Tơn giáo
Trung Quốc có rất nhiều những giáo lý và tư tưởng nổi tiếng. Rất nhiều trong số đó
đã ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam như Phật giáo (Bắc Tông), các hệ tư tưởng
như Nho giáo, Đạo giáo hay các tư tưởng về quản lý,… từ xa xưa. Và cho đến ngày
nay những điều này vẫn còn ý nghĩa quan trọng trong các hoạt động học t ập, nghiên
cứu hay quản lý nhà nước.
Một trong số những ảnh hưởng sâu sắc nhất phải kể đến đầu tiên đó chính là Nho
giáo. Nho giáo ra đời ở Trung Hoa, được biết tới là tư tưởng do Kh ổng T ử sáng l ập.
Nho giáo du nhập vào Việt Nam kể từ thời Bắc thuộc nhưng ch ỉ được thừa nhận
một cách chính thức từ khi Nhà Lý cho xây dựng cơng trình Văn Mi ếu thờ Khổng
Tử. Thời Lê là mốc đánh dấu sự ảnh hưởng sâu rộng của Nho giáo khi tư tưởng
này phổ biến ở giai cấp thống trị và tầng lớp trí thức trong xã hội b ấy giờ.
Nho giáo: ra đời ở Trung Quốc, do Khổng Tử sáng lập. Du nhập vào nước ta từ thời Bắc thuộc
và được nhà Lý chính thức thừa nhận khi cho xây dựng Văn Miếu thờ Khổng Tử. Từ th ời Lê tr ở
thành tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị. Nho giáo đã trở thành một nhu cầu tư tưởng
thiết yếu cho việc xây dụng một thiết chế qn chủ tập quyền theo mơ hình Đơng Á Trung Hoa,
cũng như những nguyên lý cơ bản của phép trị nước, trong đó một biện pháp chi ến lược là ch ế
độ khoa cử. Về chế độ khoa cử được tổ chức mộ cách quy cũ ví dụ thời Trần có tất cả 14 khoa
thi (10 khoa chính thức và 4 khoa phụ), lấy đỗ 282 người đại khoa, có học vị Thái h ọc sinh. N ăm
1374, có tổ chức thi Đình cho các tiến sĩ. 3 người đỗ đầu được gọi là Tam khôi: Trạng nguyên,
Bảng nhãn, Thám hoa. (Sau đặt thêm một học vị cấp cao nữa là Hoàng giáp).Tầng lớp nho sĩ
ngày một phát triển, trong đó có những gương mặt nổi bật đều là những nhân tài của đất n ước
như Lê Văn Hưu, Đoàn Nhữ Hài, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Chu
Văn An…
Y học cổ truyền Việt Nam hay ta vẫn thường gọi với cái tên “Đông y” được coi là m ột
nhánh phát triển của y học Trung Hoa đã có niên đại hình thành hơn 3500 n ăm.
Tương tự như y học căn bản Trung Quốc, Đông y cũng hội tụ đủ yếu tố, hình thức
trong điều trị như: Sự đa dạng của các loại thảo mộc, trị liệu bằng xoa bóp, c ạo gió,
châm cứu, bấm huyệt, vận khí cơng, nắn xương hay liệu pháp dinh dưỡng…
Nền y học Đông y phát triển gần như là song song với văn hóa c ủa các nước Đơng
Á và nó đã được ứng dụng rộng rãi, phổ biến trong đời sống, nh ờ đó mà ta th ấy đây
là một kho tàng phong phú tri thức về y học với lịch sử lâu dài. Đi sâu vào nghiên
cứu thì có thể thấy cơ sở lý luận của Đơng y được khởi nguồn từ quan niệm vũ trụ
được chia làm hai phần, tượng trưng cho hai thái cực âm – d ương và thuy ết ng ũ
hành. Trong đó, cuốn “Hoàng đế nội kinh” và “Thương hàn luận” của Trương
Trọng Cảnh được xem là “cái nôi” của những học thuyết của y học căn bản trong y
học Trung Hoa.
Theo lý luận y học cổ truyền, sức khỏe là kết quả của sự tương tác giao thoa gi ữa
những thực thể (cơ quan trong cơ thể) và các yếu tố bên ngoài c ơ th ể, kết h ợp với
sự tác động của những yếu tố gây bệnh tật. Do đó, chẩn đốn bệnh trong Đơng y
không chỉ là dựa trên những triệu chứng của cơ thể người bệnh thể hi ện qua mạch
đập, lưỡi, da, mắt… mà còn là xem xét các yếu tố như thói quen ăn u ống, ng ủ ngh ỉ
và mơi trường xung quanh người đó như thế nào.
