1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Xuyên suốt tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh ln quan niệm “Dân là
chủ” và “Dân làm chủ”. Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân
chủ, Đảng ta đã đề ra những chủ trương, chính sách để đề cao và phát huy dân
chủ trong nhân dân, thể chế hóa các chủ trương, đường lối đó thành pháp luật
và đảm bảo thi hành.
Thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998 Bộ Chính trị khóa
XIII về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Nghị định số
29/1998/NĐ-CP ngày 11/05/1998 (sau được thay thế bằng Nghị định số
79/2003/NĐ-CP ngày 07/07/2003) ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn. Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XI đã ban hành Pháp lệnh
số 34/2007/PL-UBTVQH11 (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh số 34) ngày
20/04/2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã ra đời. Đây là
những văn bản pháp lý quan trọng, đánh dấu một bước phát triển về thực hiện
dân chủ và sự thể chế hoá phương châm ''dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra'' của Đảng nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân ngay từ cơ sở.
Thời gian qua, ở tỉnh An Giang nói chung và huyện Tịnh Biên nói
riêng, việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã đạt được kết quả đáng
kể và tương đối tồn diện, góp phần bảo đảm quyền lực thực sự của nhân dân
trong xây dựng Nhà nước, quản lý xã hội; kiện toàn nâng cao chất lượng hoạt
động của HTCT ở cơ sở; phát triển kinh tế, xã hội; bảo đảm an ninh, quốc
phòng và trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy
việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn còn nhiều hạn chế,
yếu kém, đặc biệt là ở vùng có đơng đồng bào dân tộc Khmer sinh sống. Các
vấn đề liên quan đến trình độ nhận thức, yếu tố dân tộc và tôn giáo ảnh hưởng
khá mạnh đến việc thực hiện dân chủ tại các địa phương này. Quyền làm chủ
của nhân dân còn chưa được thực hiện một cách đầy đủ, quyền dân chủ trực
2
tiếp của nhân dân còn bị vi phạm. Một bộ phận nhân dân, đặc biệt là đồng bào
Khmer, chưa biết và chưa thấu hiểu về thực hiện dân chủ ở cơ sở, chưa nhận
thức đầy đủ quyền và lợi ích của mình khi tham gia các quan hệ xã hội, nhất
là quan hệ với chính quyền cơ sở.
Bên cạnh đó, một số quy định của pháp luật còn chưa phù hợp với
thực tiễn, tính khả thi khơng cao, đã ít nhiều ảnh hưởng đến hiệu quả thực
hiện dân chủ ở cơ sở hiện nay. Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (gọi
chung là xã), đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc ln là vấn đề mang tính thời
sự. Với lý do trên, tác giả chọn đề tài: Thực hiện dân chủ ở cấp xã vùng
đồng bào Khmer, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang hiện nay làm luận văn
thạc sĩ, chun ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những nội dung liên quan đến vấn đề thực hiện dân chủ ở cơ sở nói
chung và ở xã, phường, thị trấn nói riêng được nhiều nhà khoa học, những
người làm công tác lý luận nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau,
đưa ra những luận cứ khoa học phân tích làm rõ khái niệm, bản chất, vai trò
quan trọng của dân chủ, dân chủ ở cơ sở, thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ
sở; những thành công, hạn chế và những vấn đề đặt ra trong xây dựng và thực
hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở nói chung và từng địa phương nói riêng,
được cơng bố dưới dạng đề tài khoa học, chuyên đề, luận án tiến sĩ, luận văn
thạc sĩ và các bài báo đăng tải trên các tạp chí, sách, báo.... Đáng chú ý là một
số cơng trình nghiên cứu như:
- "Quan hệ giữa thực thi Quy chế dân chủ ở cơ sở với xây dựng chính
quyền cơ sở nơng thơn", của Nguyễn Văn Sáu [36].
- Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, của Dương Xuân Ngọc [31]. Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận tác giả đã
làm rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã,
phân tích đánh giá thực trạng của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã,
3
đưa ra những giải pháp phù hợp cho việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã
của nước ta trong điều kiện mới.
- Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước
ta hiện nay, của Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông [37]. Nội dung của cuốn
sách được rút ra từ những kết quả khảo cứu, nghiên cứu của tập thể tác giả
tiến hành ở nhiều địa phương trên cả ba miền đất nước và có tham khảo kinh
nghiệm ở một số nước. Qua nội dung cuốn sách cho thấy trong thời gian qua,
chính quyền cơ sở đã tích cực thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, nhiều
nơi đã triển khai quy chế dân chủ cơ sở có hiệu quả cùng nhân dân làm nên
những thành tựu đổi mới trong phát triển kinh tế làm thay đổi bộ mặt nông
thôn và thành thị. Tuy nhiên, trong q trình xây dựng, chính quyền cơ sở cịn
bộc lộ những khuyết điểm, yếu kém trong cơng tác lãnh đạo, tổ chức và vận
động nhân dân. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, mất đoàn kết, vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân cịn xảy ra ở khơng ít nơi, quy chế dân chủ cơ sở
chưa được triển khai đầy đủ, có nơi chưa đi vào cuộc sống...
- Vũ Văn Hiền (2004), Dân chủ ở cơ sở qua kinh nghiệm ở Thụy Điển
và Trung Quốc [28] Cuốn sách tập hợp các bài viết của các nhà khoa học
nghiên cứu về vấn đề bảo đảm quyền dân chủ của người dân ở cơ sở trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội qua kinh nghiệm thực hành dân chủ ở
Thụy Điển và Trung Quốc.
- Cuốn sách: Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình
đổi mới, của Hồng Chí Bảo [6]. Nội dung của cuốn sách bao gồm sáu vấn đề
lớn: Ý thức dân chủ của người Việt Nam từ lịch sử đến hiện đại; Dân chủ
XHCN và quy chế dân chủ ở cơ sở; Quan hệ giữa thể chế chính thống và phi
chính thống trong việc củng cố, xây dựng HTCT ở cơ sở nông thôn hiện nay;
Tác động của quy chế dân chủ ở cơ sở đối với việc thực hiện xố đói giảm
nghèo ở nơng thơn từ góc nhìn đánh giá chính sách; Tâm lý làng xã trong việc
thực hiện dân chủ ở cơ sở và tăng cường văn hoá pháp luật ở nông thôn đồng
4
bằng Bắc Bộ hiện nay; Những bài học kinh nghiệm từ các địa phương về quá
trình triển khai, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và một vài khuyến nghị.
