Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

Ths CTH thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện thới lai, thành phố cần thơ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1014.49 KB, 121 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................1
Chương 1..................................................................................8
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.................................................8
VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ..........................................8
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN..............................................8
1.3. ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC
THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ.......................................24
Chương 2................................................................................32
QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN THỚI LAI, THÀNH PHỐ CẦN THƠ GIAI ĐOẠN 2011 2016.................................................................................32
2.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA HUYỆN THỚI LAI,
THÀNH PHỐ CẦN THƠ......................................................32
2.3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN THỚI LAI, THÀNH PHỐ CẦN THƠ..........................53
Chương 3................................................................................58
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SƠ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
THỚI LAI, THÀNH PHỐ CẦN THƠ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY...................................................................................58
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN DÂN
CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THỚI LAI, THÀNH
PHỐ CẦN THƠ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY....................58


3.1.2. Phương hướng nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ ở
cơ sở trên địa bàn huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ
trong giai đoạn hiện nay..................................................60
3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở
CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THỚI LAI, THÀNH PHỐ CẦN


THƠ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY....................................62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................84
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CĨ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN............................................89
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH

:

Công nghiệp hóa

HĐH

:

Hiện đại hóa

HĐND

:

Hội đồng nhân dân

HTCT

:

Hệ thống chính trị

KTXH


:

Kinh tế - xã hội

MTTQ

:

Mặt trậnTổ quốc

QCDC

:

Quy chế dân chủ

QPAN

:

Quốc phòng - an ninh

UBND

:

Ủy ban nhân dân

XHCN


:

Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục
tiêu, đồng thời là động lực đảm bảo thắng lợi của cách mạng, của công cuộc
đổi mới do Đảng ta khởi xướng, đây là một quan điểm cách mạng khoa học
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trong những năm qua, từ nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò, tầm quan
trọng của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, Đảng và Nhà nước đã có những
quyết sách và luôn tôn trọng, phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân, do
đó đã vận động, tập hợp được lực lượng toàn dân tham gia xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, cách mạng nước ta đã liên tục đạt được những thành quả to lớn
trên mọi lĩnh vực, nhất là trong cơng cuộc đổi mới tồn diện hiện nay. Quyền
làm chủ của nhân dân trong mọi mặt của đời sống xã hội đã được ghi nhận
trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục ghi nhận và mở rộng
hơn nữa các quyền của con người, các quyền đó được cụ thể hố bằng các chủ
trương, nghị quyết của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước, nhằm phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn
của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị xã hội, tăng cường đại
đoàn kết của toàn dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng,
Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Xã, phường, thị trấn (gọi tắt là cơ sở) là địa bàn sinh sống, lao động và
sản xuất, là nơi diễn ra sự tiếp xúc hằng ngày giữa nhân dân và chính quyền,

là nơi tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của nhân dân; đồng thời, là
nơi đảm bảo nhu cầu được biết, được bàn và được tham gia giải quyết những
vấn đề đặt ra ở cơ sở của nhân dân, cũng là nơi nhân dân thực hiện quyền
kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ, cơng chức chính quyền cơ sở. Để


2
phát huy dân chủ và thực hành dân chủ rộng rãi ở xã, phường, thị trấn, Bộ
Chính trị đã ra Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18 tháng 02 năm 1998 về thực hiện
dân chủ cơ sở; tiếp sau đó Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định thể chế hóa
chủ trương của Đảng về thực hiện dân chủ cơ sở. Hiện nay các nghị định này
đã được nâng lên thành pháp lệnh. Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQHK11
ngày 20 tháng 4 năm 2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn (gọi tắt là Pháp lệnh dân chủ cấp xã) đã thổi một
luồng sinh khí mới vào đời sống sinh hoạt chính trị, xã hội ở các địa phương
trong cả nước, nâng cao nhận thức về quyền làm chủ của nhân dân, thu hút
nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, giám sát hoạt động của chính quyền,
khắc phục tình trạng suy thối, quan liêu, mất dân chủ, tham nhũng,… tại cơ
sở. Pháp lệnh dân chủ cấp xã đã góp phần mang lại hiệu quả thiết thực trong
phát triển KTXH, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia tích cực xây dựng
nơng thơn mới.
Q trình thực hiện các chỉ thị, nghị định, pháp lệnh của Trung ương,
các văn bản chỉ đạo của Thành ủy, UBND thành phố Cần Thơ về thực hiện
dân chủ ở cơ sở đã tạo bầu khơng khí dân chủ, cởi mở hơn trong xã hội, thực
hiện tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân, củng cố thêm lòng tin của nhân dân
vào chế độ, từ đó, tạo thêm động lực thúc đẩy việc thực hiện các nhiệm vụ
KTXH, QPAN ở địa phương, các ngành; rõ nhất là trên lĩnh vực phát triển
kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng ở cơ sở, xây dựng nếp sống văn hố ở nơng
thơn và đô thị; làm chuyển biến một bước về ý thức và phong cách làm việc
của cán bộ Đảng, chính quyền, đồn thể theo hướng gần dân, tơn trọng nhân

dân và có trách nhiệm với dân hơn. Có tác động tích cực tới việc xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền, phát huy vai trị của MTTQ và các đồn thể.
Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra, việc triển khai thực hiện dân chủ ở cơ
sở trên địa bàn huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ vẫn còn nhiều hạn chế.
Nhận thức về thực hiện dân chủ cơ sở của một số cấp ủy, chính quyền địa


