Tải bản đầy đủ (.pdf) (748 trang)

Lịch sử châu Âu: Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.5 MB, 748 trang )


TỦ SÁCH LỊCH SỬ THẾ GIỚI

NORMAN DAVIES

LỊCH SỬ
CHÂU ÂU
Lê Thành dịch

NHÀ XUẤT BẢN TỪ ĐIỂN BÁCH KHOA
ebook©tudonald78 | 24-12-2021


Ebook này được thực hiện theo dự án “SỐ HÓA SÁCH CŨ” của diễn đàn
TVE-4U.ORG


TÁC GIẢ

--------

NORMAN DAVIES
(1939-)



Norman Davies sinh năm 1939 tại Bolton, là sử gia hàng đầu người
Anh, đã công bố nhiều tác phẩm gây nhiều tiếng vang về lịch sử châu Âu,
lịch sử nước Anh và Ba Lan.
Xem thêm tại Wikipedia: />


Bán đảo châu Âu, khoảng 10.000 trước CN.


--------

TRUYỀN THUYẾT VỀ EUROPA

V

ào buổi đầu, khơng hề có châu Âu như chúng ta thấy hiện nay.

Trong năm triệu năm, tất cả chỉ là một bán đảo dài, ngoằn ngoèo,
không tên, tựa một con tàu nằm ở mũi một vùng đất rộng lớn nhất thế giới.
Ở phía tây là đại dương, nơi chưa tùng có ai vượt qua. Ở phía nam là hai
biển nối liền nhau được bao quanh bởi những dải đất, với rải rác là những
hải đảo, những vịnh nhỏ và những bán đảo riêng của chúng. Ở phía bắc là
chỏm băng địa cực, mở rộng và thu hẹp lại qua các kỷ nguyên tựa những
con sứa đông lạnh kỳ qi. Ở phía đơng là dải đất tựa như cây cầu nối với
phần còn lại của thế giới, nơi mọi dân tộc và mọi văn minh sẽ xuất hiện.
Trong những quãng thời gian giữa các Thời Đại Băng Hà, Bán đảo đã đón
nhận những con người định cư đầu tiên. Người Nean-derthal và người
Cromagnon hẳn phải có những cái tên, những diện mạo và những ý tưởng.
Nhung chúng ta khơng biết rõ về họ. Chúng ta chỉ có thể lờ mờ nhận ra họ
qua những hình ảnh những đồ tạo tác và những bộ xương.
Chỉ cách nay 12 ngàn năm, với lần rút lui sau cùng của băng hà, Bán
đảo đã đón nhận những đợt di dân mới. Chưa tùng được ca ngợi, những
người tiên phong và những người thăm dị đã từ từ rời khỏi nơi đó để đi về
phía tây, dọc các bờ biển, vượt qua đất liền và các biển cho đến những hải
đảo xa nhất. Cơng trình vĩ đại nhất cịn tồn tại của họ - khi Thời Đại Đồ
Đá nhường chỗ cho Thời Đại Đồ Đồng - đã được xây dựng ở rìa của vùng

cư trú của con người, trên một hải đảo xa khuất ngồi khơi. Nhưng ngày
nay chưa có một nghiên cứu nào cho biết rõ điều gì đã gợi hứng cho những
thợ xây bậc thầy đó, hoặc cái vịng trịn bằng đá to lớn của họ đã được gọi


