Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Tiểu luận: Văn hóa Nhật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.87 KB, 40 trang )

LỜI MỞ ĐẦU.

Chúng ta thường biết đến đất nước Nhật Bản như một đất nước “Mặt trơi mọc”,
một đất nước của xứ sở hoa anh đào, đất nước của nhữmg Samurai với lòng tự hào dân
tộc, và một đất nước của những con người với ý chí kiên cường, sức sáng tạo vô biên
đã biến một đất nước cằn cỗi, nghèo tài nguyên thành siêu cường quốc kinh tế giàu
mạnh.
Hiện tượng thần kỳ Nhật Bản đã trở thành một đặc điểm nổi trội của khu vực
Châu Á. Trong những năm qua, với sự mở cửa kinh tế, Nhật Bản đã giao lưu hợp tác
với nhiều nước phương Tây. Với truyền thống văn hoá lâu đời, Nhật Bản vẫn giữ được
nét văn hố riêng của mình. Trong thế giới kinh doanh có nhịp độ tiến triển nhanh như
ngày nay, các đối tác nước ngoài nên ý thức về sự nhận biết các nghi thức xã giao thơng
thường vốn có, nên để tâm tới bí quyết và những sự khác biệt văn hố để có thể tránh
những sai lầm đáng tiếc ảnh hưởng tới công việc kinh doanh. Hiện nay, Nhật Bản có
ảnh hưởng sâu sắc tới khu vực Đơng Nam Á, trong đó có Việt Nam. Quan hệ của Việt
Nam và Nhật Bản đang trên đà phát triển. Chúng ta hi vọng rằng mối quan hệ này sẽ tốt
đẹp hơn trong tương lai.

A. TỔNG QUAN VỀ ĐẤT NƯỚC NHẬT BẢN:

1


2


I.Về địa lý:
1. Diện tích:
Nhật Bản là một quần đảo xinh đẹp nằm ở phía đơng lục địa Châu Á(đơng bắc
châu á), diện tích của nhật bản là 377.815 km² t v bc 20ă 21 ' n 45 ă33', diện
tích này tuy khơng rộng và thuận tiện nhưng có các đảo nhỏ, gồm 4 đảo chính Honshu,


Hockaido, Kyushu, và Shikoku, ngồi ra cịn nhiều dãy đảo và khoảng 3.900 đảo nhỏ,
Honshu chiếm trên 60% diện tích.
2. Khí hậu:
Nhật Bản nằm trong khu vực đông bắc á cùng với Triều Tiên và Trung Quốc, khu
vực này có khí hậu tương đối ơn hồ, có khí hậu gió mùa. Nhìn chung ở Nhật Bản có 4
mùa rõ rệt, mùa hè ấm và ẩm (bắt đầu từ khoảng giữa tháng 7, trước đó là mùa mưa
thường kéo dài khoảng một tháng và chịu ảnh hưởng bởi dịng khí lưu lục địa từ phía
tây bắc chi phối khí hậu mùa đơng và các khí hậu lưu đại dương ở phía đơng nam.
Chúng ta thường biết đến Nhật Bản với một mùa đông của những núi tuyết dầy
đặc, trong đó Hokkaido đặc trưng bởi những mùa đơng khắc nghiệt. Tuy nhiên, khu vực
thái bình dương thường có khí hậu ơn hồ và nắng, đây là sự khác biệt, tạo nên một đất

3


nước Nhật Bản đa dạng, nhiều sắc thái. Điển hình là thành phố Tokyo - Thủ đơ, khí hậu
tương đối ơn hồ mùa đơng nhưng lại nắng nóng vào mùa hè.
Mặt trời luôn đỏ rực vào những ngày mùa xuân và mùa thu ấm áp. Tuy nhiên, ở
đây cũng thường xảy ra thiên tai: mưa lớn, bão là lý do của những gì thời tiết đa dạng
này mang lại, nhưng cũng chính vì sự kết hợp này mà Nhật Bản có rất nhiều rừng cây
xanh tốt.
3. Địa hình
Trái lại với những gì cảm nhận của khí hậu Nhật, địa hình Nhật khá phức tạp và
nổi tiếng với nhiều núi lửa lớn, đây là nguy cơ của những trận động đất lớn nhỏ khác
nhau. Tuy nhiên chính điều đó cũng tạo nên những cảnh đẹp hết sức lợi thế của Nhật.
Ngoài ra ở Nhật bản địa hình trãi dài bờ biển, có nhiều hải cảng nhỏ, chính vì vậy
người ta thường biết đến Nhật Bản như một quốc gia đánh bắt cá khá nổi tiếng. Các con
sơng, các suối nước nóng, hố nước trong, thung lũng đã tạo nên cho Nhật trở thành một
hình ảnh thơ mộng, là nơi mà du khách nước ngồi ln mong có cơ hội tìm đến.
II. Lịch sử:

Có thể nói Nhật Bản là một đất nước có bề dầy lịch sử tương đối dài, và chịu
nhiều ảnh hưởng của Trung Quốc:
Trong thời kỳ cổ xưa:
Là thời kỳ dân tộc Nhật Bản đồng hố những gì mang vào và sửa đổi để mang sắc
thái Nhật Bản, vào thời kỳ này hệ chữ cái của Nhật cũng được phát triển, hệ Kana
mang phong cách Nhật thay cho chữ viết được diễn đạt theo kiểu Trung Quốc.
Thời đại phong kiến:
Có nhiều bất ổn về chính trị, trong thời kỳ này chính phủ quân sự Kamakura
khuyến khích sự khắc khổ theo đuổi nghệ thuật quân sự và ren luyện võ nghệ để khơi
phục sự kiểm sốt trên khắp đất nước. Đây là thời kỳ mà trong đó Bushido_võ sĩ đạo
hay phong cách hiệp sĩ Nhật Bản rất thịnh hành.
Tiếp theo đó là thời kỳ Muromachi: kỹ luật hà khắc đã phản ánh thẩm mỹ và tôn
giáo và ý thức cổ điển: tự chủ và giản dị.
Khoảng thế kỷ thứ 16, Nhật bản bị chia cắt bởi các cuộc nội chiến, trong thời kỳ
này nhiều lâu đài nổi tiếng đã được xây dựng.
4


Nhưng đến năm 1603 chính phủ quân sự được thiết lập, theo cơ chế thể chế chính
trị và xã hội.
Cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 Nhật bị sức ép địi mở cửa biển từ bên ngồi, cơ cấu
chính trị xã hội bị rạng nứt, những cơ sở này dẫn đến cơ cấu phong kiến bị xói mịn.

Thời kỳ hiện đại:
Kỷ nguyên Minh Trị (1868-1912) tạo ra một quốc gia hiện đại với ngành cơng
nghiệp hiện đại, có thể chế chính trị hiện đại và mơ hình xã hội hiện đại. Có thể nói đây
là thời kỳ hồn kim của Nhật, chính phủ ban hành hiến pháp, lập ra các cơ quan lập
pháp và nghị viện, bãi bỏ việc phân chia đẳng cấp. Các cuộc chiến tranh tiếp theo sau
đó Nhật Bản đều giành thắng lợi. Sau khi Nhật ký kết hiệp ước liên minh Nhật _Anh,
được công nhận là một trong những cường quốc lớn trên thế giới : mở ra một kỷ

