MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài..................................................................
3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu của đề tài………………………….......
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài……………………………………….....
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài……………………………………….....
6. Phương pháp nghiên cứu của đề tài…………………………………........
7. Giả thuyết khoa học………………………………………………….......
8. Nội dung chủ yếu của đề tài………………………………………….......
PHẦN NỘI DUNG……………………………………………………........
Chương I: KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC THIẾU NHI VÀ TÁC GIẢ VÕ QUẢNG
1. Lịch sử vấn đề…………………………………………………………….
2. Khái quát về văn học thiếu nhi…………………………………………..
2.1. Khái niệm văn học thiếu nhi……………………………………………
2.2. Đặc trưng của văn học thiếu nhi………………………………………..
2.3. Vai trò của văn học thiếu nhi đối với trẻ em………………………...
2.4. Đặc điểm tâm lý của trẻ em khi tiếp nhận tác phẩm văn học………..
3. Các chặng đường phát triển của văn học thiếu nhi Việt Nam…………
3.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945……………………..
3.2. Giai đoạn kháng chiến chống Pháp (từ 1945 đến 1954)……………..
3.3. Giai đoạn miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam chống Mĩ
cứu nước (từ 1954 đến 1965)………………………………………………..
3.4. Giai đoạn cả nước kháng chiến chống Mĩ xâm lược, miền Bắc tiếp tục
xây dựng chủ nghĩa xã hội (từ 1965 đến 1975)…………………………….
3.5. Giai đoạn thống nhất đất nước và sau đổi mới (từ tháng 4 năm 1975 đến nay)
4. Khái quát về tác giảVõ Quảng ………………………………………….
4.1. Tiểu sử …………………………………………………………………
4.2. Sự nghiệp sáng tác……………………………...………………………
4.3. Quan niệm sáng tác cho thiếu nhi của Võ Quảng………………………
Chương II: NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRONG THƠ VÕ
QUẢNG VIẾT CHO THIẾU NHI
1. Đặc sắc về nội dung trong thơ Võ Quảng viết cho thiếu nhi…………...
1.1. Khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp……………………………………..
3
3
4
4
4
4
4
5
5
6
6
6
8
8
9
11
14
16
16
17
18
19
21
24
24
26
28
33
33
33
1
1.2. Thế giới động vật sinh động, đáng yêu……………………………….
1.3. Thế giới thực vật phong phú, đa dạng………………………………..
1.4. Thế giới đồ vật quen thuộc, gần gũi……………………………………
2. Đặc sắc về nghệ thuật trong thơ Võ Quảng viết cho thiếu nhi……..
2.1. Ngôn ngữ nghệ thuật …………………………………………………
2.1.1. Ngơn ngữ giàu tính nhạc…………………………………………….
2.1.2. Ngơn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại…………………………
2.1.3. Ngôn ngữ hài hước, dí dỏm…………………………………………
2.1.4. Ngơn ngữ miêu tả đặc sắc………………………………………......
2.2.Sử dụng các pháp nghệ thuật…………………………………………
2.2.1. Sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa………………………………….
2.2.2. Sử dụng biện pháp tu từ so sánh……………………………………
2.2.3. Sử dụng phép điệp…………………………………………………..
PHẦN KẾT LUẬN……………………………………………………….....
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………..
PHỤ LỤC…………………………………………………………………...
38
45
50
53
54
56
56
60
62
63
64
67
69
74
76
78
PHẦN MỞ ĐẦU
2
1. Lý do chọn đề tài
Văn học thiếu nhi Việt Nam là một bộ phận quan trọng góp phần làm nên
diện mạo đa dạng của văn học nước nhà. Nói đến văn học thiếu nhi Việt Nam,
không thể không nhắc tới tác giả Võ Quảng (1920 - 2007), ông luôn được các
nhà văn, nhà nghiên cứu đánh giá là một trong những người tiên phong đặt nền
móng cho văn học thiếu nhi Việt Nam. Võ Quảng là người bộ hành chung thủy
đã dành trọn cuộc đời sáng tác cho thiếu nhi. Hơn 50 năm cầm bút, Võ Quảng đã
để lại trên 20 đầu sách, trong đó có hơn 10 tập thơ viết cho thiếu nhi. Bằng sự
trân trọng tuổi thơ, tình yêu cuộc sống, ý thức sâu sắc về thiên chức người cầm
bút, tác giả đã dệt lên một thế giới thần tiên cho trẻ thơ. Thiếu nhi nhiều thế hệ
đã lớn lên cùng năm tháng từ những bài thơ: Ai dậy sớm, Anh Đom Đóm, Mời
vào… của Võ Quảng. Vườn thơ Võ Quảng xanh mãi với thời gian bởi nghệ thuật
đặc sắc, giản dị, tươi trẻ và hấp dẫn.
Thơ Võ Quảng thẫm đẫm chất trữ tình, nhẹ nhàng và thân mật như mạch
nước ngầm tưới mát, nuôi dưỡng tâm hồn ngây thơ của các em, mở ra cho các em
cả một chân trời nhận thức về thế giới xung quanh, khơi dậy những tình cảm tốt
đẹp. Thơ ơng có nội dung phong phú, nghệ thuật đặc sắc và mang ý nghĩa giáo dục
cao với lối viết dí dỏm, giàu nhạc điệu. Võ Quảng quan niệm:“Tác phẩm văn học
viết cho các em là một cơng trình sư phạm. Người viết cần cân nhắc nên nói cái gì,
nói như thế nào để có lợi cho tâm hồn của các em mà không ảnh hưởng đến sự thể
hiện nghệ thuật” [23; 95].
Thơ cũng là thể loại văn học quan trọng đối với trẻ em, bởi thơ có sức hút
mạnh mẽ, dễ thuộc, dễ nhớ, dễ đi sâu vào tâm hồn các em; hình thành cho các
em nhân cách, năng lực thẩm mỹ, nhận thức về thế giới khách quan. Vì vậy,
sáng tác thơ của Võ Quảng được tuyển chọn và giới thiệu trong chương trình
Giáo dục Mầm non và Giáo dục Tiểu học. Tuy nhiên, đối với lứa tuổi này, để
cho các em khơng chỉ nhớ, thuộc “vẹt” mà cịn hiểu được giá trị của tác phẩm,
người giáo viên cần định hướng cho các em thấy được cái hay về nội dung và cái
đẹp về hình thức của tác phẩm.
Với những lý do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: Tìm hiểu nội
dung và nghệ thuật trong thơ Võ Quảng viết cho thiếu nhi. Đề tài sẽ giúp giảng
viên, sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Giang cũng như độc giả yêu thơ
hiểu được một cách toàn diện và sâu sắc hơn các tác phẩm thơ của Võ Quảng viết
cho thiếu nhi, nhằm phục vụ cho việc dạy và học một cách thiết thực và hiệu quả.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu nhằm các mục tiêu sau:
3
- Thỏa mãn mong muốn được tìm hiểu về thơ Võ Quảng viết cho thiếu nhi của
nhóm nghiên cứu.
- Cung cấp thêm nguồn tài liệu tham khảo cho giảng viên bộ môn Ngữ văn
khi giảng dạy về thơ Võ Quảng viết cho thiếu nhi.
- Là nguồn tài liệu tham khảo thiết thực cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm
non và Giáo dục Tiểu học khi tìm hiểu về thơ Võ Quảng viết cho thiếu nhi.
- Là tài liệu dành cho tất cả các độc giả yêu mến thơ Võ Quảng.
3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nội dung và nghệ thuật trong thơ Võ Quảng viết cho thiếu nhi.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Một số bài thơ tiêu biểu của Võ Quảng viết cho thiếu nhi.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Tìm hiểu khái quát về văn học thiếu nhi, các chặng đường phát triển của
văn học thiếu nhi Việt Nam.
- Khảo sát, thống kê, phân tích, tìm hiểu thơ viết cho thiếu nhi của Võ Quảng
để thấy được những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong những tác phẩm
ông viết dành cho các em.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài chỉ đi sâu tìm hiểu những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong
thơ Võ Quảng viết cho thiếu nhi.
6. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Phương pháp nghiên cứu, tập hợp tư liệu:
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu, tập
hợp tư liệu nhằm phát hiện ra những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của thơ
Võ Quảng viết cho thiếu nhi nằm rải rác trong các tập thơ của ông. Chúng tôi ghi
chép lại những nhận định khoa học từ những nguồn tư liệu sưu tầm được để có cơ
sở khoa học đánh giá, nhận định khách quan về đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Nhằm làm nổi bật những vấn đề xoay quanh nội dung và nghệ thuật trong
thơ Võ Quảng viết cho thiếu nhi, chúng tôi lựa chọn dẫn chứng từ các tư liệu đã
khảo sát, sau đó tìm hiểu, phân tích dẫn chứng và tiến hành tổng hợp khái quát lại
để đi đến khẳng định vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh:
4
Chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh để đối chiếu những biểu hiện về nội
dung và nghệ thuật của thơ Võ Quảng viết cho thiếu nhi với thơ viết cho thiếu nhi
của các tác giả khác, để từ đó tìm ra những nét đặc sắc trong thơ viết cho thiếu nhi
của Võ Quảng.
7. Giả thuyết khoa học
Các cơng trình khoa học nghiên cứu về thơ Võ Quảng viết cho thiếu nhi đến
nay chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu giảng dạy và học tập của giảng viên, giáo
viên, học sinh, sinh viên cũng như độc giả yêu mến thơ Võ Quảng. Nếu nghiên cứu
thành công, đề tài sẽ góp phần quan trọng trong việc tìm hiểu về nội dung và nghệ
thuật của thơ Võ Quảng viết cho thiếu nhi, qua đó giúp cho sinh viên học ngành
Giáo dục Mầm non và ngành Giáo dục Tiểu học cũng như giáo viên Mầm non và
Tiểu học tiếp cận dễ hơn với thơ Võ Quảng- Đề tài nghiên cứu thành công sẽ giúp
giảng viên và sinh viên hiểu rõ thêm về nhà thơ Võ Quảng - một trong rất ít nhà thơ
chuyên tâm viết cho thiếu nhi.
