MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VIỆC NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT PHÚ QUỐC ĐÁP ỨNG YÊU
CẦU CỦA ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH - KINH TẾ ĐẶC BIỆT....................11
1.1. ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH - KINH TẾ ĐẶC BIỆT....................................11
1.2. CÁN BỘ CHỦ CHỐT VÀ CÁC TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT....................................................23
Chương 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ
CHỐT TRƯỚC YÊU CẦU XÂY DỰNG PHÚ QUỐC THÀNH ĐƠN VỊ
HÀNH CHÍNH KINH TẾ ĐẶC BIỆT.......................................................39
2.1. MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT Ở PHÚ QUỐC...........................................................................39
2.2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT Ở PHÚ
QUỐC HIỆN NAY..........................................................................................45
2.3. NHẬN XÉT VỀ CHẤT LƯỢNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
PHÚ QUỐC HIỆN NAY……………………………………………………..58
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT PHÚ QUỐC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA
ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH - KINH TẾ ĐẶC BIỆT.......................................64
3.1. DỰ BÁO NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA PHÚ QUỐC
TRÊN CON ĐƯỜNG TRỞ THÀNH ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH - KINH TẾ ĐẶC
BIỆT................................................................................................................64
3.2. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ
CHỐT CỦA PHÚ QUỐC TRONG THỜI GIAN TỚI....................................68
3.3. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT..........................................................................80
KẾT LUẬN....................................................................................................83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................85
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Q trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã và đang tạo ra nhiều thời
cơ, cho phép Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam luôn chủ trương phát huy nội lực, tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững;
tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo
vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường
quốc phòng - an ninh. Khu kinh tế đặc biệt được coi là động cơ đặc biệt của nền
kinh tế.
Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (khu vực có ranh giới địa lý xác
định, do Quốc hội quyết định thành lập, có chính sách đặc biệt về kinh tế - xã
hội, có tổ chức đặc biệt về chính quyền địa phương và cơ quan nhà nước tại đơn
vị hành chính - kinh tế đặc biệt) được coi là một động lực đặc biệt của nền kinh
tế. Việc triển khai xây dựng các khu hành chính - kinh tế đặc biệt ở Việt Nam
hiện nay là nhằm thể chế hóa chủ trương, quan điểm, chiến lược và kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội về xây dựng và phát triển đặc khu kinh tế đã được
thông qua tại các kỳ Đại hội VIII, X, XI và XII của Đảng. Nghị quyết XII của
Đảng xác định nhiệm vụ “Xây dựng một số đặc khu kinh tế để tạo cực tăng
trưởng và thử nghiệm thể chế phát triển vùng có tính đột phá”. Vân Đồn, Bắc
Văn Phong, và Phú Quốc được lựa chọn để xây dựng ba đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt để kiến tạo một mơ hình phát triển mới tại các vùng với những
thể chế, chính sách có tính đột phá, vượt trội so với trong nước và cạnh tranh
với quốc tế, tạo dựng mơi trường đầu tư hấp dẫn, thơng thống, minh bạch để
phát triển.
2
Phú Quốc có vị trí địa lý chiến lược gần với các thị trường có mức độ
tăng trưởng lớn, có diện tích mặt biển giáp với các nước ASEAN, gần đường
vận chuyển hàng hố quốc tế từ Đơng sang Tây, cách thủ đô các nước ASEAN
không quá 2 giờ bay, rất gần với các trung tâm du lịch phát triển và công nghiệp
của các nước trong khu vực. Phú Quốc có lợi thế đặc biệt to lớn về tài nguyên
đa dạng sinh học và tài nguyên biển; cùng với tiềm năng phát triển du lịch đẳng
cấp thế giới và truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời. Phú Quốc có vị trí địa lý
khá tách biệt, thuận lợi trong việc quy hoạch cũng như áp dụng và thử nghiệm
các chính sách, mơ hình phát triển mới.
Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang hội đủ các lợi thế về địa lý, tự nhiên, kinh tế xã hội, an ninh - quốc phòng để phát triển nền kinh tế mở cửa, hướng ngoại và
trở thành điểm nhấn về kinh tế - xã hội, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy kinh tế - xã hội
vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả nước phát triển.
Việc xây dựng mơ hình Đặc khu kinh tế Phú Quốc khơng chỉ đơn thuần là
xây dựng cơ chế chính sách mà cùng với đó là xác định về mơ hình quản lý đủ
sức cạnh tranh quốc tế, để thu hút mạnh đầu tư, nhất là các nhà đầu tư lớn có
năng lực thật sự. Trong đó, tập trung tạo điều kiện thuận lợi, ưu đãi trong việc:
miễn thị thực, tài chính, ngân hàng, thuế và hải quan, chính sách về đất đai, quy
hoạch, đảm bảo an ninh trật tự, nguồn nhân lực. Đặc biệt, riêng về tính cạnh
tranh quốc tế thì cùng với mơ hình quản lý phù hợp, đáp ứng yêu cầu phát triển
mới thì Phú Quốc sẽ sớm phát triển thành trung tâm du lịch, dịch vụ lớn cả nước
và khu vực Đơng Nam Á, góp phần tạo động lực mới cho sự phát triển của tỉnh
và khu vực đồng bằng sông Cửu Long như chủ trương của Bộ Chính trị và
Chính phủ đã xác định.
Tuy nhiên, do đây là mơ hình mới ở Việt Nam, nên chúng ta khơng thể
tránh khỏi lúng túng và khó khăn trong việc triển khai thực hiện. Đối với Phú
Quốc, thách thức đầu tiên là việc thay đổi về bộ máy hành chính khác hẳn với
mơ hình mang tính truyền thống hiện nay. Thứ hai là năng lực, trình độ quản lý
của đội ngũ cán bộ chủ chốt cần phải đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo, quản lý
3
xây dựng và phát triển một đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt trong khi các đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở Phú Quốc chưa có kinh nghiệm hoạt
động trong các khu hành chính - kinh tế đặc biệt, tư duy và phong cách lãnh
đạo, quản lý vẫn theo lối truyền thống, chưa có nhiều điểm đột phá.
Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi chọn đề tài: “Chất lượng đội ngũ cán bộ
chủ chốt Phú Quốc đáp ứng yêu cầu của đơn vị Hành chính - Kinh tế đặc
biệt” làm luận văn thạc sĩ chun ngành chính trị học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề quan trọng, thu hút được sự quan tâm
của rất nhiều nhà nghiên cứu trong và ngồi nước. Đã có nhiều đề tài, cơng trình
nghiên cứu liên quan đến vấn đề này như:
- Trần Bích, (2012), “Đột phá phát triển nhân lực, nhìn từ kinh nghiệm
Đài Loan” [2]. Trong thế kỷ XX, Đài Loan là một trong những nền kinh tế năng
động và phát triển nhanh nhất châu Á. Một trong những yếu tố quan trọng làm
nên thành công kinh tế của Đài Loan là có chiến lược phát triển nguồn nhân lực
hợp lý. Trong đó, chú ý các yếu tố như: Phát triển nguồn nhân lực phù hợp với
đặc trưng các giai đoạn phát triển kinh tế; thực thi các chính sách hiệu quả về
dân số, giáo dục và thu hút nhân tài từ bên ngoài. Đài Loan đặc biệt chú trọng
đào tạo nhân lực cho các ngành nghề “Mới nổi”; phát triển các ngành khoa học
kỹ thuật như: công nghệ sinh học, hàng không vũ trụ, năng lượng mặt trời,
thông tin không dây, chất bán dẫn, thông tin, phần mềm đa phương tiện, lập ra
chương trình đào tạo đặc biệt để tăng cường nhân tài cho các ngành khoa học kỹ
thuật trên.
- Nguyễn Duy Hùng, Vũ Văn Phúc (2012) “Phát triển nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” [38].
Nguồn nhân lực là yếu tố cấu thành quan trọng nhất của lực lượng sản xuất xã
hội, quyết định sức mạnh của một quốc gia. Trong các nguồn lực, nguồn nhân
lực được coi là nguồn lực “nội sinh” chi phối quá trình phát triển kinh tế - xã
hội, và nó có ưu thế nổi bật là khơng có “giới hạn” hay “vô tận” nếu biết bồi
4
dưỡng, khai thác hợp lý. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và cuộc
cạnh tranh quốc tế khác biệt trên nhiều lĩnh vực (kể cả cạnh tranh về nguồn
nhân lực) thì phần thắng sẽ thuộc về những quốc gia có nguồn nhân lực chất
lượng cao, có mơi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư và môi trường chính trị xã hội ổn định.
Việt Nam được coi là quốc gia có lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào (với
trên 90 triệu người), là nước đông dân thứ ba trong khu vực ASEAN và thứ 13
trên thế giới. Nước ta đang trong thời kỳ “dân số vàng” nên lực lượng trong độ
tuổi lao động khá dồi dào đồng thời với bản chất cần cù, thơng minh và có khả
năng tiếp thu nhanh những thành tựu khoa học - công nghệ mới, hiện đại… Đây
là nguồn lực vô cùng quan trọng để đất nước ta thực hiện thành công Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 đã được Đại hội XI của Đảng
thông qua. Tuy nhiên, nguồn nhân lực của nước ta hiện nay được đánh giá chưa
đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế, chưa có
những đóng góp đáng kể để tăng năng suất lao động xã hội, cải thiện năng lực
cạnh tranh và thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình”. Qua khảo sát của nhiều tổ
chức quốc tế, chất lượng nguồn nhân lực của nước ta được xếp hạng thấp so với
ngay các nước châu Á. Điều đó thể hiện nguồn nhân lực của nước ta còn đang
thiếu hụt trầm trọng và chất lượng nguồn nhân lực lại rất thấp kém.
Các tác giả đã tập trung nghiên cứu kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân
lực của một số quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật Bản và những quốc gia đã đạt
được nhiều thành công trong phát triển kinh tế những thập kỷ gần đây như
Trung Quốc, Hàn Quốc, Xingapo, Thái Lan,… Từ đó, tác giả tập trung phân
tích thực trạng, làm rõ những bất cập trong phát triển nguồn nhân lực của nước
ta những năm qua, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, trong thời kỳ đổi
mới từ năm 1986 đến nay; các nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu hụt cả về
chất lượng và số lượng nguồn nhân lực. Đồng thời các tác giả đưa ra những
quan điểm, định hướng và giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng
u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế trong thời gian tới.
5
- Nguyễn Văn Phúc, Mai Thu Hồng (2012) “Khai thác và phát triển tài
nguyên nhân lực Việt Nam” [55], đề cập đến quá trình hình thành và phát triển
của nguồn nhân lực Việt Nam trong thời gian qua dưới sự tác động của các yếu
tố văn hóa, lịch sử, kinh tế và chính trị cũng như q trình hội nhập quốc tế
trong xu thế tồn cầu hóa. Cuốn sách khẳng định, trên thực tế, tài nguyên nhân
lực Việt Nam đã hình thành được những lợi thế nhất định, đã được khai thác và
sử dụng và phát huy được vai trò tích cực của mình đối với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc. Tuy nhiên, tài nguyên nhân lực nói chung và lực lượng lao
động Việt Nam nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập. Việc khai thác, sử
dụng tài nguyên này vẫn có những yếu kém địi hỏi cần có những nỗ lực to lớn
để khắc phục.
Bao trùm tất cả những giải pháp, chính sách cụ thể về khai thác, sử dụng
và phát triển tài nguyên nhân lực trong giai đoạn tới là nâng cao nhận thức về
tầm quan trọng, nội dung và cách tiếp cận đối với khai thác, phát triển tài
nguyên nhân lực quốc gia. Điều quan trọng là những nhận thức này phải chuyển
hóa thành các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch được cân nhắc kỹ lưỡng và
tồn diện, có tính tốn tới nhu cầu, các giải pháp và điều kiện cụ thể cũng như
khả năng bảo đảm của nền kinh tế cũng như của toàn xã hội.
- Phạm Văn Sơn (2012), “Nghiên cứu phát triển đội ngũ cán bộ, công
chức lãnh đạo quản lí nhà nước trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế” [52], Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Phát triển nguồn nhân
lực đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” do Tạp
chí Cộng sản- Nhà xuất bản Chính trị quốc gia tổ chức 8/2012 tại Hà Nội cho
rằng bước vào thời kỳ đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng nền
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước đã
có những bước chuyển biến tích cực, cố gắng học tập để tiếp thu kiến thức và
nâng cao năng lực thực tiễn quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Bên cạnh, mặt tích
cực thì đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức cịn nhiều hạn chế, bất cập. Đó là
từ khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, một bộ phận đáng kể cán bộ, công
6
chức lãnh đạo, quản lý nhà nước không theo kịp, không đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ, thiếu kiến thức chun mơn, kỹ năng quản lý hành chính nhà nước,
quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Chính sự yếu kém của đội ngũ cán bộ quản lý,
chất lượng nguồn nhân lực ngành nội vụ hiện nay là một thách thức lớn đối với
tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
- TS. Thân Minh Quế (2012), “Công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện
ban thường vụ tỉnh uỷ quản lý ở các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn hiện nay”
[46], đề cập đến công tác quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu bảo đảm
cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, có chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả
nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
Bên cạnh đó, có nhiều luận văn, luận án nghiên cứu về vấn đề này
- Lê Trung Thành (2005), “Hồn thiện mơ hình đào tạo và phát triển cán
bộ quản lý cho các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước tại Việt Nam” [53].
