Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

NHỮNG vấn đề đặt RA TRONG CÔNG tác QUẢN lý MẠNG xã hội ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.51 KB, 11 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG CÔNG TÁC QUẢN
LÝ MẠNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Thế giới đang chứng kiến cuộc cách mạng lần thứ 4 với sự phát
triển vượt bậc của cơng nghệ xun ngành thế hệ mới. Từ đó, mở ra thời
đại phát triển mới của loài gắn với trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật cùng
sự phát triển bùng nổ của nền kinh tế số. Trong phạm vi có hạn của buổi
thảo luận hơm nay, nhóm 4 đề cập đến vấn đề đặt ra trong công tác quản
lý xã hội ở Việt nam
Mạng xã hội ở Việt Nam có thể phân thành hai loại, thứ
nhất, mạng xã hội do các doanh nghiệp trong nước cung cấp và chịu sự
điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Thứ hai, mạng xã hội do doanh
nghiệp nước ngoài cung cấp xuyên biên giới vào Việt Nam, điển hình
như Facebook, Google, Youtube, Twitter, Microsoft... Trước tháng 82013, mạng xã hội tại Việt Nam được quản lý dưới phương thức đăng ký
cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, do sự phát triển nhanh, mạnh của mạng xã
hội, Việt Nam đã thay đổi phương thức quản lý từ đăng ký cung cấp dịch
vụ sang phương thức cấp giấy phép hoạt động. Đến thời điểm hiện tại,
Việt Nam đã có 270 mạng xã hội được cấp giấy phép hoạt động.
Các mạng xã hội do doanh nghiệp Việt Nam cung cấp, đặc biệt là
các trang đã được cấp phép hoạt động phần lớn đều tuân thủ quy định
của pháp luật hiện hành. Số ít trường hợp để xảy ra sai phạm và nội dung
vi phạm chủ yếu là cho thành viên chia sẻ, trao đổi các nội dung vi phạm
về thuần phong mỹ tục, dung tục và phản cảm.
Các mạng xã hội của nước ngoài cung cấp xuyên biên giới vào
Việt Nam được người Việt Nam lựa chọn sử dụng nhiều nhất hiện nay là
Facebook và Youtube. Theo báo cáo của Google, Việt Nam là 1 trong
nhóm 10 nước có lượng người dùng Youtube cao nhất trên thế giới.
Trong thời gian qua, các hành vi tiêu cực, như tung tin giả mạo,
phát tán tin xấu độc, xuyên tạc, bịa đặt, phát ngôn gây thù ghét... chủ yếu
tồn tại trên các mạng xã hội nước ngoài do nhận thức của người sử dụng
cho rằng mạng xã hội là môi trường ảo nên có thể tự do phát ngơn, tự do



thông tin mà không phải chịu trách nhiệm nào. Để quản lý hoạt động của
mạng xã hội, trong những năm qua, Việt Nam từng bước xây dựng, hoàn
thiện hệ thống cơ chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh hoạt động in-tơ-nét nói chung và mạng xã hội nói riêng, bảo đảm
mơi trường pháp lý bình đẳng, minh bạch, phù hợp với yêu cầu thực
tiễn(1).
Các cơ quan quản lý nhà nước của Việt Nam cũng đã ban hành
một số văn bản mang tính chỉ đạo, điều hành. Trong đó, tập trung yêu
cầu các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội chủ động
rà sốt tồn bộ hoạt động cung cấp dịch vụ của mình, nâng cao trách
nhiệm quản lý thông tin trên mạng xã hội do mình cung cấp. Ngồi ra,
Bộ Thơng tin và Truyền thơng Việt Nam thường xun chủ trì tổ chức
các cuộc họp định kỳ, đột xuất với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
mạng xã hội nhằm tìm hiểu, nắm bắt xu hướng phát triển của loại hình
này, cũng như trao đổi, tìm kiếm các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn,
hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện phát huy khả năng
để
cạnh
tranh
với
mạng

hội
nước
ngồi.
Cơng tác thanh tra, kiểm tra hoạt động mạng xã hội được Bộ Thông tin
và Truyền thông Việt Nam triển khai thường xuyên, quyết liệt. Trong
trường hợp xác định được nhân thân của đối tượng cung cấp thông tin vi
phạm các quy định hiện hành trên mạng xã hội, thì tùy theo tính chất