Nhìn chung, các bài viết, các cơng trình nghiên cứu của các tác giả
nêu trên đã tập trung làm rõ cơ sở lý luận, ý nghĩa thực tiễn của việc thực hiện
dân chủ ở cơ sở, đồng thời phân tích, lý giải yêu cầu, cách thức tổ chức, biện
pháp... để thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở một các khá sâu sắc. Do vậy, những
tài liệu nêu trên sẽ là nguồn tư liệu tham khảo bổ ích đối với tác giả.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1.Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những vấn đề lý luận về thực hiện dân chủ ở cơ sở, luận văn
khảo sát thực trạng thực hiện dân chủ ở cấp xã vùng đồng bào Khmer, huyện
Tịnh Biên; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
dân chủ tại các địa phương này trong thời gian tới.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích những vấn đề lý luận về dân chủ ở cơ sở và thực hiện dân chủ
ở cơ sở.
- Làm rõ thực trạng và những vấn đề đang đặt ra trong việc thực hiện dân
chủ ở các xã vùng đồng bào Khmer huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện dân chủ ở các xã vùng đồng bào Khmer trên địa bàn huyện Tịnh
Biên, tỉnh An Giang trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện dân
chủ ở cấp xã từ khi thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị, trọng tâm
từ khi thực hiện Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH 11 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội khóa XI về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đến nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn lựa chọn một số xã có đơng đồng
bào dân tộc Khmer trên địa bàn huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang trong thời
5
gian từ 2010 đến nay (2017), cụ thể là các xã, thị trấn: An Phú, Chi Lăng,
Tịnh Biên, Tân Lợi, Văn Giáo, Vĩnh Trung, An Hảo, An Cư.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được tiến hành trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và pháp luật
của nhà nước về dân chủ và thực hiện dân chủ ở cơ sở.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: phân tích tổng
hợp, thống kê và so sánh, phương pháp lịch sử và logic, điều tra xã hội học.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
- Góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận về dân chủ ở cơ sở và
thực hiện dân chủ ở cơ sở.
- Làm rõ thực trạng thực hiện dân chủ ở cấp xã vùng đồng bào dân tộc
Khmer trên địa bàn huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.
- Nêu một phương hướng và một số giải pháp có tính khả thi để nâng
cao hiệu quả thực hiện dân chủ ở cơ sở vùng đồng bào Khmer trên địa bàn
huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở
CẤP XÃ
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1.1. Khái niệm dân chủ
Dân chủ từ bao đời nay luôn là đề tài hấp dẫn đối với các học giả
trong và ngồi nước, bởi nó liên quan mật thiết tới cuộc sống của con người
và sự phát triển của xã hội.
Thuật ngữ “dân chủ” ra đời từ thời Hy Lạp cổ đại, khoảng thế kỷ thứ
VII-VI trước công nguyên. Theo tiếng Hy Lạp cổ, dân chủ là do hai từ
“demos” là nhân dân và “kuatos” là quyền lực hay chính quyền, hợp thành.
“Demoskratia” – dân chủ - có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân. Từ điển
Bách khoa Việt Nam định nghĩa: “Dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế
chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của
quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận
dụng vào các tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế xã hội
nhất định” [39, tr. 23].
Khi bàn về khái niệm dân chủ là gì, các nhà khoa học đề xuất khá
nhiều quan niệm:
- Quan niệm thứ nhất cho rằng, dân chủ là sản phẩm của quan hệ giai
cấp, là tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền đối với xã hội.
- Quan niệm thứ hai hiểu khái niệm dân chủ bao hàm ba nội dung cơ
bản là: nội dung chính trị (dân chủ chính trị), nội dung văn minh nhân đạo
(dân chủ xã hội là thành quả quan trọng nhất của văn minh và nhân đạo của
7
loài người) và nội dung xã hội của dân chủ (dân chủ xã hội là hình thức tồn tại
của xã hội hiện đại).
- Quan niệm thứ ba cho rằng, dân chủ cần được xem xét theo nhiều
khía cạnh, nhưng với nghĩa chung nhất, phổ biến nhất, dân chủ là quyền lực
thuộc về nhân dân.
- Quan niệm thứ tư của một số nhà khoa học, tôn vinh dân chủ là một
công trình bi tráng trong hàng chục vạn năm của lồi người. Đó là khát vọng,
lý tưởng chung mà hàng triệu con tim và khối óc cùng hướng tới, đấu tranh
khơng mệt mỏi để giành lấy dù phải hy sinh xương máu. Dân chủ là một giá
trị cần vươn tới.
Theo các nhà kinh điển: dân chủ là sản phẩm tự quyết của nhân dân,
phản ánh sự tồn tại của con người với tất cả ý chí, tài năng và lợi ích của họ;
dân chủ là sản phẩm của đấu tranh giai cấp; quyền dân chủ bị chế định bởi
tương quan giai cấp, trạng thái phát triển của sản xuất và trình độ văn hóa
chung, trước hết là văn hóa chính trị của nhân dân; dân chủ là một hình thức
Nhà nước mà ở đó thừa nhận quyền ngang nhau của dân cư trong việc xác
định cơ cấu nhà nước và quản lý xã hội [38, tr.129-131].
Như vậy, dân chủ là vấn đề phức tạp, có nội dung rộng lớn, gắn với
những tiến bộ về lịch sử và văn hóa của lồi người. Để hiểu rõ bản chất, nội
dung và tính chất của dân chủ, phải xem xét nó dưới nhiều góc độ, khía cạnh
khác nhau. Đó có thể là phương thức của phong trào chính trị xã hội của quần
chúng; là hình thức nhà nước, hình thức tổ chức và thực hiện quyền lực xã
hội; là một hệ thống quyền lực, tự do và trách nhiệm của công dân được quy
định bởi hiến pháp và pháp luật; là nguyên tắc tổ chức toàn thể xã hội và với
tư cách là một chế độ chính trị.
Dù tiếp cận dân chủ từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng chung quy lại các ý
kiến đều thống nhất ở luận điểm: Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Như vậy,
dù xem xét dân chủ dưới góc độ nào thì thực chất bản chất, nội dung, tính chất và
8
khuynh hướng phát triển của dân chủ là hoàn toàn phụ thuộc vào chỗ quyền lực
chính trị thuộc về giai cấp nào và phục vụ cho giai cấp nào trong xã hội.