Tác giả trình bày cơ sở lý luận về mơ hình đào tạo và phát triển cán bộ quản lý
doanh nghiệp nói chung và với các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước tại Việt
Nam. Mơ hình đào tạo và phát triển cán bộ quản lý doanh nghiệp ở mỗi quốc
gia có sự khác biệt, bởi chính mơ hình sở hữu của mỗi quốc gia. Phân tích thực
trạng mơ hình đào tạo và phát triển cán bộ quản lý tại các doanh nghiệp nhà
nước Việt Nam và giải pháp hồn thiện các mơ hình này.
- Vy Văn Vũ (2001) “Quy hoạch, đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ,
công chức quản lý nhà nước về kinh tế của tỉnh Đồng Nai”[60,Tr89]. Tác giả
trình bày cơ sở khoa học của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản
lí nhà nước về kinh tế của tỉnh Đồng Nai. Từ các tiêu chí về đội ngũ cán bộ,
cơng chức quản lý nhà nước về kinh tế, tác giả đã đánh giá thực trạng, chỉ rõ ưu
khuyết điểm của còng tác quy hoạch, đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ quản lý
kinh tế. Qua đó tác giả đề xuất những biện pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ,
cơng chức quản lí nhà nước về kinh tế.
Ngồi ra cịn có nhiều cơng trình nghiên cứu khác: Tần Xuân Bảo (2012),
Đào tạo cán bộ lãnh đạo và quản lý - kinh nghiệm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí
7
Minh [3], Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, Trần Văn Đông (2005), Quy hoạch,
đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý ở thành phố Hồ Chí Minh [22], Tạp chí Xây
dựng Đảng, Nguyễn Minh Tuấn (2012), Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán
bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa [ 54], Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
Về khu kinh tế đăc biệt, cũng có rất nhiều nghiên cứu chuyên sâu. Ngay
từ những năm 80, trước xu hướng sử dậng khu kinh tế như một biện pháp quan
trọng thu hút vốn đầu tư nước ngồi của các nước đang phát triển, một số cơng
trình nghiên cứu về khu kinh tế đã được phổ biến, trong đó có một phần nói đến
các Đặc khu kinh tế của Trung quốc. Năm 1989, Viện Kinh tế Đối ngoại đã xuất
bản cuốn “Các khu chế xuất Châu Á” nghiên cứu về vai trị của các cơng ty
xun quốc gia tại các khu chế xuất và giới thiệu về Đặc khu kinh tế Thâm
quyến. Năm 1994, Viện Kinh 3 tế học đã xuất bản cuốn sách tham khảo: “Kinh
nghiêm Thế giới về phát triển khu chế xuất và đặc khu kinh tế”. Đây là tài liệu
giới thiệu về các Đặc khu kinh tế của Trung quốc, các khu phát triển kinh tế kỹ
thuật và các thành phố mở cửa Duyên hải. Năm 1996, luận án phó tiến sĩ khoa
học kinh tế “Đặc khu kinh tế trong chiến lược phát triển kinh tế quốc gia” của
tác giả Nguyên Trường Sơn đã nghiên cứu về Đặc khu kinh tế dưới góc độ kinh
tế chính trị học của sự chuyển đổi sang kinh tế thị trường đất nước và nghiên
cứu về xí nghiệp liên doanh như tế bào của đặc khu. Gần đây, khi Chính phủ
Việt nam có chủ trương thành lập điều kiện kinh tế, đã có một số cơng trình
nghiên cứu về Đặc khu kinh tế như “Tài liệu về khu kinh tế tự do” của Viện
Nghiên cứu Tài chính - Bổ Tài chính; “Đặc khu kinh tế của Trung quốc” của
Viện nghiên cứu quản lý Trung ương, Báo cáo kết quả khảo sát Đặc khu kinh tế
Thấm quyến của đồn cán bổ khảo sát của Bổ Tài chính. Những tài liệu này đã
đưa ra được những số liệu mới về các Đặc khu kinh tế cũng như mổt số ý kiến
về việc áp dụng loại hình này ở Việt nam.
Đối với Phú Quốc, trước những yêu cầu cấp thiết của việc nghiên cứu vấn
đế về Đặc khu kinh tế, từ các cơ quan hoạch định chính sách cũng đã có một số
8
hội thảo tập trung bàn vấn đề như: “Đề xuất cơ chế, chính sách, mơ hình tổ chức
bộ máy nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh tạo bước phát triển đột phá, bền
vững cho đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Phú Quốc tỉnh Kiên Giang”.
Ngồi ra, cịn có một số bài viết đăng tải trên các báo, tập chí đề cập đến
xây dựng Đặc khu kinh tế Phú Quốc và các chính sách liên quan đến đơn vị
hành chinh - kinh tế đặc biệt Phú Quốc…
Các công trình đề cập đến nhiều nội dung quan trọng về cán bộ và đặc
khu Hành chính – Kinh tế đặc biệt.
Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu về chất lượng của đội ngũ
cán bộ chủ chốt trong Đơn vị Hành chánh - Kinh tế đặc biệt nói chung và Đơn
vị Hành chánh - Kinh tế đặc biệt Phú Quốc nói riêng. Đây là nội dung luận văn
sẽ tập trung nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ cán bộ chủ
chốt ở các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, khảo sát thực trạng chất lượng
đội ngũ cán bộ chủ chốt ở khu hành chính - kinh tế đặc biệt Phú Quốc, luận văn
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ chủ chốt
huyện Phú Quốc đáp ứng yêu cầu đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận văn khái quát một số vấn đề lý luận về khu hành chính - kinh tế
đặc biệt Phú Quốc.
- Luận văn đánh giá thực trạng chất lượng và những vấn đề đặt ra đối với
đội ngũ cán bộ chủ chốt Phú Quốc khi Phú Quốc trở thành đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt.
- Luận văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng của đội ngũ cán bộ chủ chốt Phú Quốc đáp ứng yêu cầu xây dựng
Phú Quốc thành đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt
huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang trong bối cảnh xây dựng Phú Quốc thành đơn
vị hành chính - kinh tế đặc biệt
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu yêu cầu đặt ra đối với chất lượng của đội ngũ cán bộ
chủ chốt Phú Quốc đáp ứng yêu cầu xây dựng Phú Quốc thành đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Luận văn sử dụng, kế thừa kết quả những tổng kết thực tiễn của Đảng bộ
tỉnh Kiên Giang, Đảng bộ huyện Phú Quốc và các cơng trình nghiên cứu khoa
học có liên quan đã công bố.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin và sử dụng tổng hợp các phương pháp khác để nghiên cứu như:
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, hệ thống, khảo sát...