nguyên mới, bộ mặt mới cho đất nước Nhật, các ngành công nghiệp liên tục phát triển,
đời sống chính trị của đất nước dựa vững chắc vào chính phủ nghị viện.
Từ năm 1945 đến nay:
Sau chiến tranh thế giới Nhật Bản bị đặt dưới sự kiểm soát của quân đồng minh,
kinh tế kiệt quệ, nhưng quyền tự do phát ngôn, tôn giáo vẫn được đảm bảo. Năm 1947
một bản hiến pháp được mở rộng và ban hành.
Song song với việc phục hồi kinh tế, Nhật Bản cũng cũng cố vị trí ngoại giao quốc
tế của mình, gia nhập liên hợp quốc (1956), Nhật trở thành thành viên ngày càng tích
cực của các diễn đàn kinh tế, xã hội cũng như diễn đàn chính trị quốc tế. Cùng với sự
ủng hộ của Mỹ, chỉ hai thập kỷ sau khi bị thất bại, Nhật đã phục hồi hoàn toàn từ sau
cuộc khủng hoảng của chiến tranh.
Từ năm 1945 chính trị Nhật Bản rất ổn định, những người bảo thủ liên tục duy trì
được đa số trong quốc hội.
Vào những năm 70 nền kinh tế tăng trưởng thấp, nhưng Nhật đã có nhiều biện
pháp tự do hố các thị trường của mình, là thành viên quan trọng của tổ chức liên hợp
quốc, tổ chức hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch, tổ chức phát triển hợp tác và
phát triển kinh tế cam kết duy trì mậu dịch tự do, có vai trị đáng kể trong lĩnh vực bn
bán và tài chính, viện trợ kinh tế, kỹ thuật. Từ năm 1975, Nhật đã trở thành thành viên
5


của hội nghị kinh tế cấp cao của 7 nước. Sức mạnh của Nhật ngày càng tăng và các
nước láng giềng hy vọng vào vai trò quốc tế của Nhật nên từ những năm 80 chính phủ
Nhật đã có thái độ tích cực trong việc đóng góp vào cộng đồng quốc tế.
III. Dân số & xã hội:
Dân số Nhật Bản khá đông khoảng 123,6 triệu người, gần đây dân số Nhật đã tăng
chậm lại tỷ lệ tử vong giảm mạnh. Chứng tỏ rằng đời sống vật chất, tinh thần, cơ sở y tế
ngày một nâng cao, và Nhật có xu hướng của các nước công nghiệp phát triển. Năm
2011 với số dân là 125 triệu người và Hiện nay, 1/4 dân số Nhật trên 65 tuổi. Theo ước
tính, đến năm 2050, tỷ lệ này sẽ lên tới 40%..

Mật độ dân ở Nhật Bản cũng ngang với một số quốc gia có mật độ dân số cao trên
thế giới, và tập trung vào những thành phố công nghiệp: Tokyo.
Cơ cấu dân số Nhật Bản tương đối già, 13% dân số Nhật là từ 65 tuổi trở lên,
người dân Nhật thường nổi tiếng có tuổi thọ trung bình cao nhất thế giới.
Hiện nay với xu thế phát triển mức sống và thu nhập tương đối ổn định, giai cấp
trung lưu khá mạnh trong xã hội Nhật. Lối sống của Nhật cũng ngày càng theo phong
cách của các nước công nghiệp phát triển: lối sống tiến bộ, ngày càng có nhiều người
độc thân, phụ nữ ngày càng chiếm nhiều vị trí cao trong xã hội, sự phân hoá giàu nghèo
cũng ngày một giảm đi. Người dân Nhật Bản hiện nay khơng những có cuộc sống vật
chất ngày càng được nâng cao, mà cuộc sống tinh thần cũng mỗi lúc một phong phú.
Thêm vào đó có thể nói đến hệ thống giáo dục của Nhật cũng ngày càng được
phát triển, mục đích của việc giáo dục và đào tạo là tạo ra những công dân có tinh thần
nghị lực của một quốc gia hồ bình, dân chủ, tơn trọng hồ bình và sự thật. Và giáo dục
được coi là nhân tố trung tâm của các chính sách nhà nước.
Ngồi ra có thể nói việc chăm sóc sức khoẻ và hệ thống bảo hiểm xã hội cơng
cộng tồn diện ngày càng được chú trọng. Tuy nhiên vì lý do q coi trọng cơng nghiệp
hố đất nước, tình trạng ơ nhiễm mơi trường cảnh báo vào những năm 1970, trước tình
hình này chính phủ đã ra sức thiết lập những quy chế kiểm sốt mơi trường nghiêm
ngặt. Nhìn chung cơ sở hạ tầng và hệ thống giao thông, thông tin liên lạc ở Nhật Bản
khá tốt : Nhật Bản nổi tiếng với các con đường tàu điện cao tốc.
IV. Chính phủ và các chính sách ngoại giao:
6


Chính phủ của Nhật trước đây theo thể chế quân chủ lập hiến và cộng hòa đại nghị.
Ngày nay cơ cấu này cũng tương đối chặt chẽ và có 5 đảng phái chính trị lớn nhất:
Đảng dân chủ tự do.
Đảng dân chủ xã hội Nhật Bản (đảng xã hội chủ nghĩa Nhật Bản).
Đảng Komeito.
Đảng cộng sản Nhật Bản.

Đảng xã hội chủ nghĩa dân chủ.
Nhật Bản được chia thành 47 tỉnh thành và có chính quyền địa phương ở cấp tỉnh,
thành phố, thị xã và làng. Trong đó bộ máy tư pháp hoạt động hoàn toàn độc lập với các
ngành hành pháp và lập pháp của chính phủ.
Về chính sách ngoại giao của Nhật Bản:
Các quan hệ đối ngoại dựa trên lập trường chính sách đối ngoại cơ bản của Nhật là
đóng góp vào hồ bình và phồn vinh của thế giới và đồng thời duy trì nền an ninh và
phúc lợi riêng của mình theo cách phù hợp với vị trí của Nhật Bản như một thành viên
của thế giới tự do và như một nước của khu vực Châu Á- Thái Bình Dương.
Trên cơ sở đó chính sách ngoại giao của chính phủ Nhật Bản:
Thứ nhất, thực hiện chính sách ngoại giao như là một thành viên của thế giới tự do
và dân chủ: ý thức này dựa trên những giá trị tự do và dân chủ của các nước khác cơ sở
của quyết định hồ bình, phồn vinh, hợp tác và đồn kết.
Thứ hai, thực hiện một chính sách ngoại giao như là một quốc gia Châu Á- Thái
Bình Dương: Nhật bản có mối quan hệ chặt chẽ với các nước ở khu vực này, không chỉ
về sự gần gũi địa lý, mà còn về kinh tế, văn hoá, lịch sử.
Thứ ba, những hiệp ước thương lượng về một hiệp ước hồ bình với Nga: ký hiệp
ước hồ bình để xây dựng các quan hệ ổn định giữa hai nước trên cơ sở thật sự tin cậy
lẫn nhau.
Thứ tư, những nhiệm vụ của chính sách thương lượng Nhật Bản đảm bảo những
nguyên tắc như đã đề ra. Trong đó có các chương trình viện trợ và giao lưu văn hoá.
Thứ năm, đảm bảo an ninh của Nhật Bản: đây là cơ sở của đối ngoại.
Thứ sáu, đóng góp vào sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế thế giới.
Thứ bảy, sáng kiến hợp tác quốc tế: Hợp tác vì hồ bình.
Mở rộng ODA viện trợ phát triển chính thức, cam kết tơn trọng hồ bình.
7


Đẩy mạnh giao lưu văn hoá: giao lưu quốc tế thơng qua phương tiện văn hố, mở
cửa với các nước, đáp ứng sự quan tâm quốc tế.

