củng cố và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Trong q trình hoạt động, cơng tác, cán bộ, đảng viên cũng tránh khỏi sai
lầm, khuyết điểm. V.I.Lênin đã chỉ rõ: Khơng có và khơng thể có những người
khơng phạm sai lầm. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Người đời ai cũng
có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm, vì vậy cách tốt nhất để phát hiện, sửa
chữa sai lầm, khuyết điểm là dùng tự phê bình và phê bình. Người chỉ rõ: “Thang
thuốc hay nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình” 8, “khuyết điểm cũng như
chứng bệnh. Phê bình cũng như uống thuốc. Sợ phê bình, cũng như người có bệnh
mà giấu bệnh. Không dám uống thuốc, Để đến nỗi bệnh ngày càng nặng, không
chết “cũng la lết quả dưa”, nếu : “Ln ln dùng và khéo dùng cách phê bình và
tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên”9.
Tự phê bình và phê bình cịn là biện pháp tích cực đế củng cố và tăng cường
đoàn kết thống nhất trong Đảng, nhờ tự phê bình và phê bình nghiêm túc, đúng đắn
mà những mâu thuẫn, bất đồng, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân được giải
quyết có lý, có tình, khơng để tích tụ lại từ nhỏ thành lớn, phá hoại khối đồn kết
5 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.2011, tập 5, trang 232.
6 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.2011, tập 5, trang 301.
7 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.2011, tập 5, trang 232.
8 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.2011, tập 5, trang 302.
9 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.2011, tập 5, trang 305.

3


thống nhất của Đảng, không để những người thiếu thiện chí với Đảng lợi dụng
những bất đồng, những mâu thuẫn đó gây chia rẽ Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm
chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đồn kết
thống nhất của Đảng”. Người lưu ý: “Mục đích phê bình cốt để đồn kết và thống
nhất nội bộ”, và “tự phê bình và phê bình là một quy luật phát triển và tiến bộ của
Đảng, cũng là một phương pháp căn bản để tăng cường đoàn kết, thống nhất trong

Đảng”10.
Xuất phát từ kinh nghiệm thực tiễn của phong trào cộng sản,công nhân
quốc tế và hoạt động thực tiễn của Đáng Cộng sản Việt Nam.
Trong hơn 90 năm qua, nhờ thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình,
Đảng ta đã sửa chữa kịp thời nhiều sai lầm, khuyết điểm, làm cho Đảng ngày càng
lớn mạnh vượt qua những thử thách quyết liệt, đưa cách mạng nước ta đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác. Trái lại, kinh nghiệm lịch sử của Đảng Cộng sản Việt
Nam và phong trào cộng sản thế giới cho thấy khi xa rời nguyên tắc tự phê bình và
phê bình thì sẽ mắc bệnh kiêu ngạo cộng sản, rơi vào các sai lầm tả khuynh hoặc
hữu khuynh nguy hiểm.
Đảng ta cũng có bài học lớn về sự kiên trì nguyên tắc tự phê bình và phê
bình sau sai lầm chỉnh đốn Đảng ở Miền Bắc năm 1955 – 1956. Hội nghị Trung
ương lần thứ 10 mở rộng về công tác cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức đã
chỉ ra sai lầm lớn của công tác chỉnh đốn Đảng là đã đem phương pháp đấu tranh
với địch để đấu tranh trong nội bộ Đảng: “Đó là những sai lầm nghiêm trọng, phổ
biến, kéo dài về nhiều mặt, những sai lầm về những vấn đề nguyên tắc, trái với
chính sách của Đảng, trái với nguyên tắc và điều lệ của một đảng theo chủ nghĩa
Mác-Lênin, trái với chế độ pháp luật của nhà nước dân chủ nhân dân”. Hậu quả là:
“Nó đã làm cho lực lượng của Đảng bị tổn thất nặng”.
Xuất phát từ những điều trên đây cho thấy tự phê bình và phê bình là một
nguyên tắc tổ chức, hoạt động quan trọng có tính quy luật của đảng cộng sản nói
chung, Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. Đảng ta khẳng định: “Phải làm cho vũ
khí tự phê bình và phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên, thật sự trở thành vũ khí
sắc bén của tồn Đảng, làm cho tự phê bình và phê bình thật sự là một quy luật
phát triển của Đảng”11.
3. Thực trạng thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình ở các tổ
chức cơ sở Đảng hiện nay.
10 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB. CTQG, Hà Nội.2004, tập 37, trang 604.
11 Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng (Đại hội IV), Nxb.
Sự thật, Hà Nội.1977, trang 97.