Trên thực tế, chưa có một xã hội nào đạt được tình trạng dân chủ tuyệt
đối do nhiều lý do khách quan và chủ quan như: trình độ phát triển kinh tế xã hội, năng lực nhận thức của cơng dân và của chính quyền, truyền thống
lịch sử, văn hóa pháp quyền... Vì thế, đối với Việt Nam, dân chủ còn được
hiểu như một mục tiêu phấn đấu của dân tộc, như đã ghi rõ trong Hiến pháp:
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Những mục tiêu đó đều có mối liên hệ, gắn bó lơgic với nhau. Dân có
giàu thì nước mới mạnh. Có dân chủ thì mới có cơng bằng xã hội. Có dân chủ
thực sự thì dân mới giàu và quốc gia mới mạnh. “Dễ trăm lần không dân cũng
chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong [32, tr. 554]. Đất nước giàu mạnh, xã hội
công bằng và dân chủ là những yếu tố không thể thiếu của một nền văn minh
và một đất nước phồn thịnh. Với mục tiêu phấn đấu như vậy, việc phát huy
dân chủ ở cơ sở được coi là chủ trương, biện pháp và là hành động tất yếu của
nhân dân và chính quyền trong quá trình phát triển của đất nước.
Dân chủ được bảo đảm và phát huy bằng nhiều biện pháp khác nhau.
Tuy nhiên, việc thực thi dân chủ phải luôn gắn với mối quan hệ giữa nhà nước
và nhân dân. Ở nước ta hiện nay, HTCT dựa trên thiết chế “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Việc phát huy, thực hiện dân chủ được
tiến hành không tách rời khỏi thiết chế này.
Trong lịch sử, từ khi giai cấp và nhà nước xuất hiện, dân chủ được tổ
chức thành chế độ dân chủ như hình thức thể hiện và biểu đạt quyền lực của
chế độ nhà nước. Chế độ nhà nước nào cũng mang tính chất giai cấp, nó thực
hiện và bảo vệ lợi ích và quyền lực của một giai cấp nhất định, đó là giai cấp
thống trị. Mọi nền dân chủ (hay chế độ dân chủ) trước chủ nghĩa xã hội
thường chỉ là dân chủ do một thiểu số thuộc giai cấp thống trị. Chỉ đến xuất
9
hiện chủ nghĩa xã hội, nền dân chủ XHCN mới thực sự là nền dân chủ cho đa
số dân chúng trong xã hội.
Ở Việt Nam, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng. Nhân dân ta từ địa vị nô lệ làm thuê đã trở thành
người chủ của đất nước. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, miền
Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân miền Bắc đã trở thành người chủ của mọi
quyền lực trong đó có quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước và HTCT XHCN
được thiết lập trên phạm vi cả nước. Từ đó đến nay nền dân chủ XHCN đã và
đang được xây dựng phát huy vai trị ngày càng to lớn, góp phần quan trọng vào
sự nghiệp xây dựng, phát triển và đổi mới đất nước.
Sự phát triển của dân chủ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội,
năng lực nhận thức của cơng dân và chính quyền, truyền thống lịch sử, văn hóa, pháp
lý… Dân chủ là mục tiêu, động lực phát triển của quốc gia, dân tộc.
Dân chủ và khát vọng được làm chủ, là quyền tự nhiên của con người
trong đó có quyền sử dụng tất cả sức mạnh để thực hiện vai trò của người chủ và
quyền làm chủ đã lần lượt được các giai cấp thống trị trong lịch sử nhận thức và
thể chế hóa thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà nước cùng các thiết
chế chính trị khác nhau. Tuy vậy, trong các chế độ dân chủ đã từng tồn tại cho
đến nay thì chỉ có chế độ dân chủ XHCN mới thực sự là chế độ dân chủ của đa
số nhân dân trong xã hội, là chế độ dân chủ của dân, do dân và vì dân.
Nghiên cứu về dân chủ, chúng ta phải đứng trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, khi dùng khái niệm “nhân dân” không bao giờ được đánh
đồng các giai cấp, tầng lớp. Vì dân chủ gắn liền với xã hội có giai cấp, khái
niệm “dân” có thể thay đổi về số lượng, chất lượng và đối tượng tùy theo tính
chất của một xã hội trong từng thế kỷ, từng nấc thang phát triển nhất định. Có
thể nói, khái niệm “dân” đồng nhất với khái niệm “nhân dân”, dân chúng,
quần chúng nhân dân. Và việc thực hiện cho được “dân là chủ, dân làm chủ”
đấy chính là thực hiện sứ mệnh lịch sử, vai trò to lớn của quần chúng nhân
10
dân, bởi vì quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách
mạng, là người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và sáng tạo ra những giá
trị tinh thần, nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của nhân loại.
Dân chủ với tính cách là một chế độ, được thực hiện dưới hai hình
thức cơ bản là dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Dân chủ đại diện (còn
gọi là dân chủ gián tiếp) là hình thức dân chủ mà theo đó nhân dân thơng qua
đại diện của mình để bày tỏ chính kiến, để quyết định những vấn đề của đời
sống cộng đồng. Nhờ thông qua bầu cử để lựa chọn những người ưu tú đứng
đầu các cơ quan đại diện, nhờ đó những người đại diện sáng suốt trong việc
quyết định vấn đề quan trọng của đời sống xã hội, giải quyết nhanh chóng kịp
thời những vấn đề bức bách trong xã hội đặt ra.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy dân chủ đại diện có những nhược điểm
cho đến nay vẫn chưa khắc phục được. Đó là những biểu hiện đặc quyền, đặc
lợi, có khả năng lạm quyền, tham nhũng mà quyền lực đó có được do nhân
dân ủy quyền. Dân chủ trực tiếp là hình thái nhân dân trực tiếp quyết định các
vấn đề, các công việc quan trọng của quốc gia của cộng đồng lãnh thổ, trực
tiếp thông qua các đạo luật mà không một yếu tố trung gian nào.