Và rất chú trọng đến an ninh quốc gia trên cơ sở liên minh chặt chẽ với Mỹ, dựa
trên hiệp ước Mỹ- Nhật về hợp tác và an ninh chung, thường xuyên cải thiện khả năng
phòng thủ riêng, nâng cấp lực lượng phòng vệ, ngoại giao tích cực.
V. Về kinh tế:
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, kinh tế Nhật Bản phát triển nhảy vọt, và được
coi là hiện tượng thần kỳ Nhật Bản. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hai con số được Nhật
Bản duy trì trong suốt những năm 60 và đầu những năm 70 đã kết thúc bằng cuộc
khủng hoảng dầu mỏ lần thứ nhất (1973-74).
Vào đầu những năm 80, tình hình giá dầu có xu thế giảm, sự phục hồi của đồng
yên., cùng với sự phục hồi của nền kinh tế Mỹ, việc tăng mạnh đầu tư tư nhân và xuất
khẩu giúp kinh tế nhật thoát khỏi khủng hoảng, tốc độ tăng trưởng đã lên tới 4,5%. Sau
đó, nền kinh tế Nhật tiếp tục suy thoái do đồng Yên lên giá. Những chính sách tài
chính, ngân hàng và giảm dư thừa tài khoản hiện hành. Hạ thấp tỉ suất chiết khấu, đầu
tư thêm vào cơng trình cơng cộng, giảm thuế thu nhập.
Đến năm 1986, suy thoái đã chấm dứt, mở đầu thời kỳ hồi phục, duy trì sức mạnh
của mình với tốc độ tăng trưởng 5,3%, hồi phục kinh tế đối ngoại.
Nhưng cho đến 1988-1989, chiến tranh vùng vịnh nổ ra, giá chứng khoáng ở Nhật
sụt giảm cho đến năm 1991 nền kinh tế bị suy giảm trầm trọng. Nhưng trong thời gian
này nền kinh tế Nhật Bản được xem là đứng thứ hai trên thế giới.

8


B. VĂN HOÁ –CON NGƯỜI NHẬT BẢN:

Người Nhật thường kiêu hãnh gọi quê hương mình là “ NIPPON” đọc theo tiếng
Hán-Việt là Nhật Bản, có nghĩa là xứ sở mặt trời mọc. Với lịng tự hào dân tộc, ý chí
quật cường và sức sáng tạo vô biên, người Nhật đã biến quốc gia mình – một đảo quốc
cằn cỗi, tài ngun khơng có gì thành một siêu cường về kinh tế. Quốc tế phải công
nhận rằng sau những đổ nát của chiến tranh, Nhật Bản vực dậy như một hiện tượng

thần kỳ châu á.
Nét đặc trưng của văn hoá Nhật là tính thuần rất cao, khi nói đến nước Nhật, một
điểm độc đáo khá đơn giản là hiếm có một quốc gia nào có được như Nhật đó là chỉ có
một dân tộc. Người Nhật đã từng tự hào rằng: “người Nhật chúng tôi là một trăm triệu
anh em”. Từ đặc điểm này dẫn tới tính cộng đồng của người Nhật cao đặc biệt, do sự
cô lập đại lý, Nhật trải qua một bề dầy lịch sử, tuy có tiếp xúc với nhiều luồng văn hoá
nhưng Nhật vẫn giữ được bản sắc văn hố riêng của mình.
1. Về ngơn ngữ:
Người Nhật sử dụng 4 hệ thống chữ: chữ Hiragana, chữ katakana, chữ Kandi, và
một loại chữ phiên âm quốc tế gọi là chữ Romandi. Loại chữ Kandi, viết theo kiểu hán
tự của Trung Quốc gia nhập vào Nhật Bản từ rất sớm, nhưng được chuyển thể sang các
loại chữ khác mang bản sắc riêng của dân tộc. Người Nhật thường rất tự hào về ngơn
ngữ của mình, nên sử dụng rất nhiều, ngay cả những nhãn mác bao bì hàng hố của các
sản phẩm nhập từ bên ngồi về cũng được dịch sang tiếng nhật.
2. Tôn giáo:
Sự đồng nhất về tôn giáo của Nhật vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của việc
đồng nhất về dân tộc, lịch sử và ngơn ngữ. Ơ Nhật, người dân có quyền tự do tôn giáo,
tôn giáo bản địa là thần đạo (Shinto). Đây là một tính ngưỡng đa thần, vì thế thần đạo
có thái độ bao dung về tơn giáo khác và các vị thần khác. Quyền tự do tín ngưỡng được
hiến pháp đảm bảo.

9


Bên cạnh đó, người dân Nhật cũng rất tin tưởng vào Phật giáo. Chính vì vậy việc
các bàn thờ Phật và bàn thờ đạo Shinto cùng tồn tại trong một nhà khơng có gì lạ, Phật
giáo truyền vào Nhật khác với các nước Châu Á, được giới thống trị tự nguyện chấp
nhận. Khơng một tơn giáo của nước ngồi nào thắng nổi sức mạnh hợp nhất cua Thần
giáo và Phật giáo, và cũng khơng để điều đó xảy ra. Ngày nay, 98% dân Nhật tự xem
mình là tín đồ cả thần giáo lẫn phật giáo. Khơng có tơn giáo nào là trội hơn và mỗi giáo

lý được xem là thể hiện những khía cạnh khác nhau của đời sống con người. Tuy nhiên,
đa số người Nhật nếu có theo đạo thì đều thực hành lễ giáo theo cách có phần trần tục
chứ khơng theo hướng sùng kính. Họ tham gia nghi lễ giống như Mỹ dự lễ phục sinh
hay sửa soạn dạ tiệc Lễ tạ ơn. Người Nhật thường nói “ta sinh ra làm đạo Shinto và khi
chết làm đạo Phật”. Cha mẹ đưa trẻ sơ sinh đến đền Shinto để nhận lễ rửa tội, lễ dâng
cúng cầu xin sức khoẻ vào các lứa tuổi 3,5,7 tại đền Shinto, lễ cưới được ông sư Shinto
tiến hành. Ngược lại đám tang, giỗ hay lễ cầu siêu, linh hồn người chết, người ta nhờ
đến các nhà sư đạo Phật.
Ngồi ra cịn có Hồi giáo, Thiên chúa giáo, Khổng giáo được truyền bá vào Nhật
từ đầu thế kỷ thứ VI, ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng và tập tục của người dân.
3. Lễ hội hàng năm:
Các lễ hội hàng năm gắn liền với sự chuyển mùa ở Nhật Bản.
Cũng giống như Việt Nam lễ hội năm mới cũng được chào đón rất nồng nhiệt và
thời kỳ này gọi là Shogatshu, gia đình sum họp và cùng uống một loại rượu gọi là Sakê,
đảm bảo trường thọ, ăn thứ súp và bánh dầy cúng xoá đi mọi ký ức đắng cay trong năm
qua. Người ta trang trí cổng bằng những cành thơng và kết hoa rơm bảo vệ cổng nhà
khỏi những gì khơng tinh khiết.
Setsubun : là lễ hội vào mồng 3,4/ 2, bằng cách tung những hạt đậu ra quanh nhà
để đuổi ma quỷ.
Hội búp bê : trong ngày này người ta thường uống một loai rượu Sake trắng ngọt.