mức độ, Việt Nam sẽ áp dụng hình thức xử lý phù hợp. Trường hợp vi
phạm mức độ nhẹ thì nhắc nhở, rút kinh nghiệm, trường hợp vi phạm ở
mức độ nặng có thể xem xét xử phạt vi phạm hành chính, thu hồi giấy
phép, thu hồi tên miền,... Trong trường hợp không xác định được nhân
thân của đối tượng vi phạm, hoặc đối tượng vi phạm ở nước ngoài, Việt
Nam sẽ áp dụng biện pháp yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ mạng xã
hội phối hợp ngăn chặn, gỡ bỏ thông tin sai phạm. Hiện nay, Chính phủ
Việt Nam đã thiết lập được cơ chế phối hợp với Google và Facebook.
Đây là hai dịch vụ của nước ngồi có khá đơng người Việt Nam sử
dụng.
Bên cạnh việc tăng cường công tác quản lý mạng xã hội, Chính
phủ Việt Nam đã đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức, văn hóa
của người sử dụng mạng xã hội, nhất là giới trẻ, để từng người sử dụng


có ý thức, trách nhiệm hơn khi phát ngơn trên mạng xã hội. Đồng thời,
đẩy mạnh cung cấp thông tin, công khai, minh bạch thông tin trên các
phương tiện truyền thơng chính thống góp phần hạn chế cơ hội phát triển
của các phát ngôn vi phạm pháp luật, gây thù ghét trên mạng xã hội.
Huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến địa
phương, phối hợp trách nhiệm giữa các cơ quan chức năng với các tổ
chức, đồn thể, giữa gia đình và nhà trường, giữa ý thức cá nhân với các
phong trào mang tính cộng đồng, hướng tới mục tiêu cùng chung tay xây
dựng mạng xã hội tại Việt Nam lành mạnh, an toàn, đóng góp ngày càng
tích cực và hiệu quả vào sự phát triển của toàn xã hội.
Với lợi thế lan tỏa nhanh, ảnh hưởng sâu rộng, phù hợp với nhu
cầu công chúng, mạng xã hội trở thành một phần tất yếu trong đời sống
xã hội. Tuy nhiên, mạng xã hội có cả mặt tiêu cực và tích cực. Khơng thể
từ chối hay đóng cửa mạng xã hội. Kinh nghiệm của nhiều nước trong
quản lý mạng xã hội cho thấy những biện pháp kiểm sốt đếu hướng tới

mục đích chung là hạn chế tối thiểu nguy cơ từ mạng xã hội đồng thời
vẫn đảm bảo phát triển mạng xã hội.
Những vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý mạng xã hội trong thời
gian tới
Thứ nhất là Hệ thống pháp luật phù hợp với sự phát triển nhanh
và mạnh của Internet nói chung và mạng xã hội nói riêng
Ðến nay, chúng ta đã có một hệ thống văn bản điều chỉnh các hoạt
động liên quan đến việc cung cấp, sử dụng thơng tin trên MXH được bổ
sung, hồn thiện đáng kể.
Một số chính sách của Nhà nước
Nghị định số 174/2013/NĐ-CP của Chính phủ, quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thơng, cơng nghệ thơng
tin và tần số vơ tuyến điện.
Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày
15-7-2013 về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin
trên mạng thay thế cho Nghị định số 97/2008/NĐ-CP, một Nghị định có
tầm quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý, tạo động lực thúc đẩy
phát triển internet, cung cấp dịch vụ trên internet và trên các trang mạng


xã hội ở nước ta hiện nay (3). Cho đến thời điểm này, các tiêu chí về
thơng tin xấu độc cũng đã được quy định cụ thể tại khoản 1 điều 5 của
Nghị định số 72/2013/NĐ-CP (4) và Thông tư số 38/2016/TT-BTTTT
của Bộ TTTT (5).
Chính phủ ban hành Nghị định số 27/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định 72/2013/NĐ-CP của chính phủ về quản
lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thơng tin trên mạng.
Ngồi ra, Bộ TTTT cũng đã ban hành nhiều văn bản về quản lý
nhà nước đối với hoạt động internet và MXH.
Tuy nhiên, hệ thống các văn bản về quản lý nội dung thông tin