Dân chủ trực tiếp là một phương thức làm chủ của nhân dân khi nhân
dân - chủ thể quyền lực duy nhất có thể bày tỏ ý chí, nguyện vọng, đề đạt kiến
nghị nào đó trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, quản lý xã hội, đồng thời
thực hiện kiểm tra, giám sát bộ máy nhà nước do chính mình lập nên. Kết quả
của sự bày tỏ ý chí đó có thể có ý nghĩa quyết định, bắt buộc phải thi hành
ngay như trưng cầu ý dân, bầu cử, bãi miễn đại biểu dân cử; hoặc chỉ có ý
nghĩa tham khảo như các hình thức tham khảo ý kiến nhân dân, kiểm tra,
giám sát bộ máy nhà nước v.v.. Trong nền dân chủ hiện đại, các quốc gia đã
ngày càng dành sự chú ý đặc biệt tới việc sử dụng các hình thức dân chủ trực
tiếp để quyết định một số vấn đề quan trọng đối với quốc gia và các vấn đề
của cộng đồng tại địa phương. Trong rất nhiều trường hợp phương thức dân
11
chủ trực tiếp có nhiều ưu điểm mà phương thức dân chủ đại diện khơng có
được. Đó là khả năng thể hiện một cách khách quan nhất ý chí, nguyện vọng
của nhân dân và thể hiện một cách thiết thực nhất quyền lực của nhân dân
trong việc quản lý xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm dân chủ ở cơ sở, dân chủ ở cấp xã
Trong lao động và sinh sống, người dân ln gắn bó mật thiết với một
đơn vị, một tổ chức, một địa bàn nhất định. Bất cứ một tổ chức nào, xét theo
hệ thống cấu trúc, cũng bao gồm hệ thống cấu trúc từ nhỏ đến lớn. Cơ sở là
“tế bào” của hệ thống. Bất cứ một công dân, một thành viên nào của tổ chức
cũng đều gắn bó ở một cơ sở nhất định trong hệ thống.
Hệ thống chính quyền ở nước ta gồm 4 cấp: Trung ương, tỉnh (thành
phố trực thuộc), huyện (thị xã, quận) và xã (phường) đều vận hành theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Đó là nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ
XHCN. Hiệu quả của dân chủ thể hiện trực tiếp đến nhân dân là ở cấp cơ sở.
Cơ sở xã, phường, cơ quan, doanh nghiệp v.v.. là nơi trực tiếp thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; là địa bàn
nhân dân sinh sống, lao động, sản xuất, học tập và công tác; là nơi diễn ra các
mối quan hệ nhiều mặt giữa các tầng lớp nhân dân với các cấp ủy Đảng và
chính quyền, cán bộ, đảng viên, công chức điều hành và xử lý cơng việc hàng
ngày. Nhân dân địi hỏi được biết, được bàn và được tham gia giải quyết
những vấn đề đặt ra ở cơ sở, đồng thời kiểm tra, giám sát hoạt động hàng
ngày của cấp ủy, chính quyền và cán bộ lãnh đạo. Điều đó có nghĩa là nhân
dân có quyền làm chủ và được hưởng lợi từ cơ sở và ở cơ sở.
Dân chủ ở cơ sở là quyền dân chủ trực tiếp của người dân được thực
hiện từ cấp xã, phường trở xuống (đến cấp khóm, ấp, đơn vị, cơ quan, nhà
máy, xí nghiệp) theo phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
12
Dân chủ ở cơ sở trước hết là dân chủ trực tiếp, là hình thức nhân dân thực
hiện quyền làm chủ của mình bằng cách trực tiếp thể hiện ý chí (qua ý kiến) nguyện
vọng của mình đối với tổ chức và hoạt động của cơ quan chính quyền ở cơ sở.
Có nhiều hình thức để thực hiện dân chủ ở cơ sở như: việc bàn bạc,
thảo luận, tham gia quyết định, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các vấn đề
phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, trật tự an ninh ở cơ sở; tố cáo, khiếu nại;
xây dựng quy định, quy ước tự quản. Như vậy, dân chủ ở cơ sở đề cập đến cả
dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước và doanh nghiệp nhà nước.
Trong luận văn này, dân chủ mà chúng ta nghiên cứu là dân chủ ở cấp xã
(gồm xã, phường, thị trấn). Thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã chính là thực
hiện "Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn" do Chính phủ ban
hành, và sau này là "Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn" do
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua năm 2007.
Dân chủ ở cấp xã:
Cấp xã chính là cấp cơ sở. Đây là nơi mọi hoạt động kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội diễn ra. Trên địa bàn xã, phường, thị trấn, đời sống luôn diễn
ra sôi động và tác động trực tiếp, hoặc gián tiếp đến đời sống của người dân.
Cấp xã là cấp cuối cùng tiếp nhậnn và triển khai thực hiện các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Dân chủ chủ ở cấp xã phải đảm bảo nguyên tắc: quyền lực thuộc về
nhân dân. Tại đây, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, có quyền trực
tiếp thực hiện các quyền dân chủ cụ thể của mình.
Có thể nói một cách vắn tắt: Dân chủ ở cấp xã là sự đảm bảo những
nguyên tắc toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân tại địa bàn xã, phường, thị trấn
trên cơ sở thực hiện quyền được biết, quyền được bàn và quyết định, quyền được
tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định và quyền giám sát
đối với những nội dung có liên quan tới đời sống của người dân bằng những
hình thức phù hợp với các nguyên tắc, quy định của pháp luật.
13
1.1.1.2. Khái niệm thực hiện dân chủ ở cấp xã
Thực hiện dân chủ ở cấp xã là thực hiện những nội dung của Pháp
lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, nhằm phát huy cao độ quyền
làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân. Dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là ở cấp xã, có
nội dung tồn diện, bao gồm dân chủ về chính trị, về kinh tế, về văn hóa, về
xã hội một cách trực tiếp. Dân chủ ở cấp xã được thực hiện thông qua các tổ
chức trong HTCT ở cấp xã dưới những hình thức, nội dung thích hợp với
trình độ nhận thức và khả năng thực hiện dân chủ của mỗi chủ thể. Chủ thể
thực hiện dân chủ ở cấp xã là nhân dân, các thành viên trong cộng đồng dân
cư, đơn vị ở cấp xã.
Thực hiện dân chủ ở cấp xã phải trên cơ sở của Hiến pháp, pháp luật
của nhà nước và đường lối của Đảng. Dân chủ ở cơ sở phải tạo nên sự thống
nhất về nhận thức, hành động trong khẳng định và làm theo cái đúng, bảo vệ
cái đúng, phê phán cái sai, nhân rộng điển hình tiên tiến và đấu tranh loại bỏ
các hiện tượng tiêu cực xã hội.
Thực hiện dân chủ ở cấp xã vừa bảo đảm quyền dân chủ trực tiếp của
nhân dân, vừa phát huy được những khả năng tiềm tàng của cộng đồng trong
việc tự chăm lo đời sống vật chất và văn hóa, giữ gìn trật tự an ninh ở cơ sở.