Vấn đề điều trị trong Đơng y khơng chỉ là uống thuốc gì mà cịn là những ph ương
pháp khơng dùng thuốc như châm cứu, xoa bóp, bấm huy ệt, giác h ơi… Trong đó,
châm cứu được xem là tinh hoa vật lý trị liệu với niên đại hình thành từ rất lâu đời.
Châm cứu là liệu pháp tác động vào hệ thống kinh mạch vô cùng phức t ạp trên c ơ
thể con người với hàng trăm huyệt vị khác nhau. Đông y cho rằng các huy ệt v ị và
các đường kinh mạch có sự liên hệ, tác động mật thiết đến cơ quan tạng phủ trong
cơ thể. Do đó, khi một cơ quan tạng phủ bị rối loạn thì có th ể tác động vào các huy ệt
vị tương ứng trên cơ thể để điều trị.
Có một điều đặc biệt là hệ thống huyệt vị, kinh mạch trong cơ thể chỉ có th ể được
mơ tả chi tiết qua phương pháp châm cứu trong Đông y. Điều này không th ể th ực
hiện lại được trong giải phẫu sinh lý hiện đại hoặc nền tảng của Tây y.
Nhắc đến Đông y không thể không nhắc đến kho tàng thuốc Bắc đồ sộ. Đây là
những vị thuốc có trong tự nhiên được khai thác và bào chế theo phương pháp y
học Trung Hoa nhưng đã được cải tiến thêm bởi những thầy thuốc người Việt sao
cho hợp đặc trưng khí hậu, văn hóa Việt Nam. Thuốc Nam được phân biệt với thuốc
Bắc ở chỗ thuốc Nam là vị thuốc được khám phá trên chính lãnh thổ Việt Nam và
được các thầy thuốc trong nước tìm tịi, khám phá ra. Tại Việt Nam ph ải k ể đến
những vị danh y được xem là tổ nghề như Danh y Tuệ Tĩnh, Thần y Lê Hữu Trác…
Sự ảnh hưởng về mặt giáo dục của văn hóa Trung Hoa có mối liên quan m ật thi ết
với sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo và Đạo giáo ở Việt Nam. Điều này được
thể hiện rất rõ trong chế độ khoa cử và sự phát triển của tầng l ớp nho s ĩ trong xã
hội.
Theo đó, để xây dựng một thiết chế quân chủ tập quyền theo mơ hình Đơng Á Trung
Hoa, cũng như những nguyên lý cơ bản của phép trị nước thì tầng lớp th ống tr ị đã
biến Nho giáo thành một nhu cầu tư tưởng thiết yếu mà giải pháp được xem là chi ến
lược nhất là đánh vào chế độ khoa cử.
Theo các ghi chép lịch sử, ở thời Trần, chế độ khoa cử được tổi chức một cách rất
quy củ với tất cả 14 khoa thi (10 khoa chính thức và 4 khoa phụ), l ấy đỗ 282 ng ười
đại khoa, có học vị Thái học sinh. Năm 1374, có tổ chức thi Đình cho các ti ến sĩ. 3
người đỗ đầu được gọi là Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. (Sau đặt
thêm một học vị cấp cao nữa là Hoàng giáp).
Từ các cuộc thi và ảnh hưởng của nó mà tầng lớp nho sĩ trong xã hội Vi ệt Nam
cũng ngày một phát triển. Nổi bật trong số đó phải k ể đến những nhân tài c ủa đất
nước như: Lê Văn Hưu, Đoàn Nhữ Hài, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu,
Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An…
“Thuận theo thời cuộc”, tầm ảnh hưởng của Nho giáo trong đời sống đã kéo theo
nhu cầu học “chữ nho” hay ngoại ngữ chính là tiếng Trung Quốc bên c ạnh việc h ọc
chữ Quốc ngữ trong các trường học nước ta thời bấy giờ.