4


Đảng ta có truyền thống tự phê bình và phê bình nghiêm túc. Mỗi khi phát
hiện có sai lầm Đảng đều công khai thừa nhận sai lầm và đề ra biện pháp sửa chữa.
Trong thời kỳ Xô viết Nghệ Tĩnh, phát hiện sai sót của Xứ ủy Trung kỳ khi
đưa ra chủ trương: “Trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ” 12, Trung ương đã có
Chỉ thị phê phán nghiêm khắc: “... như vậy thì gốc ở đâu mà đào, xem rễ ở đâu mà
tróc, quả là một ý nghĩ mơ hồ, một chỉ thị võ đoán và là một lối hành động quàng
xiên chí tướng” và yêu cầu Xứ ủy Trung kỳ phải “tự chỉ trích bơnsơvích, nhận lỗi
trước quần chúng, trước đảng viên...”13
Trong thời kỳ 1936-1939, để phê bình “xu hướng tả khuynh lẫn xu hướng
hữu khuynh” trong Đảng, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã xuất bản cuốn
sách Tự chỉ trích đề chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm của Đảng và của một số ý
kiến không đúng với chủ trương của Đảng, đồng thời hướng dẫn cách thực hành tự
phê bình và phê bình trong Đảng”14.
Khi phát hiện sai lầm trong cuộc Cải cách ruộng đất và chỉnh đón Đảng ở
miền Bắc (1953-1956), Trung ương Đảng đã họp kiểm điểm trong 1 tháng (từ ngày
25-8 đến ngày 24-9-1956 đề đánh giá sai lầm. Nghị quyết của Hội nghị Trung
ương lần thứ 10 mở rộng về công tác cải cách ruộng đất và chỉnh đốn chức đã
thẳng thắn thừa nhận: “chúng ta đã phạm những sai lầm nghiêm trọng”, “Đó là
những sai lầm nghiêm trọng, phổ biến kéo dài về nhiều mặt, những sai lầm về
những vấn đề nguyên tắc với chính sách của Đảng, trái với nguyên tắc và điều lệ
của một đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, trái với chế độ pháp luật của nhà nước
dân chủ nhân dân”15. Hội nghị đã đề ra biện pháp sửa sai và xử lý trách nhiệm đối
với các đồng chí chịu trách nhiệm trực tiếp để xảy ra sai lầm, Các đồng chí Ủy
viên Bộ Chính trị kiểm điểm sâu sắc sai lầm và tự nhận hình thức xử lý. Đảng tổ
chức cuộc mít tính tại Nhà hát Lớn công khai thừa nhận sai lầm trước nhân dân.
Sau những khó khăn, thất bại của 10 năm cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội

trên cả nước từ 1975, Đại hội VI của Đảng đã nghiêm túc tự phê bình những sai
lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế - xã hội và những khuyết điểm trong cơng
tác xây dựng Đảng. Báo cáo Chính trị của Đại hội đã thẳng thắn nghiêm túc tự phê
bình về những sai lầm và chỉ rõ: “Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm
trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ
chức thực hiện.
12 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB. CTQG, Hà Nội.2004, tập 3, trang 157.
13 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB. CTQG, Hà Nội.2004, tập 3, trang 157.
14 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB. CTQG, Hà Nội.2004, tập 6, trang 622.
15 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB. CTQG, Hà Nội.2004, tập 17, trang 539.