10


Lễ hội nông nghiệp: cầu khẩn cho một vụ mùa bội thu, những cô gái mặc áo
Kimono tay áo buộc quặt sau, thắt lưng đỏ cấy lúa khi các nhạc cơng gần đấy biểu diễn
trống, sáo và chng.
Ngồi ra cịn nhiều lễ hội quan trọng khác, đa dạng và phong phú, đặc trưng cho
nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc và đặc sắc của người Nhật.
4. Nghệ thuật truyền thống:

Người Nhật thường nổi tiếng có óc thẩm mỹ cao, độc đáo. Có lẽ bị ảnh hưởng bởi
những cảnh đẹp làm say đắm hồn người, mà các nghệ sĩ của Nhật đã tạo ra những tác
phẩm tuyệt mỹ. Tất cả đầu tạo nên một phong thái Nhật thật độc đáo. Các truyền thống
này vẫn còn được giữ nguyên đến ngày nay và được truyền bá đi nhiều quốc gia trên
thế giới. Có lẽ bởi tính cầu kỳ, nghi lễ nhưng cũng rất khéo léo, thuần khiết mà dân tộc
của các quốc gia khác ln muốn tìm hiểu và học hỏi.
Nghệ thuật trà đạo: với các nghi thức uống trà, pha trà, căn phòng nơi nghi lễ
được tổ chức, mảnh vườn sát phòng uống trà, bộ đồ trà, cách trang hoàng, sắp xếp,
những bức tranh hay cách cắm hoa đều được coi là nét riêng của phong cách trà đạo
Nhật Bản, và là thứ vui giải trí mỹ học độc đáo, đây cũng được coi là một nét rút ra từ
thói quen, vẻ đẹp đơn giản hài hồ với thiên nhiên.
Nghệ thuật cắm hoa, xếp giấy thủ công ở Nhật:
Tạo ra sự hài hoà trong các đường nét, nhịp điệu màu sắc của nghệ thuật cắm hoa
Ikebana hay đơn giản, hình tượng như những hình thủ cơng được xếp bằng tay.
Đồ thủ công mỹ nghệ của Nhật cũng rất đặc sắc, ở Nhật có nhiều ngành nghề thủ
cơng, và nổi tiếng với những hình búp bê Nhật mặc Kimono bằng gỗ được chạm trỗ rất
đặc sắc, được đánh giá cao về thẩm mỹ, ngồi ra cịn có các đồ thủ công bằng sơn mài,
gốm, kim loại, đúc, nạm, dệt, và nhuộm.
Về kiến trúc:

11


Nhật nổi tiếng với nhiều đền thờ mang phong cách kiến trúc rất độc đáo của loại
gỗ thiên nhiên, kiến trúc cũng được ảnh hưởng của phật giáo và phát triển theo phong
cách thuần Nhật Bản. Ngày nay việc xây dựng của Nhật Bản cũng rất hiện đại theo
phương pháp chịu được động đất, kỹ thuật kiến trúc sử dụng thép và bê tơng đạt tới
trình độ cao nhất thế giới.
Có thể nói màu u thích của người Nhật là Màu trắng: điều này thường thấy rõ
trong các lễ cưới của Nhật: cô dâu mặc áo Kimono trắng, trang điểm một lớp phấn

trắng lên mặt, điều này được hiểu như sự trong sáng, thuần khiết của cô dâu trước khi
bước về nhà chồng, còn chú rể sẽ mang giầy Sandal màu trắng điều này thể hiện cứ
trong mỗi bước đi của người con trai này đầu hướng một lòng về người vợ, chung thuỷ,
sắc son.
Về văn học:
Có ảnh hưởng của văn hố Trung Hoa xưa, và có tính đa dạng của văn hoá
phương tây, đồng thời cũng tạo ra được giá trị vĩnh hằng của dân tộc. Hai tác phẩm
kinh điển có ảnh hưởng sâu sắc tới ngày nay là Kojiki (cổ sự ký-biên niên các sự kiện
xưa), là một áng văn xuôi. Và Manyoshu – vạn điệp tập, là hợp tuyển thơ gồm 20 tập.
Về sau này ở Nhật rất nổi tiếng về tranh truyện không chỉ trong nước mà cịn phát triển
ở các nước ngồi, đặc biệt là Nurakurocủa tác giả Tagawa Suiho, cũng như khán giả
Việt Nam cũng đã quen thuộc với hình tượng Doremon.
Nghệ thuật biểu diễn ở Nhật cũng khá đặc sắc: các loại hình như nhà hát cổ điển,
nhà hát hiện đại, với nghệ thuật múa, Bunraku, Kabuki… Ngày nay cịn có thể loại múa
hiện đại và hài kịch. Khá đa dạng, phong phú nhưng đều mang bản sắc của dân tộc
Nhật.
5. Về tính cách của người Nhật:
Cũng hết sức đặc biệt, nhờ vào tính cách này mà người Nhật đã biến đất nước
nghèo tài ngun, khí hậu khắc nghiệt của mình thành một cường quốc.

12


Họ là người có óc cầu tiến, rất nhạy cảm với những biến đổi của thế giới. Một dân
tộc nhạy bén cực ký với cái mới, họ không ngừng theo dõi những biến động của thế
giới, đánh giá và cân nhắc những ảnh hưởng của các trào lưu và xu hướng chính đang
diễn ra đối với Nhật. Khi xác nhận được những trào lưu đang thắng thế, họ sẵn sàng
chấp nhận, nghiên cứu và học hỏi để bắt kịp trào lưu đó, khơng để mất đi thời cơ.
Khơng chỉ hướng tới cái mới mà người Nhật cịn ln tìm tịi, cải tiến, đổi mới,
khơng ngừng nâng cao, hồn thiện cơng việc của mình, cải tiến từ những điều nhỏ nhất.

Bên cạnh đó, người Nhật rất trú trọng giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc, thành cơng
trong việc kết hợp các yếu tố hiện đại, và truyền thống, sẵn sàng tiếp nhận cái mới, hiện
đại nhưng vẫn giữ được bản sắc của mình.
Là dân tộc có tinh thần trách nhiệm cao trong tập thể đây là yếu tố đặc trưng vượt
trội khó có thể thấy ở các quốc gia phương đơng khác, trong đời sống người Nhật, tập
thể đóng vai trị quan trọng, thành cơng hay thất bại trong mắt người Nhật đều là
chuyện chung của cả nhóm, bất kể anh làm ra sao, đều ảnh hưởng chung sự cay đắng,
vinh quang mà nhóm đã đạt được. Tập thể nhóm ở đây có thể là cơng ty, trường học
hay hội đồn. Thường gạt cái tơi trong cơng việc để đề cao cái chung, tìm sự hài hồ
của mình và những thành viên khác trong tập thể. Trong các buổi họp, người nhật
thường ít cãi cọ, hay dùng từ ngữ làm mất lịng người khác. Các tập thể cơng ty trường
học, đồn thể chính trị có thể cạnh tranh với nhau gây gắt nhưng tuỳ theo hoàn cảnh và
trường hợp, các tập thể cũng có thể liên kết với nhau để đạt mục đích chung. Điển hình
là hai cơng ty Nhật có thể cạnh tranh trong nước, nhưng khi cần ra nước ngồi, hai cơng
ty có thể liên kết với nhau, cùng cạnh tranh với thị trường quốc tế.
Người Nhật còn khơng thích đối đầu với người khác: bản tính của người Nhật
khơng thích đối kháng, đặc biệt đối đầu cá nhân. Để tránh nó họ ln làm theo sự nhất
trí, chú tâm gìn giữ sự hồ hợp đến mức nhiều khi lờ đi sự thật, bởi dưới con mắt người
Nhật, giữ gìn sự nhất trí đó là thể hiện uy tín và vấn đề cốt tứ. Và cũng vì thế trong xã
hội Nhật rất ít chỗ cho tư tưởng cá nhân, việc hồ nhập hồn tồn vào nhóm thì sẽ được
đền đáp. Ơ Nhật chủ nghĩa cá nhân không được khuyến khích dưới bất cứ một hình

13


thức nào, trong khi đó trái lại với các nước ở phương Tây, vì vậy mà có câu tục ngữ nổi
tiếng: “ cây đinh nào ló lên sẽ bị đóng xuống”.
Trong việc phân tích tình cách của người Nhật, người ta cịn nhận ra một số tính
cách rất đặc trưng, mà nhờ những tính cách này một đất nước khơng dễ bó tay trước sự
đỗ nát, vực dậy thần kỳ:

Họ luôn làm việc theo mục tiêu.
Tôn trọng thứ bậc và địa vị và rất coi cọng tôn ti trật tự, điều này thấy rõ trong
mối quan hệ ở các gia đình Nhật, cũng như quan hệ cấp trên cấp dưới trong các cơng ty
Nhật, chính vì vậy mà ta thường biết tới người Nhật qua các chức vụ mà họ đảm nhiệm.
Cần cù và có tinh thần trách nhiệm cao.
Yêu thiên nhiên và có khiếu thẩm mỹ.
Tinh tế, khiêm nhường: người Nhật luôn giáo dục con cái của họ luôn phấn đấu nỗ
lực cho đất nước, không ỷ lại và luôn cố gắng.
Trong kinh doanh, người Nhật rất coi trọng chữ tín và phát triển mối quan hệ làm
ăn lâu dài.
Chế độ gia đình trong cơng ty Nhật Bản thường dựa vào đạo Khổng nói rằng: một
cơng ty phải được coi là gia đình lớn, lãnh đạo cơng ty được coi như cha mẹ của cơng
nhân viên. Chính vì thế, cơng nhân viên phải kính u, hiếu thuận với lãnh đạo, trung
thành gắn bó với cơng ty. Người lãnh đạo phải thật sự là trụ cột của công ty, chăm lo
cho công ty không phải chỉ với công việc hàng ngày, mà cịn có những suy nghĩ, lập kế
hoạch lâu dài cho cơng ty. Với sự gắn bó, cống hiến có ảnh hưởng đến cơng ty khơng
phải chỉ đương nhiên mà cho tới tận lúc chết.
Đối với tinh thần công ty: công ty luôn huấn luyện họ quán triệt tinh thần làm việc
tập thể. Họ khơng vì đồng lương cao, hay chế độ đãi ngộ tốt hơn mà bỏ sang làm cho
cơng ty khác, tinh thần này có thể nói đã thấm sâu vào người Nhật. Thật vậy, điều này
được thấy rõ tại một trung tâm huấn luyện của công ty Matsushita, sau mỗi buổi tập thể
14


dục đầu giờ, giảng viên sẽ mở lời huấn thị các nhân viên và cùng đọc to: “ chúng tôi xin
thề thực hiện chức trách của công nhân viên chức. Nỗ lực cải thiện xã hội. Cống hiến
sức mình cho sự phát triển nền văn hoá thế giới”.
Cách ra quyết định của công ty Nhật : phần lớn công ty Nhật ra quyết định theo
tập thể, theo chế độ đặc biệt gọi là: “ chế độ văn kiện”. Ý kiến đề xuất được một bộ
phận nêu ra xem xét, nếu đồng ý thì lãnh đạo các bộ phận đó ký tên cùng đánh dấu, neu

khơng đồng ý thì khơng đóng dấu, hoặc đóng ngược lại. Và cuối cùng được trình lên
công ty để ra quyết định. Gần đây để rút ngắn quy trình này, người ta sử dụng các nhóm
đa chức năng, trong đàm phán với người nước ngoài, họ cũng sử dụng cách thức nêu
trên, rồi ra quyết định. Nên thời gian đàm phán với Nhật thường dài, không ngắn gọn
như các nước phương Tây.

15


C. NHỮNG ĐIỀU CẦN LƯU Ý KHI ĐÀM
PHÁN VỚI NGƯỜI NHẬT BẢN

1. Văn hoá trong kinh doanh của người Nhật:
a.Giờ giấc làm việc:
Hầu hết các văn phịng chính phủ Nhật mở cửa khá trễ, bắt đầu từ 9h, và kết thúc
vào lúc 5h, 6h chiều vào những ngày làm việc. Một số công ty hoạt động nửa ngày vào
những ngày thứ bảy. Ngân hàng mở cửa từ 9h sáng đến 3h chiều từ thứ hai đến thứ sáu.
Các cửa hàng mở cửa mỗi ngày từ 10h sáng đến 8h tối, nhưng các cửa hàng bách hố
thì đóng cửa sớm hơn từ 6h đến 7h chiều. Một điều đặc biệt ở Nhật khác với các nước
phát triển khác đó là hệ thống bán lẻ ở Nhật phát triển khá mạnh, quầy bách hố có lẽ
quen thuộc với người dân Nhật, tiện lợi và phù hợp với những bà nội trợ của Nhật, vì
họ chỉ quen ở nhà.
Nhưng ngày làm việc của viên chức khá nặng, bắt đầu từ 9h sáng, có thể đến 11h,
12h tối, điều quan trọng là họ không nhất thiết phải có mặt trong suốt thời gian đó tại
văn phòng. Thường người ta khi rời khỏi nơi làm việc họ thường không về nhà hẳn mà
đi ăn uống với bạn bè hay bạn hàng thuộc cùng sở thích hay trong giới doanh nhân
chung, lúc đó họ cũng có thể bàn chút ít về cơng việc, giao tiếp được coi là rất quan
trọng của ngày công tác.



Một số nhân viên về nhà ngay sau buổi hoạt động giao tế này, cũng có một số người
ở lại văn phịng làm nốt cơng việc hay để có mặt. Họ khơng địi hỏi người nước ngồi
cũng làm việc muộn giờ như họ, nhưng họ lại đánh giá cao những cơng ty nước ngồi
cũng ở lại làm việc trễ giờ như vậy.
b.Tiếp xúc:
Người nhật xem trọng sự tiếp xúc cá nhân, bỏ ra nhiều thời gian để tạo dựng các
mối quan hệ và xây đắp lòng tin. Trong quá khứ và cả hiện nay, dòng họ các mối quan hệ
xã hội, những nơi quen biết có thế lực và uy tín, ln ln là những điều rất quan trọng
về mặt xã hội cũng như trong giới kinh doanh. Vì thế ít có những cuộc đến thăm chiếu lệ.
Tất cả các hợp đồng đều thu xếp thông qua sự giới thiệu của người thứ ba. Để có được
hợp đồng, người nước ngồi phải tìm một người hoặc tổ chức nào giới thiệu. Các văn
phòng ngoại giao hay thương mại của nước bạn thường rất hữu ích. Cùng với mối quan
hệ cá nhân và tài liệu tham khảo, các tổ chức thương mại, các ngân hàng, các lãnh sự
quán, đại sứ quán và văn phịng thương mại nước sở tại có thể làm cơng việc giới thiệu.
Người nước ngồi cũng nên tính đến việc sử dụng những nhà cung cấp, người mua hàng
hoá và dịch vụ chung của cả hai bên. Nếu bạn khơng có người nào quen chung cả hai
phía, có thể gặp các cơng ty luật, kế tốn, tư vấn có văn phịng ở Nhật Bản, để họ giới
thiệu bạn, thường là có trả một món lệ phí. Nếu được tốt hơn nên để cho người đại lý, đại
diện hay nhà phân phối địa phương giải quyết các vấn đề ở địa phương thay cho bạn.
Cũng cần chú ý tới mạng lưới Keiretsu- những mối quan hệ tài chính và phi tài
chính giữa các cơng ty. Mạng lưới này liên kết họ lại thành một dạng sở hữu chéo, chính
thức và khơng chính thức, có trách nhiệm qua lại với nhau. Tính chất này làm cho cơng ty
nước ngồi rất khó thâm nhập vào ngành thương mại.
Khơng nhất thiết chỉ làm việc với các nhân vật đứng đầu công ty. Người Nhật rất để
ý về chức vị nên sau lời giới thiệu nào đầu có thể họ sẽ để cho bạn làm việc với một số
người có cương vị tương đương bạn. Các cơ chế của hầu hết các giao dịch thương mại
của cơng ty thường được phân tích, sắp xếp và cả thương lượng bởi những chuyên viên
cấp dưới. Nhớ phải để ý hết tất cả các thành viên đang làm việc ở phía đối tác, cũng như
17