8. Nội dung chủ yếu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần nội dung chính của đề tài được chia
làm hai chương:
Chương I. Khái quát về văn học thiếu nhi và tác giả Võ Quảng
Chương II. Nội dung và nghệ thuật trong thơ Võ Quảng viết cho thiếu nhi
PHẦN NỘI DUNG
5
Chương I
KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC THIẾU NHI VÀ TÁC GIẢ VÕ QUẢNG
1. Lịch sử vấn đề
Võ Quảng là một trong những nhà văn hiếm hoi ở nước ta chuyên viết và viết
rất thành công những tác phẩm văn học cho thiếu nhi nên được các đồng nghiệp và
giới nghiên cứu, phê bình rất quan tâm. Ngay từ năm 1983, Nhà xuất bản Kim Đồng
trong tập sách Bàn về văn học thiếu nhi đã in bài viết của nhiều tác giả bàn về tác
phẩm của Võ Quảng. Tiêu biểu như: Nguyễn Kiên với Một tấm lịng vì tuổi thơ, Vân
Hồng với Võ Quảng và tiểu thuyết “Quê nội - Tảng sáng”, Đoàn Giỏi với Tác phẩm
và con người Võ Quảng, Phạm Hổ với Vài cảm nghĩ khi đọc thơ Võ Quảng, Vũ Tú
Nam với Tài năng miêu tả của Võ Quảng, Vân Thanh khẳng định Vị trí Võ Quảng
và văn học thiếu nhi, Vũ Ngọc Bình với Vài cảm nghĩ về văn thơ Võ Quảng. Đặc
biệt, cơng trình Võ Quảng - con người, tác phẩm do bà Phương Thảo (người vợ hiền
của Võ Quảng, đồng thời cũng là một nhà nghiên cứu, dịch thuật văn học) biên soạn,
Nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành tháng 3 năm 2008, đã tập hợp khá đầy đủ các bài viết
giúp người đọc hình dung về cuộc đời và sự nghiệp của Võ Quảng.
Dưới đây đề tài chỉ điểm lại những bài viết, những ý kiến, nhận xét đề cập
trực tiếp đến Nội dung và nghệ thuật trong thơ Võ Quảng viết cho thiếu nhi.
Luận văn thạc sỹ Thế giới tuổi thơ trong sáng tác của Võ Quảng của Nguyễn
Thị Thùy Dung đã tập trung phát hiện những đặc điểm nổi bật của thế giới tuổi thơ
trong sáng tác của Võ Quảng, từ đó giúp người đọc thấy rõ hơn đóng góp của ơng
cho nền văn học thiếu nhi trong nền văn xuôi hiện đại nước ta.
Người bạn đường gần gũi với Võ Quảng là nhà thơ Phạm Hổ cũng đã nói lên
cảm nghĩ của mình khi đọc thơ Võ Quảng: “Thơ Võ Quảng thường có những cái
hay trong sự mộc mạc, hồn nhiên có khi đến vụng về, một sự vụng về rất đáng u.
Và như Bi-cát-xơ đã nói - có đơi khi chính sự vụng về kia là một yếu tố góp phần
tạo nên phong cách” [29, 119].
Tác giả Phạm Thị Phương Liên trong bài viết Võ Quảng - đặc sắc nghệ
thuật thơ viết cho thiếu nhi có đoạn: “Đọc thơ Võ Quảng các em như được xem
những bức tranh sơn mài lộng lẫy, có lúc là các bức tranh thủy mạc mềm mại” để
thấy được cái tâm và cái tài dùng chữ của Võ Quảng.
Bài viết Vẻ đẹp thế giới nhân vật trong thơ thiếu nhi của nhà thơ Võ Quảng,
tác giả Nguyễn Thị Thắng đã cảm nhận: “Một hơi thơ bình dị, chân thật mà giàu
hơi thở cuộc sống. Thế giới nhân vật đa dạng, được dệt nên như một khu vườn
bách thảo và bách thú, khiến cho mọi trẻ em đều say mê và yêu thích”.
6
Nhà văn lão thành Vũ Ngọc Bình nói đến cái đẹp của đồng thoại Võ Quảng
khác nào cái đẹp của con trai khi tạo ngọc: Trai đã “chắt lọc ánh sáng, màu sắc của
mặt trời và mặt trăng, của sao đêm và biển cả để làm nên ngọc q”... Nó là “văn
chương - ngọc q” khi “tư tưởng và ngơn ngữ được chắt lọc thành những tia sáng và
gam màu tinh điệu, rút từ cuộc sống và qua lao động sáng tạo” [25, 354].
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên cho rằng, bài thơ Anh Đom Đóm của Võ
Quảng đã được nhà văn Pháp chọn dịch ra tiếng Pháp để giới thiệu cho bạn đọc thế
giới. Cả một đời nhà văn Võ Quảng như “anh đom đóm” kia, chỉ khác là Anh Đom
Đóm của ơng canh gác cho mọi vật, cho đất trời, cịn ơng canh gác cho con người, cho
thời kỳ hình thành nhân cách của con người. Phạm Xuân Nguyên đánh giá rất cao ý
nghĩa giáo dục nhân cách trẻ thơ trong thơ Võ Quảng.
Nguyễn Tuân - người rất kĩ tính về văn, cũng đã từng viết trong lời tựa tập
thơ Tảng sáng không chỉ về văn mà cả về thơ và con người Võ Quảng: “Võ Quảng
bắt đầu nói chuyện với độc giả nhỏ bằng tập thơ Măng tre. Thơ măng có những bài
đẹp như tranh tĩnh vật. Tranh vẽ những hình dáng tĩnh mà sống động, và Võ Quảng
đã thổi vào đấy cái tâm hồn trong sáng của mình” [25, 354].
Giáo sư Phong Lê đã có lần viết về Võ Quảng rằng đường đời ơng rất có thể
chuyển sang một hướng khác với nghiệp viết, và như vậy xem ra là thật, là hợp với số
đông người. Thế nhưng rồi ông đã chọn nghề viết cho thiếu nhi khi chớm tuổi 40, để rồi
ơng có được những thành công viên mãn. Và giáo sư đã nhận định: Võ Quảng là hình
ảnh một bộ hành chung thủy trong cuộc đi vẫn còn vắng vẻ và vất vả. Võ Quảng là
người trong số hiếm hoi, gắn nối văn mạch dân tộc và khơi tiếp cho nó một dịng chảy
mới sau năm 1954” [7, 336].
Nhận xét về tập thơ Nắng sớm của Võ Quảng, Xuân Tửu nêu lên một nhận xét:
“Nhìn tổng qt, tập Nắng sớm có một chủ đề tư tưởng rất rõ rệt: Võ Quảng đã phản
ánh đúng trình độ nhận thức và tâm hồn thiếu nhi Việt Nam trong giai đoạn này: yêu
nước, yêu đồng bào, ghét đế quốc Mĩ” [27, 884].
Ngô Quân Miện cho rằng: “Đọc thơ Võ Quảng viết cho thiếu nhi, ta luôn
luôn gặp những con vật và những cây cỏ. Có thể nói trong thơ Võ Quảng, có cả
một thế giới lồi vật và cỏ cây. Nói một cách khác, trong thơ Võ Quảng có một
mảnh vườn bách thú và bách thảo, mà những em bé nào có cái may mắn được vào
đấy đều say mê và yêu thích” [6, 301].
Nhà văn Nguyễn Minh Châu thì nhận xét về ngơn ngữ trong thơ Võ Quảng như
sau: “Vốn từ trong thơ ông là những từ thơng dụng, ít có từ khó hiểu đối với trẻ thơ.
Cách dùng từ lặp, câu lặp trong thơ hợp với khả năng nhớ của các em. Những từ láy
7
trong thơ Võ Quảng làm tăng thêm nhịp điệu của lời thơ. Võ Quang khéo léo kết hợp
mảng từ tượng thanh dùng hoàn toàn bằng tiếng kêu của loài vật” [6, 318].
Như vậy, thơ Võ Quảng đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra nhận xét và bình
luận. Tuy nhiên, đó chỉ là những lời bàn định khái quát, chưa đi sâu vào nghiên cứu một
cách hệ thống, đầy đủ, cụ thể đặc điểm về nội dung và nghệ thuật trong thơ viết cho
thiếu nhi của Võ Quảng. Chúng tôi nhận thấy, thơ Võ Quảng viết cho thiếu nhi có nội
dung phong phú, nghệ thuật đặc sắc và ý nghĩa giáo dục rất cao. Những ý kiến bàn luận
và nhận xét của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học trên sẽ là cơ sở lý luận để chúng
tôi thực hiện nghiên cứu đề tài này.
2. Khái quát về văn học thiếu nhi
2.1. Khái niệm văn học thiếu nhi
Văn học là nghệ thuật ngơn từ, là hình thức nghệ thuật sử dụng ngôn từ làm
chất liệu để chiếm lĩnh, tái hiện thế giới. Văn học cũng như mọi loại hình nghệ thuật
khác có đối tượng là thế giới khách quan, con người, các quan hệ đa dạng của con
người với thực tại. Nói cách khác, đối tượng của văn học là toàn bộ hiện thực khách
quan trong mối liên hệ sinh động, muôn màu với cuộc sống con người. Văn học
thiếu nhi là một bộ phận không thể tách rời của văn học dân tộc. Bất kì nền văn học
nào cũng chứa đựng trong nó một bộ phận khơng thể thiếu là "văn học thiếu nhi".