5


Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai
lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động
giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh hướng buông lỏng
trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên
tắc của Đảng. Đó là tư tưởng tiểu tư sản, vừa “tả khuynh vừa hữu khuynh”16.
Từ sau Đại hội VI, việc tự phê bình và phê bình đã được nhiều cấp uỷ, tổ
chức đảng coi trọng, duy trì đều đặn, thực hiện nghiêm túc và thu được kết quả
quan trọng. Hàng năm, cấp ủy đảng đều tiến hành các đợt tự phê bình và phê bình,
phân loại tổ chức cơ sở đảng và đảng viên, tổng kết cuối năm và xây dựng mục
tiêu, phương hướng hoạt động trong thời gian tiếp theo. Nhiều cấp ủy đảng thực
hiện tốt hơn chế độ kiểm điểm cơng tác, tự phê bình và phê bình.
Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (1999)
ra Nghị quyết về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng
hiện nay quyết định mở cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự
phê bình và phê bình lớn trong tồn Đảng. Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI (tháng 12-2011) ra nghị quyết về “Một số vấn đề cấp

bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI (tháng 10-2016) ra nghị quyết về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện "tự diễn biến," "tự chuyển hóa" trong nội bộ”, tiếp tục quyết định
mở đợt kiểm điểm tự phê bình và phê bình trong tồn Đảng từ Trung ương đến cơ
sở. Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình được quy định khá chặt chẽ và cụ thể,
đã giúp các cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ hơn những ưu
điểm để phát huy; những hạn chế, khuyết điểm để kịp thời sửa chữa, khắc phục.
Các đợt tự phê bình và phê bình nói trên đã có tác dụng cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe
và ngăn chặn những tiêu cực, sai phạm trong cán bộ, đảng viên.
Tuy nhiên, so với yêu cầu, tự phê bình và phê bình Đảng vẫn cịn nhiều
khuyết điểm, hạn chế, chất lượng thấp. Nhiều Đại hội Đảng đánh: “tự phê bình và
phê bình yếu”17. Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Trong tự phê bình và phê bình, tình
trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm vẫn còn khá phổ biến, một số cán bộ, đảng
viên chưa tự giác nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong
công việc được giao phụ trách”18. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng đã đánh giá những hạn chế của tự phê bình và phê bình hiện nay là:
16 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB. Sự Thật, Hà Nội.1987, trang
26.
17 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB. Chính trị quốc gia Thật, Hà
Nội.2011, trang 174.
18 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Văn phịng Trung

ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 184.

6


“Khơng ít nơi cịn hình thức, tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra
ở nhiều nơi, một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và

trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ được giao”19. Hội nghị Trung ương 4 (khóa
XIII), Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra những hạn chế, yếu kém của công
tác xây dựng Đảng thời gian qua và chỉ rõ: “Nguyên tắc tập trung dân chủ bị bng
lỏng, ngun tắc tự phê bình và phê bình thực hiện khơng nghiêm”.
Tình trạng phổ biến thường diễn ra trong khi phê bình là nể nang, né tránh
lựa chiều. Nhiều trường hợp, phê bình khơng chỉ rõ những sai lầm khuyết điểm,
không tập trung vào những vấn đề chủ yếu thuộc chức trách, nhiệm vụ, phẩm chất,
đạo đức, lối sống, phong cách làm việc mà thường tập trung vào những điểm thứ
yếu về cá tính, thói quen. Tình trạng lợi dụng phê bình, biến phê bình thành những
cuộc tranh cãi, nặng lời với nhau, vi phạm nhân phẩm và thành cuộc trả thù cá
nhân.... còn xảy ra ở nhiều nơi. Thực tiễn những năm gần đây cho thấy, ở khơng ít
các cấp ủy đảng, vũ khí phê bình và tự phê bình đã bị biến đạng, lạm dụng, để xảy
ra các biến dạng phản tác dụng, như:
Phê bình vờ: Chỉ nêu những khuyết điểm nhỏ nhặt, như: “Đồng chí đơi khi
cịn đến muộn”; “tác phong chưa thật nhanh nhẹn”... Đây là kiểu phê để mà phê,
phê làm phép cho có, chiếu lệ, làm qua loa đại khái, phê theo kiểu “bắn súng lên
trời”, chẳng trúng ai, và tất nhiên, “chẳng chết ai”, để “chắc nó chừa mình ra”.
Phê bình vống: Khuyết điểm có ít xt ra nhiều; việc bé xé ra ra to, để thỏa
mãn sự bực tức của mình, để “cho nó chết”.
Phê bình dứ: Đây loại loại lợi dụng phê bỉnh rất tỉnh vi: người phê bình nêu
ra một số khuyết điểm nhưng ngầm tỏ ra còn biết người được phê bình có khuyết
điểm, sai phạm lớn hơn, anh liệu mà cư xử với tôi. Đây là cách để răn đe, hăm dọa
người được phê bình.
Phê bình nịnh: Phê bình nhưng để khen nhau và tâng bốc nhau: “Anh làm
việc q sức”, “Anh khơng giữ gìn sức khỏe” Đây là thói cơ hội, xu nịnh, vuốt ve
nhau, cố tình phóng đại những cái tốt cái hay về đồng chí, đồng nghiệp nhằm củng
cố “lực lượng” của mình. Đó là loại phê bình khơng nghiêm túc.
Phê bình đập: Đây là lợi dụng phê bình chụp mũ, kết tội nhau, hạ bệ nhau.
Để “đập” nhau, họ tích lũy khuyết điểm, biến quá trình phê bình thành cơ hội để
cường điệu hóa khuyết điềm nhằm bơi nhọ, vu khống để hạ bệ đồng nghiệp hoặc