mọi người trong văn phòng của họ. Nhưng mặt khác nếu làm việc với cơng ty cỡ nhỏ thì
nên hướng ngay những thơng báo của mình với người trưởng ở đó.
c.Gặp gỡ:
Tránh thu xếp các cuộc gặp gỡ vào thời kỳ ba dịp lễ chính kể cả các ngày cuối tuần
tiếp theo: đó là dịp cuối năm và năm mới kéo dài từ 27/12-4/1, dịp tuần lễ hoàng kim, từ
29/4-5/5 và dịp tế Obon vào giữa tháng tám. Vì đến đúng giờ hẹn là điều rất tế nhị ở Nhật
cho nên phải chú ý đến nạn kẹt xe trên đường đi mỗi khi thu xếp các cuộc hẹn.
Có nhiều điều cần lưu ý liên quan tới cuộc gặp đầu tiênv ới một doanh nhân Nhật
Bản, trong đó việc nói những câu nói thích hợp, đưa danh thiếp, cách cuối chào và thảo
luận những chủ đề thích hợp là rất quan trọng. Khi nói đến người nào đó người Nhật
thêm chữ san vào sau tên của họ, điều đó tỏ ra sự tơn trọng. Từ này có nghĩa tương đương
trong tiếng Anh là ông hay bà. Tuy nhiên, không nên thêm san vào sau tên họ của mình
khi nói về chính mình. Người Nhật cịn nói về nhau bằng cách dùng từ chỉ chức vụ của
nhau. Nếu quen dùng từ chỉ chức vụ thì có thể dùng thay tên, chứ khơng được dùng chức
vụ còn kèm theo tên.
Người Nhật sẽ rất hài lịng khi một người bỏ thì giờ để học lấy những câu tiếng
Nhật, đưa danh thiếp thật ra là xác nhận danh tánh của một người, với người Nhật danh
thiếp rất quan trọng, tốt nhất là in danh thiếp một mặt tiếng Nhật, và một mặt tiếng Anh.
Danh thiếp trình lên, phải dùng hai tay, chữ trên danh thiếp phải đưa trước mặt người
nhận. Người nhận danh thiếp phải đọc chậm rãi, cẩn thận để biểu thị lịng tơn kính đối
với người đưa, sau khi đọc xong danh thiếp phải đặt danh thiếp xuống bàn, ngay trước
mặt bạn, để trong lúc bàn luận bạn có thể nhìn thêm và không nhét ngay tờ danh thiếp
vào túi khi bạn vừa nhận.
Việc cuối chào là một nghệ thuật đối với người Nhật, cẩn thận và ý tứ để cuối
người đúng gốc độ và phong cách thích hợp. Khi cuối chào bạn phải duỗi thẳng hai tay
theo dọc thân thể, cả đầu và thân đều duỗi thẳng xuống và đôi mắt của bạn nên nhìn
xuống sàn trước mặt bạn. Hai bàn tay không bao giờ được đút trong túi, không nên bắt

18



chước cách chào của người Nhật, trừ khi đã nắm vững nghệ thuật này, nếu khơng ý tốt có
thể đưa đến một cái chào sai cung cách và có thể làm phật lòng của họ.
Người Nhật thường cười mỉm, và khơng hăng hái trong việc nói đùa. Há hốc miệng
bị xem là thơ lỗ vì hầu hết phụ nữ Nhật Bản đều che miệng khi cười. Khi ngồi hai chân
phải đặt vững trên nền nhà và hai tay đặt lên đùi hay lên ghế.
Hầu hết người Nhật đều không quen nói chuyện kinh doanh với phụ nữ, vì kinh
doanh trên quốc tế phát triển, những dịp đàn ông Nhật đàm phán với phụ nữ không phải
cũng đã tăng nhiều, nếu bạn là phụ nữ nước ngoài, người Nhật sẽ thấy lúng túng khi nói
chuyện kinh doanh với bạn, nhưng cũng đừng nên bận tâm về điều đó, tránh trường hợp
khúc mắc có thể làm cho bên đối tác của bạn lúng túng. Với sự kiên nhẫn và khéo léo,
dần dần bạn sẽ tranh thủ được sự tôn trọng. Nhưng bạn đừng nghĩ rằng có thể tạo được
mối quan hệ gần gũi với họ.
Khi có điều kiện bạn hãy trao đổi thông tin bằng văn bản về công ty của bạn cũng
như đề nghị cụ thể của bạn ngay từ đầu hoặc trước cuộc gặp. Người Nhật rất chuộng kỹ
thuật và họ rất thích thú được tiếp xúc với những sự giời thiệu và sơ đồ rõ ràng, được
minh hoạ có tính chuyên nghiệp.
Cuộc gặp lần thứ nhất chủ yếu là để làm quen, nhiều khi phía đối tác Nhật Bản
nhiều cộng sự của họ cùng dự cuộc gặp. Bạn hãy bắt đầu cuộc họp bằng những câu nói
vui vui, nhẹ nhàng như nhận xét về thời tiết hay cảm tưởng ban đầu của bạn khi đến
Nhật. Tốt hơn nên tránh khơng nên nói ngay vào những vấn đề cịn đang bàn cãi. Tránh tỏ
ra nóng nảy, bực dọc trong thái độ, lời nói, hoặc cách cư xử. Người Nhật thơng thạo cách
cư xử với những biểu thị nóng nảy. Đối tác người Nhật có thói quen ăn nói nhỏ nhẹ, thái
độ chững chạc, đây không phải biểu hiện của một cá tính yếu đuối mà vì họ xem đó như
là biểu hiện của người khôn ngoan, kinh nghiệm và tuổi tác.
d. Cách ăn mặc:
Trong hoạt động kinh doanh và giao tế, người Nhật thường trang phục đàng hoàng
chững chạc- gần giống như các nước phương Tây. Đàn ông mặc com-lê và cà-vạt, nữ thì
mặc com-lê nữ hay loại áo nữ khơng l loẹt là thích hợp cho mọi tình huống hoạt động

19


doanh thương, kể cả cho các buổi liên hoan, giao tế. Vào những dịp nghỉ ngơi thư giãn
hay dịp mời nhau đi chơi gôn, quần rộng và áo sơ mi thể thao được chấp nhận cho quý
ông và quần rộng hay váy được chấp nhận cho quý bà. Bất cứ khi nào người Nhật cũng
ăn bận thẳng thớm chững chạc. Quần áo phải sạch sẽ, là phẳng nếp và sơ mi luôn bỏ
trong quần.
e. Tặng quà:
Ơ Nhật Bản tặng quà và nhận quà được coi là nét đẹp riêng biệt. Với người Nhật
tặng quà không hẳn là một cách bày tỏ lịng biết ơn hay tình cảm mà là một nhu cầu đã
được thể chế hoá để tạo dựng và duy trì mọi hình thức quan hệ, kể cả quan hệ kinh
doanh. Quà tặng trong giới kinh doanh Nhật cũng thiết yếu như những bữa tiệc trong
kinh doanh. Giới kinh doanh Nhật ln giữ danh sách những món q họ đã nhận. Với
người Nhật món quà là sự biểu hiện của sự trân trọng không diễn tả bằng lời.
Người Nhật hiếm khi bỏ lỡ dịp trao q. Khơng có dịp nào họ cho là không đáng
trao quà. Mỹ tục tặng quà dường như diễn ra rất thường xuyên ở Nhật. Người Nhật có
nhiều dịp để tặng quà: cưới xin, sinh nhật, ngày lễ, khai trương làm ăn, cho đến thăng
quan tiến chức, kết thúc thương vụ, tiếp khách… Ngoài ra có nhiều dịp tặng q bắt
buộc: Ochugen- kì nghỉ giữa hè, Oseibo (tất niên). Mỗi năm 2 lần vào tháng 7 và 12 công
ty phát những khoảng tiền lương hàng năm khá lớn cho nhân viên, đây là cơ hội cho
những người mua quà tặng nhau.
Bên cạnh đó là quà của sự hàm ơn và đáp ơn người giúp mình khơng vụ lợi. Tặng
q cho người bệnh và gia đình có người chết, địi hỏi rất nghiêm ngặc, q chỉ là tiền,
hoa quả hoặc trà
Mỗi người có một sở thích riêng. Nhưng họ kị quà có số lượng 4 hoặc 9 . Họ rất
thích được tặng rượu, trẻ con thích đồ chơi đẹp, kẹo, phụ nữ thích tranh ảnh đồ dùng
trang trí nhà cửa.
Nhà kinh doanh có thể chọn ra nhiều ngày để tặng quà cho khách hàng quan trọng
và những người giúp họ. Việc thiếu quà trong dịp oseibo là sự thất lễ.