là gì.1
Vào bình minh của Thời Đại Đồ Đồng, ở đầu bên kia của Bán đảo, có
một cộng đồng dân cư mà ảnh hưởng của nó tồn tại đến ngày nay. Từ bên
trong lục địa, những người Hellenes đi xuống theo ba đợt chính và làm chủ
các bờ biển của Aegea cho đến cuối thiên niên kỷ thứ 2 TCN. Họ chinh
phục và hòa trộn với các cư dân đang sống tại đây. Họ tỏa ra hàng ngàn hải
đảo nằm rải rác trên những vùng biển nàm giữa các bờ biển của Peloponese
và Tiểu Á. Họ hấp thu văn hóa đang nổi trội của lục địa và văn hóa cổ xưa
hơn của Crete. Ngôn ngữ của họ làm cho họ khác biệt với những người
“ngoại lai” - “những người nói thứ tiếng không thể hiểu được”. Họ là
những người đã tạo ra Hy Lạp cổ đạị (Barbaros).
Vào thời kỳ muộn hơn, khi những đứa trẻ của thời đại cổ điển thắc mắc
muốn biết lồi người từ đâu đến, thì chúng được cho biết về sự sáng tạo ra
thế giới của Opifex rerum hay “ Đấng tạo dựng thần thánh”. Người ta kể
cho chúng nghe về Hồng Thủy, và về Europa (châu Âu).
Europa là đề tài của một trong những truyền thuyết được trân trọng
nhất của thế giới cổ điển. Europa là mẹ của Minos, Chúa thượng của Crete,
và do đó là bà tổ của nhánh cổ xưa nhất của nền văn minh Địa Trung Hải.
Europa đã từng được Homer nhắc đến. Nhưng trong tác phẩm Europa
và Con Bị Tót, được cho là của Moschus người xứ Syracuse, và hơn hết
thảy, trong Biến Hình của nhà thơ La Mã Ovid, Europa được lưu danh
muôn thuở như là một công chúa ngây thơ bị Cha Của Các Thần dụ dỗ.
Lang thang cùng với các trinh nữ dọc theo bãi biển của quê hương
Phoenicia, Europa bị quyến rũ bởi Zeus dưới lốt một con bị tót màu trắng
như tuyết:

Và dần dà nàng hết sợ, và ông ta


Trao bộ ngực cho những ve vuốt của nàng,
Trao cặp sừng để nàng quàng lên những chuỗi hoa,
Cho đến khi nàng công chúa chịu leo lên lưng ông,
Lên lưng con bị tót mà khơng biết mình đang cưỡi lên ai.
Rồi - một cách từ tốn, chậm rãi đì xuống bãi biển rộng khô ráo Trước tiên, vị thần vĩ đại đặt những móng guốc,
Vào những con sóng cạn, rồi đi xa hơn
Cho đến khi mang chiến lợi phẩm ra ngoài khơi.
Lịng đầy sợ hãi, nàng nhìn lui và thấy
Những bãi cát đang lùi nhanh ra sau. Bàn tay phải của nàng nắm lấy
Cái sừng, bàn tay kia trườn trên lưng bị.
Xao xuyến, chiếc áo của nàng bềnh bồng trong gió.2

Đó là truyền thuyết được nhiều người biết đến về Europa như đã được
vẽ trên những chiếc bình của Hy Lạp, trong đó những ngơi nhà của thành
phố Popeii, và được trình bày trong thời cận đại bởi các hoa sĩ Titian,
Rembrandt, Rubens, Veronese, và Claude Lorrain.
Cầm bút trong thế kỷ thứ 5.TCN, sử gia Herodotus không bị ấn tượng
bởi truyền thuyết này. Theo quan điểm của ơng thì chuyện Europa bị bắt
cóc chỉ là một sự cố trong những cuộc chiến thuở xưa nhằm tranh giành
phụ nữ. Một nhóm người Phoenicie xuất phát từ Tyre đã bắt con gái của
vua xứ Argos và đưa ra khỏi Io; và một nhóm người Hy Lạp dong buồm từ
Crete đến Phoenicia để bắt con gái của vua xứ Tyre. Đó chỉ là những
trường hợp ăn miếng trả miếng.3
Truyền thuyết về Europa mang nhiều hàm ý. Nhưng khi mang nàng
công chúa từ bãi biển Phoenicia (ngày nay là nam Lebanon) về Crete, thì