Trung Quốc vốn nổi tiếng với nhiều cơng trình kiến trúc nổi tiếng thế gi ới nh ư V ạn Lý
trườ ng thành, các lăng tẩm của vua chúa, cung điện,.. Hội ho ạ Trung Qu ốc có l ịch
sử 5000 – 6000 năm với các loại hình: bạch hoạ, b ản hoạ, bích ho ạ. Đặc bi ệt là
nghệ thuật vẽ tranh thuỷ mặc, có ảnh hưởng nhiều tới các nước ở Châu Á. Cu ốn
Lục pháp luận của Tạ Hách đã tổng kết những kinh nghiệm hội hoạ từ đời Hán đến
đời Tuỳ. Điêu khắc nổi tiếng với những pho tượng Phật… Có thể nói nghệ thu ật kiến
trúc, hội họa, điêu khắc của Trung Quốc phong phú, đặ c sắc là vậy nên khó tránh
khỏi tầm ảnh hưởng sâu rộng đến các quốc gia khác trong đó có Việt Nam.
Khi du nhập vào Việt Nam, các hình thức nghệ thuật này khơng ch ỉ là s ự kế thừa mà
nó cịn là sự phát triển, giao thoa cùng với đặc trưng ngh ệ thu ật c ủa chính ng ười
Việt, từ đó tạo nên những thành tựu độc đáo như:
Trong Kiến trúc: Chúng ta có nh ững cơng trình n ổi ti ếng v ới v ẻ đẹp độc đáo
như Văn Miếu – Quốc Tử Giám, hoàng thành Thăng Long, thành nhà H ồ và m ột s ố
cơng trình đền đài, t ượng điêu kh ắc, t ứ linh (long, ly, quy, ph ượng)…
Trong hội họa: Chúng ta có những di sản nghệ thuật như tranh Đông Hồ,
tranh Hàng Trống…
Đối với một dân tộc, chữ viết là một thành tố vô cùng quan trọng. Do đó, ngay t ừ
khi xâm l ược n ước ta và trong su ốt m ột ngàn n ăm ph ương B ắc đô h ộ, Trung
Quốc đã thực hiện kế hoạch đồng hóa, áp đặt chúng ta sử dụng chữ Hán với ý
nghĩa như chữ quốc ngữ.
Tuy nhiên mưu đồ này đã bất thành. Người Việt dù dùng chữ Hán nhưng đã
sáng tạo ra ngôn ngữ của riêng mình đó là chữ Nơm. Sự ra đời c ủa chữ Nôm
trên cơ sở cải biến từ chữ Hán được xem là một thành tựu quan trọng của văn
minh Đại Việt. Bởi, chữ Nơm vừa mang đậm tính dân tộc (Nam Nơm) nhưng
cũng chứa đựng văn hóa dân gian (nơm na) ở trong đó. Do đó, chữ Nơm c ũng
được xem là Quốc ngữ, Quốc âm của Việt Nam thời đó.
Mặc dù vậy ta khơng thể ph ủ nhận được s ự chi ph ối, ảnh h ưởng r ất l ớn c ủa ch ữ
Hán tới hệ thống văn học nghệ thuật và đời sống văn hóa tinh thần c ủa người
dân. Từ chữ Hán, tiếng Hán mà ở Việt Nam bi ết t ới th ể th ơ Đườ ng C ổ trong v ăn
học Trung Hoa. Trong đó, cơ sở tư tưởng của văn hoc nghệ thuật cũng song
hành với sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo và Phật giáo. Ti ếp theo sau đó là
sự ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo tới dòng văn học yêu nước dân tộc và sự
ra đời c ủa tầng l ớp Nho sĩ yêu n ước mà tiêu bi ểu có Nguy ễn Trãi là m ột đại di ện.
Sau th ời gian 1000 n ăm bị phong ki ến ph ương B ắc đô h ộ, trang ph ục c ổ Vi ệt Nam
có nhiều nét tương đồng với Han Fu (một lo ại qu ần áo c ổ trang c ủa Trung Qu ốc, t ừ
thời cổ đại hoàng đế cách đây 21 th ế k ỷ đến thời nhà Minh, là m ột trong nh ững
trang phục lâu đời nhất thế giới).
Đặc tr ưng của trang ph ục c ủa m ỗi qu ốc gia không ch ỉ ph ụ thu ộc vào đặc tr ưng c ủa
mơi trường khí hậu và thổ nhưỡng mà nó cịn là s ự ảnh h ưởng c ủa v ăn hóa và b ề
dày lịch sử. Do đó tầm ảnh h ưởng c ủa văn hóa Trung Qu ốc lên trang ph ục c ổ c ủa
ng ười Vi ệt là m ột đi ều khá d ễ hi ểu. Đi ều này c ũng vơ hình chung góp ph ần t ạo ra s ự
đa d ạng và nét đẹp c ủa dân t ộc c ủa m ỗi qu ốc gia.