Cấp xã nói riêng và cấp cơ sở nói chung là nơi thể hiện rõ nét nhất kết quả
hoạt động của cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”,
là sự gặp gỡ và hòa hợp giữa ý Đảng, lòng dân và phép nước.
1.1.1.3. Khái niệm "vùng dân tộc thiểu số"
Khái niệm "vùng dân tộc thiểu số" đôi khi vẫn gây tranh luận. Vùng
dân tộc thiểu số ở đây được hiểu là những khu vực có đơng đồng bào dân tộc
ít người sinh sống. Đó có thể là các xã trong một huyện, các huyện trong một
tỉnh, thậm chí một số tỉnh có tỷ lệ đồng bào các dân tộc thiểu số cao. Câu hỏi
đặt ra là một khu vực có tỷ lệ bao nhiêu phần trăm đồng bào các dân tộc thiểu
số sinh sống gọi là vùng đồng bào dân tộc thiểu số? Thực ra, không có một
14
câu trả lời rõ ràng. Khái niệm "vùng dân tộc thiểu số" là một khái niệm mềm,
không hiểu theo nghĩa chặt chẽ. Khơng có văn bản chính thức nào của Đảng
và Nhà nước ta quy định số lượng cụ thể tỷ lệ phần trăm đồng bào dân tộc
thiểu số sinh sống.
Trong các văn bản chính thức của Nhà nước, "vùng dân tộc thiểu số"
được định nghĩa tại Khoản 4 Điều 4 Nghị định 05/2011/NĐ-CP về công tác
dân tộc như sau:
“Vùng dân tộc thiểu số” là địa bàn có đơng các dân tộc thiểu số cùng sinh
sống ổn định thành cộng đồng trên lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Trong luận văn này, tác giả sử dụng khái niệm "vùng đồng bào
Khmer" với nghĩa đây là khu vực các xã có đơng đồng bào Khmer sinh sống.
1.2.1. Tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ ở cấp xã
1.1.2.1.Thực hiện dân chủ ở cấp xã góp phần mở rộng dân chủ,
đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân
Thực hiện về dân chủ ở cấp xã góp phần hiện thực hóa các quan điểm,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về dân chủ trong thực tiễn đời
sống của nhân dân ở cơ sở
Đảng ta xác định dân chủ cơ sở là nền tảng, dân chủ ở trung ương có
tính chất quyết định đối với việc xây dựng chính quyền của dân. Ngay từ thời
điểm tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
chỉ rõ những yếu kém, khuyết điểm của bộ máy Nhà nước: “Dân chủ ở nhiều
nơi bị vi phạm, kỷ cương phép nước chưa nghiêm. Quan liêu, tham nhũng,
lãng phí cịn nghiêm trọng, đặc biệt là tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền,
thiếu trách nhiệm của bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, nhất là ở các cơ
quan giải quyết công việc cho dân và doanh nghiệp. Bộ máy chính quyền ở cơ
sở nhiều nơi yếu kém [17, tr. 9]. Như vậy, việc thực hiện dân chủ ở cơ sở nói
chung, dân chủ ở cấp xã nói riêng có vai trị quan trọng trong việc mở rộng
dân chủ, đảm bảo dân chủ ở cơ sở được thực thi nghiêm túc.
15
Thông qua thực hiện về dân chủ ở cấp xã giúp Đảng và Nhà nước
hồn thiện đường lối, chính sách về dân chủ nói chung, dân chủ ở cơ sở nói
riêng. Yêu cầu xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền XHCN của dân, do
dân và vì dân đặt ra địi hỏi tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước
được làm những gì mà pháp luật quy định cịn cơng dân được làm những gì
mà pháp luật không cấm.
Việc thực hiện pháp luật về trên tất cả các lĩnh vực diễn ra ở cơ sở
giúp cho Đảng, Nhà nước ngày càng có cơ sở thực tiễn hơn trong việc hoạch
định đường lối chính sách, hồn thiện pháp luật, vì chỉ có thơng qua thực tiễn,
nhân dân mới thực sự là người sáng tạo ra lịch sử.
1.1.2.2. Thực hiện dân chủ ở cấp xã góp phần chấn chỉnh tổ chức
và hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở
Việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn vừa là điều kiện, vừa là
yêu cầu nhằm kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của HTCT ở cơ sở.
HTCT ở cơ sở có vai trị rất quan trọng trong việc tổ chức và hoạt động nhân
dân thực hiện đường lối chính sách của Đảng, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc
sống của cộng đồng dân cư.
Với tư cách là chủ thể của hoạt động thực hiện dân chủ ở cơ sở, HTCT
ở cơ sở là khâu then chốt trong tổ chức thực hiện phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Mỗi khâu của q trình dân chủ đều địi hỏi bản thân HTCT cũng như
mỗi tổ chức thành viên đều phải kiện toàn tổ chức, đổi mới và nâng cao chất
lượng hoạt động để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Mỗi tổ chức thành viên, căn
cứ chức năng, nhiệm vụ mà có các hình thức thực hiện khác nhau trong cơ
chế “ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, song tất cả đều vì
một mục tiêu xây dựng một Nhà nước Việt Nam: “dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
16
Dân chủ không chỉ là mục tiêu, động lực của cả hệ thống, mà còn là
nguyên tắc, là phong cách công tác của cán bộ, Đảng viên, công chức, hội
viên các đoàn thể nhân dân. Dân chủ cơ sở là thước đo trình độ phát triển mọi
mặt của mỗi cộng đồng dân cư.
Thông qua việc thực hiện dân chủ ở cơ sở mà HTCT ngày càng nâng cao
năng lực tổ chức triển khai nhiệm vụ, phát triển và bồi dưỡng nguồn cán bộ kế cận
cho đội ngũ cán bộ, công chức, đổi mới phương thức lãnh đạo, tập hợp đoàn viên,
hội viên, điều hịa và gắn kết các lợi ích, những vấn đề nảy sinh được phát hiện kịp
thời, các khó khăn được tháo gỡ và ngày càng thu hút được sự tham gia rộng rãi của
người dân vào các công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
1.1.2.3. Thực hiện dân chủ ở cấp xã góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở
Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn bảo đảm là góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội hơn. Nhà nước thực hiện chính sách quản lý và
phát triển kinh tế - xã hội thông qua chính sách vĩ mơ và vi mơ. Trong những
năm qua hoạt động quản lý kinh tế của các cấp chính quyền đã được tách
bạch, rạch ròi với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh.