như thế là Zeus đang chuyển giao thành quả của những nền văn minh cổ
xưa hơn của người châu Á ở phương Đông sang những vùng định cư mới
tại hải đảo của người Aegea. Phoenicia nằm trong quỹ đạo của các pharaoh.
Chuyến đi trên lưng bị tót của Europa cung cấp một sự nối kết mang tính
huyền thoại giữa Ai Cập Cổ Đại và Hy Lạp cổ Đại. Anh trai của Europa là
Cadmus - người đã lùng sục khắp nơi trên thế giới để tìm kiếm em mình được cho là truyền bá thuật viết chữ cho Hy Lạp.
Chuyến đi của Europa cũng không ngưng cuốn hút những người lần
theo những dấu vết của nàng. Không như những nền văn minh lớn của
sông Nile, sông Hằng, của Mesopotamia, và của Trung Hoa - tồn tại lâu dài
nhưng uể oải trong phát triển tri thức và địa lý - văn minh Địa Trung Hải
được kích thích bởi một chuyển động liên tục. Chuyển động gây ra sự
không chắc chắn, dễ thay đổi và bất ổn. Sự bất ổn thúc đẩy hoạt động mãnh
liệt. Minos nổi tiếng với những con thuyền của nó. Crete là cường quốc
đầu tiên trên biển. Những con tàu chuyên chở con người, hàng hóa và văn
hóa; chúng thúc đẩy sự trao đổi mọi loại hàng hóa với những vùng đất mà
chúng dong buồm đến. Tựa như bộ cánh của Europa, tâm trí của những
thủy thủ thời cổ đại ln “bềnh bồng trong gió” - tremulae sinuatur flamine
vestes.4
Trên lưng bị tót, Europa tiến theo con đường ngập nắng, từ đơng sang
tây. Theo một truyền thuyết khác thì mặt trời là một cỗ xe rực lửa được kéo
bởi những con ngựa vơ hình, từ những chuồng ngựa ở phía sau vùng mặt
trời mọc về nơi chúng nghỉ chân ở bên kia vùng mặt trời lặn. Thật vậy, một
trong số những từ nguyên đã đối chiếu châu Á, “vùng đất Mặt Trời Mọc”,
với Europa, “vùng đất Mặt Trời Lặn”5. Sau đó, người Hy Lạp đã sử dụng
“Europa” (châu Âu) để đặt tên cho lãnh thổ của họ ở phía tây Aegea, nhằm
phân biệt với những vùng đất cổ xưa hơn Tiểu Á.


Vào bình minh của lịch sử châu Âu, cái thế giới đã biết nằm ở phương
đông. Cái thế giới chưa biết thì ở phương tây, những nơi đến đang chờ

được khám phá. Sự tị mị của Europa có thể là chưa kết thúc. Nhưng nó đã
dẫn đưa đến việc thành lập một nền văn minh mới mang tên nàng và lan
toả khắp Bán đảo.


Bản đồ 2. NỮ HOÀNG CHÂU ÂU (REGINA EUROPA)
Mộc bản từ tác phẩm Cosmography của Sebastian Muntzer.


DẪN NHẬP

--------

LỊCH SỬ NGÀY NAY

L

ịch sử có thể được viết ở bất kỳ mức độ biểu kiến nào. Ta có thể
viết lịch sử vũ trụ chỉ nội trong một trang giấy, và có thể dành ra
bốn mươi tập sách để viết về chu kỳ sống của một con phù du. Một sử gia
hàng đầu chuyên nghiên cứu về quan hệ ngoại giao giữa các nước trong
thập niên 1930, đã viết một cuốn sách về Khủng hoảng Munich và những
hệ quả của nó (1938 -1939), rồi cuốn thứ hai với tựa The Last Week of
Peace, và cuốn thứ ba với tựa 31 August 1939. Các đồng nghiệp của ông
vẫn chờ đợi để ông cho ra đời một tác phẩm đúc kết sẽ được gọi là One
Minute to Midnight.6 Đó là một ví dụ của sự thúc ép hiện đại nhằm am hiểu
nhiều hơn, nhiều hơn nữa về cái vi mô.
Cũng vậy, lịch sử châu Âu cũng có thể được viết ở bất kỳ mức độ biểu
kiến nào. Bộ sách L’Evolution de l’humanité - mà nội dung có tới 90 phần
trăm đề cập đến người châu Âu - đã được biên soạn sau Chiến Tranh Thế

Giới Thứ Nhất với 110 tập chính và một số tập phụ.7 Ngược lại, cuốn sách
mà bạn đang cầm trong tay đây, tuy cũng có cùng đề tài, nhưng được gói
gọn trong một tập.
Tuy vậy, khơng một sử gia nào có thể cạnh tranh với các nhà thơ trong
việc tiết kiệm tư duy;
Nếu châu Âu là một nữ thần xinh đẹp.
Thì Naples là mắt biếc của nàng,
Và Warsaw là tim nàng.