“dọn đường” cho nhau, giành vị thế chính trị bao vây, cơ lập, vơ hiệu hóa những
nhân tố tốt; lấy cớ tự phê bình để triệt hạ những người mình khơng ưa, “trả thù vặt”
19 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập II, Nxb CTQGST, H. 2021, tr.
179.

7


theo kiểu “gắp lửa bỏ tay người”. Nguy hiểm hơn họ biến thủ đoạn này thành địn
lơi kéo, "đánh hội đồng” rất tinh vi. Đây được coi là thủ đoạn phi tính đảng bậc
nhất của một “đảng viên”, là thủ đoạn của người đạo đức giả.
Nguyên nhân của tình trạng chất lượng tự phê bình và phê bình trong Đảng
yếu kém kéo dài có nhiều nguyên nhân như:
Tâm lý con người thường thích khen, ngại lời chê, đặc biệt tâm lý con người
Việt Nam bị ràng buộc bởi những quan niệm lâu đời: “không vạch áo cho người
xem lưng”, “anh em đóng cửa bảo nhau” nên nhiều đảng viên khơng dám thắng
thắn trong phê bình. Mặt trái cơ chế thị trường với sự chi phối mạnh mẽ của động
cơ lợi ích cũng chỉ phối lớn đến tự phê bình và phê bình, làm nảy sinh xu hướng nề
nang, lựa chiều, nhất là trong phê bình đảng viên là lãnh đạo, đảng viên trong
“nhóm lợi ích”, trong phe ta..
Về chủ quan, một bộ phận cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng chưa nhận thức
đúng, đầy đủ về vai trị, mục đích, ý nghĩa, tác dụng của phê bình và tự phê bình
trong sinh hoạt đảng nên chưa chú trọng, nghiêm chỉnh, tự giác thực hiện. Nếu có
thực hiện thì làm một cách qua loa, xuê xoa, đại khái, do thiếu bản lĩnh, chính kiến
và sức chiến đấu kém. Một số đảng viên hiện nay vẫn suy nghĩ rằng tự phê bình và
phê bình thì chỉ đề cập ưu điểm là chính, nhấn mạnh điểm tốt cịn khuyết điểm, hạn
chế thì nên lược bỏ, và nhận xét hoặc tự nhận xét một cách chung chung, khơng
ảnh hưởng đến ai. Thậm chí trước sự chân thành, trung thực của người tự phê bình
và phê bình có cấp ủy và đảng viên cịn định hướng “lệch chuẩn” cho họ.
Khơng ít đảng viên, tổ chức đảng khơng tự giác phê bình mà tìm mọi cách