Đối với chính quyền cơ sở, đây vừa là nơi thực hiện chức năng quản
lý nhà nước đối với các hoạt động kinh tế - xã hội, vừa là nơi chịu sự quản lý
của cấp chính quyền cấp trên. Tồn bộ các mục tiêu, chương trình phát triển
kinh tế - xã hội dài hạn, ngắn hạn của tỉnh, huyện đều có ảnh hưởng và triển
khai trên địa bàn xã, phường.
Bên cạnh đó, việc hoạch định các mục tiêu của xã, phường, thị trấn
cũng được HĐND xã, phường, thị trấn thông qua. Mặc dù tầm ảnh hưởng của
Nghị quyết HĐND đối với việc phát triển kinh tế trên địa bàn không lớn, song
những vấn đề mà nhân dân quan tâm, được biết, được bàn, được kiểm tra theo
nội dung của pháp luật thực hiện dân chủ ở xã, phường bao gồm: quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất đai, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quyết toán ngân sách,
17
xây dựng cơ sở trường, trạm, các thiết chế văn hóa, cơng khai mức thuế, phí
và lệ phí, vốn vay xóa đói, giảm nghèo, bình xét gia đình văn hóa, kế hoạch
và phương án đền bù giải phóng mặt bằng xây dựng triển khai các dự án trên
địa bàn… đều là những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển kinh tế
- xã hội ở cả vùng miền.
Do đó, thực hiện dân chủ ở cấp xã góp phần phát triển kinh tế - xã hội
hơn. Thực tiễn quá trình thực hiện dân chủ cơ sở cho thấy, khi tài chính được
cơng khai, nhân dân được đóng góp ý kiến và sẵn sàng đóng góp xây dựng cơ
sở vật chất, các cơng trình phúc lợi cơng cộng, đất đai được quản lý tốt hơn,
việc chuyển đổi mơ hình hợp tác xã nông nghiệp được ủng hộ, công tác dồn
điền đổi thửa tạo đà cho sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa,
cơng tác xã hội hóa trong giáo dục, y tế được đẩy mạnh, do đó quyền của
nhân dân trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, y tế được bảo đảm hơn. Việc thực
hiện dân chủ nằm trong một mục tiêu chung “tất cả vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thực hiện dân chủ ở cấp xã cũng là cơ sở để giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội. Quy chế dân chủ, các chế định pháp luật khác nhau
về quyền công dân đảm bảo cho nhân dân được bảo vệ tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, các quyền về kinh tế, pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi gây mất
dân chủ, ảnh hưởng đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Các quy
định pháp luật đều có chế tài để răn đe, phịng ngừa và trừng trị nghiêm khắc
những hành vi vi phạm quyền con người, quyền làm chủ của nhân dân.
Thực hiện dân chủ ở cấp xã, nhân dân được bàn và quyết định trực tiếp
những vấn đề an ninh trật tự, xây dựng và tổ chức tự quản đời sống cộng đồng,
chính quyền có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết đơn thư dân nguyện, đảm
bảo quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân. Thực tế chứng minh, ở địa phương
nào thực hiện tốt dân chủ thì ở đó tình hình an ninh chính trị, trật tự an tồn xã
18
hội được đảm bảo, vì sự ổn định, bình yên của từng khu dân cư góp phần xây
dựng nên sự bình yên, ổn định của cả địa phương, quốc gia, dân tộc.
1.1.2.4. Thực hiện dân chủ ở cấp xã góp phần đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực khác
Trong điều kiện một đảng cầm quyền, thực hiện dân chủ là một giải pháp
hạn chế sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Chúng ta kiên trì thực hiện mục tiêu độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội do đó việc xây dựng một Nhà nước Việt
Nam XHCN trong sạch, vững mạnh là yêu cầu cơ bản của cách mạng Việt Nam.
Đảng ta xác định: dân chủ ở cơ sở là nền tảng, dân chủ ở trung ương có tính chất
quyết định đối với việc xây dựng chính quyền của nhân dân.
Thực hiện dân chủ ở cấp xã, ở cơ sở khơng cịn là một khẩu hiệu chung
chung mà đã trở thành những quy phạm pháp luật quy định cụ thể quyền của người
dân, nhân dân đã có cơng cụ để thực hiện quyền làm chủ của mình ở cơ sở.
Chính từ khi có quy chế dân chủ ở cơ sở và người dân được biết, được
bàn, được giải phóng sức sản xuất và sáng tạo, dân được kiểm tra, giám sát, tài
chính được cơng khai, minh bạch hơn đã làm hạn chế rất nhiều các biểu hiện
tha hóa của cán bộ, công chức, làm thay đổi tác phong công tác của đa số cán
bộ cơng chức theo hướng tích cực hơn, trăn trở hơn với lợi ích của dân, sâu sát
và tôn trọng quyền làm chủ của dân. Thực hiện dân chủ cũng đòi hỏi bộ máy
nhà nước phải đẩy mạnh cải cách hành chính để ngày càng phục vụ nhân dân
tốt hơn, từ đó góp phần chống quan liêu, tham nhũng một cách hiệu quả hơn.
1.2. NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ VÀ TỔ CHỨC
THƯC HIỆN DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ
1.2.1. Các nội dung và hình thức thực hiện dân chủ ở cấp xã
1.2.1.1. Các nội dung người dân được biết
Quyền được biết liên quan đến đời sống của người dân cơ sở được thể
hiện ở chương II: Những nội dung công khai để dân biết, của Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong đó liệt kê 11 nội dung cần phải công
19
khai cho dân biết, như: kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hàng năm của cấp xã; Dự
án, cơng trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án đền bù,
hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, cơng trình trên
địa bàn cấp xã; Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều
chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã; Nhiệm vụ, quyền hạn của
cán bộ công chức cấp xã trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân; Việc
quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư tài trợ theo chương trình, dự án
đối với cấp xã.
Những nội dung trên đây đều là những nội dung có liên quan trực tiếp,
thiết thực đến đời sống của người dân ở cơ sở.
- Các hình thức công khai những nội dung người dân được quyền biết
cũng được Pháp lệnh quy định rõ ràng:
(a) Niêm yết công khai tại trụ sở HĐND, UBND cấp xã;
(b) Công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã;
(c) Công khai thông qua trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố để thơng báo
đến nhân dân;
Ngồi ra, chính quyền cấp xã có thể áp dụng đồng thời nhiều hình
thức cơng khai nêu trên cũng như thực hiện việc cung cấp thông tin theo Quy
định tại Điều 32 của Luật Phòng, chống tham nhũng.