điện tử trên MXH vẫn chưa đồng bộ, thiếu các quy định cụ thể để phân
định rõ ràng, chính xác các hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy, việc xây
dựng quy định, chính sách hiện thời vẫn chưa theo kịp sự phát triển của
các phương tiện truyền thông. Về cơ bản, các văn bản này đều hướng
đến mục đích tạo điều kiện cho việc quản lý của các cơ quan chức năng
nên thường có xu hướng đặt internet và MXH trong lối tư duy cho rằng
chúng mang nhiều tác hại, tiềm ẩn nhiều nguy cơ chứ chưa thực sự nhìn
thấy những lợi ích để từ đó khai thác các tính năng hữu ích, khuyến
khích, hướng dẫn những người sử dụng Internet và mạng xã hội theo
chiều hướng lành mạnh và hiệu quả.
Trong một số trường hợp đưa ra biện pháp nặng về đối phó, cấm đốn
cực đoan bằng biện pháp hành chính và kỹ thuật, thiếu tính khả thi, trái
với bản chất và xu thế phát triển của in-tơ-nét. Đó là một trong những lý
do dẫn đến việc khi triển khai vào thực tiễn, một số quan điểm chỉ đạo,
chính sách quản lý đã gặp khơng ít khó khăn, thậm chí là khơng phù hợp
và khơng khả thi.
Bên cạnh đó, một trong những vấn đề khó khăn trong việc áp dụng chính
sách pháp luật là tính chất không biên giới của mạng xã hội. Chẳng hạn,
một hành vi trên mạng xã hội có thể vi phạm pháp luật ở nước này
nhưng rất có thể lại được coi là hợp pháp ở một quốc gia khác, vì vậy
việc xử lý vi phạm, yêu cầu gỡ bỏ những thông tin sai trái trên môi
trường mạng cũng bị giới hạn, chỉ có tác dụng nhất định khi người vi


phạm, hành vi vi phạm xảy ra ở một quốc gia nhất định mà thôi. Được
biết, hiện việc xác định và xử lý công khai nội dung sai phạm chủ yếu do
Bộ TTTT chủ trì trong đó chủ yếu dựa vào các quy định định tính, chưa
cụ thể về hành vi sai phạm của văn bản quy phạm pháp luật hiện hành và
cũng chưa có được sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành có liên
quan. Tình trạng này tất yếu dẫn đến việc nhà quản lý có thể đưa ra một

số quyết định mang tính chủ quan, áp đặt, và trong tình hình đó, nhiều
trường hợp đã bị lợi dụng kích động với những thơng tin nhạy cảm về
chính trị, đối ngoại mà dư luận quốc tế đang quan tâm gây khó khăn cho
việc tạo sự đồng thuận trong dư luận xã hội và tạo ra áp lực lớn cho các
cơ quan chức năng. Vì vậy, trong cơng tác thực thi, các đơn vị quản lý
vấp phải khó khăn khi quyết định hình thức xử lý, thậm chí nhiều trường
hợp không dám công khai biện pháp xử lý do có yếu tố nhạy cảm. Hệ
quả là nhiều biện pháp xử lý chưa đủ tính răn đe đối với các đối tượng vi
phạm cũng như nhóm đối tượng có nguy cơ vi phạm. Nhược điểm sau
cùng cần phải nhìn nhận là công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý sai phạm
tuy đã được tăng cường nhưng năng lực của bộ máy thanh tra, kiểm tra,
xử lý vi phạm còn hạn chế. Chúng ta còn rất thiếu về số lượng thanh tra
chuyên ngành; năng lực kỹ thuật xử lý, ngăn chặn thông tin sai phạm từ
các máy chủ đặt tại nước ngồi cịn nhiều bất cập, chế tài xử lý chưa đủ
mạnh, chưa đạt được hiệu quả răn đe cần thiết
Thứ hai, mạng xã hội sẽ trở thành kênh thông tin quan trọng trong
đời sống xã hội đối với người dân. Vấn đề đặt ra là cơ quan báo chí và
các nhà báo chun nghiệp khơng cịn là người độc quyền thơng tin.
Thói quen đọc báo của người dân thay đổi, nhất là giới trẻ.