Nguồn tư liệu, luận văn chủ yếu dựa vào các văn kiện, nghị quyết của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Kiên Giang,
các báo cáo tổng kết nhiệm kỳ, báo cáo quý, năm của Ban chấp hành Đảng bộ
tỉnh, Ủy ban Nhân dân tỉnh, báo cáo nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Đảng bộ
huyện Phú Quốc.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Được nghiên cứu dưới góc độ của Chính trị học, kết quả nghiên cứu của
luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc đổi mới, nâng cao chất
10
lượng công tác cán bộ của huyện Phú Quốc, chủ động và tích cực thực hiện có
hiệu quả Thơng báo số 108-TB/TW ngày 01/10/2012 của Bộ Chính trị về Đề án
“Phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững; bảo đảm vững chắc quốc phịng, an
ninh, thí điểm xây dựng đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Phú Quốc tỉnh Kiên
Giang.
Luận văn có thể được sử dụng làm tư liệu tham khảo trong nghiên cứu và
giảng dạy những vấn đề liên quan đến công tác cán bộ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo luận văn gồm 3
chương, 8 tiết.
11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT PHÚ QUỐC ĐÁP ỨNG YÊU
CẦU CỦA ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH - KINH TẾ ĐẶC BIỆT
1.1. ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH - KINH TẾ ĐẶC BIỆT
1.1.1. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt – Quan niệm và đặc điểm
1.1.1.1. Quan niệm về Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt
Cuối thế kỷ 20, dòng chảy tư bản ngày càng gia tăng mạnh mẽ, các quốc
gia tìm kiếm và sử dụng mọi biện pháp để thu hút ngày càng nhiều và sử dụng
có hiệu quả các nguồn vốn từ nước ngồi - một nguồn lực cần thiết để nâng cao
năng lực sản xuất trong nước, phát triển nền kinh tế quốc dân.
Trong tình hình đó, các khu hành chính - kinh tế đặc biệt (còn gọi là đặc
khu kinh tế) được sử dụng như công cụ hữu hiệu thu hút đầu tư nước ngoài, đặc
biệt đối với các nước đang phát triển. Mơ hình điều này được các nước thế giới
thứ ba rất quan tâm, tìm hiểu. Các khu kinh tế đặc biệt hình thành và phát triển
dưới rất nhiều hình thức khác nhau, cả về quy mô và cách thức tổ chức.
Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt là khu vực có ranh giới địa lý xác
định, do Quốc hội quyết định thành lập, có chính sách đặc biệt về kinh tế - xã
hội, có tổ chức đặc biệt về chính quyền địa phương và cơ quan nhà nước tại đơn
vị hành chính - kinh tế đặc biệt [51, tr. 89].
Đặc khu kinh tế hiểu một cách đơn giản là một khu có địa giới hành
chính, hệ thống tổ chức chính quyền có tính tự chủ cao và có những ưu đãi, điều
kiện thuận lợi hơn so với phần còn lại của quốc gia để tạo điều kiện cho doanh
nghiệp phát triển, từ đó tìm kiếm lợi nhuận cao hơn, tạo ra các giá trị cao hơn
cho quốc gia. Đây là mơ hình phát triển cao hơn dựa trên mơ hình khu kinh tế
cơ bản với các đặc trưng là có khơng gian riêng biệt, có mơi trường đầu tư và
kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư. Ngày nay, các đặc khu kinh
tế được hình thành trong cả các nền kinh tế phát triển và các nền kinh tế chậm
12
phát triển. Ước tính rằng, hiện có tới 3.000 đặc khu kinh tế như vậy ở 116 nền
kinh tế.
1.1.1.2. Đặc điểm của đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt
Thu hút đầu tư nước ngoài được chú ý quan tâm và được coi như một
nguồn lực của nền kinh tế. Mặc dù ở Việt Nam, đến nay mơ hình các khu hành
chính kinh tế đặc biệt vẫn chưa có khung pháp lý để triển khai trên thực tế, song
từ kinh nghiệm của các quốc gia khác, Đơn vị Hành chánh - Kinh tế đặc biệt là
nơi đột phá về cải cách, đổi mới, các đặc khu kinh tế còn được gọi là các
“Thành phố đặc quyền” - nơi áp dụng luật lệ riêng so với toàn quốc ở tất cả các
lĩnh vực liên quan kinh doanh.
i) Đặc khu có thể có cơ chế hành chính, kinh tế riêng theo chuẩn mực
quốc tế như: bãi bỏ hàng rào bảo hộ thuế và phi thuế quan; miễn thị thực nhập
cảnh; cho phép cư trú lâu dài đối với các nhà kinh doanh, quản lý, kỹ thuật; mức
thuế thu nhập doanh nghiệp hấp dẫn. Nhà đầu tư được phép tự do kinh doanh,
chỉ trừ một số lĩnh vực cấm.
Đặc khu là nơi được phép thực thi chế độ tự quản về hành chính, trong đó
tách biệt các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trung ương chỉ nắm quyền
thống nhất quản lý quốc phịng - an ninh và đối ngoại. Tính ưu việt của mơ hình
đặc khu kinh tế trên ba khía cạnh: Đặc khu có diện tích lớn, hội đủ lợi thế về vị
trí địa lý, giao thơng, có các điều kiện thuận lợi để “Mở cửa”, hội nhập nhanh
với thế giới, dễ dàng thu hút vốn đầu tư và nhân lực chất lượng cao.
ii) Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt được Nhà nước trao quyền tự chủ
cao và linh hoạt hơn về mặt hành chính và kinh tế. Chính quyền được trao
quyền điều hành mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội. Như đặc khu Hồng
Kơng, Ma cau hay quần đảo Cayman (Anh quốc) hay Jeju của Hàn Quốc, …
Để đặc khu hành chính Hồng Kơng có quyền tự trị cao trong quan hệ với
Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa, Trung Quốc thực hiện nguyên tắc “Một quốc
gia, hai chế độ” và “Hồng Kông do người Hồng Kơng quản lý trong những điều
kiện có quyền tự trị cao”.
13
Trước hết, Luật cơ bản xác định Đặc khu hành chính Hồng Kơng là đơn
vị hành chính địa phương của Trung Quốc. Đơn vị hành chính này có quyền tự
trị cao và trực thuộc Chính phủ Trung ương. Quyền tự trị cao của Đặc khu hành
chính Hồng Kơng thể hiện ở chỗ:
Một là, Chính phủ Trung ương khơng can thiệp vào cơng việc thuộc thẩm
quyền của Đặc khu hành chính Hồng Kông;
Hai là, theo quy định của Luật cơ bản, Chính quyền Đặc khu hành chính
Hồng Kơng có quyền đưa ra các quyết định cuối cùng về các việc thuộc thẩm
quyền của mình, khơng cần có sự đồng ý của Chính phủ Trung ương;
Ba là, trong khn khổ của Luật cơ bản Chính quyền Đặc khu hành chính
Hồng Kơng có quyền lựa chọn các phương tiện để thực hiện quyền hạn của
mình.