3
phương, của cán bộ, đảng viên, trong đó có một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt
chưa đầy đủ. Một số quy định của Đảng và Nhà nước về thực hiện dân chủ
chưa được cụ thể hóa phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương (những
việc dân phải được biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra…). Tình trạng phân
hóa giàu nghèo có xu hướng gia tăng. Thu nhập bình qn đầu người cịn thấp
so với bình qn chung cả nước. Điều kiện tiếp cận các dịch vụ giáo dục, văn
hóa trong nhân dân chưa đồng đều. Trước tình hình đó, để phát huy những
mặt tích cực, đồng thời khắc phục những tồn tại, yếu kém trong quá trình thực
hiện dân chủ cơ sởtrên địa bàn huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ hiện nay
sẽ góp phần thúc đẩy phát triển KTXH và hội nhập quốc tế vì mục tiêu “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là hết sức cần thiết.
Với ý nghĩa trên, tác giả chọn vấn đề “Thực hiện dân chủ ở cơ sở trên
địa bàn huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ hiện nay” làm đề tài luận văn
thạc sĩ khoa học chính trị, chun ngành Chính trị học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Vấn đề thực hiện QCDC ở cơ sở trong những năm gần đây đã được
nhiều người quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ, phạm vi rộng, hẹp khác
nhau, cụ thể như sau:
* Về sách:
- Dương Xuân Ngọc, Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn [44].
- Nguyễn Cúc, Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện

nay, một số vấn đề lý luận và thực tiễn [21].
- Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông, Thực hiện quy chế dân chủ và xây
dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay [19].
- Phạm Văn Bính, Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh [8].
- Hồng Chí Bảo, Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nơng thơn trong tiến
trình đổi mới [6].


4
- Nguyễn Phú Trọng, Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân [51].
- Lê Minh Qn, Về q trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay [45].
* Về các luận văn, luận án:
- Nguyễn Thị Tâm, Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ với việc thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay [48].
- Nguyễn Thị Xuân Mai, Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong các
trường trung học phổ thông trên địa bàn Hà Nội hiện nay - Thực trạng và
giải pháp [40].
* Về tạp chí, báo, hội nghị, hội thảo:
- Đặng Đình Tân, Đặng Minh Tuấn, “Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế
dân chủ ở cơ sở” [49].
- Lương Gia Ban, “Chung quanh những vấn đề quy chế dân chủ ở nước
ta hiện nay” [2].
- Trần Bạch Đằng, “Dân chủ ở cơ sở một sức mạnh truyền thống của
dân tộc Việt Nam” [24].
- Trịnh Ngọc Anh, Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng hệ
thống chính trị ở cơ sở vững mạnh [1].
- Phạm Ngọc Quang, “Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình đổi
mới: thành tựu, vấn đề và giải pháp” [46].

- Lê Xuân Đình, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và vấn đề thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” [36].
- Hồng Chí Bảo, Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chính thể dân chủ
và nhà nước pháp quyền để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, tại trang
[truy cập ngày 02/7/2017].


5
Ngồi ra cịn rất nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học,
các đề tài đã được nghiệm thu, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, về vấn đề
dân chủ và dân chủ hóa ở nước ta.Tuy đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu
về vấn đề thực hiện QCDC ở cơ sở, song có thể nói chưa có cơng trình nào đi
sâu nghiên cứu cụ thể vấn đề thực hiện dân chủ ở cơ sở của huyện Thới Lai,
thành phố Cần Thơ. Chính vì vậy, đề tài “Thực hiện dân chủ ở cơ sở trên đia
bàn huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ” không trùng lắp với các đề tài khoa
học đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
Đề tài nghiên cứu tìm hiểu và làm rõ khái niệm, nội dung, thực trạng và
những vấn đề đặt ra trong thực hiện dân chủ ở cơ sở; qua đó, đề xuất các giải
pháp để thực hiện có hiệu quả dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Thới Lai,
thành phố Cần Thơ trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về dân chủ trong việc thực
hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ;
- Nghiên cứu, phân tích, làm rõ thực trạng thực hiện dân chủ ở cơ sở
trên địa bàn huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ thời gian qua;
- Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu thực tiễn, xác định các nguyên tắc
phương pháp luận đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ
ở cơ sở trên địa bàn huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực hiện dân chủ cơ sở dưới góc độ khoa học
chính trị, chủ yếu là thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; từ đó, đề xuất
các giải pháp tiếp tục nâng cao hiệu quả việc thực hiện dân chủ ở cấp xã trên
địa bàn huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu


6
- Phạm vi nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu chủ yếu việc thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu việc thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn
trên địa bàn huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu thực trạng thực hiện dân chủ ở xã, thị
trấn trên địa bàn huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ trong giai đoạn từ năm
2011 đến 2016.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản
Việt Nam và pháp luật của Nhà nước về vấn đề thực hiện dân chủ ở cơ sở.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hóa khoa học.
- Luận văn dựa trên các quan điểm đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước trong thời kỳ đổi mới.
- Luận văn cũng kế thừa có chọn lọc các cơ sở lý luận và thực tiễn
nghiên cứu của các nhà khoa học. Đồng thời, sử dụng các tài liệu liên quan
đến tình hình thực tiễn trên địa bàn huyện.

- Trên cơ sở thu thập các tài liệu có liên quan và khảo sát tình hình thực
tế tại một số địa phương trên địa bàn. Luận văn sử dụng các phương pháp
thống kê, phân tích - tổng hợp và phương pháp so sánh để làm rõ những vấn
đề nêu trên.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Luận văn có những đóng góp về khoa học trên một số nội dung sau:
- Tổng hợp và làm rõ thêm một số khía cạnh lý luận cơ bản về dân chủ
và thực hiện dân chủ ở cơ sở.