Tại Hội thảo “Tương tác giữa báo chí và mạng xã hội” do Hội Nhà
báo Việt Nam tổ chức, các nhà nghiên cứu cho biết, tính đến cuối 2015,
số người truy cập mạng xã hội đã chiếm 30% dân số. Trong đó, số người
dùng mạng xã hội Facebook đạt 19,6 triệu (74,1%) lượng người dùng sử
dụng, trong đó có khoảng 70% người dùng Facebook có độ tuổi từ 18
đến 34. Trong khi đó, theo số liệu được đưa ra tại hội thảo “Nghị viện
các quốc gia trong việc phòng, chống mối đe dọa của chiến tranh mạng
đối với hịa bình, an ninh thế giới” do Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Viện
Nghiên cứu Lập pháp tổ chức, tính trung bình ở Việt Nam có 128,3 triệu

lượt người có kết nối mạng di động (141%); mỗi người sở hữu 1,4 thuê
bao di động; có 24 triệu tài khoản mạng xã hội sử dụng bằng điện thoại
(26%). Ngoài mạng xã hội Facebook, ở Việt Nam cũng xuất hiện những
mạng khác thu hút đông đảo các thành viên tham gia như Yahoo, Zalo,
Zingme, Youtube, Viber…. Hiện nay, ở Việt Nam, ước tính có khoảng 35
triệu người dùng mạng xã hội, chiếm 37% dân số. Trung bình mỗi ngày
người Việt Nam vào mạng xã hội khoảng 2 giờ 18 phút
Với đặc điểm của truyền thông xã hội như chứa đựng thông tin
lớn, thông tin đa dạng phong phú và việc liên tục cập nhật những tiến bộ
mới nhất trong nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo cho việc phát triển nền
tảng công nghệ, các mạng xã hội đang ngày càng thông minh hơn và
mang lại nhiều tiện ích lớn hơn cho người sử dụng. Không dừng lại ở
việc cung cấp thông tin từ người dùng, mạng xã hội đang thực sự lớn
mạnh và bước vào mọi ngóc ngách của cuộc sống, từ việc liên lạc, kết
nối đến sử dụng mạng xã hội như một cơng cụ hữu ích cho việc học tập,
phát triển kinh doanh của tất cả các cá nhân và tổ chức.
Bên cạnh đó, với số lượng người dùng tăng trưởng nhanh chóng,
các mạng xã hội đang thực sự tạo ra một “xã hội ảo” tồn tại song song
với xã hội thực, sự lan truyền hay “lây nhiễm” của mạng xã hội đang
khiến cho bất kỳ cá nhân nào, đặc biệt là những người trẻ - đối tượng có


thể hấp thụ nhanh chóng về cơng nghệ, buộc phải tham gia vào mạng xã
hội nếu không muốn đứng lại hay lạc hậu so với xã hội. Chính vì vậy, sự
phát triển của các mạng xã hội sẽ không bị thối trào mà cịn ngày càng
phát triển và có tầm ảnh hưởng lớn đến chiều hướng, tính chất của dư
luận xã hội không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cịn cả trên thế giới; có
sự tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành nhận thức, niềm tin và
hành động của xã hội.
Thứ ba, mạng xã hội trở thành môi trường thuận lợi để thông tin