Sebastopol và Azoff,
Petersburg, Mitau, Odessa;
Là những cái gai đâm vào bàn chân nàng.
Paris là đầu nàng,
London là cái cổ áo hồ bột,
Và Rome - là áo chồng vai của nàng.8

Vì một số lý do, trong khi những chuyên khảo lịch sử càng thu hẹp hơn
vào phạm vì nghiên cứu, thì những khảo sát chung đã tuân theo một mức độ
biểu kiến có tính quy ước là khoảng vài trăm trang cho mỗi thế kỷ. Chẳng
hạn, để nói về khoảng thời gian từ Constantine đến Thomas More, tác
phẩm Cambridge Mediaeval History (1936 - 1939) gồm có tám tập.9 Bao
trùm mười hai thế kỷ, từ Charlemagne cho đến chế độ của những đại tá tại
Hy Lạp, bộ sử Handbuch der Europaischen Geschichte (1968 - 1979) gồm
bảy tập, với tầm cỡ như những tập vừa kể.10 Có một khuynh hướng khá
phổ biến là dành nhiều giấy mực cho lịch sử đương đại hơn là cho thời cổ
đại hoặc thời Trung cổ. Với những sách được viết bằng Anh ngữ thì người
đọc nhận thấy có một bộ tiên phong cho vấn đề vừa kể là bộ tám tập
‘Những Thời Kỳ Của Lịch Sử Châu Âu’. Bộ sách này chuyển từ quá khứ
xa xôi đến những thời kỳ gần hơn với mức độ biểu kiến càng lúc càng gia

tăng - 442 năm với tỷ lệ 1, 16 năm cho mỗi trang cho phần Thời Đại Đen
Tối. 476 - 918 (1919) do Charles Oman viết, 104 năm với tỉ lệ là 4, 57
trang cho mỗi năm cho phần châu Âu trong Thế kỷ Mười Sáu (1897) do A.
H. Jonhson viết, 84 năm với tỉ lệ là 6, 59 trang cho mỗi năm cho phần châu
Âu Cận đại 1815 - 99 do W. Alison Phillipps viết (1905)11. Những bộ sử
được biên soạn gần đây hơn cũng theo cùng mẫu mực đó.12
Hầu hết những người đọc đều quan tâm nhiều hơn đến lịch sử của thời


họ. Nhưng không phải mọi sử gia đều theo cung cách đó. ‘Có một quan
điểm cho rằng, những sự việc đang xảy ra’ chỉ trở thành ‘lịch sử” sau nửa
thế kỷ, cho đến khi những tư liệu đã trở nên có thể sử dụng được và con
người đã khơn ra trước những sự việc đã rồi. ’13 Đó là một quan điểm
đúng đắn. Nhưng nó có nghĩa là bất kỳ một sự khảo sát tổng quát nào cũng
phải đột ngột kết thúc ở cái điểm mà nó trở nên hấp dẫn nhất. Tuy vậy,
khơng một người trưởng thành có học vấn nào có thể hy vọng hoạt động
một cách hữu hiệu nếu không biết một số điều cơ bản về những nguồn
gốc của các vấn đề đương đại.14 Bốn trăm năm trước, sau khi lãnh án tử,
Sirwalter Ralegh đã hoàn tồn am hiểu những hiểm nguy và ơng đã viết:
‘Những ai viết lịch sử cận đại thì sẽ phải theo bén gót sự thật, điều đó có
thể giương ra nanh vuốt của nó. ’15
Do những phức tạp như vậy, hẳn ta không nên ngạc nhiên khi thấy
những chủ đề nội dung của những nghiên cứu về ‘châu Âu’ hoặc về ‘Văn
minh châu Âu’ có những khác biệt rất lớn lao. Đã có những nỗ lực nhằm
khảo sát tồn bộ lịch sử châu Âu mà không cân đến nhiều pho sử hoặc
nhiều tác giả, nhưng số đạt được thành công rất ít. Cuốn A History of
Europe (1936)16 của H. A. L. Fisher hoặc cuốn A Modem History of
Europe (1971)17 được kể vào những ngoại lệ hiếm hoi đó. Cả hai đều là
những tiểu luận được mở rộng về khái niệm có tính đáng ngờ về ‘Văn
minh phương Tây’ (xem phần dưới). Có lẽ những khảo sát lớn đạt được

nhiều hiệu quả hơn cả là những khảo sát đã tập trung vào một chủ đề, như
cuốn Civilisation18 của Kemmeth Clark, nhìn vào quá khứ của châu Âu
qua lăng kính của nghệ thuật và hội hoạ, hoặc cuốn The Ascent of Man (
1973)19 của Joseph Bronowski, chọn một lối tiếp cận qua lịch sử khoa học
và kỹ thuật. Một tiểu luận gần đây hơn thì đã tiếp cận đề tài từ một quan