Ẩm th ực Trung Qu ốc là m ột trong nh ững n ền v ăn hóa ẩm th ực phong phú và đặc
s ắc b ậc nh ất. Đi ều này có được c ũng chính là nh ờ s ự đa d ạng trong v ăn hóa và b ề
dày lịch sử của quốc gia này.
Văn hóa ẩm thực Trung Hoa không chỉ th ể hi ện trong s ự đa d ạng mà nó cịn là s ự
tinh t ế đến kinh ng ạc c ủa nhi ều món ăn t ừ s ắc, h ương và v ị. S ự độc đáo này là do
ng ười Trung Qu ốc t ừ lâu đã quan ni ệm r ằng m ột món ăn ngon c ũng nh ư là m ột tác
phẩm nghệ thuật vậy. Mà tác phẩm ngh ệ thu ật ấy không chỉ là s ự ph ối h ợp c ảm
nh ận của ng ũ quan mà còn là s ự giao thoa c ủa màu s ắc, t ừ cách trình bày món ăn,
t ới s ự cân b ằng dinh d ưỡng do các ngun li ệu có tính hàn, tính nhi ệt k ết h ợp v ới
nhau tạo nên.
Hơn 5000 năm lịch s ử của một đất nước rộng l ớn nên v ăn hóa ẩm th ực Trung Qu ốc
là t ổng h ợp đặc tr ưng c ủa r ất nhi ều vùng mi ền trên c ả n ước. Ngồi ra, m ỗi m ột vùng
miền lại có đặc trưng riêng về khí hậu, thời tiết nên cách chế biến và sáng t ạo trong
ẩm thực đã tạo nên một b ức tranh toàn c ảnh đồ sộ độc đáo.
Sự đa dạng trong văn hóa ẩm th ực c ủa Trung Qu ốc đã ảnh h ưởng r ất l ớn t ới n ền
ẩm thực Việt Nam. Trong đó có nhiều món ăn của ng ười Vi ệt được bi ến t ấu t ừ ẩm
thực Trung hoa nh ư vịt quay, bún n ước, l ẩu…
9. Sự ảnh hưởng về chính trị xã hội.
Trung Quốc là một quốc gia lớn có lịch sự lâu đời. Lịch sử cho thấy nước này đã
từng đêm quân chinh phạt nhiều quốc gia xung quanh, trong đó có n ước Đại Vi ệt.
Chính các cuộc xâm chiếm ấy đã làm cho Việt Nam phải gánh chịu những ảnh
hưởng nhất định về văn hóa của họ đặc biệt là chính trị xã hội.
Biểu hiện rõ nhất của ảnh hưởng về chính trị xã hội chính là ở tổ chức b ộ máy nhà
nước thời xưa. Theo đó, nước ta cũng có thể chế tổ chức bộ máy tập quyền tương
tự như Trung Quốc với người đứng đầu là vua, dưới có các tể tướng, tướng quân,
…
Mỗi triều đại lại có những sự xắp xếp tổ chức bộ máy khác nhau cho phù hợp với
khả năng cai trị của đất nước nhưng nhìn chung thì th ể chế qn ch ủ đó đều có
nhiều nét ảnh hưởng từ Trung Quốc.
Sự ảnh hưởng về chính trị của Trung Quốc cùng với những chính sách đồng hóa
người Việt trong 1000 năm Bắc thuộc đã phần nào gây ra rất nhiều xáo tr ộn và thay
đổi của văn hóa gốc đặc trưng của người Việt cổ. Tuy nhiên chính sức mạnh tinh
thần dân tộc to lớn của người Việt Nam đã cải biến những khó khăn đó thành nh ững
đa dạng độc đáo về nhiều mặt chính trị – văn hóa – xã hội.
sự ảnh hưởng của văn hóa trung quốc đến Việt Nam vẫn cịn rất to lớn, và nó sẽ còn
tồn tại mãi mãi trong đời sống và xã hội. Sự ảnh hưởng này bao gồm cả 2 yếu tố là tích
cực và tiêu cực. Dù sao nó cũng đóng góp một phần xây dựng cho nền văn hóa, lịch sử
và nghệ thuật kiến trúc nước ta. Làm cho văn minh của Việt Nam có thể đóng góp
những phần nhỏ vào văn minh thế giới.