Theo Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam thì văn học thiếu nhi là:
"Những tác phẩm văn học được mọi nhà văn sáng tạo ra với mục đích giáo dục,
bồi dưỡng tâm hồn, tính cách cho thiếu nhi. Nhân vật trung tâm của nó là thiếu nhi
và nhiều khi, cũng là người lớn, hoặc là một cơn gió, một lồi vật, hay một đồ vật,
một cái cây... Tác giả của văn học thiếu nhi khơng chỉ là chính các em, mà cũng là
các nhà văn thuộc mọi lứa tuổi (…) Những tác phẩm được thiếu nhi thích thú tìm
đọc. Bởi vì các em đã tìm thấy ở trong đó cách nghĩ, cách cảm cùng những hành
động gần gũi với cách nghĩ, cách cảm và cách hành động của chính các em, hơn
thế, các em cịn tìm được ở trong đó một lời nhắc nhở, một sự răn dạy, với những
nguồn động viên, khích lệ, những sự dẫn dắt ý nhị, bổ ích... trong q trình hồn
thiện tính cách của mình" [26; 6].
Như vậy, văn học thiếu nhi là những tác phẩm văn học mà nhân vật trung
tâm hoặc là thiếu nhi, hoặc là người lớn, hoặc là con người, hoặc là thế giới tự
nhiên… nhưng được nhìn bằng đơi mắt trẻ thơ, có nội dung gần gũi, quen thuộc với
vốn trải nghiệm của trẻ, được các em thích thú, say mê và có tác dụng hoàn thiện
đạo đức, tâm hồn cho trẻ.
2.2. Đặc trưng của văn học thiếu nhi
8
Văn học thiếu nhi đa dạng về thể loại, phong phú về nội dung, hình thức; chứa
đựng nhiều giá trị nhân văn hướng tới giáo dục và hoàn thiện nhân cách con người.
Nhưng do hướng tới phục vụ thiếu nhi - một đối tượng đặc thù nên ngoài những đặc
điểm chung của tác phẩm văn học, nó cịn mang những đặc trưng riêng.
Những tác phẩm thơ, truyện viết cho các em phải rất hồn nhiên, vui tươi, ngộ
nghĩnh và trong sáng. Hiểu được bản tính của trẻ em là hồn nhiên, ngây thơ nên
người viết phải đặt mình vào vị trí của trẻ em, nhìn cuộc sống qua đơi mắt của trẻ
để tạo ra những hình tượng phù hợp, hấp dẫn các em. Vì vậy, tác phẩm bao giờ
cũng thể hiện những xúc cảm chân thành, hồn nhiên, trong trẻo… như chính bản
tính của trẻ thơ. Qua cái nhìn “trong veo” ấy, cuộc sống xung quanh các em trở nên
hấp dẫn, đẹp đẽ và đầy sức sống. Và như vậy, mỗi lần sáng tác cho các em là một
lần người viết được “sống lại” tuổi thơ của mình và hịa đồng tâm hồn với các em.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Đăng trong bài thơ Đội nón cho cây đã nhìn thấy nét hồn
nhiên, ngây thơ đáng yêu trong hành động của bé: Thương cây bàng con/ Phơi đầu
ngồi nắng/ Bé tìm mê nón/ Đội vào cho cây. Nhà thơ Phạm Hổ lại đưa đến tiếng
cười hóm hỉnh và tinh nghịch, hồn nhiên và trong sáng trong bài thơ Ngủ rồi: Gà
mẹ hỏi gà con/ Đã ngủ chưa đấy hả?/ Cả đàn gà nhao nhao/ Ngủ cả rồi đấy ạ!…
Khả năng nhận thức của trẻ em còn hạn chế nên tác phẩm dành cho các em
thường phải có nội dung và hình thức ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu. Đối với thơ, nội
dung thường đơn giản, sử dụng những thể thơ quen thuộc, câu thơ ngắn 3 chữ, 4
chữ, 5 chữ gần với đồng dao, vui nhộn phù hợp với trẻ thơ. Các em vừa đọc, vừa
chơi, dễ thuộc, dễ nhớ:
Hay nói ầm ĩ,
Là con vịt bầu.
Hay hỏi đâu đâu,
Là con chó vện.
Hay chăng dây điện,
Là con nhện con.
Ăn no quay tròn,
Là cối xay lúa…
(Kể cho bé nghe - Trần Đăng Khoa)
Đối với truyện, thể hiện ở dung lượng tác phẩm ngắn, cách đặt tên truyện một
cách cụ thể và thường đúc kết ý nghĩa giáo dục, giúp trẻ dễ nắm được cốt truyện, dễ
hiểu nội dung, ý nghĩa câu chuyện và có thể kể lại một cách dễ dàng. Ví dụ Sự tích
hoa cải vàng, Sự tích hoa râm bụt, Chú thỏ thơng minh, Dế Mèn phiêu lưu kí...
9
Tác phẩm viết cho trẻ em rất giàu chất thơ, chất truyện. Yếu tố truyện trong
thơ và yếu tố thơ trong truyện. Nếu thơ viết cho người lớn thiên về tâm trạng, cảm
xúc, nỗi niềm, suy tưởng... thì thơ viết cho các em chỉ như một câu chuyện nhỏ:
Bướm em hỏi chị, Chú bị tìm bạn (Phạm Hổ), Chuyện ở ao sen (Chu Thu Hằng),
Bé và mèo (Nguyễn Bá Đan)... Mỗi bài thơ viết cho trẻ gần như một mẩu truyện
hoặc chứa đầy yếu tố truyện. Điều đó khiến cho các em dễ hiểu, dễ cảm nhận và
thuộc lòng những vần thơ. Trong bài Chú bị tìm bạn (Phạm Hổ), bằng những từ
ngữ hết sức đời thường tác giả đã kể cho các em nghe một câu chuyện về tình bạn
đầy xúc động và tinh tế: “Mặt trời rúc bụi tre/ Buổi chiều về nghe mát/ Bị ra sơng
uống nước/ Thấy bóng mình ngỡ ai/ Bị chào: “Kìa anh bạn/ Lại gặp anh ở đây”/
Nước đang nằm nhìn mây/ Nghe bò cười toét miệng…”. Yếu tố thơ trong truyện lại
như một chất xúc tác làm cho câu chuyện thêm sức lôi cuốn, hấp dẫn mạnh mẽ.
Chất thơ của truyện sẽ làm cho những bài học trở nên nhẹ nhàng, sâu sắc mà khơng
bị khơ khan, cứng nhắc. Trẻ em thích truyện Hoa mào gà, Giọng hót chim sơn ca,
Chú đỗ con… cũng vì những hình ảnh đẹp, câu văn mượt mà và đậm chất thơ.
Tác phẩm viết cho thiếu nhi thường giàu hình ảnh, vần điệu và nhạc điệu. Các
tác giả luôn chú ý chọn lọc kỹ lưỡng việc sử dụng câu, từ, mang những hình ảnh
đẹp cùng với vần điệu, nhạc điệu vui tươi làm cho tác phẩm thêm sinh động, có sức
hấp dẫn và lơi cuốn sự chú ý của các em. Tác phẩm thường sử dụng nhiều từ láy,
động từ, tính từ miêu tả, từ tượng thanh, tượng hình để vẽ lên những bức tranh sinh
động, vừa có màu sắc, vừa có âm thanh, đồng thời thể hiện phong cách ngây thơ, dí
dỏm phù hợp với lứa tuổi của các em. Bài thơ Mời vào của Võ Quảng như một hoạt
cảnh vui, sự xuất hiện các nhân vật ngộ nghĩnh, sự kết hợp các thanh bằng, trắc đã
tạo nên nhạc tính:
Cốc, cốc, cốc!
- Ai gọi đó?
- Tơi là Thỏ
- Nếu là Thỏ
Cho xem tai
- Cốc, cốc, cốc!
- Ai gọi đó?
- Tơi là Nai
- Thật là Nai
Cho xem gạc…
Sử dụng nhiều biện pháp tu từ so sánh, ý nghĩa ẩn dụ và phép nhân hóa cũng
là một đặc trưng trong các tác phẩm dành cho trẻ, bởi các em nhìn mọi vật bằng con
10
mắt "vật ngã đồng nhất", coi mọi vật và thiên nhiên như những người bạn gần gũi,
thân thuộc của mình:
Ơng Trời nổi lửa đằng đông
Bà Sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay
Bố em xách điếu đi cày
Mẹ em tát nước, nắng đầy trong khau
Cậu Mèo đã dậy từ lâu
Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng
Mụ Gà cục tác như điên
Làm thằng Gà Trống huyên thuyên một hồi...
(Buổi sáng nhà em -Trần Đăng Khoa)
Là loại hình nghệ thuật ngơn từ, văn học có khả năng tác động mạnh mẽ tới
tâm hồn và nhận thức của con người. Vì vậy, mỗi tác phẩm văn học luôn mang đến
cho trẻ một ý nghĩa giáo dục cụ thể, rõ ràng. Khi đọc bài thơ Mẹ ốm (Trần Đăng
Khoa), các em được giáo dục sự quan tâm, chăm sóc và tình u thương sâu sắc đối
với mẹ. Khi nghe kể chuyện Bạn của Nai Nhỏ, trẻ sẽ được giáo dục tình bạn, lịng
dũng cảm... Như vậy, các tác phẩm viết cho các em đều mang ý nghĩa giáo dục nhẹ
nhàng mà sâu lắng.
Tóm lại, do phục vụ đối tượng tiếp nhận đặc biệt là trẻ em nên bên cạnh
những đặc điểm chung của văn học, văn học thiếu nhi cịn có những đặc trưng
riêng. Đó là sự hồn nhiên, ngây thơ; là những bài học giáo dục nhẹ nhàng, sinh
động; ngôn ngữ phải giàu hình ảnh, vần điệu và nhịp điệu, hài hước, dí dỏm… có
vậy mới phù hợp với tâm lí lứa tuổi khác nhau của trẻ em và đáp ứng được với sự
tiếp nhận của trẻ.
2.3. Vai trò của văn học thiếu nhi đối với trẻ em
Văn học thiếu nhi có vai trị quan trọng đối với sự hình thành và phát triển toàn
diện nhân cách con người ngay từ thuở ấu thơ, là hành trang cho mỗi người trên suốt
đường đời. Văn học khơng chỉ góp phần bồi dưỡng tâm hồn, nâng cao năng lực cảm
thụ cái đẹp, mà còn giúp cho trẻ phát triển trí tuệ, mở rộng sự hiểu biết và hướng tới
một lối sống giàu lòng nhân ái, phát triển toàn diện về nhân cách.