xấu độc, gây hại, những phát ngôn thù ghét phát triển, lan tỏa; mức độ
tác động đến xã hội ngày càng nghiêm trọng. Vấn đề đặt ra là quản lý
thông tin và nguyên tắc ứng xử trên mạng xã hội
Tại hội nghị triển khai cơng tác hằng năm, Chính phủ Việt Nam
đều đánh giá: Nhiều thơng tin khơng chính thống trên mạng xã hội đã
làm nhiễu loạn, ảnh hưởng rất nhiều đến công tác chỉ đạo, điều hành.
Tuy nhiên, không thể ngăn cấm mạng xã hội bằng những mệnh lệnh
hành chính, mà phải biết tận dụng mặt tích cực của nó để định hướng dư
luận đến với cái đúng, cái tốt, đấu tranh với cái sai, cái xấu. Điều đó chỉ
có thể được thực hiện khi cơ quan chức năng chủ động cung cấp thơng
tin chính xác, kịp thời đến với người dân.
Tại Việt Nam, các mạng xã hội đang trở thành một kênh thông tin
thiết yếu của người dân. Với độ mở cao, thơng tin trên các mạng xã hội
có sức lan truyền rất nhanh và diện bao phủ cũng vô cùng rộng lớn. Tuy
nhiên, độ trung thực, tính chính xác, tích cực của thông tin trên mạng xã
hội lại phụ thuộc chủ yếu vào ý thức, trách nhiệm và mục đích của cá
nhân người đăng tải.
Trong mơi trường phát triển số hóa mạnh mẽ như ngày nay, mạng
xã hội cũng như “con dao hai lưỡi”. Nhiều người rất khó để phân biệt
được đâu là thực tế (tin thật), đâu là màn kịch được dựng lên (tin giả). Vì
thế, thời gian qua xuất hiện khơng ít thơng tin trên mạng xã hội hồn
tồn bịa đặt, vu khống, sai sự thật, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của tổ
chức và cá nhân, gây hoang mang và bất bình trong dư luận xã hội. Loại
thơng tin độc hại này đã và đang trực tiếp làm mạng xã hội trở thành thế
giới ảo theo đúng nghĩa đen, và làm cho sự thiện chí, lương thiện của


hàng triệu người lành mạnh, tử tế dùng mạng xã hội như bị chìm lấp
trong trận đồ bát quái giữa thật và giả, giữa trắng và đen, giữa tích cực
và tiêu cực… Ví dụ khi sự việc xảy ra nhiều mạng xã hội vào cuộc như

thông tin hoa quả nhiễm độc, mất an toàn vệ sinh thực phẩm , mới đây
nhất là vụ việc cà phê pin…làm người dân hoang mang, không biết đâu
là thật là giả
Mới đây Bộ TTTT lấy ý kiến xây dựng bộ quy tắc ứng xử trên
mạng xã hội cho các nhà cung cấp dịch vụ và người sử dụng hướng tới
xây dựng môi trường mạng lành mạnh, an tồn tại Việt nam. Tuy nhiên
vẫn cịn nhiều ý kiến khác nhau về việc này, và phần lớn các ý kiến cho
rằng khó xây dựng bộ quy tắc ứng xử chung bởi quy tắc phụ thuộc lớn
vào tính tự nguyện, mỗi đối tượng có đặc thù khác nhau, chẳng hạn công
chức viên chức khổng thể áp cho người lao động tự do
Thứ tư, mạng xã hội trở thành cánh tay nối dài của báo chí truyền
thống.Tuy nhiên báo chí khơng chỉ sử dụng truyền thơng xã hội như
cơng cụ để phục vụ mình thơi chưa đủ. Điều quan trọng báo chí kết hợp
với truyền thơng xã hội để cung cấp thơng tin có chất lượng đến với
cơng chúng.
Vấn đề đặt ra mối quan hệ nhà báo, cơ quan báo chí và mạng xã hội
Mạng xã hội đáp ứng một nhu cầu quan trọng của cuộc sống con
người là tạo lập các mối tương tác, tạo điều kiện để mỗi người có thể thể
hiện suy nghĩ, tâm tư, sở thích, biểu lộ tình cảm, trao đổi, chia sẻ trải
nghiệm, tham khảo ý kiến, trình bày quan niệm về vấn đề nào đó của xã
hội hoặc của cá nhân... Tính kết nối, chia sẻ gắn liền với mỗi cá nhân đã
làm cho thông tin trên mạng xã hội hết sức phong phú.
Các tiện ích của mạng xã hội ngày càng thu hút nhiều người, tạo ra
môi trường mở giúp giao lưu, liên kết. Từ các tiện ích đó, nhiều cơ quan
báo chí truyền thống lập trang Facebook của báo để mở rộng thơng tin
đến bạn đọc. Có thể nói, mạng xã hội đang đóng góp vào hoạt động của
các nhà báo một cách quan trọng trên 3 khía cạnh.