Jeju, với tư cách đơn vị hành chính, hiện là tỉnh duy nhất trong 09 tỉnh
của Hàn Quốc được hưởng chế độ tự trị với tên gọi là chính thức là "tỉnh tự trị
đặc biệt Jeju". Có hiệu lực từ ngày 1/7/2006, đạo luật về việc thành lập tỉnh tự
trị đặc biệt Jeju đã được Hàn Quốc thông qua với mục tiêu biến Jeju trở thành
“Thành phố quốc tế tự do”, cạnh tranh với Hong Kong (Trung Quốc) và
Singapore. Theo đạo luật đặc biệt này, chính quyền tỉnh Jeju được trao quyền tự
quyết ở mức cao trong hầu hết mọi lĩnh vực, trừ ngoại giao, quốc phòng và tư
pháp. Thậm chí, luật cho phép Jeju có lực lượng cảnh sát và hệ thống giáo dục
riêng, độc lập với chính quyền trung ương, cũng như tự do hơn trong việc tổ
chức hành chính. Một số chức năng vốn thuộc thẩm quyền của các bộ ở trung
ương cũng được chuyển giao cho Jeju tồn quyền quyết định.
iii) Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt là địa bàn được hưởng những cơ
chế, chính sách ưu đãi đặc biệt, nhất là chính sách về thuế để thúc đẩy phát triển
nhanh cơng nghiệp, thương mại và dịch vụ. Tại các đặc khu của Indonesia, việc
cấp phép đầu tư kéo dài không quá 20 ngày. Ở Jeju (Hàn Quốc), nhà đầu tư
được thuê đất trong 50 - 100 năm (có thể gia hạn thêm), miễn thuế bất động sản
trong 10 - 15 năm, giảm 50 - 10% tiền thuê đất, miễn thuế xuất nhập khẩu…
14
Các quy định cũ về giáo dục, y tế và du lịch cũng sẽ được nới lỏng hoặc xóa bỏ
hồn tồn. Chính quyền tỉnh có thể cho phép người nước ngoài xây trường học
và bệnh viện, coi đây là trọng điểm thu hút nhà đầu tư và du khách ngoại quốc.
Theo số liệu trên website Cơ quan Xúc tiến Thương mại Đầu tư Hàn
Quốc (investkorea.org), hiện Jeju có 188 trường học, bao gồm 110 trường tiểu
học, 44 trường trung học cơ sở, 30 trường trung học phổ thông và 4 trường đại
học [40,Tr 88]. Tại Thâm Quyến giá thuê đất ưu đãi, chỉ bằng 30 - 50% giá thuê
đất trong nội địa. Thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá
trị gia tăng,... đều thấp hơn nhiều so với nội địa và thấp hơn Hồng Kông (mức
thuế khoảng 15%). Hầu hết các quốc gia đều có luật điều chỉnh riêng cho thể
chế kinh tế đặc biệt này. Thậm chí Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore, Các tiểu
vương quốc Ả rập…cịn có luật riêng áp dụng cho 1 đặc khu.
Theo kinh nghiệm phát triển các đặc khu kinh tế đã được phân tích và
diễn giải ở trên cho thấy, phải có thể chế hiện đại và vượt trội thì mới có thể
phát triển được đặc khu kinh tế, trong đó, chính sách pháp luật phải được coi là
xương sống, rường cột. Kinh nghiệm phát triển đặc khu kinh tế của Trung Quốc
cho thấy, hệ thống chính sách pháp luật được hình thành ở 3 cấp độ:
Cấp độ thứ nhất, là hệ thống pháp luật và quy định áp dụng chung cho tất
cả các đặc khu;
Cấp độ thứ hai, gồm các văn bản quy định do chính quyền cấp tỉnh ban
hành trên cơ sở những nguyên tắc của các luật, các quy định và chính sách của
quốc gia và căn cứ vào điều kiện cụ thể, nhu cầu thực tế của các đặc khu kinh
tế;
Cấp độ thứ ba, là các quy định chỉ áp dụng riêng cho từng đặc khu do
chính quyền thành phố nơi có đặc khu và một số khác do chính quyền tỉnh ban
hành.
Ở nước ta, sau một thời gian dài nghiên cứu, đánh giá, đến nay, chưa có
Dự thảo về hệ thống chính trị và xây dựng tổ chức chính quyền của Đặc khu
kinh tế Phú Quốc nhưng Dự thảo cho Vân Đồn đã và đang từng bước được hoàn
15
thiện. Theo đó, dự kiến về bộ máy hành chính của Đặc khu thì Uỷ ban nhân
dân Đặc khu quản lý, điều hành các mặt hoạt động của Đặc khu, dưới sự lãnh
đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng.
Cơ cấu Uỷ ban nhân dân Đặc khu gồm 7 thành viên:
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Đặc khu;
- 02 Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Đặc khu;
- 04 Uỷ viên Uỷ ban nhân dân.
Đứng đầu Uỷ ban nhân dân là:
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Đặc khu do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh
bổ nhiệm;
- Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Đặc khu và Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân phường do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Đặc khu bổ nhiệm.
Cơ quan giúp việc cho Uỷ ban nhân dân Đặc khu có nhiệm vụ sắp xếp, tổ
chức các cơ quan tham mưu của cấp uỷ với cơ quan chun mơn của chính
quyền theo hướng tinh gọn, hiệu quả, hiện đại, quản lý đa ngành, đa lĩnh vực.
Theo đó thì Uỷ ban nhân dân Đặc khu có 10 cơ quan là:
- Văn phòng;
- Ban Tổ chức và quản lý nguồn nhân lực;
- Ban Kinh tế tổng hợp; Ban Phát triển hạ tầng;
- Ban Tài nguyên - Môi trường;
- Ban Văn hố và Chính sách xã hội;
- Ban Kiểm tra - Pháp chế;
- Ban Tuyên truyền - Vận động;
- Trung tâm dịch vụ hành chính cơng và Ban xúc tiến đầu tư (IPA).
Trong các ban khơng có phịng và khơng cịn chế độ cơng chức suốt đời
thay vào đó là thuê chuyên gia và ký hợp đồng làm việc với cơng chức (trừ một
số vị trí do bầu cử hoặc chỉ định) và thuê người nước ngoài làm tư vấn, quản lý
điều hành trên một số lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế trên cơ sở thõa thuận mức
16
lương và cơng việc được giao. Cùng với đó, chức năng, nhiệm vụ và thẩm
quyền của Uỷ ban nhân dân Đặc khu cũng được xây dựng chi tiết, cụ thể.