Văn học phản ánh thế giới khách quan, giúp trẻ thơ nhận thức được cuộc
sống mn màu. Đó là những tri thức về thế giới loài vật, cây cỏ hoa lá, những tri
thức về phong tục tập quán, những nét đẹp trong truyền thống dân tộc. Đồng thời,
văn học thiếu nhi cũng chứa đựng cái nhìn hồn nhiên của trẻ thơ về thế giới với đầy
âm thanh, màu sắc, hình khối. Có thể nói, văn học là một phương tiện hữu hiệu
giúp các em mở rộng và nâng cao nhận thức về thế giới xung quanh. Những bài
11
thơ, những câu chuyện đã giúp các em mở rộng tầm nhìn và sự hiểu biết về thế giới
tự nhiên, thế giới loài vật, đồ vật... giúp trẻ biết được tên gọi, những đặc điểm và ý
nghĩa của chúng đối với cuộc sống của con người. Với chức năng này, văn học
thiếu nhi như những “cuốn sách giáo khoa” đầu tiên giúp trẻ nhận thức và hiểu biết
về thế giới xung quanh. Bằng những hình tượng sinh động, những “bài học” trong
văn học trở nên hết sức nhẹ nhàng mà khơng kém phần sâu sắc. Ví dụ: nét đặc
trưng của nắng trong bốn mùa đã được diễn tả một cách giàu hình ảnh trong thơ,
khiến bài học về thiên nhiên thêm thú vị:
Dịu dàng và nhẹ nhàng
Vẫn là chị nắng xuân
Hung hăng, hay giận dữ
Là ánh nắng mùa hè
Vàng hoe như muốn khóc
Chẳng ai khác nắng thu
Mùa đơng khóc hu hu
Bởi vì khơng có nắng.
(Nắng bốn mùa - Mai Anh Đức)
Hoặc nhận biết được đặc điểm và công dụng của các đồ vật:
Dao chỉ một lưỡi
Kéo có đến hai
Mỗi người một việc
Ai nào kém ai!
(Dao và kéo - Phạm Hổ)
Vai trị quan trọng nhất và khơng thể thiếu của văn học là giáo dục lòng nhân
ái cho con người. Lòng nhân ái là một truyền thống quý báu của người Việt Nam.
Lịng nhân ái chính là cái gốc đạo đức của con người. Đó là tình u thương giữa
con người với con người, được thể hiện qua tình cảm mẹ con, cha con, tình anh
em, thầy cơ, bạn bè, lịng biết ơn những người lao động, những người có cơng với
đất nước. Đó là sự đồn kết, tương thân tương ái, gắn bó, giúp đỡ nhau chống chọi
với thiên tai, địch họa để giữ gìn và xây dựng cuộc sống.
Trẻ thơ rất nhạy cảm và dễ rung động, dễ yêu, dễ ghét, dễ vui, dễ buồn…
Nắm được đặc điểm tâm lý này, các nhà văn đã qua từng trang sách giúp các em
biết xúc động trước cái đẹp, cái tốt và hình thành những tình cảm cao quý. Khi đọc
truyện Bồ nơng có hiếu của Phong Thu, các em sẽ gặp hình ảnh chú chim nhỏ “hun
hút đêm sâu, mênh mông ruộng vắng”, “trên đồng nẻ, dưới ao khô”, một mình lặn
lội “bắt được con mồi nào cũng ngậm vào miệng phần mẹ”, các em sẽ cảm phục
12
trước tình cảm của chú bồ nơng nhỏ. Khi mẹ khỏi ốm thì thân chú đã cịm nhom,
nhẹ bẫng, cái mỏ to hơn người nhưng đôi mắt vẫn long lanh hớn hở, điều đó sẽ giúp
trẻ biết yêu mẹ, biết chia sẻ với mẹ nhiều hơn.
Trẻ em thích noi gương, chính vì vậy văn học đã mang đến cho các em
những cái đẹp, những cái cao thượng, những tấm lòng nhân ái... để các em biết học
hỏi những điều hay lẽ phải và trở thành người có ích trong cuộc sống. Nhưng đồng
hành với những điều tốt đẹp đó, các em cũng cần phải được nhìn thẳng vào những
sự thật nghiệt ngã, những điều xấu xa đang diễn ra trong cuộc sống. Đối diện với sự
thật cũng là một con đường để giúp trẻ trưởng thành hơn, hoàn thiện hơn những
cảm xúc yêu, ghét, giận hờn... Đến với văn học, trẻ khơng chỉ biết đến những nụ
cười mà cịn biết xót xa khi nhìn thấy cảnh một em nhỏ rét mướt trong đêm Giáng
sinh (Cô bé bán diêm - Anđécxen), biết đau lòng khi em bé bị đánh, bị chết (Sự tích
quả lng boong - Phạm Hổ), biết nỗi đau của người mẹ khi mất đi đứa con yêu
dấu (Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ - Nguyễn Ngọc Thuần) và biết khát khao được
sống (Chim sơn ca và bông cúc trắng - Anđécxen)… Tất cả những điều đó giúp trẻ
cảm thấy mình có trách nhiệm hơn với cuộc sống và với chính bản thân mình để rồi
phải biết nâng niu hơn, trân trọng hơn những gì mà tạo hố đã ban cho.
Lòng nhân ái trong văn học viết cho thiếu nhi khơng chỉ thể hiện ở tình cảm
giữa con người với con người mà còn được thể hiện ở tình cảm giữa con người với
thiên nhiên và tình yêu quê hương, đất nước. Đặc biệt, thông qua bộ truyện cổ tích
hiện đại Chuyện hoa chuyện quả, Phạm Hổ đã kể cho các em nghe về sự tích, nguồn
gốc của các loại cây, hoa, quả gần gũi cũng như sự phong phú và vẻ đẹp diệu kỳ của
cây cối xung quanh ta. Từ tình yêu thiên nhiên, từ mối giao cảm với thiên nhiên, văn
học đã góp phần giáo dục các em thái độ biết trân trọng, giữ gìn và bảo vệ thiên
nhiên như một kho báu vô tận. Qua những câu chuyện hấp dẫn và đầy ấn tượng ấy,
văn học còn khơi mở trong các em những suy ngẫm về tình u, tình thương, lịng
nhân ái và khả năng hướng thiện của con người.
Tác phẩm văn học còn đem lại sự hưởng thụ thẩm mĩ cho con người. Và,
văn học thiếu nhi đã thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ, phát triển năng lực thẩm mĩ và thị
hiếu thẩm mĩ của trẻ em một cách toàn diện nhất với những thế mạnh riêng của nó.
Trước hết văn học đem đến cho các em những nội dung vô cùng phong phú, những
hình ảnh đẹp đẽ, tươi sáng, các biện pháp nghệ thuật độc đáo. Những bức tranh
muôn màu, muôn vẻ về thiên nhiên và cuộc sống đã gợi mở trong các em những
cảm xúc thẩm mỹ và thị hiếu thẩm mỹ. Bài thơ Ai cho em biết của Võ Quảng đã
giúp các em cảm nhận được vẻ đẹp lộng lẫy, đầy mầu sắc của các loài hoa trong
khu vườn:
13
Hoa cải li ti
Đốm vàng óng ánh
Hoa cà tim tím
Nõn nuột hoa bầu
Hoa ớt trắng phau
Xanh lơ hoa đỗ
Cà chua vừa độ
Đỏ mọng trĩu cành
Xanh ngắt hàng hành
Xanh lơ cải diếp…
Khơng chỉ cung cấp những hình ảnh đẹp đẽ, tươi sáng văn học cịn giúp các
em phát triển trí tưởng tượng phong phú, bay bổng để tự tạo ra cái đẹp hoặc tìm đến
và thưởng thức cái đẹp. Một tia nắng, một chiếc lá, một ánh trăng… cũng làm cho
các em rung động thì khơng bao giờ các em có thể thờ ơ trước nỗi đau của con
người. Chính văn học đã khơi dậy và tiếp sức cho những rung động về cái đẹp đó
trong tâm hồn các em. Với vai trị là một nghệ thuật ngơn từ, có thể nói, các tác phẩm
văn học thiếu nhi ln khơi dậy tình cảm và phát triển trí tượng tượng cho trẻ.
Văn học thiếu nhi cịn có vai trị quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ
cho trẻ. Cung cấp cho các em một vốn từ ngữ khổng lồ, đặc biệt là những từ ngữ
nghệ thuật. Khi trẻ được tiếp xúc thường xuyên với các tác phẩm văn học, vốn từ
ngữ của các em sẽ phong phú và sống động hơn. Từ đó, các em tự hình thành cho
mình khả năng diễn đạt vấn đề một cách mạch lạc, giàu hình ảnh và biểu cảm. Đối
với trẻ mầm non, sự phát triển ngôn ngữ thể hiện qua hoạt động bắt chước lời nói,
việc làm của các nhân vật hoặc những cách diễn đạt trong tác phẩm. Chính q
trình trẻ được nghe đọc, kể diễn cảm thơ, truyện và được trực tiếp tham gia vào
hoạt động đọc, kể chuyện sẽ giúp trẻ tích lũy và phát triển thêm nhiều từ mới. Điều
này giúp chúng ta có thể dễ dàng hơn trong việc rèn luyện khả năng biểu cảm trong
ngơn ngữ nói, ngơn ngữ miêu tả, ngôn ngữ đối thoại của trẻ. Đối với trẻ em tiểu
học, thông qua tác phẩm, trẻ không chỉ hồn thiện chính âm, phát triển lời nói mạch
lạc mà cịn phát triển cả trí nhớ, tư duy và khả năng sáng tạo tác phẩm.
2.4. Đặc điểm tâm lý của trẻ em khi tiếp nhận tác phẩm văn học
Việc tiếp nhận tác phẩm văn học của trẻ em là một quá trình tâm lý, đặc biệt là
sự tác động qua lại giữa nhận thức và cảm xúc. Q trình đó được biểu hiện cụ thể
qua: chú ý, tri giác, tư duy, tưởng tượng, tình cảm xúc cảm và ngơn ngữ của các em.