7
- Phân tích, đánh giá thực trạng về việc thực hiện dân chủ ở cơ sở trên
địa bàn huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ từ 2011 đến 2016, chỉ ra những
thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng.
- Đề xuất có căn cứ khoa học phương hướng và những giải pháp đồng
bộ, khả thi nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa
bàn huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.


8

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ

1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN


1.1.1. Khái niệm dân chủ
Trong tri thức nhân loại, dân chủ được coi là một cụm từ có được từ “sản
phẩm của nền văn minh”, là điều kiện và tiêu chuẩn tiến bộ xã hội. Dân chủ
trong lịch sử thường được nhận diện như một phạm trù đa nghĩa với bản chất
nhiều thứ bậc, do vậy, dân chủ được xem xét ở nhiều phương diện khác nhau.
Nhìn từ khía cạnh tổng quát, dân chủ bao gồm một tổ hợp các giá trị
nhân bản, duy lý và cao đẹp. Dân chủ là sự hòa hợp giữa các giá trị: tự do, bình
đẳng, sự thống nhất trong tính đa dạng. Ở mức độ này, dân chủ được hiểu như
một lý tưởng mà con người khao khát hướng đến và cố gắng thực hành trong
cuộc sống. Những nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại cho rằng, để có một xã hội tốt
đẹp thì dân phải có quyền lực mạnh nhất, cao nhất, từ đó xuất hiện khái niệm
"dân chủ" (Demokratia) có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân.
Các cơng trình nghiên cứu đều chỉ ra rằng: Dân chủ với tư cách là hiện
tượng chính trị gắn liền với xã hội có giai cấp, nó mang tính giai cấp nên chế
độ dân chủ cần được xem xét trong mối tương quan với chế độ nhà nước. Hai
chế độ này nhiều khi khác nhau, đối lập nhau, nhưng về cơ bản thì tồn tại
khơng thể thiếu nhau. Dân chủ có liên hệ chặt chẽ với bản chất của nhà nước,
với chức năng, nhiệm vụ và hình thức nhà nước. Nhiều cách hiểu đã được đưa
ra nhưng về cơ bản đều quy tụ về bản chất “Dân chủ tức là chính quyền của


9
nhân dân”; “Chế độ dân chủ, đó là một nhà nước thừa nhận việc thiểu số phục
tùng đa số”; “Nếu không khinh thường lẽ phải và lịch sử, ai cũng thấy rõ ràng
chừng nào mà cịn có những giai cấp khác nhau thì khơng thể nói đến “dân chủ
thuần t” được, mà chỉ có thể nói đến dân chủ có tính giai cấp” [38, tr.304].
Như vậy, dân chủ trước hết là thuộc tính của nhà nước, trong đó người
dân thể hiện quyền làm chủ của mình, kể cả quyền tạo lập và kiểm sốt quyền
lực nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm bằng quyền năng của Nhà
nước, thông qua các phương thức thực hiện quyền lực nhà nước để nhân dân

thực hiện các quyền của mình.
Nếu xuất phát từ cách hiểu như trên, dân chủ trong hiện thực đời sống
sẽ liên quan đến quan niệm về ba yếu tố: 1/ Nhân dân; 2/ quyền lực công cộng
và 3/ tính chất trực tiếp của mối quan hệ giữa nhân dân và quyền lực công
cộng trong sở hữu quyền lực công cộng.
Điểm khác nhau căn bản giữa cách hiểu về dân chủ trong thời cổ đại
với thời hiện đại là ở cách quan niệm về phạm trù nhân dân và tính chất trực
tiếp của mối quan hệ sở hữu quyền lực cơng cộng. Đã là một nền dân chủ thì
nó phải chứng tỏ quyền lực thuộc về nhân dân. Nhưng nhân dân mang nội
dung thế nào lại tùy thuộc vào các thời đại khác nhau mà xác định. Chế độ
dân chủ nào thì nhà nước cũng là của nhân dân, nhưng sự khác nhau giữa chế
độ dân chủ này với chế độ dân chủ khác là ở chỗ nhân dân là ai và ai trong
nhân dân có thực quyền. Điều này nói nên nội dung bản chất giai cấp của dân
chủ. Khơng có dân chủ trừu trượng, bao giờ dân chủ cũng có nội dung cụ thể,
xác định. Trong xã hội ai là nhân dân mới có dân chủ và trong nhân dân thì
quyền lực thực sự, cuối cùng khơng phải lúc nào cũng thuộc về tất cả nhân
dân. Như vậy, dân chủ chỉ là một nhưng nó bị chế ước bởi những điều kiện
kinh tế, văn hóa, xã hội ở các thời đại và các quốc gia khác nhau.