Về chức năng, Uỷ ban nhân dân Đặc khu sẽ tổ chức xây dựng chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển Đặc khu; tổ chức thực hiện phát
triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, đối ngoại trên địa bàn Đặc
khu; quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn Đặc khu; phối hợp với Uỷ ban
nhân dân các địa phương thuộc tỉnh và các cơ quan liên quan trong thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của địa phương; thực hiện công tác tổ chức cán
bộ; cung ứng dịch vụ hành chính cơng và các dịch vụ hỗ trợ khác. Chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Đặc khu được quy định
trong Luật Đặc khu kinh tế Vân Đồn và chịu trách nhiệm toàn diện trước pháp
luật về các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội trên địa bàn Đặc khu.
Uỷ ban Nhân dân Đặc khu được giao một số thẩm quyền của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành trung ương, của Uỷ ban nhân dân tỉnh và
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh trong lĩnh vực hành chính và kinh tế - xã hội và
được quy định trong Luật Đặc khu Kinh tế Vân Đồn, theo hướng: Thẩm quyền
được Chính phủ phân cấp, giao quyền.
Chính phủ rà sốt để giao một số quyền cho Uỷ ban nhân dân Đặc khu
thực hiện, cụ thể là, trong lĩnh vực hành chính có quyền quyết định thành lập
các cơ quan chuyên môn, đơn vị thuộc Uỷ ban nhân dân Đặc khu; quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn,
đơn vị thuộc Uỷ ban nhân dân Đặc khu; xây dựng chính sách tiền lương bổ sung
theo hướng tự chủ.
Bên cạnh đó, Uỷ ban nhân dân Đặc khu được ban hành một số chính sách
trên một số lĩnh vực như: Chính sách ưu đãi đầu tư; đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao, y tế chất lượng cao và kinh tế biển; được bổ sung thêm danh mục
lĩnh vực đầu tư có điều kiện, danh mục lĩnh vực cấm đầu tư, các loại hình dịch
vụ đặc biệt trên địa bàn Đặc khu nhằm bảo đảm phát triển đúng định hướng của
Đặc khu; ban hành chính sách đối với người lao động làm việc tại Đặc khu...
17
Cùng với đó, phương án này cũng xác định rõ nhiều chức năng, nhiệm vụ khác
của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Đặc khu kinh tế Vân Đồn về lĩnh vực hành chính,
kinh tế, đầu tư phát triển, xây dựng... Mục tiêu xây dựng Đặc khu kinh tế Vân
Đồn là làm cho kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Muốn vậy phải phát triển
trình độ sản xuất ở mức độ cao, phát triển các dịch vụ cao cấp, bộ máy quản lý
phải tinh gọn và hiệu quả, an sinh xã hội ngày càng được đảm bảo tốt hơn.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu để xây dựng hình mẫu về tổ
chức và hoạt động để áp dụng chung cho các đặc khu hay chỉ điều chỉnh riêng
cho từng đặc khu. Vấn đề này cần triệt để khai thác kinh nghiệm của các nước
phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.
1.1.2. Thực trạng đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt ở Việt Nam
1.1.2.1. Các khu hành chính – kinh tế đặc biệt ở Việt Nam
Trước đây, nước ta cũng đã có Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, gồm thị xã
Vũng Tàu, xã Long Sơn thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai và huyện Côn
Đảo thuộc tỉnh Hậu Giang. Đặc khu được thành lập theo Nghị quyết ngày
30/5/1979 của Quốc hội, trực thuộc Trung ương và tương đương với cấp tỉnh.
Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo kéo dài 12 năm, đến ngày 12/8/1991, Quốc hội
khóa VII kỳ họp thứ 9 quyết định thành lập tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trên cơ sở
Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo và 3 huyện: Long Đất, Châu Thành và Xuyên
Mộc tách từ tỉnh Đồng Nai.
Kể từ khi thực hiện chính sách Đổi mới và mở cửa nền kinh tế do Đảng
khởi xướng từ Đại hội Đảng VI (năm 1986), tại Việt Nam đã hình thành và phát
triển các mơ hình khu kinh tế khác nhau. Quá trình này trải qua nhiều giai đoạn
khác nhau gắn liền với việc thử nghiệm, chuyển đổi và nhân rộng các mơ hình
khu kinh tế khác nhau từ truyền thống tới hiện đại bao gồm:
- Giai đoạn 1 (từ 1991 - 1994): gắn với việc hình thành khu chế xuất.
- Giai đoạn 2 (từ 1994 - 1997): gắn với việc hình thành khu cơng nghiệp
và chuyển đổi một số khu chế xuất thành khu công nghiệp.
18
- Giai đoạn 3 (từ 1997 – 2003) gắn với việc phát triển lan tỏa khu cơng
nghiệp, hình thành khu cơng nghệ cao, thí điểm và thành lập Khu kinh tế cửa
khẩu.
- Giai đoạn 4 (từ 2003 – nay): gắn với việc thí điểm thực hiện khu kinh tế
mở và phát triển khu kinh tế ven biển.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, trong quá trình phát triển
và hội nhập, tính đến hết năm 2016, Việt Nam đã xây dựng 16 khu kinh tế ven
biển (trong đó có khu kinh tế Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang), 26 khu kinh tế cửa
khẩu, 03 khu công nghệ cao và 324 khu cơng nghiệp, khu chế xuất. Trong đó,
các khu kinh tế ven biển, khu kinh tế cửa khẩu và khu cơng nghệ cao được
hưởng chính sách ưu đãi cao nhất theo quy định của pháp luật hiện hành.
Các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất đã thu hút được 152 tỷ
USD vốn đầu tư nước ngoài đăng ký (chiếm gần 50% tổng vốn đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam) và 1.511 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư trong nước đăng ký,
giải ngân đạt tương ứng là 86,8 tỷ USD và 701 nghìn tỷ đồng; đóng góp khoảng
45% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước và khoảng 51% giá trị xuất khẩu
của cả nước; thu hút hơn 3 triệu lao động; riêng 16 khu kinh tế ven biển đã thu
hút 42 tỷ USD vốn FDI và 805 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư trong nước, giải ngân
tương ứng là 48,1% và 43,2%.