1.2.1.2. Các nội dung người dân được bàn và quyết định
Quyền của nhân dân được bàn và quyết định được quy định tại
chương III của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và thể hiện
trên hai phương diện: nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; nội dung
nhân dân bàn và biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định.
- Những nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp bao gồm: Chủ
trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các cơng trình phúc lợi cơng
cộng trên phạm vi cấp xã, thơn, tổ dân phố do nhân dân đóng góp tồn bộ
20
hoặc một phần kinh phí và các cơng việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cư
phù hợp với các quy định của pháp luật (Điều 10).
Những nội dung được dân bàn và quyết định trực tiếp được thực hiện
bằng một trong hai hình thức: tổ chức cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ
gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố, hoặc phát phiếu lấy ý kiến tới cử
tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình. Những việc nhân dân bàn và quyết định
trực tiếp có giá trị thi hành nếu có trên 50% tổng số cử tri, hoặc cử tri đại diện
hộ gia đình trong thơn, tổ dân phố, hoặc trong tồn cấp xã tán thành. Đối với
những cử tri, hộ gia đình chưa tán thành trong việc thực hiện những quyết
định đã có giá trị, thì chính quyền cấp xã phối hợp cùng Ủy ban MTTQ Việt
Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cùng cấp tổ chức tuyên truyền,
vận động, thuyết phục để họ thực hiện.
- Những nội dung nhân dân bàn và biểu quyết gồm có: (1) Hương
ước, quy ước của thôn, tổ dân phố; (2) Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm trưởng
thôn, tổ trưởng tổ dân phố; (3) Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban Thanh tra Nhân
dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng
Hình thức thực hiện những nội dung này cũng bằng một trong hai
cách: tổ chức cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn
từng thơn, tổ dân phố hoặc phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện
hộ gia đình.
1.2.1.3. Các nội dung người dân được tham gia ý kiến trước khi các
cơ quan có thẩm quyền quyết định
Quyền này được quy định tại chương IV của Pháp lệnh thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn. Những nội dung nhân dân tham gia ý kiến gồm:
(1) Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cấp xã; phương án
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất; đề án định canh, định cư, vùng
kinh tế mới và phương án phát triển ngành nghề của cấp xã.
21
(2) Dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án
điều chỉnh; việc quản lý, sử dụng quỹ đất của cấp xã.
(3) Dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình, dự án trên địa bàn
cấp xã; chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng
cơ sở hạ tầng, tái định cư; phương án quy hoạch khu dân cư.
(4) Dự thảo đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều
chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp đến cấp xã.
(5) Những nội dung khác cần phải lấy ý kiến nhân dân theo quy định
của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính
quyền cấp xã thấy cần thiết.
Về hình thức để nhân dân tham gia ý kiến được thực hiện thông qua
họp cử tri, hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thơn, tổ dân phố;
Phát phiếu lấy ý kiến cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình hoặc thơng qua
hịm thư góp ý.
1.2.1.4. Các nội dung người dân được quyền giám sát
Quyền giám sát của nhân dân được quy định tại chương V của Pháp
lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, theo đó, nhân dân được quyền
giám sát đối với tất cả các nội dung mà họ được công khai để biết (Điều 5), được
bàn và quyết định trực tiếp (Điều 10), được bàn và biểu quyết (Điều 13) và được
tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định (Điều 19).
Nhân dân thực hiện việc giám sát những nội dung đó theo các hình
thức: thơng qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư
của cộng đồng, hoặc trực tiếp thực hiện việc giám sát thông qua quyền khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, hoặc kiến nghị
thông qua Ủy ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận cấp
xã, Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng. Trình tự, thủ
tục khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của nhân dân phải được thực hiện theo quy
định của pháp luật (Điều 24).
22
Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện việc
giám sát của nhân dân được quy định tại Điều 25:
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, tổ chức, cá
nhân có các trách nhiệm sau đây:
(1) Cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin, tài liệu cần thiết cho Ban
Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư cộng đồng;
(2) Xem xét, giải quyết và trả lời kịp thời các khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị của công dân, kiến nghị của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu
tư của cộng đồng, của Ủy Ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên của
Mặt trận cấp xã, hoặc báo cáo với cơ quan có thẩm quyền về những vấn đề
khơng thuộc thẩm quyền giải quyết của mình;
(3) Xử lý người có hành vi cản trở hoạt động của Ban Thanh tra nhân
dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng, hoặc người có hành vi trả thù, trù
dập cơng dân khiếu nại, tố cáo, kiến nghị theo quy định của pháp luật.
1.2.2. Các chủ thể thực hiện dân chủ ở cấp xã
Chủ thể tham gia thực hiện dân chủ ở cấp xã là những tổ chức, cơ
quan, đơn vị, cá nhân trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào thực hiện hoạt
động dân chủ ở cơ sở. Chủ thể giữ vai trị quyết định đối với sự thành cơng
của bất kỳ một lĩnh vực hoạt động nào. Do đó, chủ thể tham gia thực hiện dân
chủ ở cấp xã gồm cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp; các tổ chức, cộng đồng
dân cư, các cá nhân tham gia vào quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Theo Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, có thể chia
ra làm ba nhóm chủ thể thực hiện dân chủ ở cấp xã như sau:
- Nhóm chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã
gồm: Cơ quan Đảng các cấp; chính quyền các cấp, Ủy ban MTTQ Việt Nam
và các tổ chức chính trị xã hội các cấp.
23
- Nhóm chủ thể tổ chức thực hiện dân chủ cấp xã: là những cơ quan,
tổ chức, cá nhân có vai trò, trách nhiệm tổ chức thực hiện những nội dung
phải công khai để dân biết, bàn, và quyết định…
- Nhóm chủ thể trực tiếp tham gia thực hiện các quy định về dân chủ ở
cấp xã gồm các tầng lớp nhân dân trên địa bàn xã, phường, thị trấn..