- Một là, nguồn cung cấp thông tin rộng lớn cho các nhà báo, với

nhiều tiếng nói khác nhau, từ chính trị gia cho đến người dân bình
thường, từ miền xi cho đến miền ngược, người giàu, người nghèo đều
có thể đưa thông tin, và trở thành nguồn tin của nhà báo.
- Hai là, truyền thơng xã hội góp phần quảng bá thơng tin báo chí.
Truyền thơng xã hội đang giúp nối dài cánh tay của báo chí. Rất nhiều
cơ quan báo chí đang thực hiện những chiến lược nhằm khai thác truyền
thông xã hội để thu hút, gia tăng lượng người truy cập. Họ chủ động sử
dụng các công cụ truyền thông xã hội để truyền tải nội dung thơng tin,
truyền tải những giá trị của văn hóa báo chí đến với nhiều đối tượng hơn.
Các tờ báo điện tử hiện nay chú trọng trang bị những ứng dụng tự động
cho phép cập nhật những bài báo của mình lên mạng xã hội và số lượng
các liên kết được chia sẻ liên tục, đồng nghĩa với đó là số lượt người
truy cập vào tài khoản của các tờ báo cũng tăng. Ngoài ra, các tờ báo
như VietNamnet, VnExpress, Tuổi trẻ, Dân trí..cịn xây dựng trang giới
thiệu trên tyruyeenf thơng xã hội nhằm thu hút, đáp ứng nhu cầu thông
tin nhanh, cập nhật của cộng đồng mạng
-Ba là, truyền thông xã hội là kênh tương tác giữa báo chí và công
dân. Truyền thông xã hội được thiết lập như là một cách thức, mơi
trường đề báo chí thiết lập những mối quan hệ và lắng nghe ý kiến của
công chúng. Nhiều nhà báo đồng thời là thành viên trên truyền thơng xã
hội có điều kiện theo dõi, cập nhật phản hồi, tham khảo ý kiến cộng
đồng mạng, nắm bắt chiều hướng dư luận về những nội dung mà báo chí
đề cập. sự tương tác giữa báo chí và cơng chúng trên truyền thơng xã hội
diễn ra nhanh chóng và phổ biến.. một số tờ báo lập fanpage trên
facebook để giao lưu với độc giả..Nhờ truyền thông xã hội mà báo chí
gần gũi hơn với cơng chúng, có cơ hội hiểu và tham khảo ý kiến của
công chúng
Nhà báo, nhà quản lý báo chí khơng thể phủ nhận TTXH đối với
đời sống, do đó chủ động hội nhập, sử dụng TTXH một cách hiệu quả.
Nhà báo ln nắm giữ vai trị trung tâm trong sử dụng, kiểm chứng và

định hướng thông tin và từ đó nâng cao chất lượng báo chí chính thống
là giải pháp buộc TTXH phục vụ sự nghiệp phát triển của xã hội


- Thứ năm, mạng xã hội tạo điều kiện cho loại hình “báo chí cơng
dân” phát triển.
Nhà báo cơng dân là bất kỳ ai, từ công chúng đơn thuần đến cộng
tác viên, bloger, hoặc người sử dụng mạng xã hội.. thường xuyên tham
gia cung cấp trhoong tin cho cộng đồng và cho báo chí. Khi Internet ra
đời, đặc biệt kho mạng xã hội xuất hiện và bùng nổ, những cách thức
mới để giao tiếp và tham gia thu thập, chia sẻ tin tức xuất hiện, lực lượng
nhà báo không chuyên từ công chúng ngày một đông đảo. các mạng xã
hội đều tạo điều kiện cho mọi người trở thành nhà báo công dân theo
cách của họ, giúp họ cơ hội chia sẻ những thông tin họ muốn..
Những nội dung được nhà báo cơng dân tạo ra rất đa dạng, có thể
là bài viết của một blogger độc lập, một bức ảnh trên trang web chia sẻ
ảnh, hoặc bình luận dưới bài viết, thậm chí một tác phẩm hồn chỉnh trên
báo chí.
Đặc điểm của nhà báo cơng dân:
+ Nhạy bén với thời cuộc, tích cực tham gia vào hoạt động báo chí
+ Đa dạng trong quan điểm thơng tin
+ Ưu tiên xuất bản hơn biên tập, kiểm chứng nội dung thông tin
+ Tính di động và trực tiếp
Ảnh hưởng của nhà báo cơng dân, báo chí cơng dân đối với hoạt
động báo chí chun nghiệp: Báo chí cơng dân làm thay đổi kết cấu
truyền thông truyền thống. Với sự ra đời của truyền thông xã hội, hỗ trợ
của công nghệ, thông tin khơng cịn là đọc quyền của cơ quan báo chí và
truyền thơng, ai trong cơng chúng cũng có thể trở trhanhf nguồn phát và
mọi cơng dân đều có thể xây dựng tịa soạn của riêng mình
Báo chí cơng dân giúp lấp đầy khoảng trống thông tin của truyền