10
Trong tiếng Việt, thuật ngữ dân chủ có ba hàm nghĩa: chỉ chế độ xã hội;
chỉ quyền của người dân và chỉ một phương thức công tác, phong cách quản
lý,lãnh đạo. [52, tr.137].
Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Dân chủ là có quyền tham gia, bàn bạc
vào cơng việc chung, được tôn trọng quyền lợi của từng thành viên trong xã
hội”. Dân chủ là khái niệm để chỉ “Chế độ chính trị theo đó quyền làm chủ
thuộc về nhân dân”.
Ban đầu, khái niệm dân chủ được xem xét về mặt chính trị và pháp luật,
về sau mang ý nghĩa rộng hơn, thể hiện ở các lĩnh vực đời sống xã hội như

kinh tế, VHXH, mối quan hệ giữa con người, giữa cá nhân với cộng đồng,
giữa công dân với nhà nước…
Khi xã hội loài người chưa phân chia giai cấp, dân chủ được thể hiện
dưới hình thức tự quản của cộng đồng. Mọi thành viên có quyền tham gia và
quyết định những công việc chung. Khi lực lượng sản xuất phát triển, năng
suất lao động tăng lên, sản phẩm làm ra dư thừa, xuất hiện chế độ tư hữu, xã
hội phân chia giai cấp và mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt, hình thức tổ
chức xã hội nhà nước ra đời, trạng thái sơ khai của dân chủ dần bị tan rã. Với
sự xuất hiện của nhà nước, quyền lực cộng đồng xã hội chuyển hoá thành
quyền lực nhà nước. Dân chủ mang bản chất giai cấp và trở thành mục tiêu
đấu tranh, giành, giữ và phát triển của nhân loại.
Lịch sử của dân chủ cũng cho thấy các giai cấp thống trị khác nhau
hiện thực hiện chế độ dân chủ theo lập trường và lợi ích của mình. V.I.Lênin
tổng kết: “Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình
thái của nhà nước. Cho nên cũng như mọi nhà nước, chế độ dân chủ là việc
thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta”. [39, tr.123].


11
Đặc trưng cơ bản của quá trình chuyển đổi quyền lực từ chế độ cộng
sản nguyên thủy sang chế độ chiếm hữu nô lệ là quyền lực của nhân dân được
thể hiện trong các tổ chức tự quản theo tập quán, truyền thống (của xã hội
cộng sản nguyên thủy) biến thành quyền lực của giai cấp thống trị (trong xã
hội chiếm hữu nơ lệ) được thể chế hố bằng chế độ nhà nước với sự cưỡng
bức là chủ yếu. Chế độ dân chủ gắn với một chế độ xã hội cụ thể và một giai
cấp cầm quyền nhất định, đó là chủ nô.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, chế độ phong kiến ra đời
thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ. Quyền lực xã hội bị thâu tóm vào tay nhà
vua, quyền dân chủ của nhân dân lao động bị thu hẹp.
Với sự phát triển của nền đại công nghiệp, thương nghiệp, quan hệ sản

xuất phong kiến dần bị xóa bỏ. Giai cấp tư sản ra đời, nền dân chủ tư sản xuất
hiện với nhiều mặt tiến bộ so với các chế độ dân chủ trước đó nhưng phạm vi
của nó chỉ bó hẹp trong một bộ phận là giai cấp tư sản. Khái niệm tự do, dân
chủ, bình đẳng bị che lấp bởi quan hệ bóc lột. Nhân dân lao động và người
nghèo vẫn chưa được hưởng quyền dân chủ thực sự.
Khi giai cấp công nhân cùngvới nhân dân lao động đánh đổ ách thống
trị của giai cấp tư sản, giành chính quyền, thiết lập nền dân chủ XHCN, quyền
làm chủ của nhân dân mới trở thành thực chất.
Mục đích cao nhất của nền dân chủ XHCN là giải phóng con người và
xã hội lồi người, xây dựng một xã hội khơng có giai cấp, mọi người đều bình
đẳng, tự do; đây là nền dân chủ tiến bộ nhất. Nền dân chủ XHCN có cơ sở
kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; tác động mạnh mẽ đến các
quyền tự do về chính trị, tư tưởng, văn hóa và các lĩnh vực khác.
Ở nền dân chủ XHCN, những giá trị dân chủ được thể chế hóa thành
pháp luật, thành HTCT, trong đó nhà nước là trụ cột. Dân chủ là mục tiêu,


12
động lực của phát triển. Các giá trị dân chủ trở thành phổ biến, chi phối mọi
hoạt động của đời sống xã hội. Mọi công dân và tổ chức xã hội đều có khả
năng nhận thức, vận dụng làm chủ bản thân và làm chủ xã hội. Theo C.Mác:
Một nền dân chủ thật sự phải gắn liền với sự nghiệp của nhân dân “Chế độ
dân chủ là câu đố đã được giải đáp của mọi hình thức chế độ nhà nước ngày
càng hướng tới cơ sở hiện thực của nó, tới con người hiện thực, nhân dân hiện
thực và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân”. [42, tr.349]. Dân
chủ XHCN là dân chủ của đa số nhân dân lao động, được thực hiện bằng nhà
nước “của dân, do dân, vì dân”, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Trong nền dân chủ XHCN, nhà nước là công cụ quyền lực để thực hiện ý
chí, nguyện vọng của nhân dân, luôn chịu sự giám sát của nhân dân. Nhà nước
và nhân dân có mối liên hệ chặt chẽ, thường xuyên. Cán bộ, công chức nhà nước

là người đại diện cho pháp luật để bảo vệ nhân dân. Để tồn tại và khẳng định rõ
vị thế, nhà nước phải đề ra những cơ chế, biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa, xử lý
tệ quan liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm trong cán bộ; giữ vững kỷ luật, kỷ
cương, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức pháp luật.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, quan hệ sản xuất XHCN
đang trong quá trình phát triển, dân chủ từng bước được hoàn thiện nên quyền
dân chủ của nhân dân có lúc, có nơi chưa được thực hiện đầy đủ. Sau cuộc
cách mạng lật đổ ách thống trị của giai cấp phong kiến, nền dân chủ mới được
hình thành. Trong giai đoạn đổi mới, Đảng tập trung lãnh đạo thực hiện nhiệm
vụ xây dựng và phát triển cơ sở vật chất cho nền dân chủ XHCN. Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng, phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể, trong đó có tư tưởng về
dân chủ. Bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN ngày càng được củng cố,
đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
1.1.2. Khái niệm dân chủ cơ sở và thực hiện dân chủ cơ sở