1.2.3. Tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã
- Tuyên truyền, phổ biến nội dung dân chủ cơ sở đến
mọi người dân
Sau khi đã có quy chế và pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cấp xã, cần
tuyên truyền phổ biến để giúp cho nhân dân, các cấp chính quyền hiểu được
về pháp lệnh và giúp cho việc thực hiện pháp lệnh được triển khai thuận lợi,
đạt hiệu quả cao nhất. Để việc tuyên truyền có hiệu quả cần phải xây dựng đội
ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền có trình độ chun mơn cao, phẩm chất
chính trị vững vàng, đạo đức tốt, có niềm tin vào việc thực hiện pháp lệnh dân
chủ, có sự hiểu biết về văn hóa, phong tục tập quán tại địa phương nơi thực
hiện pháp lệnh. Đặc biệt việc tuyên truyền phổ biến pháp lệnh đến với đồng
bào người dân tộc vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người càng
khó khăn, nên địi hỏi càng phải có quyết tâm cao.
Việc tun truyền, phổ biến nội dung dân chủ ở cấp xã cần phải được
thực hiện thường xuyên, liên tục, từ khi quy chế được ban hành, ngay cả khi
pháp lệnh đang được thực thi. Khi tuyên truyền phải sử dụng nhiều hình thức
như tiếp xúc trực tiếp, gián tiếp trao đổi, thơng qua báo, đài và nhiều hình
thức khác để người dân tại địa phương hiểu được tầm quan trọng của thực
hiện pháp lệnh dân chủ ở cơ sở và xem đó là trách nhiệm và nghĩa vụ của bản
thân mình chứ không phải trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, HTCT hay của
các tổ chức xã hội khác.
- Tổ chức bộ máy nhân sự triển khai thực hiện dân
chủ ở cấp xã
24
Việc thực hiện pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cấp xã có nhiều tổ chức tham gia,
do đó phải có sự phối hợp, phân cơng hợp lý để hồn thành tốt nhiệm vụ. Mặt khác các
hoạt động thực thi mục tiêu là hết sức đa dạng, phức tạp, chúng đan xen, thúc đẩy, kìm
hãm lẫn nhau. Bởi vậy, cần phối hợp các cấp, các ngành để triển khai thực hiện pháp
lệnh một cách chủ động, khoa học, sáng tạo thì sẽ đạt hiệu quả cao và duy trì ổn định.
- Giám sát, đánh giá việc thực hiện dân chủ ở cấp xã
Để thực hiện dân chủ ở cấp xã đạt được mục tiêu và hiệu quả, cần có
cơ chế đánh giá đúng đắn làm cơ sở cho việc kiểm tra, giám sát chặt chẽ quá
trình thực thi. Cũng giống như bất kỳ việc triển khai thực hiện một chính sách
nào khác, việc thực hiện pháp lệnh dân chủ ở cấp xã cũng cần phải kiểm tra, đôn
đốc để đảm bảo các chủ trương, được thực hiện đúng và hiệu quả. Việc kiểm tra
chủ yếu do các cơ quan Đảng, Nhà nước thực hiện, và nếu công tác này được
tiến hành thường xuyên sẽ giúp Đảng và Nhà nước nắm vững được tình hình
thực thi pháp lệnh. Cơng tác kiểm tra này cũng giúp cho các bên liên quan nhận
ra những hạn chế của mình để điều chỉnh bổ sung, hoàn thiện nhằm nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp lệnh.
Ngoài ra việc giám sát thực hiện dân chủ cơ sở còn là nhiệm vụ của mỗi
người dân, những người sẽ thụ hưởng thành quả từ pháp lệnh dân chủ ở cấp xã.
Sự giám sát, kiểm tra phải thường xuyên và nghiêm túc, nếu thấy dấu hiệu sai
phạm phải có những báo cáo lên cơ quan chức năng để xem xét và giải quyết.
1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở
CẤP XÃ
1.3.1. Trình độ, năng lực, nhận thức của đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là người trực tiếp giác ngộ, tuyên
truyền đầy đủ, sâu sắc mục đích, ý nghĩa, nội dung pháp lệnh thực hiện dân
chủ ở xã cho nhân dân. Nhận thức đúng sẽ mở đường cho hành động đúng.
25
Tuy nhiên trên thực tế thì trong đội ngũ cán bộ chủ chốt và đảng viên cịn có
những ý kiến khác nhau về thực hiện dân chủ ở cấp xã.
Có ý kiến cho rằng, việc mở rộng dân chủ sẽ tạo cơ hội cho một số người lợi
dụng dân chủ, lôi kéo một bộ phận nhân dân vào những hành động kiện tụng, gây rối,
vơ chính phủ. Có ý kiến băn khoăn cho rằng, thực hiện dân chủ sẽ gây khó khăn, phức
tạp trong quản lý, điều hành của chính quyền. Có người lại hiểu đây là đợt kiểm điểm
đối với cán bộ chủ chốt ở xã, tẩy chay đả kích cán bộ.
Chính vì vậy cần phải có một sự nhận thức thống nhất, sâu sắc về nội
dung, ý nghĩa, tầm quan trọng của thực hiện dân chủ ở cấp xã, có như vậy thì
việc triển khai, thực hiện mới có chất lượng và đạt hiệu quả cao.
Thực tế những năm qua cho thấy, một khi có chủ trương hợp lịng dân,
có đội ngũ cán bộ mẫn cán, thực sự là “cơng bộc của dân” thì dân tin tưởng và
hăng hái tham gia mọi phong trào, kể cả phong trào hiện thực hố quy chế
dân chủ. Thơng qua phong trào cách mạng của quần chúng, vai trò của đội
ngũ cán bộ cũng được thể hiện rõ theo hai chiều hướng: hoặc được đề cao
phát huy, hoặc bị tẩy chay, tiêu cực, thối hố. Ngồi ra, đội ngũ cán bộ chủ
chốt ở cấp xã có vai trị quan trọng trong việc kiểm tra, đôn đốc thực hiện quy
chế và sơ kết, tổng kết rút ra những bài học kinh nghiệm sau một quí, một
năm... thực hiện quy chế, để tiếp tục thực hiện tốt hơn, chất lượng cao hơn.
Từ lý thuyết đến thực tế luôn là một khoảng cách. Ý tưởng thực hiện
dân chủ ở cơ sở chỉ có thể được thực thi một cách đầy đủ nếu đội ngũ cán bộ những người có nhiệm vụ tổ chức triển khai các hoạt động trên thực tế thực sự
có năng lực và nhận thức đầy đủ về pháp lệnh. Họ sẽ cụ thể hóa các quy định
thành các chương trình hành động, thành các kế hoạch cụ thể, tổ chức giám
sát, đánh giá q trình thực hiện để từ đó rút kinh nghiệm cho các chương
trình, hoạt động tiếp theo.
1.3.2. Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đảng ở cấp xã