thông. Những nội dung do công chúng cung cấp ngày càng được các cơ
quan báo chí sử dụng nhiều do mang lại nhiều lợi ích như tăng chất
lượng sản phẩm báo chí, giúp thu hút công chúng và tăng năng lực cạnh
tranh. Báo chí cơng dân góp phần làm phong phú nguồn tin. Báo chí


cơng dân góp phần tăng áp lực cho nhà báo và các tịa soạn trong cuộc
đua về thơng tin, tạo mơi trường cạnh tranh vì lợi ích của cơng chúng
Tuy nhiên, bên cạnh vai trị tích cực, điều đáng nói là rất khó kiểm
chứng độ tin cậy của thơng tin do các nhà báo công dân cung cấp, đặc là
yếu tố chủ quan của người đưa thông tin cao. Việc xã hội hóa những
thơng tin đó đơi khi là “con dao hai lưỡi” đối với các tờ báo thiếu các
biên tập viên tỉnh táo, có tay nghề…….Ví dụ “Cái chân để không đúng
chỗ” của một vị bác sỹ khi khám bệnh có sự tham gia q đà của nhà
báo cơng dân và một loạt bài trên mạng xã hội về chất lượng kỹ thuật
khám chữa bệnh của ngành y như đau chân trái, mổ chân phải hay thủng
dạ dầy lại mổ ruột thừa ở Vĩnh Long năm 2015. Nhiều nhà báo, nhiều cơ
quan báo chí bị cảnh cáo, bị phạt, thậm chí rút giấy phép hoạt động do
“cả tin” vào MXH. Đơn cử như cuối tháng 8/2014, Bộ Thông tin và
Truyền thơng đã ra quyết định xử phạt hành chính 180 triệu đồng đối với
3 báo và trang thông tin điện tử đã đăng tải “Lá thư con gái gửi bố ngoài
đảo” lan truyền trên MXH sai sự thật. Do không kiểm chứng đã đăng bài
khiến lãnh đạo, biên tập viên, phóng viên của các báo điện tử, trang tin
trên đã bị xử phạt, thậm chí bị thơi việc. Bên cạnh đó, các trang thơng tin
điện tử tự biên tập, tổng hợp bài viết có nội dung sai phạm tương tự cũng
bị cơ quan chức năng thu thập tài liệu xem xét, xử lý. Vụ việc sau đó đã
trở thành một bài học đắt giá cho các cơ quan báo chí… Sự thiếu khách
quan, thiên vị cũng như vấn đề đạo đức đưa tin của nhà báo cơng dân
ln địi hỏi nhả báo chuyên nghiệp phải tỉnh táo trong việc kiểm tra,
xác định tính chính xác, trung thực của thơng tin. Cạnh tranh về tốc độ

nhưng độ tin cậy và chiều sâu của thông tin là lợi thế hàng đầu của báo
chí chuyên nghiệp. Interne là thế giới rộng lớn, khơng hạn định, rất
nhiều lợi ích nhưng vơ số cạm bẫy. Sự nhầm lẫn và thiếu trách nhiệm xã
hội của khơng ít cư dân mạng đã khiến khái niệm nhà báo công dân trở
thành hiểm họa xâm hại quyền tự do, quyền báo vệ bí mật cá nhân, cũng
như các quyền công dân khác. Việc đánh giá, nhận diện đúng mức vai
trị của báo chí cơng dân là việc làm cần thiết, nâng cao hiệu quả xã hội
của cơ quan báo chí.



×