Đến nay, việc phát triển và thu hút đầu tư của các khu kinh tế này đã
chậm lại và gặp nhiều khó khăn do những hạn chế sau:
Cơ chế, chính sách ưu đãi các khu kinh tế khơng cịn đủ sức cạnh tranh
trong khu vực nhưng khơng thể vận dụng linh hoạt để có ưu đãi cao hơn do các
quy định cứng của pháp luật hiện hành;
Bộ máy quản lý với thẩm quyền chưa phù hợp, hiệu lực hiệu quả chưa
cao, thủ tục hành chính chậm chạp phiền hà, chưa thơng thống; việc phân cấp,
ủy quyền cho Ban quản lý khu kinh tế còn chưa được thực hiện đầy đủ, nhất
quán và mạnh mẽ nên cơ chế “Một cửa, tại chỗ” cho nhà đầu tư chưa được thực
hiện tốt;
19
Kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực chưa đáp ứng u cầu; một số khu ở
vị trí khơng thuận lợi; thu hút và triển khai các dự án động lực, các nhà đầu tư
nước ngồi có tiềm lực, có cơng nghệ cao cịn hạn chế; chưa tạo được sự liên
kết và tương đồng giữa các khu kinh tế làm cho sức cạnh tranh thấp.
Nguyên nhân chủ yếu là do:
i) Nguồn lực đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội
của các khu kinh tế dựa vào ngân sách nhà nước, chủ yếu là ngân sách Trung
ương trong khi ngân sách nhà nước hạn chế, không đáp ứng đủ yêu cầu của nhà
đầu tư.
ii) Các khu kinh tế có mục tiêu phát triển và ngành, lĩnh vực tương đối
giống nhau, chưa định hướng thu hút các ngành, lĩnh vực có lợi thế so sánh nên
dẫn tới tình trạng cạnh tranh khơng hiệu quả giữa các khu kinh tế.
iii) Chưa tạo được những thể chế, chính sách đặc thù, đột phá và mang
tính cạnh tranh quốc tế do bị khống chế bởi pháp luật chuyên ngành.
iv) Ban quản lý khu kinh tế mới chỉ được phân cấp, ủy quyền trong một
số lĩnh vực nhất định về kinh tế, đầu tư, thương mại, lao động, đất đai, xây
dựng, môi trường… chưa được giao thực hiện các nhiệm vụ quản lý về hành
chính, dân cư trên địa bàn khu kinh tế.
Những hạn chế và nguyên nhân nêu trên đã khiến cho các khu kinh tế
chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và mục tiêu đề ra của các khu kinh tế.
Trong khi chúng ta vẫn đang trong giai đoạn đầu của quá trình xây dựng và phát
triển khu kinh tế thì nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã triển khai và áp dụng
thành công mô hình đặc khu kinh tế và nhiều mơ hình mới với cơ chế, chính
sách mở và ưu đãi hơn. Nhiều đặc khu kinh tế đã trở thành khu vực phát triển có
sức lan tỏa, tạo động lực cho cả nền kinh tế phát triển.
Với lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên, nguồn nhân lực, tiềm năng phát
triển; yêu cầu ngày càng cao về việc hoàn thiện thể chế, cải thiện mơi trường
đầu tư, nâng cao tính cạnh tranh về thu hút đầu tư so với các nước trong khu
20
vực và trên thế giới, việc xây dựng mơ hình đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt
ở Việt Nam là hết sức cần thiết và chín muồi.
Sự phát triển của các đặc khu kinh tế không chỉ đơn thuần vì lý do kinh tế
của riêng khu vực đó, mà có ý nghĩa to lớn hơn nhiều. Đó là lợi ích chung của
cả nền kinh tế ở góc độ tạo công ăn việc làm, thu hút các nguồn lực phát triển,
mở rộng xuất khẩu, chuyển giao công nghệ và tri thức quản lý, phát triển tổng
hợp vùng. Tinh thần chung của các chính sách đặc thù cho đặc khu kinh tế là
giảm thiểu mọi hàng rào ngăn cản các dòng di chuyển của các nguồn lực và đủ
hấp dẫn các nhà đầu tư. Thể hiện ở một số nét chủ yếu như: Giảm thiểu thuế
quan, tự do trung chuyển hàng hóa; đơn giản hóa các thủ tục thành lập doanh
nghiệp; đơn giản hóa các thủ tục hải quan; áp dụng cách chính sách khuyến
khích về tài chính; tự do hóa các dịng chảy vốn đầu tư, lợi nhuận; tạo thuận lợi
trong việc sử dụng kết cấu hạ tầng…
Tuy nhiên, mức độ thành công của các đặc khu kinh tế này không phải
như nhau. Phần lớn các đặc khu kinh tế có tên tuổi trên thế giới đều nằm ở các
vị trí ven biển hoặc những giao điểm giao thơng lớn, gồm cả đường thủy, đường
bộ, đường sắt và đường hàng khơng. Chính khơng gian kinh tế này tạo ra “Độ
mở” cần thiết để các đặc khu kinh tế phát triển. Nhìn chung, các khu kinh tế
thành cơng đều có các đặc điểm là chuyên nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Làn sóng tồn cầu hóa đã thay đổi về cơ bản cách thức thu hút đầu tư của
các quốc gia. Việc xây dựng các Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt là cần thiết
để Việt Nam tham gia tích cực và chủ động vào tự do hóa thương mại, thu hút
đầu tư của các quốc gia và nâng cao năng lực cạnh tranh thấp. Thập kỷ đầu tiên
của thế kỷ 21, nền kinh tế chứng kiến cuộc đua xây dựng các khu kinh tế giữa
các địa phương và 17 khu kinh tế ven biển, 26 khu kinh tế cửa khẩu, 328 khu
công nghiệp được thành lập. Nhưng sau 25 năm những khu công nghiệp, kinh tế
mở này đã khơng phát huy được vai trị như mong muốn. Đã đến lúc Việt Nam
cần một mơ hình thực sự mang lại hiệu quả cho kinh tế đất nước và đó là đặc
khu hành chính kinh tế.
21
1.1.2.2. Khu hành chính – kinh tế đặc biệt Phú Quốc
Ở nhiều quốc gia trên thế giới như Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc, có
những đặc khu kinh tế ở hoạt động đặc biệt hiệu quả, chứng tỏ nếu biết làm có
thể tạo ra sự “Thần kỳ” phát triển bằng cách tạo ra “Đột phá điểm”, tạo bứt phá,
tiến vượt, từ đó lan toả phát triển mạnh cho cả đặc khu lẫn cho nền kinh tế. Ở
Việt Nam, ba đặc khu hành chính - kinh tế dự kiến sẽ được thành lập là Vân
Đồn (Quảng Ninh), Vân Phong (Khánh Hoà) và Phú Quốc (Kiên Giang). Mặc
dù đặc khu là mơ hình hoàn toàn mới ở Việt Nam nhưng trên thế giới đã phát
triển từ lâu và đã hình thành hàng nghìn đặc khu kinh tế.