Giàu xúc cảm và tình cảm là nét tâm lý nổi bật ở trẻ thơ. Vì vậy mà nhận
thức của trẻ cũng mang đậm màu sắc cảm xúc. Trẻ dễ dàng xúc động khi nghe thầy,
14
cô kể chuyện Cô bé bán diêm của Anđécxen, đồng cảm, rơi lệ trước cảnh cô bé nằm
chết trên nền tuyết lạnh, xung quanh vung vãi những que diêm cháy dở. Trẻ xúc
động trước hành động gà Mái Mơ cho cây chiếc mào đỏ đẹp của mình trong truyện
Hoa mào gà. Có thể nói, trong việc tiếp nhận văn học của trẻ em vấn đề tri thức và
kinh nghiệm rất cần nhưng quan trọng hơn vẫn là cảm xúc. Đó là năng lực hóa thân
của các em với cái nhìn ngây thơ, giản đơn về sự giống nhau giữa tác phẩm và cuộc
sống. Như vậy, việc cho trẻ tiếp cận với tác phẩm văn học, ngồi kiến thức, cịn tạo
cho trẻ một năng lực cảm nhận cái đẹp, một thái độ để cảm nhận cuộc sống. Từ
những xúc cảm, tình cảm được nảy sinh trong quá trình cảm thụ tác phẩm văn học,
các em sẽ biết yêu thương mọi người cũng như vạn vật xung quanh.
Cảm xúc ln gắn bó với tư duy và hành động của trẻ. Tư duy là một trong
những đặc điểm tâm lí quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tiếp nhận văn học
của trẻ. Trẻ em tư duy một cách cụ thể, gắn liền với những hình ảnh, màu sắc và âm
thanh. Vì vậy, ngôn ngữ trong tác phẩm văn học dành cho trẻ cần cụ thể, chính xác
và giàu âm thanh, màu sắc. Thơ, truyện viết cho trẻ thơ thường là có tranh, nhiều
hình ảnh hấp dẫn, giàu màu sắc, nhịp điệu... Hoặc khi kể chuyện, cô giáo thường
dùng bộ tranh liên hồn, mơ hình, con rối... để trẻ dễ hình dung nội dung câu
chuyện, từ đó tiếp thu tác phẩm tốt hơn.
Trí tưởng tượng cũng góp phần tích cực vào hoạt động tư duy và nhận thức
của trẻ. Các em dùng tưởng tượng để khám phá thế giới và tự thỏa mãn nhu cầu nhận
thức của mình. Bởi tưởng tượng góp phần tích cực vào hoạt động tư duy và nhận
thức, giúp cho trẻ có thể xâu chuỗi các sự vật hiện tượng riêng lẻ vào một thể thống
nhất. Tưởng tượng là một năng lực không thể thiếu để cảm thụ và sống với tác phẩm
văn học. Trẻ sử dụng trí tưởng tượng của mình để tiếp thu, sáng tạo nghệ thuật.
Ngược lại, các hình tượng phong phú bay bổng trong các tác phẩm văn học cũng sẽ
chắp cánh cho những ước mơ hồi bão và sự sáng tạo của trẻ.
Tóm lại, mỗi trẻ em như một mầm non. Để mầm non ấy phát triển tồn diện
cần có sự giáo dục tồn diện. Khơng có một người thầy nào có thể dạy cho trẻ hết
tri thức về cuộc sống và tình cảm con người, nhưng văn học có thể mang lại điều kì
diệu đó và sẽ đi theo các em suốt cuộc đời như một người thầy vĩ đại nhất. Đến với
văn học, tâm hồn non nớt của các em được chắp thêm đơi cánh để có thể tự tin bay
cao, sẵn sàng vươn lên trong cuộc đời. Từ văn học dân gian đến văn học viết, mỗi
tác phẩm như một bài ca dịu ngọt, như một dòng suối mát lành tưới vào tâm hồn
của trẻ. Tình yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu quê hương, làng xóm cũng từ đó
mà đâm chồi nảy lộc. Văn học giúp trẻ thơ khám phá ra những điều kì diệu của
cuộc sống, những nét đẹp của thiên nhiên, của con người và sự hòa hợp của vạn
15
vật. Có thể nói, cảm nhận cuộc sống, thu thập kiến thức qua văn học chính là con
đường tích cực và nhẹ nhàng nhất để giáo dục trẻ em trở thành những con người có
sự phát triển tồn diện về nhân cách.
3. Các chặng đường phát triển của văn học thiếu nhi Việt Nam
3.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Trong thời kì phong kiến, văn học dân gian là nguồn sữa chủ yếu nuôi dưỡng
đời sống tinh thần của trẻ em. Đến đầu thế kỉ XX, khi chữ Quốc ngữ được truyền
bá, sử dụng rộng rãi ở Việt Nam, tạo điều kiện cho văn học cách tân theo hướng
hiện đại hóa thì sáng tác cho thiếu nhi bắt đầu được chú ý.
Ban đầu, một số nhà văn hướng vào dịch và giới thiệu các tác phẩm của văn học
Pháp như thơ ngụ ngôn của La Phôngten, truyện cổ của Perô hoặc viết sách cho trẻ em
bằng tiếng Pháp (sách Livre du petit) để giúp các em rèn tiếng Pháp.
Một số tác giả lại đi vào sưu tầm những câu ca dao, bài hát ru phù hợp với trẻ
em và tập hợp thành quyển Trẻ con hát, trẻ con chơi giúp các em vừa hát vừa vui
chơi, học tập.
Bên cạnh việc dịch và sưu tầm, một số tác giả bắt đầu chú ý sáng tác cho
thiếu nhi. Tản Đà có hai cuốn Lên sáu, Lên tám với những bài thơ ngắn, dạy cho trẻ
em những đạo lí thơng thường trong cuộc sống như giá trị của con người, sự biết ơn
công lao cha mẹ, thầy giáo, biết chăm ngoan học tập và sống ngay thẳng, trung
thực, yêu thương, hịa thuận với mọi người xung quanh. Ví dụ:
Lịng nhân ta sẵn có
Rộng yêu thương kẻ khó
Cây non chớ bẻ cành
Chim non chớ hại tổ...
(Lên tám - Tản Đà)
Nguyễn Văn Ngọc có Đơng Tây ngụ ngơn, chủ yếu sáng tác dựa theo các ý thơ
ngụ ngơn nước ngồi, sách Nhi đồng lạc viên với lối viết giàu âm thanh, hình ảnh còn
được dùng làm sách giáo khoa để dạy luân lí phong kiến cho trẻ em.
Từ năm 1930 trở đi, văn học viết cho thiếu nhi trở nên khởi sắc hơn. Trên
văn đàn công khai, các tác giả thuộc hai khuynh hướng văn học lãng mạn và văn
học hiện thực đều đã có những sáng tác dành cho thiếu nhi. Đặc biệt là Tơ Hồi,
ơng đã sử dụng hình thức đồng thoại để sáng tác được nhiều tác phẩm vừa đề cập
đến những vấn đề lớn trong xã hội đương thời vừa góp phần giáo dục lối sống lành
mạnh, giàu lí tưởng cho thiếu nhi. Tiểu biểu là các tác phẩm Đám cưới chuột, Võ sĩ
bọ ngựa, Dế Mèn phiêu lưu ký… Tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu ký vừa ra đời đã
được đông đảo bạn đọc nhỏ tuổi yêu thích. Đây là một trong những tác phẩm viết
16
cho thiếu nhi xuất sắc nhất của văn học Việt Nam đã được dịch và giới thiệu ra
nhiều nước trên thế giới.
Với tình yêu thương đặc biệt và sự quan tâm lớn đến thiếu nhi, Bác Hồ đã có
một số tác phẩm dành cho các em như: Trẻ chăn trâu (1941), Kêu gọi thiếu nhi
(1941), Tặng cháu Nông Thị Trưng (1944). Trong các tác phẩm, Bác đã thể hiện sự
cảm thơng, nỗi đau xót trước thân phận nơ lệ, bất hạnh của thiếu nhi; đồng thời kêu
gọi tinh thần chiến đấu, khơi dậy lòng yêu nước của các em. Hai bài thơ Kêu gọi
thiếu nhi và Trẻ chăn trâu đã đánh dấu mốc quan trọng của thơ ca Việt Nam viết về
thiếu nhi. Các tác phẩm này đã đem đến một cách nhìn mới mẻ về trách nhiệm của
tuổi thơ đối với vận mệnh dân tộc được thể hiện qua hình thức nghệ thuật giản dị,
mộc mạc nhưng rất gần gũi.
Nhìn chung, giai đoạn trước cách mạng tháng Tám năm 1945, ở Việt Nam đã
có những tác phẩm văn học hay dành cho thiếu nhi. Tuy nhiên, nó cịn xuất hiện một
cách lẻ tẻ chưa trở thành phong trào để tạo nên một nền Văn học thiếu nhi thực sự.
3.2. Giai đoạn kháng chiến chống Pháp (từ 1945 đến 1954)
Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời. Đảng, Nhà nước và Bác Hồ đã quan tâm, chú ý tạo điều kiện cho
Văn học thiếu nhi phát triển.
Giai đoạn này đã có những tổ chức ngơn luận, bộ phận văn học dành riêng
cho trẻ em xuất hiện. Năm 1946 tờ báo Thiếu sinh - tiền thân của báo Thiếu niên
tiền phong ra đời, tạo điều kiện cho thiếu nhi được tham gia sáng tác, được trực tiếp
bày tỏ những suy nghĩ, tình cảm của mình.
Năm 1948, Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam đã thành lập một bộ phận văn
học cho trẻ em do nhà văn Tơ Hồi và đồng chí Hồ Trúc - Bí thư Trung ương Đồn
phụ trách.