13
Nếu xét từ khía cạnh quan hệ thứ bậc mang tính pháp lý của cấu trúc
hành chính, lãnh thổ và chỉnh thể HTCT thống nhất ở nước ta thì cơ sở là cấp
thấp nhất; tuy nhiên, cơ sở không đơn thuần là cánh tay nối dài của cấp trên.
Cơ sở là địa bàn cư trú của nhân dân, là nơi diễn ra mọi hoạt động sinh sống
và làm ăn của nhân dân lao động, vì vậy nói tới cơ sở là nói tới vai trị chủ thể
của người dân và hình thức tổ chức các hoạt động sống của cộng đồng, các
mối quan hệ xã hội.
Cơ sở là nơi trực tiếp nhất của thực tiễn, thể hiện ý thức và năng lực
làm chủ của nhân dânbằng cả phương thức dân chủ đại diện và dân chủ trực
tiếp, cũng là nơi đầu tiên đối mặt với những yêu cầu bức xúc của dân chúng
với những mâu thuẫn, thậm chí cả những xung đột nảy sinh trong đời sống
dân sự. Trong hệ thống quản lý, cấp cơ sở là cấp cuối cùng nhưng lại là cấp

đầu tiên và trực tiếp nhất với tư cách nền tảng xây dựng chế độ dân chủ của
toàn HTCT. Cơ sở tuy là cấp thấp nhất nhưng lại là tầng sâu nhất mà sự vận
hành của thể chế chính trị từ vĩ mơ phải tác động tới, là địa chỉ quan trọng
nhất mà mọi chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước phải tìm đến, phải bằng mọi cách tổ chức, tuyên truyền, vận động
làm cho dân hiểu, dân tin, dân làm. Cơ sở còn là cấp hành động và tổ chức
hành động, nghĩa là cấp tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Cơ sở cũng không chỉ là cấp thực hiện chức năng lãnh
đạo và quản lý của Nhà nước mà còn là nơi diễn ra các hoạt động tự quản của
cộng đồng xã hội, quản lý với tự quản đan xen vào nhau, các thể chế quản lý,
pháp luật Nhà nước và các quy ước của thôn, làng, ấp, bản tồn tại song hành
với nhau. Cấp cơ sở là nơi chính quyền trong lòng dân, cán bộ cơ sở từ dân
mà ra, là cấp có nhiều lợi thế và khả năng nhất để giảm thiểu xuống mức thấp
nhất những thói tật quan liêu, hành chính, mệnh lệnh, tệ nạn tham ơ, tham
nhũng; mặt khác, cán bộ ở cơ sở là người sở tại, làm việc tại cơ sở, hàng ngày


14
sinh sống, làm việc và quan hệ trực tiếp với dân, bị chi phối, ràng buộc rất
mạnh mẽ bởi quan hệ họ hàng, thân tộc, bởi các truyền thống, phong tục, tập
quán, lối sống làng xã.
Dân chủ cơ sở là sự phản ánh vị thế quyền lực của nhân dân trên địa
bàn cơ sở. Xã, phường, thị trấn là nơi trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước, là nơi kiểm nghiệm một cách chính xác
nhất đường lối của Đảng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa trong
thực tiễn khách quan. Thực hiện dân chủ ở cấp xã là toàn bộ q trình hiện
thực hóa các quyền thể hiện sự tham gia của cơng dân vào chu trình thực hiện
quyền lực tại cơ sở. Khi nghiên cứu nhóm quyền này thì dân chủ, với ý nghĩa
là quyền tự nhiên tối cao nhất của con người được thực hiện trước hết là ở cơ
sở. Với tư cách chủ thể quyền lực, người dân tại cơ sở có quyền có đại diện

của mình, có quyền trực tiếp được biết, được bàn, được tham gia giải quyết và
kiểm tra giám sát mọi hoạt động quyền lực diễn ra tại cơ sở.
Như vậy, do bản chất của dân chủ ở cơ sở là phát huy quyền làm chủ
mọi mặt của người dân ở cơ sở nên dân chủ cơ sở là một phương thức hỗn
hợp để thực hiện dân chủ. Dân chủ cơ sở bao gồm trong nó cả hình thức dân
chủ đại diện và hình thức dân chủ trực tiếp, hướng tới mục tiêu hiện thực hóa
quyền lực của chủ nhân quyền lực tại địa bàn cơ sở. Ngồi ra, dân chủ cơ sở
cịn thể hiện ở quyền tham gia ý kiến với tư cách cá nhân vào các vấn đề nảy
sinh tại cơ sở có liên quan đến quyền và lợi ích của chính họ, của các cá nhân
khác hoặc của Nhà nước. Theo đó, ý kiến của một số nhà nghiên cứu cho
rằng, tham gia cũng có thể được xem là một hình thức thực hiện dân chủ
mang đặc thù của dân chủ cơ sở: “Thực hiện dân chủ cơ sở được thơng qua
bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau, cụ thể là dân chủ trực tiếp,
dân chủ đại diện và dân chủ tham gia” [26, tr.58].