20


Khi đến Nhật làm ăn, mang theo quà lưu niệm, món quà là đặc thù cho xứ sở nào
càng tốt. Khơng cần thiết món q phải cho người nhận món quà sử dụng. Doanh nhân
Nhật sẽ rất vui nếu bạn biết rõ gia đình anh ta và mang quà cho bọn trẻ.
Cũng nên mang quà tới nhà người Nhật khi được mời cho dù đã được nhiều lần.
Khi chọn quà quan trọng là phải theo nguyên tắc của Nhật về vai vế. Cẩn thận chớ
làm mất lòng một nhân vật cao cấp bằng món quà trị giá ngang hay thua món quà giành
cho cấp dưới của anh ta. Cũng thường tặng quà thật đắt tiền khi tiến hành những thương
vụ quan trọng như lập liên doanh hay kí hợp đồng lâu dài. Hình thức bên ngồi quan
trọng ngang với gia trị vật chất. Khơng được tặng q khơng có giấy gói, nên gói quà
bằng 2 tờ giấy trắng gấp mép từ bên phải sang bên trái, tốt nhất là nên gói quà, hay là có
giấy mang biểu tượng của nhà cung cấp nổi tiếng, họ không ưa những kiểu thắt nơ chéo 4
phía và để tự nhiên vì họ thích dùng tay mở nhẹ nhàng và trân trọng, quà được cho vào
một túi để tỏ sự khiêm tốn của người cho. Phong thái tặng quà của người Nhật được đề
cao: tặng quà phải trao 2 tay kèm theo cúi đầu và nói câu khiêm tốn về món quà dù có đắt
tiền đến mấy nhằm mục đích thể hiện sự tin tưởng và tầm quan trọng của mối quan hệ.
f. Am thực và việc sắp xếp chỗ ngồi:
Phong cách ẩm thực của người Nhật khá đặc biệt, họ cho rằng nguyên tắc duy nhất
trong bàn ăn là khuyến khích những gì diễn ra tự nhiên. Vì thế, nếu ăn mì nóng, dĩ nhiên
ta phải húp xì xụp để khỏi phỏng mơi. Nếu uống trà nóng ta cũng phải uống nhanh để nó
mau nguội, nếu uống bia khơng cận nén hơi ợ. Nếu ăn thức ăn trong chén nhỏ như súp
miso (bột đậu) hay cơm thì bưng chén lên để dễ ăn và khỏi rơi vãi là một việc tự nhiên.
An ngấu nghiến là một hành động có ý nghĩa tích cực. Nhưng thực ra phong cách ăn
uống của người Nhật không phải là tự nhiện mà là kiểu cách, thậm chí nghi thức, chỉ cần
chứng kiến một tiệc trà trịnh trọng của họ là ta có thể thấy được.
Ơ Nhật, một nhân viên có thể bị gián chức vì bố trí sai chỗ ngồi vào một dịp quan
trọng, có cấp lãnh đạo tham dự. Việc sắp xếp chỗ ngồi ở nhà riêng, nhà hàng và thậm chí

trong văn phịng trong các cuộc gặp là tất quan trọng và phải chu đáo. Ai ngồi ở đâu là
một vấn đề tế nhị, ngay cả trong các cuộc gặp nhỏ, khách Nhật sẽ cảm thấy được đối đãi
21


tử tế khi được xếp chỗ ngồi theo các quy tắc nghi thức. Muốn xếp chỗ ngồi cho khách
Nhật đúng cách, cần biết một số điều về các căn phòng theo lối cũ của Nhật. Mỗi căn
phịng chính thức theo lối cũ của Nhật có một Tokonoma, đây là một khoang riêng biệt
dọc theo bức tường của căn phòng dùng làm nơi danh dự. Tokonoma được xác định bởi
một tác phẩm nghệ thuật treo ở đó. Nó được xem là chỗ tốt nhất trong phòng. Vị khách
cao cấp nhất sẽ ngồi quay lưng vào tokonoma hay nơi tương đương. Không bao giờ được
mời khách ngồi quay lưng về phía cửa phòng, các vị khách khác thấp hơn, được ngồi ở cả
hai bên ông ta, theo thứ tự cấp bậc giảm dần. Nhóm chủ nhà ngồi ở phải bên trái của
nhóm khách, vị cao nhất ngồi gần nhất với nhóm khách. Những người khách ngồi tiếp
theo ở mặt không phải bên phải của những người khách rất cao, tất là đối diện với chủ
nhà.
Không ai trong bữa ăn kiểu Nhật được ăn trước khi người có vai vế nói
Itadakimasu, nghĩa là “tôi tham dự bữa ăn này nhé”. Câu này diễn tả sự cám ơn đối với
những người đã tham gia làm bữa ăn. Từng người đều tự động nói “Itadakimasu” trước
khi ăn. Bữa ăn chính thức kết thúc khi từng người nói “Gochisosamadeshita”, nghĩa là
ngon tuyệt quá.
Dụng cụ dùng để ăn ở Nhật là đũa. Khi ăn xong, ai trả tiền? Ở Nhật không bao giờ
người ta chia nhau trả bất kể số tiền là bao nhiêu. Trả tiền là một việc phải làm thật tế nhị
và dành cho người cấp dưới. Thường người ta đã sắp đặt trước việc trả tiền. Nhiều khi
cơng ty, chủ nhà có một tài khoản tại nhà hàng hay quán rượu và họ không cần phải động
tĩnh gì về chuyện thanh tốn khi có mặt khách.
2. Đàm phán với người Nhật Bản:
Để tiến hành công việc với các công ty Nhật được dễ dàng, nhà doanh nghiệp cần
xác định được cho mình sẽ phải làm gì, đi đâu để lấy thơng tin và chuẩn bị những gì
trước khi ký kết một hợp đồng. Điều đó sẽ tạo điều kiện cho q trình cho q trình đàm

phán diễn ra nhanh chóng và tránh được những hiểu lầm.
i. Giai đoạn tiền đàm phán:



Bước đầu trong đàm phán:
22


Điều cốt yếu nhất, trước mọi cuộc giao dịch với một công ty Nhật Bản là phải xác
định đối tượng và cách tiếp cận đối tượng. Có nghĩa là một khi cơng ty bạn có ý định sẽ
làm ăn với một cơng ty Nhật, thì trước hết bạn phải thu thập được thơng tin chung cần
thiết về đối tác đó, bạn phải để ý tới tiềm năng và địa vị của đối tác: họ là nhà sản xuất,
nhà bán lẻ hay một cơng ty thương mại. Để có thể thu nhập được những thông tin chung
cần thiết về đối tác đó, cũng như về thị trường Nhật ngay tại nước mình, các doanh
nghiệp có thể liên hệ với các tổ chức hỗ trợ, thúc đẩy xuất khẩu ở nước mình như Phịng
thương mại, Bộ thương mại và các Bộ có liên quan, Đại sứ quán, Lãnh sự quán Việt
Nam, các nhà Việt Nam tại Nhật Bản. Các tổ chức và cơ quan này có thể cung cấp cho
bạn những thơng tin về cách thức tiến hành việc xuất khẩu vào thị trường, những đòi hỏi
của thị trường đối với các vấn đề nhập khẩu, đồng thời họ cũng có thể giới thiệu cho bạn
những nơi có thể tiếp xúc ở nước nhập khẩu. Ngồi ra cũng có thể liên lạc với văn phòng
của JETRO (tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản) tại nước mình để lấy thơng tin về thị
trường Nhật. Tham gia trực tiếp vào các hội chợ thương mại cũng là một cách giao dịch
rất hiệu quả. Hoặc có thể liên hệ với các cơng ty Nhật thơng qua các văn phịng, chi
nhánh của họ tại nước mình, vì một trong các chức năng của các văn phịng đại diện của
các cơng ty Nhật tại nước ngồi là giới thiệu các đối tác tiềm năng cho trụ sở chính tại
Nhật. Điều này sẽ giúp bạn thu thập những thông tin cần thiết.
Khi bắt đầu tiếp cận, bạn cần nhớ rằng việc công ty Nhật không trả lời đề nghị của
bạn khơng hẳn là cơng ty đó khơng quan tâm đến đề nghị đó, đừng vội bỏ cuộc. Vì các
quyết định về những dự án lớn cần phải có thời gian và việc trả lời có thể bị trì hỗn.

Trong trường hợp này bạn cần tìm được cách tiếp cận thích hợp và tìm cơ hội để nhắc lại
đề nghị ban đầu của mình, tránh thái độ nơn nóng, hấp tấp vì người Nhật sẽ cho rằng thái
độ nơn nóng có nghĩa là bạn đang âm mưu gì đó đối với họ.
Để đảm bảo việc đàm phán diễn ra sn sẻ, bạn nên giới thiệu mình trước để được
sắp xếp các cuộc gặp mặt. Ở Nhật việc hẹn gặp làm việc với cơ quan của chính phủ hay
với các cơng ty qua điện thoại là một điều khó khăn, nên thông thường việc tiếp xúc giữa
nhà xuất khẩu và một khách hàng tiềm năng thường được thực hiện thông qua sự giới
thiệu của một người trung gian. Người Nhật coi trọng một đối tác nếu người đó được sự
giới thiệu của một người hay một tổ chức có uy tín nhiều hơn là gửi thư chào hàng hoặc
23


gửi mẫu mã, catalog qua bưu điện. Người trung gian có thể là người quen hoặc là tổ chức
xúc tiến thương mại như JETRO, KEIDANREN (Liên đoàn các tổ chức kinh tế), JCC
(Phịng thương mại và cơng nghiệp Nhật) và các hiệp hội mậu dịch khác.



Chuẩn bị cho đàm phán:

Để cho cuộc đàm phán có hiệu quả hơn, trước khi thực sự tiến hành đàm phán bạn
cần phải chuẩn bị hai bước sau đây:
- Bước 1: tìm hiểu thị trường Nhật:
Nên tiến hành các cuộc thăm dò nghiên cứu một cách toàn diện về đặc điểm và
dung lượng của thị trường Nhật. Trên cơ sở đó, xác định sản phẩm của bạn được định vị
trên thị trường Nhật như thế nào, khối lượng sản phẩm, giá cả và nhóm khách hàng, bên
cạnh đó, việc nghiên cứu mã HS sẽ cung cấp thơng tin về các loại thuế đánh vào hàng
hố nhập khẩu vào Nhật.
- Bước 2:
Phải chuẩn bị đầy đủ những thông tin cần thiết về công ty và sản phẩm của mình để

giới thiệu cho khách hàng. Khách hàng không những chỉ quan tâm đến giá của sản phẩm
mà còn quan tâm đến các điều kiện giao dịch khác như chất lượng sản phẩm và khả năng
cung cấp hàng hố ổn định của cơng ty bạn. Người Nhật thường thích trực tiếp xem hàng
cụ thể hơn là những lá thư chào hàng, vì vậy bạn nên chuẩn bị đầy đủ các tài liệu bao
gồm cả số liệu về khả năng sản xuất và công nghệ của công ty để đảm bảo thuyết phục
được đối tác. Có thể đem theo các mẫu sản phẩm, catalog, các tài liệu công nghệ, máy
móc trang thiết bị sản xuất và các nguyên liệu dùng cho sản xuất.
ii. Đàm phán:
Quá trình đàm phán bắt đầu bằng việc giới thiệu sản phẩm mẫu và sau đó tiến tới
thảo luận các điều kiện giao dịch. Các vấn đề cần phải đàm phán có thể bao gồm: chất
lượng, nguyên liệu, thiết kế, quy cách phẩm chất, số lượng, giá cả, thời hạn giao hàng,
phương thức vận chuyển và thanh tốn… Các quyết định có thể do một trưởng phòng là
24


người được quyền ra quyết định trên một phạm vi nhất định, tuỳ thuộc vào quy mô của
giao dịch và nội dung của hợp đồng. Một khi vấn đề được nêu ra vượt quá khả năng ra
quyết định của người đàm phán thì việc quyết định sẽ dựa trên nguyên tắc thống nhất,
việc đưa ra quyết định kiểu này thường mất rất nhiều thời gian, do đó chúng ta phải kiên
nhẫn vì nếu quyết định đã được thơng qua thì việc đàm phán coi như đã thành công.
Phong cách đàm phán của người Nhật:
 Trong đàm phán người Nhật luôn tỏ ra rất lịch lãm, ơn hồ, khiêm nhường, thái
độ cung kính, bình tĩnh nhưng ẩn dấu đằng sau vẻ bề ngồi đó là ý nghĩ “Tơi thắng, anh
bại”. Họ coi đàm phán như cuộc đấu tranh thắng bại, vừa phải giành chiến thắng vừa phải
giữ được nghi lễ, thể diện. Họ khơng thích đối đầu trực tiếp mà thường dùng những chiến
lược và chiến thuật đặc biệt như: thay đổi thị trường, đưa ra sản phẩm mới, đề xuất những
điều kiện, điều khoản đặc biệt và im lặng. Có những lúc đàm phán người Nhật bỗng ngồi
im khơng nói năng gì, tựa lưng vào ghế, hai mắt nhắm trong một thời gian dài, nếu như
khơng chuẩn bị trước phía đối tác sẽ rất lúng túng, không biết phải xử sự ra sao.
 Khi lần đầu tiên làm việc với một đối tác nước ngồi, phía Nhật thường thơng qua

mạng lưới thơng tin của mình tìm hiểu kỹ về đối tác. Trước khi đàm phán chính thức,
phía Nhật thường mời đối tác đi dùng tiệc, dạ hội, tham quan thắng cảnh… để tìm hiểu
đánh giá lại đối tác. Vì vậy muốn làm việc thành công với công ty Nhật ta cũng phải tìm
hiểu kỹ về họ.
 Trong đàm phán người Nhật thường tìm mọi cách để nắm quyền chủ động về thời
gian, dẫn dắt quá trình đàm phán. Họ thường tìm cách kéo dài thời gian, lợi dụng tâm lý
khơng muốn về tay khơng của đối tác nước ngồi, để dồn ép ký hợp đồng theo ý của phía
Nhật. Để đối phó với chiến thuật này, bạn cần giữ kín lịch trình, tỏ ra khơng chịu áp lực
về thời gian và chủ động đưa ra điều kiện của mình để tranh thủ sự đồng ý của phía Nhật.
 Người Nhật khơng thích hợp đồng q cụ thể tỉ mỉ, chi tiết, cứng nhắc, khơng thể
thay đổi. Họ quan niệm: hồn cảnh điều kiện thay đổi thì hợp đồng cũng có thể thay đổi
theo. Họ thích những hợp đồng khơng qúa chặt chẽ, họ cho rằng hợp đồng phải lấy thành

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×