Nhà xuất bản Văn nghệ cũng cho in loại sách dành riêng cho trẻ em gọi là
sách Kim Đồng. Nội dung chủ yếu là nêu lên những tấm gương thiếu nhi dũng cảm
trong kháng chiến và tố cáo tội ác của kẻ thù. Mặc dù được in trên giấy bản với số
lượng chưa nhiều, nội dung còn đơn giản nhưng sách Kim Đồng đã có tác dụng
nhất định trong việc bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm yêu nước cho trẻ em. Đồng thời,
nó cũng là một gợi ý cho việc thành lập Nhà xuất bản Kim Đồng ở giai đoạn sau.
Bác Hồ dù luôn bận công việc của đất nước vẫn dành sự quan tâm đặc biệt
cho thiếu nhi với các bài thơ Khen tặng hai cháu liên lạc trong bộ đội chiến khu II
(1947), Thư Trung thu 1951, Thư Trung thu 1952, Gửi các cháu nhi đồng nhân dịp
Tết Trung thu 1953.
17
Tóm lại, đây là giai đoạn đánh dấu sự ra đời và những thành tựu đầu tiên của
văn học thiếu nhi Việt Nam dưới chế độ mới. Tuy số lượng sách cịn ít nhưng nó đã
tạo tiền đề để hình thành nên nền văn học thiếu nhi hoàn chỉnh hơn ở giai đoạn sau.
3.3. Giai đoạn miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam chống Mĩ
cứu nước (từ 1954 đến 1965)
Cuộc sống hịa bình ở miền Bắc đã tạo điều kiện cho văn học thiếu nhi phát
triển. Sự kiện thành lập Nhà xuất bản Kim Đồng vào ngày 17.6.1957 đã mở ra một
bước phát triển mới cho văn học thiếu nhi Việt Nam. Nhà xuất bản đã phát động
nhiều phong trào viết về cuộc kháng chiến chống Pháp, góp phần thúc đẩy sự phát
triển chung của văn học thiếu nhi.
Từ năm 1960 trở đi, với sự gia tăng về lực lượng sáng tác, số lượng tác phẩm
cũng như đề tài phản ánh, văn học thiếu nhi ngày càng phong phú, đặc biệt là mảng
văn xuôi.
Đề tài kháng chiến chống Pháp phát triển mạnh mẽ và thu được nhiều thành
tựu hơn cả. Tiêu biểu là những tác phẩm Đất rừng phương Nam (1957) của Đồn
Giỏi, Hai làng Tà Pình và Động Hía (1958) của Bắc Thơn, Em bé bên bờ sông Lai
Vu (1958) của Vũ Cao, Cái Thăng (1961) của Võ Quảng, Vừ A Dính (1963) của Tơ
Hồi… Các tác phẩm đều lấy nhân vật thiếu nhi làm trung tâm để miêu tả cuộc sống
sinh hoạt, những đóng góp của thiếu nhi trong công cuộc kháng chiến của dân tộc.
Em bé bên bờ sông Lai Vu của Vũ Cao đã kể về một em bé sống trong vùng
địch hậu tên là Toàn. Bố mẹ em bị giặc giết hại. Tồn được một chiến sĩ cách mạng
nhận làm em ni và dự định cho sang vùng tự do sống nhưng Toàn đã xin ở lại để
chiến đấu trả thù cho cha mẹ. Tuy mới 14 tuổi nhưng Tồn rất thơng minh, lanh lợi
và gan dạ. Em đã nhiều lần vượt qua sự kiểm soát gắt gao của kẻ thù đưa các chiến
sĩ cách mạng từ vùng địch chiếm đóng ra vùng tự do một cách an toàn. Tác phẩm
đã xây dựng một hình tượng đẹp về người “chiến sĩ” thiếu nhi, sẵn sàng góp sức
nhỏ bé của mình vào cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc.
Đề tài lịch sử cũng được chú ý khai thác với những tác phẩm Sóng gió
Bạch Đằng và Bố Cái Đại Vương của An Cương; Nhụy Kiều tướng quân của Yến
Hồng, Hoài Ban, Tướng quân Nguyễn Chích và Quận He khởi nghĩa của Hà Ân…
Tiêu biểu là hai tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng, Kể chuyện Quang Trung của
Nguyễn Huy Tưởng.
Đề tài sinh hoạt, lao động, học tập của trẻ em bắt đầu được các nhà văn quan
tâm. Một số tác phẩm tiêu biểu là Đàn chim gáy của Tơ Hồi, Tổ tâm giao của Trần
Thanh Địch, Ngày công đầu tiên của cu Tí của Bùi Hiển, Bí mật miếu Ba Cơ của
18
Văn Trọng, Nơi xa của Văn Linh, Những mẩu chuyện về bé Ly của Bùi Minh Quốc,
Đôi bạn nhỏ của Bùi Hiển, Chú đất nung của Nguyễn Kiên…
Mảng thơ ca cũng bắt đầu khởi sắc với một số tác giả tiêu biểu như Võ
Quảng, Phạm Hổ, Thi Ngọc, Vũ Ngọc Bình, Bảo Định Giang, Tế Hanh, Xuân Tửu,
Nhược Hoa, Nguyễn Xuân Sanh… Thấy cái hoa nở của Võ Quảng, Những người
bạn nhỏ của Phạm Hổ là hai tập thơ tiêu biểu trong giai đoạn này.
Năm 1961, Nhà xuất bản Văn học cho ra đời Tuyển tập thơ văn viết cho
thiếu nhi 1945 - 1960. Đây là tuyển tập thơ văn thiếu nhi đầu tiên, tuyển chọn và
giới thiệu 50 tác giả viết cho thiếu nhi trong giai đoạn từ 1945 đến 1960.
Có thể nói, giai đoạn từ 1954 đến 1964 văn học thiếu nhi Việt Nam đã đạt
được một số thành tựu đáng kể, trong đó văn xi phát triển mạnh hơn thơ ca.
3.4. Giai đoạn cả nước kháng chiến chống Mĩ xâm lược, miền Bắc tiếp
tục xây dựng chủ nghĩa xã hội (từ 1965 đến 1975)
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của văn học cả nước nói chung, văn học
thiếu nhi giai đoạn này cũng đạt được những thành tựu mới.
Nhiều tuyển tập truyện và thơ cho thiếu nhi được xuất bản. Tiêu biểu là Hai bàn
tay chiến sĩ (tuyển tập chọn lọc về đề tài kháng chiến chống Pháp); Dòng nước xiết (tập
truyện ngắn và ký về đề tài miền Bắc chống Mĩ) và tập thơ Măng tre của Võ Quảng...
Từ 1965, văn học thiếu nhi hình thành một mảng lớn viết về truyền thống
chống ngoại xâm, bao gồm truyện về lịch sử, về hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống Mĩ oanh liệt của dân tộc.
Đề tài lịch sử phát triển khá mạnh với các tác phẩm tiêu biểu như Sát thát
của Lê Vân, Nguyễn Bích, Bên bờ Thiên mạc, Trên sông truyền hịch, Trăng nước
Chương Dương của Hà Ân… Những tác phẩm này đã thành công trong việc dựng
lại một cách sinh động các sự kiện lịch sử, khắc họa đậm nét các nhân vật tiêu biểu,
đem lại ý nghĩa lớn lao trong việc giáo dục về lịch sử cho thiếu nhi. Tuy nhiên, so
với thực tiễn thì phần lịch sử được khai thác cịn ít; nhiều nhân vật, giai đoạn lịch
sử quan trọng chưa được đề cập hoặc chỉ phản ánh lướt qua.
Đề tài kháng chiến chống Pháp tiếp tục phát triển với một số thành tựu: Đội
Thiếu niên du kích Đình Bảng của Xuân Sách, Quê nội của Võ Quảng, Kim Đồng của
Tô Hoài…
Đề tài kháng chiến chống Mĩ đã thu hút được sự chú ý của nhiều tác giả. Các
tác phẩm thường hướng vào miêu tả cuộc sống của thiếu nhi trong vùng tạm chiến
hoặc những tấm gương dũng cảm diệt Mĩ; thể hiện được khơng khí kháng chiến của
dân tộc qua đó giáo dục lịng u nước, ý thức trách nhiệm cộng đồng với thế hệ
trẻ. Tiêu biểu là Những đứa con trong gia đình, Mẹ vắng nhà, Chuyện xóm tơi của
19
Nguyễn Thi; Chú bé Cả Xên của Minh Khoa; Em bé sơng n của Vũ Cận; Đồn
Văn Luyện của Phạm Hổ; Út Tám của Minh Thơng…
Nhìn chung, sách viết về truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân
tộc trong giai đoạn này đã khắc họa rất chân thật, xúc động về hình ảnh các thế hệ
thiếu nhi Việt Nam yêu nước. Đa số tác phẩm đều được các em đón nhận với tình
cảm u mến, trân trọng vì nó mang nhiều yếu tố li kì, mạo hiểm với những tình
huống gay cấn, phù hợp với tâm lí của thiếu nhi.
Bên cạnh đề tài chống ngoại xâm, đề tài sinh hoạt, lao động, học tập hàng
ngày rất được chú ý với nhiều tác phẩm có giá trị. Tiêu biểu là Chú bé sợ toán
(1965) của Hải Hồ, Năm thứ nhất (1965) của Minh Giang, Những hạt nắng đầu
tiên (1971) của Lê Phương Liên, Hoa cỏ đắng của Nguyễn Thị Như Trang, Tập
đồn san hơ (1966) của Phan Thị Thanh Tú, Trận chung kết (1975) của Khánh Hòa,
Cơn bão số 4 của Nguyễn Quỳnh, Làng cháy của Bùi Hiển, Xã viên mới của Minh
Giang, Kể chuyện nông thôn của Nguyễn Kiên… Các tác phẩm đã phản ánh khá
chân thực, sinh động đời sống của thiếu nhi trong sinh hoạt hàng ngày. Các em vừa
học tập vừa đào hầm, đắp lũy, đi sơ tán, tải đạn cứu thương, tham gia vào phong
trào hợp tác hóa ở nơng thơn một cách say sưa, tích cực.