Ở Việt Nam, việc xây dựng một số đặc khu kinh tế để tạo các cực tăng
trưởng và thử nghiệm thể chế là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước
Việt Nam. Tại Hội nghị Trung ương 4 Khoá VIII (tháng 12/1997), ý tưởng xây
dựng các khu kinh tế đã được đề xuất. Tuy nhiên, đến năm 2002, chủ trương
xây dựng thí điểm mơ hình Khu kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam) mới được
quyết định. Từ đó, đã có 15 khu kinh tế ven biển với tổng diện tích khoảng
54.000 ha được phát triển. Năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đồng ư bổ sung
thêm 3 khu kinh tế ven biển vào quy hoạch. Như vậy, hiện có 18 khu kinh tế
ven biển được phê duyệt trong quy hoạch phát triển khu kinh tế ven biển của cả
nước đến năm 2020 với tổng diện tích mặt đất và mặt nước 730.553 ha (tương
đương 7305,53 km2), bằng khoảng 2,2% tổng diện tích của cả nước.
Kết luận số 74-KL/TW ngày 17/10/2013 của Hội nghị Trung ương lần
thứ 8 Khóa XI đã khẳng định: “Sớm xây dựng, phê duyệt, triển khai thực hiện
một số đề án thành lập khu hành chính - kinh tế đặc biệt...” Ba đặc khu kinh tế
tiêu biểu đầu tiên đã được lựa chọn bao gồm Vân Đồn (Quảng Ninh), Vân
Phong (Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang) [32, tr.87].
Trong ba đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt dự kiến thành lập, Phú
Quốc đã thiết lập nền tảng tốt hơn Vân Đồn và Bắc Vân Phong. So với Vân Đồn
và Bắc Vân Phong, Phú Quốc nhận được nguồn vốn ngân sách lớn nhất để phát
triển cơ sở hạ tầng. Trong giai đoạn 2005-2016, đã có 25.460 tỷ đồng đồng vốn
22
ngân sách nhà nước được đầu tư để xây dựng các dự án hạ tầng trọng điểm trên
đảo. Trong khi đó, vốn ngân sách dành cho khu vực Bắc Vân Phong giai đoạn
2005-2017 chỉ khoảng 1.900 tỷ đồng. Hệ thống cơ sở hạ tầng ở Vân Đồn cũng
nghèo nàn. Cho đến nay, Phú Quốc đã có một số cơng trình đưa vào sử dụng
như cảng hàng không quốc tế Phú Quốc, cảng biển quốc tế An Thới, đường cáp
điện ngầm xun biển, trục giao thơng chính Bắc Nam, đường vịng quanh đảo
và các tuyến đường nhánh. Các cơng trình được tiếp tục đầu tư bao gồm nhà
máy xử lý rác thải, hệ thống cung cấp điện lưới quốc gia mạch 2, cảng hành
khách quốc tế, mở rộng công suất sân bay gấp đôi lên 5 triệu lượt hành
khách/năm. Dự án hạ tầng đáng chú ý nhất là cảng hàng không quốc tế mới trở
thành đòn bẩy cho Phú Quốc và cũng là lợi thế của Phú Quốc so với đặc khu
Vân Đồn và Bắc Vân Phong. Hiện tại, sân bay Phú Quốc đón trung bình 30
chuyến bay mỗi ngày từ 3 hãng hàng không Vietnam Airlines, Vietjet và Jetstar
và đường bay quốc tế từ Quảng Châu (Trung Quốc), Stokhom (Thuỵ Điển) bay
thuê chuyến. Mới đây, Bangkok Airways đã khai trương đường bay từ Bangkok
đến Phú Quốc. Với vị trí địa lý thuận lợi, chỉ cách các trung tâm du lịch lớn ở
Đơng Nam Á từ 1-2 giờ bay, lại có 150km bờ biển với nhiều bãi biển đẹp, nắng
ấm quanh năm, khơng có bão, hệ thống rừng ngun sinh phong phú nên từ lâu
Phú Quốc đã “Lọt mắt xanh” của các nhà đầu tư.
Cùng với sự phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng, Phú Quốc cũng có sức
hút với nhà đầu tư mạnh hơn so với Bắc Vân Phong và Vân Đồn. Cho đến
nay, Vân Đồn mới có dự án đầu tư sân bay và khu nghỉ dưỡng casino của Sun
Group và khu nghỉ dưỡng của CEO Group là những dự án lớn. Bắc Vân
Phong cũng tập trung phát triển du lịch nhưng chưa có dự án đầu tư lớn mà chỉ
có những dự án về cơng nghiệp. Đến tháng 9/2017, khu vực Bắc Vân Phong
mới thu hút 35 dự án đầu tư, tổng vốn đầu tư 421 triệu USD. Cịn trên tồn khu
kinh tế Vân Phong đã thu hút 156 dự án với 8,3 tỷ USD vốn đăng ký, trong đó
có hai dự án đang thoả thuận là nhà máy điện và tổ hợp hố dầu có vốn đăng ký
6,8 tỷ USD. Trong khi đó, theo báo cáo của Ban quản lý Khu kinh tế Phú Quốc,
23
cho đến nay đã thu hút 265 dự án đầu tư cịn hiệu lực, trong đó có 197 dự án
được cấp giấy chứng nhận đầu tư và quyết định chủ trương đầu tư với tổng diện
tích 7.235ha, tổng vốn đầu tư đăng ký 218 nghìn tỷ đồng.
1.2. CÁN BỘ CHỦ CHỐT VÀ CÁC TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
1.2.1. Cán bộ chủ chốt
Khoản 1 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hịa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11
năm 2008 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010 quy định: Cán
bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức
danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau
đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước [Error: Reference source not found].
Từ những khái niệm về cán bộ nêu trên cho thấy, người cán bộ có bốn đặc
trưng cơ bản:
Cán bộ được sự uỷ nhiệm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức khác trong
hệ thống chính trị lấy danh nghĩa của các tổ chức đó để hoạt động.
Cán bộ giữ một chức vụ, một trọng trách nào đó trong một tổ chức của hệ
thống chính trị.
Cán bộ phải thơng qua tuyển chọn hay phân cơng, cơng tác sau khi hồn
thành chương trình đào tạo các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên
nghiệp, dạy nghề; cán bộ được bổ nhiệm, đề bạt hoặc bầu cử.
Cán bộ được hưởng lương và chính sách đãi ngộ, căn cứ vào nội dung,
chất lượng hoạt động và thời gian công tác của họ.
Như vậy, hiểu theo nghĩa chung nhất, cán bộ là người lãnh đạo, quản lý
hoặc người làm chuyên môn, nhà khoa học hay công chức, viên chức làm việc,
hưởng lương từ ngân sách Nhà nước hoặc từ các nguồn khác. Họ được hình