15
Ở Việt Nam, thực hiện dân chủ cơ sở được biểu hiện trước hết ở sự tồn
tại và hoạt động của các thiết chế đại diện của nhân dân, bao gồm: HĐND cấp
xã và các đoàn thể nhân dân. Đây là các thiết chế do nhân dân lập ra và trực
tiếp ủy quyền lực nhân dân, thay mặt nhân dân để thực hiện quyền lực của
nhân dân. Thông qua hoạt động của các thiết chế này, người dân tham gia vào
quản lý nhà nước, quản lý xã hội và kiểm soát hoạt động của Nhà nước, buộc
hoạt động quyền lực nhà nước vận hành trong quỹ đạo phục vụ nhân dân.
Tuy nhiên, trong các QCDC ở cơ sở, chẳng hạn như QCDC ở xã,
phường, thị trấn có rất nhiều loại công việc cần được đưa ra trưng cầu ý kiến
của nhân dân để các cấp có thẩm quyền tham khảo trước khi quyết định. Mặc
dù kết quả trưng cầu ý kiến trong QCDC ở xã, phường, thị trấn được xác định
là “để tham khảo” nhưng bản thân việc đưa ra trưng cầu ý kiến là bắt buộc.
Ngồi loại hình trưng cầu ý kiến “để tham khảo” các quy chế cũng đã

có những quy định việc lấy ý kiến nhân dân có “tính chất quyết định”. Hình
thức lấy ý kiến nhân dân có tính chất quyết định đã được quy định cụ thể
trong quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã, như sau:
- Chủ trương và mức đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng và các cơng
trình phúc lợi công cộng (điện, đường, trường học, trạm y tế, nghĩa trang, các
cơng trình văn hóa,thể thao);
- Xây dựng hương ước, quy ước ấp văn hóa, nếp sống văn minh, giữ
gìn an ninh trật tự, bài trừ các hủ tục, mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội;
- Các cơng việc trong nội bộ cộng đồng dân cư thôn, ấp phù hợp với
quy định của pháp luật hiện hành;
- Thành lập Ban giám sát các cơng trình xây dựng tại địa phương do
dân đóng góp, xã hội hóa và từ nguồn ngân sách Nhà nước;


16
- Tổ chức bảo vệ sản xuất, kinh doanh giữ gìn an ninh trật tự, an tồn
giao thơng, vệ sinh môi trường và các hoạt động khác trên địa bàn xã.
Như vậy, mặc dù có sự phân biệt các nội dung giữa dân chủ trực tiếp,
dân chủ đại diện và dân chủ tham gia nhưng dân chủ trực tiếp là hình thức
phổ biến và dễ thực hiện nhất tại cơ sở. Các nội dung “dân bàn và quyết định
trực tiếp” chính là những biểu hiện của dân chủ trực tiếp theo nghĩa hẹp, cổ
điển nhất. Bên cạnh đó, các nội dung “dân bàn, biểu quyết, tham gia ý kiến để
cấp có thẩm quyền quyết định” và “dân tham gia kiểm tra, giám sát” là những
biểu hiện của dân chủ trực tiếp theo nghĩa rộng và được sử dụng rộng rãi ở
Việt Nam từ trước đến nay.
Dân chủ cơ sở là một địi hỏi tất yếu của q trình thực hiện và phát
huy dân chủ ở Việt Nam hiện nay. Thực hiện tốt và đẩy mạnh dân chủ cơ sở
không chỉ đơn thuần là một phản ứng chính trị của Đảng và Nhà nước trước
tình hình phức tạp của những điểm nóng ở cơ sở mà nó thể hiện cái nhìn
hướng tới cơ sở, coi trọng cái gốc ở cơ sở nên nó mang tính chiến lược, căn

bản, lâu dài.
1.2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH, QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng dân chủ của
C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin vào điều kiện cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh,
đã đề ra những quan điểm, giải pháp sát với yêu cầu thực tiễn, phù hợp với xu
thế khách quan để xây dựng một nền dân chủ mới gắn liền với sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng con người trong thời đại mới.
Khi bàn về vai trị dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong
bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân. Trong thế giới này khơng gì mạnh


17
bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” [43, tr.279]. Người cho rằng làm cách
mạng phải biết dựa vào sức dân, dựa vào quần chúng. Là cán bộ, đảng viên
phải khơng ngừng rèn đức, luyện tài, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư,
chống tham ơ, lãng phí, xây dựng một thiết chế vững mạnh để thực hành dân
chủ. Dân chủ là động lực, là sức mạnh để xây dựng một xã hội ấm no, tự do,
bình đẳng, hạnh phúc; dân chủ không chỉ là quyền lực thuộc về nhân dân mà
làm sao để nhân dân được hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền của mình
để thể hiện trách nhiệm, bổn phận.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa quyết định của dân chủ, nên
ngay từ khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ quan
điểm về dân chủ trong việc xây dựng Nhà nước Việt Nam là: Nhà nước của
dân, nhà nước do dân và nhà nước vì dân. Trong đó, Nhà nước của dân là tất
cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân.
Nhân dân lao động làm chủ nhà nước tất yếu dẫn đến hệ quả là nhân dân có
quyền kiểm sốt nhà nước. Cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại
biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kế, dân sinh. Nhà nước do

dân là nhà nước do dân tạo ra và nhân dân tham gia quản lý. Hồ Chí Minh
khẳng định: Việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm. Nhà
nước vì dân là nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu. Tất
cả đều vì lợi ích của nhân dân; ngồi ra, khơng có bất cứ một lợi ích nào khác.
Một nhà nước vì dân là từ Chủ tịch nước đến cơng chức bình thường đều phải
làm cơng bộc, làm đày tớ cho nhân dân. Mọi công chức, từ nhân viên đến Chủ
tịch nước đều do dân ủy thác cho và phải phục vụ nhân dân.
Để thực hiện quyền làm chủ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân
khơng chỉ có quyền mà điều quan trọng là phải có năng lực làm chủ. “Mọi
người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình,