Hưởng ứng phong trào thi đua Nghìn việc tốt của thiếu nhi, nhiều nhà văn đã
viết về những con người mới bằng nhiều thể loại khác nhau. Loại sách Việc nhỏ
nghĩa lớn ghi vắn tắt về người thật, việc thật trong đời sống được mọi người hưởng
ứng. Sau đó, ít được quan tâm bởi tính nghệ thuật chưa cao. Hồi ký có Lớn lên nhờ
cách mạng của Phùng Thế Tài, tự truyện có Những năm tháng khơng qn của
Nguyễn Ngọc Ký, truyện kể có Hoa Xuân Tứ của Quang Huy… Trong đó Những
năm tháng khơng qn và Hoa Xn Tứ là hai tác phẩm tiêu biểu đã ngợi ca những
tấm gương sáng về ý chí, nghị lực khắc phục hoàn cảnh tàn tật để vươn lên trong học
tập, trở thành những con người có ích cho xã hội.
Nhờ sự đóng góp của những người làm cơng tác khoa học và các nhà văn
tâm huyết, mảng sách khoa học được hình thành và phát triển. Một số tác phẩm tiêu
biểu là Ơng than đá, Quả trứng vng của Viết Linh, Cô kiến trinh sát của Vũ Kim
Dũng, Thảm xanh trên ruộng của của Thế Dũng, Bí mật một khu rừng của Hồng
Bình Trọng, Đỉnh núi với nàng Ba của Phan Ngọc Tồn... Đây là thời kì phát triển
mạnh nhất của mảng đề tài này. Sau đó nó dần dần bị lãng quên, chỉ còn tác giả
Nhất Linh là vẫn kiên trì tìm tịi và sáng tác.
Thơ cho thiếu nhi tiếp tục phát triển. Lực lượng sáng tác được bổ sung liên tục.
Bên cạnh các tác giả quen thuộc với thiếu nhi như Phạm Hổ, Võ Quảng, Thi Ngọc,
Quang Huy, Vũ Ngọc Bình... cịn xuất hiện một số tác giả mới như Thanh Hào, Ngô
20
Viết Dinh, Định Hải, Xuân Quỳnh, Trần Nguyên Hào... Các tập thơ Chú bị tìm bạn
của Phạm Hổ, Măng tre của Võ Quảng, Chồng nụ, chồng hoa của Định Hải, Mầm bé
của Ngô Viết Dinh... đã đem lại diện mạo mới cho thơ ca viết về thiếu nhi.
Điểm đáng chú ý của giai đoạn này là việc các em bé làm thơ khiến nhiều
độc giả ngưỡng mộ. Trần Đăng Khoa được coi là một hiện tượng đặc biệt. Với cái
nhìn hồn nhiên, trong sáng nhưng không kém phần sâu sắc, Trần Đăng Khoa đã
sáng tác được nhiều bài thơ hay về cảnh sắc, cuộc sống con người ở nông thôn và
tình cảm đối với gia đình, q hương.
Tóm lại, thơ văn viết cho thiếu nhi giai đoạn này khá phát triển, gặt hái nhiều
thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, nội dung phản ánh còn phiến diện, chủ yếu ở đề cập
đến trẻ em ở phương diện công dân, cộng đồng; các phương diện của đời sống trẻ
thơ, gia đình, sự phát triển tự nhiên… chưa được quan tâm, chú ý nhiều.
3.5. Giai đoạn thống nhất đất nước và sau đổi mới (từ tháng 4 năm 1975 đến nay)
Đất nước thống nhất và đổi mới đã tạo ra những thuận lợi và thách thức lớn
cho văn học thiếu nhi. Đặc biệt là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, cùng với văn học
dân tộc, văn học thiếu nhi đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ để đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của độc giả.
Đội ngũ viết cho thiếu nhi ngày một đông đảo. Những cây bút lão thành vẫn
nhiệt tình, tâm huyết với nghề như Tơ Hồi, Phạm Hổ… Từ năm 1990 trở đi, lực
lượng sáng tác ngày càng đông hơn. Xuất hiện thêm những tác giả như Trần Thiên
Hương, Nguyễn Nhật Ánh, Dương Thuấn, Nguyễn Thị Châu Giang, Nguyễn Ngọc
Thuần, Vũ Hương Nam, Ðan Thi, Nguyễn Bình… Đội ngũ thiếu nhi tham gia viết
trong các báo Tuổi Xanh, Mực Tím, Thiếu niên tiền phong, Hoa học trị… ngày càng
nhiều. Trong đó, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc Thuần được bình chọn là các tác
giả tiêu biểu nhất.
Cuộc sống thời bình với những nhu cầu nhận thức mới đã khiến văn học
thiếu nhi có sự mở rộng về đề tài và khuynh hướng tiếp cận.
Chiến tranh tuy đã kết thúc nhưng đề tài kháng chiến vẫn tiếp tục phát triển.
Bên cạnh những tấm gương yêu nước, một số tác giả đã đề cập đến những đau
thương, tổn thất của thiếu nhi trong chiến tranh. Tiêu biểu là Tảng sáng của Võ
Quảng, Cơn giông tuổi thơ của Thu Bồn, Hồi đó ở Sa Kỳ của Bùi Minh Quốc, Hành
trình ngày thơ ấu của Dương Thu Hương, Cát cháy của Thanh Quế, Tuổi thơ dữ dội
của Phùng Quán, Nhà Chử của Tơ Hồi… Nhiều tác phẩm viết với sự day dứt về
một thời bom đạn như Ngôi nhà trống của Quang Huy, Hoa cỏ đắng của Nguyễn Thị
Như Trang, Những tia nắng đầu tiên của Lê Phương Liên…
21
Đề tài miền núi ngày càng phát triển. Tiêu biểu là Chú bé thổi khèn của
Quách Liêu, Một lớp trưởng khác thường của Lương Tố Nga, Chân trời rộng mở
của Đoàn Lư, Đường về với mẹ chữ của Vi Hồng, Truyền thuyết trong mây của Đào
Hữu Phương… Nổi bật ở mảng đề tài này là nhà thơ Dương Thuấn người dân tộc
Tày đã sáng tác nhiều tác phẩm về thiếu nhi dân tộc thiểu số ở vùng cao.
Thể loại tự truyện sau một thời gian vắng bóng giờ đã có sự phát triển trở lại
với nhiều thành tựu. Tiêu biểu là Sống nhờ của Mạnh Phú Tư, Chân trời rộng mở
của Hồ Dzếnh, Dịng sơng thơ ấu của Nguyễn Quang Sáng, Bà và cháu của Đặng
Thị Hạnh, Tiếng vọng tuổi thơ của Vũ Bão, Miền xanh thẳm của Trần Hoài
Dương… Đây là loại sách gây được hứng thú và tạo nhiều tranh cãi cho độc giả.
Một số tác giả tập trung phản ánh trẻ em trong đời sống hiện tại ở thành thị
và nông thôn, trong các mối quan hệ gia đình, xã hội. Tiêu biểu cho hướng khai
thác này là tác giả Nguyễn Nhật Ánh với các tác phẩm Kính vạn hoa, Cho tơi xin
một vé đi tuổi thơ, Tơi thấy hoa vàng trên cỏ xanh... Đến nay, Kính vạn hoa được
đánh giá là bộ sách viết về thiếu nhi Việt Nam nhiều tập nhất (54 tập), có số lượng
phát hành cao nhất (trên 2 triệu cuốn), có tác giả nhận được nhiều thư của độc giả
nhất, được Trung ương Đồn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh trao Huy chương
“Vì thế hệ trẻ”. Cho tơi xin một vé đi tuổi thơ là cuốn sách được phát hành nhiều
nhất năm 2008, giành giải “Sách hay” của Hội xuất bản Việt Nam và Giải thưởng
Văn học của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2009, giải thưởng Văn học Asean năm
2010. Hiện nay, Kính vạn hoa và Tơi thấy hoa vàng trên cỏ xanh đã được chuyển
thể thành kịch bản phim, thu hút được sự u thích của đơng đảo khán giả.
Thời kì này cịn xuất hiện nhiều sách viết cho lứa tuổi học trị với những biểu
hiện tâm lí phức tạp. Các tác giả đã đặt trẻ em trong các mối tương quan với hoàn
cảnh, trong các mối quan hệ tình bạn, tình u học trị... Một số tác phẩm tiêu biểu
như Bây giờ bạn ở đâu, Cỏ may ngày xưa của Trần Thiên Hương; Hương sữa đầu
mùa của Lê Cảnh Nhạc; Có gì khơng mà tặng bơng hồng của Hồ Việt Khuê; Thiên
thần nhỏ của tôi, Mắt biếc, Nữ sinh, Cịn chút gì để nhớ, Phịng trọ ba người của
Nguyễn Nhật Ánh…
Để giúp cho các em thiếu nhi có được định hướng tốt trong việc lựa chọn
sách và đọc sách, từ năm 1990 trở đi một số nhà xuất bản đã thiết lập những tủ sách
dành cho thiếu nhi. Nhà xuất bản Kim Đồng có Tủ sách vàng, giới thiệu những tác
phẩm văn học thiếu nhi tiêu biểu của Việt Nam và trên thế giới. Nhà xuất bản Đồng
Nai thành lập Tủ sách Hoa niên với mục đích “tạo điều kiện để các em học sinh
được giải trí lành mạnh, định hướng tốt cho việc đọc tác phẩm văn học, nâng cao
trình độ thưởng ngoạn và hình thành nhân cách, đạo đức tốt trong sinh hoạt gia
22
đình, học đường và xã hội”. Các tủ sách trên đã góp phần quan trọng trong việc bồi
dưỡng văn hóa đọc cho thiếu nhi trên cả nước.
Năm 1995, với sự đóng góp của một số tác giả như Phạm Hổ, Định Hải…
Nhà xuất bản Văn học đã cho ra mắt Tuyển tập Văn học thiếu nhi khá bề thế, giới
thiệu về thơ, truyện ngắn, truyện dài (trích đoạn) của nhiều thế hệ tác giả.