điểm có tính duy vật dựa trên địa chất học và những tài nguyên kinh tế.20
Giá trị của những pho khảo sát lịch sử nhiều tập không phải là vấn đề
được nêu ra ở đây; nhưng chúng bị lên án vì vẫn giữ lại những tác phẩm
tham chiếu, và chúng được dùng để tham khảo chứ không phải để đọc.
Trong những năm gần đây, càng lúc càng có sự thúc bách hơn nhằm
xem xét lại cái khung sườn của lịch sử châu Âu và sự thúc bách đó tương
ứng với sự gia tăng của những cuộc nghiên cứu có tính chun mơn cao và
có mức độ biểu kiến cao. Chỉ có một ít ngoại lệ nổi bật có thể được dùng
để chứng minh cho qui luật này, trong số đó có tác phẩm của Fernand
Braudel21. Nhưng các sử gia và sinh viên bị lôi cuốn vào việc ‘am hiểu
nhiều hơn, nhiều hơn nữa vào cái vi mô’ để đến chỗ những quan điểm
rộng hơn đôi khi đã bị đã bị bỏ quên. Tuy vậy, khoa học nhân văn cần có
mọi mức độ biểu kiến.
Một điều mà ai ai cũng phải công nhận là trong những năm gần đây,
việc nghiên cứu lịch sử đã trù phú hơn bởi những phương pháp, những
môn học, và những lãnh vực mới. Sự xuất hiện của máy tính mở ra một
phạm vi điều tra nghiên cứu mang tính định lượng mà trước kia vốn ở
ngồi tầm với của các sử gia. Nghiên cứu lịch sử đã đạt được lợi ích lớn
lao từ sử dụng những kỹ thuật và khái niệm xuất phát từ khoa học xã hội và
nhân văn. Ngày nay, hầu hết mọi nơi đều ca ngợi một khuynh hướng viết
sử do trường phái biên niên sử Pháp tiên phong từ năm 1929. Những lãnh
vực mới mang tính kinh viện như lịch sử truyền khẩu, lịch sử tâm thần,
hoặc lịch sử dòng họ, hay lịch sử của các lề thói, đã được thiết lập một

cách tốt đẹp. Đồng thời, một số đề tài phản ảnh những quan tâm đương đại
cũng được trao cho một chiều kích mới mẻ. Phong trào bài trừ tệ phân biệt
chủng tộc, mơi trường, giới tính, đặc tính và ảnh hưởng Do Thái, tính dục,
giai cấp, và hồ bình là những chủ đề chiếm một phần lớn trong những bài


viết và tranh luận đang diễn ra.
Ngoài ra, sự gia tăng của các lãnh vực nghiên cứu đi kèm với sự gia
tăng tương ứng các tác phẩm có tính học thuật được công bố, đương nhiên
tạo ra những căng thẳng nghiêm trọng. Các sử gia chun nghiệp thất vọng
vì ‘có quan hệ với văn học’. Họ bị quyến rũ bởi việc tiến sâu hơn nữa vào
những lối hẹp của chuyên môn sâu và đánh mất khả năng truyền đạt với
quần chúng. Phần lớn sự chun mơn hố đã được tiến hành bất chấp việc
gây hại cho lịch sử được kể lại. Một số chuyên gia đã làm việc với giả định
rằng những nét đại cương thì khơng cần phải xét lại; rằng con đường duy
nhất tiến đến những khám phá mới nằm trong việc đào sâu vào một khu
vực hẹp. Số khác, do chủ trương thăm dò ‘những cấu trúc sâu’ nên đã hoàn
toàn quay lưng với ‘bề mặt’ của lịch sử. Họ tập trung vào việc phân tích
‘những chiều hướng trường hạn, nằm bên dưới bề mặt’. Tựa như một số
đồng nghiệp của họ làm việc trong lĩnh vực phê bình văn học chủ trương
rằng ý nghĩa có tính văn học của một văn bản là khơng có giá trị lịch sử,
một số sử gia muốn từ bỏ việc nghiên cứu các ‘sự việc' có tính qui ước. Họ
đào tạo những sinh viên khơng có ý định học hỏi về cái gì đã xảy ra, bằng
cách nào, ở đâu, và khi nào.
Sự suy tàn của lịch sử dựa trên các sự việc được kèm theo - đặc biệt là
trong lớp học - với trào lưu của ‘sự đồng cảm’ nghĩa là, của những bài tập
có mục tiêu là kích thích trí tưởng tượng có tính lịch sử. Khả năng tưởng
tượng là thành tố quan trọng của nghiên cứu lịch sử. Nhưng những bài tập
đồng cảm là điều chỉ có thể được biện minh nếu chúng đi kèm với một
lượng kiến thúc nhỏ hoặc vừa phải. Trong một thế giới mà ở đó văn học hư

cấu cũng chịu sự đe doạ tựa như một nguồn thông tin lịch sử đáng trân
trọng, thì các sinh viên đơi khi có nguy cơ là chẳng có gì để xây dựng một
nhận thức về quá khứ.22