18
phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước
nhà” [43, tr.40].
Thực hiện tư tưởng của Người, kể từ khi thành lập đến nay (03/02/1930),
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi dân chủ là nội dung quan trọng của đường
lối cách mạng. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh
thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội ln gắn bó mật thiết với nhau. Nội dung dân chủ trong
giai đoạn đầu của cách mạng là đem lại ruộng đất cho dân cày. Sau cách mạng
dân tộc dân chủ thành công, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam chuyển
sang giai đoạn mới, cách mạng XHCN nhằm mục đích giải phóng xã hội, giải
phóng con người, phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở trình độ cao hơn,
toàn diện hơn để xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, đem lại ấm no, hạnh
phúc và những giá trị tiến bộ, cao cả cho nhân dân.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1976) của Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định việc xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN là một trong bốn
mục tiêu cơ bản của cách mạng XHCN. Đến Hội nghị lần thứ tám (6-1985),
khóa V, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã cho rằng: “Phải dứt khốt xóa

bỏ tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ và
hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa thì mới đẩy mạnh được sản
xuất kinh doanh có hiệu quả”.
Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ VI (1986), mở đầu sự nghiệp đổi
mới của Đảng đã khẳng định “Đổi mới phải lấy dân làm gốc”. Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh:
Xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động
làm chủ và toàn bộ tổ chức hoạt động của HTCT nước ta trong giai đoạn mới


19
là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, đảm bảo
quyền lực thuộc về nhân dân [25, tr.19].
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), tiếp tục khẳng định:
Xây dựng nền dân chủ XHCN là một nội dung cơ bản của đổi mới HTCT ở
nước ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đối với các chủ trương, chính sách lớn của
Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông
qua đại diện, làm chủ trực tiếp và các hình thức tự quản tại cơ sở [26, tr.43].
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) đã tạo nên một
bước ngoặt lớn, được đánh giá là đại hội của trí tuệ, dân chủ, đồn kết và đổi
mới. Tại Đại hội, nội dung dân chủ được nêu thông qua tổng kết tồn bộ q
trình lãnh đạo cách mạng từ 1930 đến 2001. Đại hội đã khẳng định, sức mạnh
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh làm chủ của nhân dân là động
lực chủ yếu để thực hiện thắng lợi mục tiêu “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” [30,
tr.22].
Để phát huy sức mạnh của nhân dân trong thời kỳ mới, Đại hội đề ra
chủ trương củng cố và nâng cao chất lượng HTCT ở cơ sở, nhất là vấn đề

thực hành dân chủ trong nội bộ các tổ chức. Đại hội xác định, thực hành dân
chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của HTCT ở cơ sở theo nguyên tắc tập
trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên cơ sở thực hiện
quyền dân chủ trực tiếp, phát huy dân chủ đại diện, quy định cụ thể việc thực
hiện quyền giám sát của nhân dân đối với các tổ chức và cán bộ cơ sở; củng
cố, tăng cường mối quan hệ giữa hệ thống chính trị với dân theo phương
châm “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân, nghe
dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”.


20
Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, nhận thức về vấn đề dân chủ
và thực hành dân chủ trong Đảng, trong xã hội đã có nhiều bước phát triển
mới, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI sửa đổi (Điều 9) nêu rõ:
“Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội
dung cơ bản của nguyên tắc đó là: Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu
cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, cơ quan lãnh đạo cao
nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Tổ chức đảng và đảng viên phải
chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng
cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức…”.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định: Xã hội
XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát
triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước

trên thế giới [32, tr.70].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ
sung, phát triển năm 2011) cũng chỉ rõ: Dân chủ XHCN là bản chất của chế
độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng
và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm dân chủ được thực
hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn
liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được
pháp luật bảo đảm [39, tr.84-85].


21
Nhằm khắc phục những hạn chế, khuyết điểm trong công tác xây dựng
Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng trong
giai đoạn mới, Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
đã ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay”. Nghị quyết chỉ ra một số khuyết điểm trong việc phát huy dân chủ trong
đảng: “Các nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình
ở nhiều nơi vừa bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể
để làm cơ sở cho công tác kiểm tra, giám sát” [33, tr.24]. Đó là cơ sở làm nảy
sinh bệnh mất dân chủ, độc đoán, gia trưởng, thiếu đoàn kết thống nhất trong
nội bộ các tổ chức đảng: Phải phát huy thật sự dân chủ trong Đảng, thực hiện
nghiêm túc Quy chế chất vấn trong Đảng, nhất là chất vấn tại các kỳ họp của
Ban Chấp hành Trung ương và cấp ủy đảng các cấp. Đổi mới việc lấy phiếu
tín nhiệm để đánh giá, nhận xét cán bộ theo hướng mở rộng đối tượng tham
gia [32, tr.24,30].
Đến Hội nghị lần thứ bảy, khóa XI, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đã thảo luận và nhất trí thơng qua Kết luận: “Một số vấn đề về tiếp tục đổi
mới, hồn thiện hệ thống chính từ Trung ương đến cơ sở” và ban hành Nghị
quyết số 25-NQ/TW, ngày 03/ 6/2013 “Về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với cơng tác Dân vận trong tình hình mới”. Đây là những đột

phá về nội dung, phương thức lãnh đạo, tăng cường phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, phát huy vai trò của Nhà nước, của MTTQ và các đồn thể
nhân dân, từ đó tạo phong trào quần chúng rộng lớn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (2015), cho thấy lần
đầu tiên, phát huy dân chủ XHCN được Đảng ta khẳng định là một trong
những thành tố hợp thành chủ đề Đại hội và cũng là thành tố trong tiêu đề của
Báo cáo chính trị. Nội dung dân chủ XHCN, tinh thần dân chủ XHCN được
thể hiện xuyên suốt, nhuần nhuyễn, sâu sắc trong toàn bộ các văn kiện của