để giấu giếm, bao che, đổ lỗi cho hoàn cảnh khách quan, tổ chức, cơ chế, tệ hại
hơn là lấy lý do bảo vệ chính trị nội bộ. Tất cả những ngun nhân này khiến họ
thường có xu hướng khơng triệt để ủng hộ tự phê bình và phê bình.
Một số cán bộ, lãnh đạo đơn vị thấy nhân viên, cấp dưới của mình có khuyết
điểm, vi phạm kỷ luật nhưng vì sợ bệnh thành tích đơn vị hay sợ mất phiếu khi bầu
cử, đề bạt, bổ nhiệm, tái bổ nhiệm, bình bầu thi đua, khen thưởng, xếp hạng cán
bộ, xếp loại đảng viên,.. nên không kiên quyết đấu tranh, không xử lý nghiêm túc;
Một số cấp ủy chưa chú trọng và chưa ý thức được việc bồi dưỡng, tập huấn
thường xuyên trong công tác sinh hoạt, phát triển đảng nên ảnh hưởng rất nhiều
đến năng lực điều hành, tổ chức sinh hoạt đảng, đặc biệt là cơng tác phê bình và tự
phê bình. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo thiếu gương mẫu trong tự phê bình và phê
bình. Đặc biệt, cơ chế, chính sách bảo vệ người phê bình hiện vẫn chưa tốt, nên có
tâm lý khá phổ biến là sợ “đấu tranh, tránh đâu”.

8


4. Giải pháp nâng hiệu quả thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê
bình ở các tổ chức cơ sở Đảng hiện nay.
Nhận thức sâu sắc về vai trò và những đặc tính của tự phê bình và phê bình
trong Đảng; xác định đúng nội dung, lựa chọn đúng hình thức và phương pháp tự
phê bình và phê bình.
Tăng cường mở rộng dân chủ trong Đảng, đẩy mạnh việc học tập nâng cao
trình độ lý luận chính trị, trình độ học vấn và chuyên môn, nghiệp vụ. Thực hiện
tốt dân chủ nội bộ Đảng để nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình phải đi
liền với việc tăng cường sự lãnh đạo tập trung, giữ nghiêm kỷ luật thường xuyên.
Cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Cán bộ lãnh đạo, quản
lý chủ chốt nếu có khuyêt điểm, sau khi tự phê bình và được cấp dưới phê bình cần
định thời gian khắc phục.
Đối với từng đảng viên cần thực hiện nghiêm túc các quy định về tự phê

bình và phê bình, chủ động thực hiện quyền được phê bình và chất vấn trong phạm
vi tổ chức về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp, khắc phục tâm lý
ngại tự phê bình và phê bình, né tránh, lựa chiều khi phê bình người khác, nhất là
khi phê bình cán bộ chủ chốt và cán bộ cấp trên.
Thực hiện nghiêm túc việc tổ chức cho nhân dân phê bình cán bộ, đảng viên
và tổ chức đảng; kết hợp chặt chẽ tự phê bình và phê bình trong Đảng với phê bình
của nhân dân.
Kết hợp tự phê bình và phê bình với cơng tác kiểm tra, giám sát, điều tra, xử
lý kịp thời, nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi phạm sau khi tự phê bình và
phê bình.
Đấu tranh kiên quyết, xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên có thái độ
và hành động khơng đúng đối với người phê bình thẳng thắn; xử lý kiên quyết,
thích đáng những người lợi dụng phê bình để vu khống, xuyên tạc, chia rẽ nội bộ
và trả thù cá nhân, nhất là đối với những kẻ lợi dụng phê bình để truyền bá quan
điểm sai trái, tuyên truyền xuyên tạc làm giảm uy tín, vai trị lãnh đạo của Đảng,
tiếp tay cho kẻ thù phá hoại Đảng, phá hoại cách mạng.
Tăng cường sự chỉ đạo, kiểm tra của cấp trên đề tự phê bình và phê bình đạt
chất lượng, nhất là với những tổ chức đảng yếu kém, nội bộ có nhiều vấn đề phức
tạp là việc lớn và khó.
Thực hiện nghiêm chế độ, quy định về tự phê bình và phê bình, coi trọng
việc gương mẫu tự phê bình của cán bộ chủ chốt và cán bộ cấp trên, đưa tự phê
bình và phê bình thành nền nếp
9