Năm 2000, Nhà xuất bản Giáo dục cho in cuốn Tuyển tập truyện viết cho
thiếu nhi từ sau Cách mạng tháng Tám do tác giả Phong Thu tuyển chọn và viết lời
bình. Tuyển tập đã giới thiệu được 70 tác phẩm được tuyển chọn và giới thiệu trong
sách giáo khoa các bậc Tiểu học và Trung học cơ sở, giúp các em học sinh có cái
nhìn bao quát hơn về sự phát triển của văn học thiếu nhi Việt Nam.
Cùng với những thành tựu về sáng tác, xuất bản, giai đoạn văn học này đã
xuất hiện những cơng trình lí luận, nghiên cứu về văn học thiếu nhi. Năm 1992, lần
đầu tiên khái niệm Văn học thiếu nhi được giới thiệu trong Từ điển thuật ngữ văn
học của Nhà xuất bản Giáo dục. Đây là cơ sở lí luận cho việc tìm hiểu văn học
thiếu nhi một cách thiết thực nhất. Một số cơng trình nghiên cứu, phê bình về văn
học thiếu nhi cũng được giới thiệu như: Truyện viết cho thiếu nhi dưới chế độ mới,
Phác thảo văn học thiếu nhi Việt Nam, Thơ Trần Đăng Khoa, Văn học thiếu nhi
như tôi được biết của Vân Thanh; Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975 của Lã
Thị Bắc Lý; Nghĩ và viết cho các em của Phạm Hổ, Bàn về văn học thiếu nhi (nhiều
tác giả)… Những cơng trình nghiên cứu, phê bình trên đã giúp độc giả có được cái
nhìn sâu sắc, tồn diện hơn về quá trình phát triển của Văn học thiếu nhi nước nhà.
Có thể nói, từ sau năm 1975, đặc biệt là từ 1986 trở về sau, Văn học thiếu
nhi Việt Nam đã có sự phát triển phong phú, đồng đều hơn về nội dung và thể loại,
phần nào đáp ứng tốt hơn nhu cầu của bạn đọc nhỏ tuổi.
Tuy nhiên, không phải sự đa dạng nào cũng đi cùng với chất lượng. Bên
cạnh những thành tựu, văn học thiếu nhi giai đoạn này cũng cịn khơng ít những
vấn đề cần phải quan tâm, khắc phục.
Lực lượng sáng tác cho thiếu nhi khá đông nhưng những cây bút chuyên tâm
và già dặn cịn ít. Các tác giả lão thành như Võ Quảng, Phạm Hổ, Đồn Giỏi và Tơ
Hồi đã lần lượt vĩnh biệt chúng ta. Họ để lại một sự nghiệp văn chương thiếu nhi
khá đồ sộ nhưng chưa có nhiều thời gian truyền kinh nghiệm sáng tác cho thế hệ
sau. Những cây bút từng trở thành hiện tượng một thời như Trần Đăng Khoa giờ
cũng lắng xuống và dành sự quan tâm tới các đối tượng tiếp nhận khác lớn hơn.
Ngoài một số tác giả tiêu biểu như Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc Thuần… đa số
những cây bút trẻ chưa tạo dựng được cho mình chỗ đứng trong văn học thiếu nhi.
23
Sự mở rộng về giao lưu về kinh tế, văn hóa đã đem lại cho bạn đọc nhỏ tuổi
Việt Nam nhiều cơ hội lựa chọn hơn. Bên cạnh những sáng tác trong nước, thông
qua sách dịch, các em được tiếp xúc với văn học thiếu nhi của nhiều nước trên thế
giới. Từ đó, mở rộng nhận thức và thỏa mãn được trí tưởng tượng, khát khao khám
phá của bản thân. Một số tác phẩm như Harry Potter của tác giả người Anh J. K.
Rowling, Đôrêmon của tác giả người Nhật Fujiko Fujio (bút danh của hai họa sĩ
manga Fujimoto Hiroshi và Akibo Motoo) khi được dịch sang tiếng Việt đã thu hút
hàng triệu độc giả nhỏ tuổi Việt Nam và đang có phần lấn lướt tác phẩm văn học
thiếu nhi trong nước.
Cùng với sự bùng nổ của nền kinh tế thị trường, một số tác giả, nhà xuất bản
do chạy theo lợi nhuận đã viết và cho xuất bản một số truyện tranh kém cả về nội
dung và hình ảnh minh họa khiến cho việc tiếp nhận các giá trị văn hóa, truyền
thống của thiếu nhi bị ảnh hưởng về nhận thức, thẩm mĩ.
Tóm lại, cùng với sự phát triển của nền văn học dân tộc nói chung, văn học
thiếu nhi Việt Nam đã thu được những thành tựu đáng kể. Hiện nay nó đang đứng
trước nhiều cơ hội cũng như thách thức. Để văn học thiếu nhi ngày càng phát triển,
đáp ứng được nhu cầu của độc giả nhỏ tuổi cũng như trong dạy học cần có sự quan
tâm của Đảng, Nhà nước; sự chung tay, đóng góp nhiều hơn nữa của những nhà văn
và nhà giáo tâm huyết.
4. Khái quát về tác giả Võ Quảng
4.1. Tiểu sử
Võ Quảng sinh ngày 01 tháng 3 năm 1920, tại xã Đại Hịa, huyện Đại Lộc,
tỉnh Quảng Nam. Năm 16 tuổi, ơng vào học tú tài ở trường Quốc học Huế. Cũng tại
đây, người thanh niên học sinh quê hương đất Quảng đã được tiếp xúc với sách báo
tiến bộ và chính những quyển sách ấy đã thắp lên ngọn lửa cách mạng ở một số học
sinh trường Quốc học. Năm 1936, ông gia nhập tổ chức Thanh niên Dân chủ. Năm
1938, ông nhiệt tình đứng vào tổ chức Thanh niên phản đế, tích cực tun truyền và
tham gia hoạt động sơi nổi trong phong trào học sinh ở Huế hồi bấy giờ. Tháng 9
năm 1941, ơng bị chính quyền Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ. Sau khi trải qua
các nhà lao ở Huế, ở Hội An và Vĩnh Điện (Quảng Nam - Đà Nẵng) với điều kiện
giam cầm tàn khốc, Võ Quảng bị đưa về quản thúc vô thời hạn tại Hội An, sau đó ở
quê nhà, cấm mọi liên hệ với người ngoài. Năm 1944, phong trào Cách mạng lên
cao, Võ Quảng đã tìm cách bỏ trốn ra Diên Sanh (Quảng Trị) tham gia hoạt động
Việt Minh, rồi từ đó lại quay về Huế tham gia Tổng khởi nghĩa tháng Tám giành
chính quyền.
24
Sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 nổ ra, ông được chính quyền Việt
Minh cử làm ủy viên Tư pháp thành phố Đà Nẵng. Khi quân Pháp tái chiếm Nam
Bộ, ông được cử làm Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến thành phố Đà
Nẵng. Từ năm 1947 đến 1954, làm Hội thẩm chính trị (tức là Phó Chánh án) tòa án
quân sự miền Nam Việt Nam. Thời gian này, ơng cũng có sáng tác một số tác phẩm
thơ dành cho thiếu nhi.
Đầu năm 1955, Võ Quảng tập kết ra Bắc. Cũng từ đó, ơng từ chối con đường
hoạt động chính trị đầy thuận lợi và triển vọng đối với mình để đi theo nghề viết
văn, sáng tác những tác phẩm hồn nhiên, trong sáng cho thiếu nhi. Tập thơ Gà Mái
Hoa của ông xuất bản năm 1957 đã được đơng đảo bạn đọc đón nhận. Lúc đó, ơng
đã ngồi 38 tuổi.
Ơng là một trong những người bỏ ra nhiều cơng sức để xây dựng nền móng
đầu tiên cho nền văn học Việt Nam dưới chế độ mới. Ông từng là một trong những
người sáng lập nên Nhà xuất bản Kim Đồng, giữ cương vị Tổng biên tập đầu tiên,
sau đó là Giám đốc Nhà xuất bản. Một thời gian sau, ông được cử làm Giám đốc
Xưởng phim hoạt hình Việt Nam. Năm 1965, ơng được kết nạp làm Hội viên Hội
Nhà văn Việt Nam. Năm 1968, ông về cơng tác tại Bộ Văn hóa. Năm 1971, về Hội
Nhà văn Việt Nam, được phân công làm chủ tịch Hội đồng Văn học Thiếu nhi Hội
Nhà văn Việt Nam và giữ chức vụ này đến khi về hưu.
Với những gì đã cống hiến, Võ Quảng đã vinh dự được Nhà nước tặng Huân
chương Độc lập, Huân chương kháng chiến chống Pháp và giải thưởng Nhà nước
về Văn học nghệ thuật (2007) cùng nhiều huy chương, giải thưởng của các tổ chức,
đồn thể khác trong và ngồi nước.
Ơng qua đời ngày 15 tháng 6 năm 2007 tại Hà Nội. Mộ phần của ông đặt tại
nghĩa trang tỉnh Vĩnh Phúc.
Sau 2 tháng ơng từ trần, sáng 18-8-2007, Tạp chí Văn hóa qn sự tại Đà
Nẵng đã tổ chức lễ tưởng niệm và hội thảo về nhà văn, nhà thơ Võ Quảng. Nhiều
tham luận của các lãnh đạo huyện Đại Lộc (quê hương nhà văn), các nhà thơ, nhà
văn công tác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng đều dành cho nhà
văn Võ Quảng những tình cảm kính trọng, trìu mến.
4.2. Sự nghiệp sáng tác của Võ Quảng
Miền đất Quảng Nam - Đà Nẵng - nơi Võ Quảng sinh ra và lớn lên, là cầu
nối của hai miền đất nước. Thiên nhiên nơi đây vừa khắc nghiệt, nhưng cũng vừa
đa dạng phong phú, cây cỏ xanh tươi và đầy sức sống.
Từ những năm tháng tuổi thơ, miền quê ấy đã gieo vào lịng nhà văn một
tình u thiên nhiên, cây cỏ. Đất Đại Hòa khá trù phú bởi vùng này là ngã ba sông,
25