Sự phân ly giữa lịch sử và văn học là điều đáng tiếc. Khi những người
theo ‘thuyết cấu trúc’ trong khoa học nhân văn bị bắt kịp và vượt qua bởi
những người theo thuyết ‘deconstruction’ (của triết gia Jacques Derrida,
một trong ba triết gia quan trọng nhất của thế kỷ 20, qua đời năm 2004).
Đừng lầm deconstruction là tiến trình triệt phá tan tành hoặc tước hết các
sự vật. Thật ra deconstruction là trong tiến trình tạo ra một điều gì đó thì có
một điều gì khác dứt khốt phải bị loại đi. Những cơ cấu loại trừ đó có xu
hướng trấn áp và kéo theo những hệ quả, thì cả những sử gia lẫn những nhà
phê bình văn học khơng những tìm cách loại trừ mọi kiến thúc qui ước mà
cịn loại trừ lẫn nhau. May thay, vì những khía cạnh cực đoan của
deconstructionism đã bị loại trừ, nên những rạn nút có thể được hàn gắn.23
Hồn tồn khơng có lý do để cho một sử gia sáng suốt không sử dụng
những văn bản văn học đã được thẩm định một cách có phê phán, hoặc
chẳng có lý do gì để cho những nhà phê bình văn học khơng sử dụng kiến
thúc có tính lịch sử.
Vì vậy, giờ đây, có vẻ như các nhà chun mơn đã vung tay q trán.
Từ trước đến nay ln có sự phân cơng minh bạch giữa những chú ong thợ
chuyên cần của sử học với những con ong chúa - những grands
simplificateurs (những người đơn giản hóa) - mang lại trật tự cho các cơng
việc của tổ ong. Sẽ khơng có mật nếu các ong thợ hồn tồn thao túng tổ
ong. Hoặc khơng ai có thể chấp nhận những đuờng nét lớn của ‘lịch sử
tổng quát’ cứ bị cố định mãi. Cũng vậy, chúng phải chuyển dịch phù hợp
với thời buổi: và những gì đã được cố định cách nay năm mươi hoặc một
trăm năm trước thì giờ đây đã chín mùi để được xét lại. Tương tự như vậy,
việc nghiên cứu những địa tầng của lịch sử không thể bị tách rời khỏi

những việc đang làm. Trong khi tìm kiếm ‘những chiều hướng’, ‘những xã
hội’, ‘những nền kinh tế’, hoặc ‘những văn hóa’, ta khơng nên bỏ qua
những con người cụ thể.