III.KẾT LUẬN
Trải qua hơn 90 năm xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam ln
khẳng định vị trí tiên phong trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt
qua những khó khăn, thử thách để giành lấy độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.
Trong suốt quá trình ấy, tuân theo quy luật phát triển chung, Đảng ta luôn tự đấu

tranh, tự chỉnh đốn nhằm khắc phục những hạn chế, sai lầm, khuyết điểm để xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh phục vụ nhân dân, Tổ
quốc. Lời nhắc nhở của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã thấm nhuần vào bao
thế hệ đảng viên chân chính:“Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi ngày tự kiểm điểm, tự
phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”. Vì vậy, Đảng ta ln nêu cao
tinh thần tự phê bình và phê bình, khơng ngừng rút kinh nghiệm, sửa chữa những
khuyết điểm, phát huy những ưu điểm. Đó cũng chính là một trong những nguyên
tắc góp phần tạo nên sự tồn tại và phát triển của Đảng, nhất là đối với một Đảng
cầm quyền. Khơng chỉ trong thời kỳ đất nước có chiến tranh mà ngay cả trong thời
kỳ đổi mới, mỗi một kỳ Đại hội là một dịp Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh nêu cao tinh
thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, tự nhắc nhở, chấn chỉnh để
vươn lên bám sát tình hình đất nước, đảm bảo đủ sức lãnh đạo và vươn lên ngang
tầm với thời đại. Qua đó Đảng ta đã rút ra nhiều bài học to lớn như: bài học về xây
dựng và chỉnh đốn Đảng về tư tưởng, lý luận chính trị, về tổ chức cán bộ và tự phê
bình, phê bình làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh; bài học về không ngừng đổi
mới phương thức lãnh đạo chống những nguy cơ của Đảng cầm quyền; bài học về
tinh thần đại đoàn kết, đồn kết thống nhất trong Đảng, trong nhân dân, khơng
ngừng tu dưỡng đạo đức và phát huy tinh thần tự giác của người đảng viên…
Trong những bài học ấy, bài học tự phê bình và phê bình là một trong những bài
học quan trọng nhất đã góp phần tạo nên những thành công của sự nghiệp đổi mới
đất nước.
Tự phê bình và phê bình khơng những là văn hóa chính trị, là quy luật phát
triển của Đảng mà còn là thước đo trình độ sinh hoạt dân chủ trong Đảng, là sợi
dây gắn kết, ràng buộc khăng khít giữa đảng viên với nhau, giữa đảng viên với tổ
chức đảng, và giữa Đảng với nhân dân. Thực hiện tự phê bình và phê bình chính là
để giải quyết những mặt đối lập, những khuyết điểm trong nội bộ Đảng, để tăng
cường bản chất giai cấp công nhân, bản chất cách mạng của đảng chân chính. Bên
cạnh đó, cần thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý nghiêm,
kịp thời những tổ chức đảng, đảng viên không thực hiện tốt Nghị quyết, chỉ thị của
Đảng về tự phê bình và phê bình, nhất là những người thành kiến, trù dập người

phê bình; phải có biện pháp bảo vệ người phê bình dũng cảm đấu tranh chống tham
10


nhũng, tiêu cực, đồng thời buộc người có khuyết điểm, bị phê bình phải sửa chữa
khuyết điểm.
Người viết bài thu hoạch

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.

14.
15.

C.Mác và Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.1997, tập 37.

Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa
đổi Điều lệ Đảng (Đại hội IV), Nxb. Sự thật, Hà Nội.1977.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB. CTQG, Hà
Nội.2004, tập 3.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB. CTQG, Hà
Nội.2004, tập 6.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB. CTQG, Hà
Nội.2004, tập 17.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
NXB. Sự Thật, Hà Nội.1987.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB. CTQG, Hà
Nội.2004, tập 37.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
NXB. Chính trị quốc gia Thật, Hà Nội.2011.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII,
Văn phịng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Tập II, Nxb CTQGST, Hà Nội 2021.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.2011, tập 5.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.2011, tập 10.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Trung cấp LLCT-HC
Những vấn đề cơ bản về Đảng Cộng sản và Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nxb Lý luận chính trị. Hà Nội. 2016.
V.I.Leenin: Tồn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xơ-cơ-va.1978, tập 36.
V.I.Leenin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xơ-cơ-va.1978, tập 45.

12




×