22
Đại hội cũng như trong từng mục nội dung cụ thể của các văn kiện, nhất là
trong Báo cáo chính trị. Cũng lần đầu tiên, trong văn kiện Đại hội XII, Đảng
ta đã dành một mục riêng (mục XIII của Báo cáo chính trị: Phát huy dân chủ
XHCN, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân) để trình bày, đánh
giá một cách sâu sắc tình hình, thành tựu, hạn chế; nguyên nhân của thành
tựu, hạn chế và các phương hướng, nhiệm vụ phát huy dân chủ, bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân [34, tr.103].
Bên cạnh đó, Đảng ta tiếp tục khẳng định và diễn đạt chuẩn xác bài học
về vai trò của nhân dân và vai trò của dân chủ XHCN trong đổi mới, phát
triển đất nước. Trước đây ta thường nói lấy dân làm gốc, lần này nói dân là
gốc. Đây là sự kết tinh tinh thần của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và bài học sâu sắc từ chính thực tiễn
hơn 30 năm đổi mới [41, tr.13].
Từ những phân tích trên cho thấy, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân
dân; dân là chủ và dân làm chủ xã hội. Quyền lực đó là tối cao. Trong xã hội
có giai cấp, quyền lực ấy được uỷ quyền cho giai cấp cầm quyền để tổ chức
thành quyền lực chính trị nhằm quản lý xã hội mà trung tâm quyền lực là Nhà
nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, không phải lúc nào nhân dân lao động cũng
là chủ thể đích thực của quyền lực Nhà nước.

Dân chủ XHCN là một bước tiến trong quá trình phát triển và hồn
thiện cơ chế thực thi dân chủ. Chỉ có chế độ dân chủ XHCN nhân dân lao
động mới thật sự là chủ và làm chủ. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động
thiết lập được những cơ chế đảm bảo cho nhân dân tham gia thực hiện và
kiểm sốt quyền lực của mình. Dân chủ XHCN là đỉnh cao trong sự phát triển
về phương thức thực thi dân chủ và là sự kết tinh những giá trị dân chủ đã đạt
được trong lịch sử. Tuy nhiên, cũng như dân chủ nói chung, nền dân chủ
XHCN tiến dần từ thấp đến cao cùng với sự phát triển của chế độ XHCN.


23
Đảng và nhân dân ta đã và đang nỗ lực thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân chủ, khẳng định “dân là chủ” và “dân làm chủ”. Đó vừa là địa vị của
dân trong một xã hội dân chủ vừa là quyền và nghĩa vụ của công dân trong
nhà nước pháp quyền.
Trong thực tế, quan liêu, tham nhũng, xa dân, vơ trách nhiệm với dân,
thậm chí “vơ cảm” trước nỗi khổ, sự oan ức của dân… đều là đối lập với dân
chủ, xa lạ với bản chất đích thực của dân chủ. Vi phạm dân chủ và dân chủ
hình thức cũng vậy, nó đều làm tổn hại tới giá trị thực tế của dân chủ với
những biểu hiện của quan liêu: Xa dân, không tin dân, ghét dân, khinh dân,
cửa quyền, hách dịch, thậm chí cịn lợi dụng và lạm dụng chức quyền để trục
lợi, vụ lợi, tham ô, tham nhũng, gây hại tới dân như Hồ Chí Minh đã chỉ ra.
Nhận thức đúng vai trò của dân, của dân chủ gắn liền với pháp luật để xây
dựng văn hóa trọng dân và trọng pháp. Do đó, thành tựu về nhận thức lý luận
và chuyển biến tích cực bước đầu trong thực tiễn về dân chủ là chú trọng đề
cao pháp luật, trau dồi đạo đức công vụ ở các cơ quan công quyền, trong ứng
xử hằng ngày với dân, từ Đảng đến Nhà nước và các đoàn thể.
Như vậy đủ hiểu vì sao, Hồ Chí Minh gắn chặt Dân với dân chủ, dân
chủ với dân vận, với Đại đoàn kết dân tộc để mọi người, mọi việc, mọi tổ
chức đều vì dân, đều phải đặt cơng việc phục vụ dân lên hàng đầu, tất cả phải

“dĩ công vi thượng”, phải “quang minh chính đại”, phải đủ bốn đức làm người
- cần, kiệm, liêm, chính, phải suốt đời thi hành một nền chính trị liêm khiết,
thanh khiết, từ trên xuống, từ dưới lên. Coi dân chủ như một giá trị tài sản, nó
như “tư liệu sản xuất” của chính trị mà người dân, công dân của Nhà nước
pháp quyền đóng vai trị chủ sở hữu dân chủ, nên Hồ Chí Minh chỉ rõ, “dân
chủ là của quý báu nhất trên đời của dân” và “thực hành dân chủ rộng rãi sẽ là
chiếc chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi cơng việc, vượt qua mọi khó
khăn”. Người đã nhận ra vai trò động lực của dân chủ ngay từ những ngày


×