ẤN ĐỘ:
Từ xa xưa, các nhà Ấn Độ đã đến Việt Nam bằng con đường biển vào đầu
Công nguyên và thành lập trung tâm Phật giáo lớn nhất thời bấy giờ là Luy
Lâu (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
Vì mới du nhập vào Việt Nam nên Phật giáo lúc này mang màu sắc Tiểu
thừa Nam tông. Về sau, vào khoảng thế kỷ IV – V, lại có thêm luồng Phật
giáo Đại thừa Bắc tông từ Trung Hoa du nhập.
Do thâm nhập một cách hịa bình, cho nên, ngay từ thời Bắc thuộc, Phật
giáo đã phổ biến rộng khắp. Đến thời Lý – Trần, Phật giáo Việt Nam phát
triển tới mức cực thịnh. Ở Việt Nam có những di tích cho thấy rõ ràng nhất
về sự tồn tại của Ấn Độ giáo là thánh địa Mỹ Sơn của quốc gia Champa cổ,
một cơng trình kiến trúc vĩ đại cịn tồn tại đến ngày nay
Tơn giáo
-Theo đường biển, các nhà sư Ấn Độ đã đến Việt Nam ngay từ đầu Công nguyên và
trung tâm Phật giáo lớn nhất thời bấy giờ là Luy Lâu (nay thuộc huyện Thuận Thành,tỉnh
Bắc Ninh).
-Phật giáo lúc này mang màu sắc Tiểu thừa Nam tông.
-Sau này, sang thế kỷ IV – V, lại có thêm luồng Phật giáo Đại thừa Bắc tông từ Trung
Hoa tràn vào.
-Do thâm nhập một cách hịa bình, ngay từ thời Bắc thuộc, Phật giáo đã phổ biến rộng
khắp. Đến thời Lý – Trần, Phật giáo Việt Nam phát triển tới mức cực thịnh.
-Ở Việt Nam di tích cho thấy rõ ràng nhất về sự tồn tại của Ấn Độ giáo là thánh địa Mỹ
Sơn của quốc gia Champa cổ, một cơng trình kiến trúc vĩ đại còn tồn tại đến ngày nay.
1.1.2 Văn học
-Từ đầu công nguyên,chúng ta chịu ảnh hưởng rất lớn từ các nước Ấn Độ,Trung Hoa,Ả
Rập,Tây Âu….
-Ở Việt Nam,từ rất lâu đời các tác phẩm sử thi Ấn Độ đã trở thành món ăn tinh thần hấp
dẫn truyền từ đời này sang đời khác như sử thi nổi tiếng Ramayana.
1.1.3 Nghệ thuật kiến trúc
-.Sự ảnh hưởng này được thể hiện rõ trong các cơng trình có tính chất tơn giáo như
đền,tháp,điêu khắc trên phù điêu.
-Nền kiến trúc Ấn Độ đã dung hòa,biến đổi cho phù hợp với nền văn hóa của từng nước
khác nhau và trở thành điểm nổi bật của chính nước đó như:Borobudur(Indonesia),
Angkor Wat (Campuchia) đặc biệt ở Việt Nam thì có thánh địa Mỹ Sơn.
-Ngồi ra kiến trúc Ấn Độ cổ xưa cịn được phát hiện qua các cơng trình đổ nát được
xây dựng bằng nhiều loại vật liệu khác nhau chủ yếu là gạch và đá(các cơng trình của
người Champa).
1.1.4 Lễ hội- Ẩm thực
-Ở Việt Nam người Chăm là dân tộc chịu ảnh hưởng nhiều nhất của nền văn hóa Ấn vì
vậy những lễ hội của họ cũng bắt nguồn từ Ấn Độ được thể hiện qua các lễ hội đền tháp
như:lễ hội tháp bà Po Nagar vào tháng tư hằng năm
-Ẩm thực truyền thống của Ấn Độ với món cà ri nổi tiếng đã phổ biến ở trên thế giới và
trong đó có Việt Nam. Khác với cà ri kiểu Ấn người Việt thường nấu nhiều nước hơn và
được dùng với nhiều hình thức đa dạng.