Vì khơng ai được xem là có khả năng để nêu ra một quan điểm ở ngồi
lãnh vực chun mơn của mình, nên những con thú dữ vẫn nhởn nhơ trên
những cánh đồng cỏ. Sự kết hợp việc nghiên cứu tư liệu kèm với những
chủ đề được chọn lựa một cách rõ ràng, nhưng loại trừ việc xem lại toàn bộ
mọi yếu tố có liên quan, là điều đặc biệt tệ hại. Với một cơng trình như thế,
A. J. P. Taylor đã để lại cho chúng ta câu nói đáng nhớ, ‘Nó là chín mươi
phần trăm sự thật và một phần trăm vô dụng’.24
Một đáp ứng thận trọng cho những phát triển vừa kể là ủng hộ hệ đa
nguyên trong những diễn giải và ủng hộ ‘sự an toàn của số đơng’ nghĩa là;
khuyến khích sự da dạng của các quan điểm nhằm chống lại sự giới hạn
của từng quan điểm. Chỉ với một quan điểm thơi thì sẽ có nhiều bất trắc.
Nhưng năm mươi hoặc sáu mươi quan điểm - hoặc ba trăm quan điểm - có
thể cùng được kể đến để xây dựng một phức hợp sử dụng được, ‘Khơng
chỉ có một sự thật mà là nhiều sự thật khi chúng mang tính nhạy cảm’.25
Đến một điểm nào đó, cơng việc khó khăn của sử gia cũng tựa như
cơng việc của nhà nhiếp ảnh, mà hình ảnh tĩnh, hai chiều chẳng bao giờ có
thể trình bày một cách chính xác thế giới động, ba chiều. ‘Sử gia, tựa như
cái máy ảnh, luôn thiếu trung thực.’26 Nếu sự so sánh đó được triển khai,
thì ta có thể nói rằng các nhà nhiếp ảnh có thể làm gia tăng sự gần giống
như thật trong tác phẩm của họ - và đó cũng là mục tiêu của tác phẩm bằng cách gia tăng số ảnh chụp về một đề tài. Nhiều bức ảnh được chụp từ
nhiều góc độ khác nhau, với những loại phim, ống kính và kính lọc khác
nhau có thể cũng làm giảm sự chọn lọc thô thiển của một lần chụp duy
nhất. Cũng vậy, ‘lịch sử trung thực’ là điều chỉ có thể tái dựng lại nếu sử
gia biết kiểm tra và so sánh kết quả đạt được từ rất nhiều nguồn khả dĩ.
Hiệu quả sẽ chẳng bao giờ là tồn hảo; nhưng mỗi góc độ và mỗi kỹ thuật

khác nhau đóng góp vào việc soi sáng những phần mà kết hợp lại sẽ thành


một tổng thể.
Méo mó là đặc trưng khơng thể thiếu của mọi nguồn thông tin. Khách
quan tuyệt đối là điều tuyệt đối không thể đạt được. Mọi kỹ thuật đều có
mặt mạnh và mặt yếu. Điều quan trọng là am hiểu cái giá trị và những méo
mó của mỗi kỹ thuật đang nằm ở đâu, và tiến đến một cách hợp lý sự gần
đúng. Có những nhà phê bình đã phản đối việc các sử gia sử dụng thơ ca,
xã hội học hoặc thiên văn học, hoặc bất cứ điều gì khác, vì họ cho rằng
những nguồn tư liệu như thế là có tính ‘chủ quan’ hoặc ‘thiên vị’ hoặc
‘thiếu khoa học’. Họ đã nói điều hiển nhiên, tựa như ta có thể phản đối
những hình chụp X-quang về bộ xương, hoặc những siêu âm nội tạng, vì
chúng cho ra những hình ảnh khơng mấy giống với vẻ bề ngồi của con
người. Các bác sĩ sử dụng mọi phương tiện biết được nhằm khám phá
những bí ẩn của tâm trí và cơ thể. Các sử gia cũng cần một loạt trang bị
tương tự nhằm xâm nhập những bí ẩn của q khứ.
Lịch sử có tính tư liệu - vốn tồn tại lâu dài và được trân trọng - vừa là
những tuyến tiếp cận có giá trị nhất vừa mang nhiều nguy cơ nhất. Nếu xử
lý khơng thận trọng, nó mở ra những loại hình thơ thiển của sự trình bày sai
lạc; và có những lĩnh vực rộng lớn của kinh nghiệm quá khứ mà người ta
không thể ghi lại. Tuy vậy, khơng ai có thể phủ nhận rằng những tư liệu lịch
sử là những nguồn mạch mang nhiều thành quả tri thức nhất.
Huân tước Acton, người thành lập trường phái sử học Cambridge, đã
tiên báo về tác động đặc biệt tai hại của lịch sử có tính tư liệu. Loại lịch sử
này dành ưu tiên cho việc gom góp chúng cứ hơn là quan tâm đến sự giải
thích của sử gia về chứng cứ. Cách nay khoảng chín mươi năm, Acton đã
viết, (chúng ta đang sống) ‘trong thời đại của tư liệu, có khuynh hướng làm
cho lịch sử trở nên độc lập với các sử gia, khuynh hướng phát triển sự hiểu
biết qua sự trả giá của chữ viết.'27



Nói chung, các sử gia đã dành nhiều tư duy cho những cuộc tranh luận
của họ hơn là cho các vấn đề mà từ lâu các độc giả của họ băn khoăn. Việc
đeo đuổi tính khách quan khoa học giúp giảm nhiều những bay bướm của
hoang tưởng thuở trước, và cách ly sự thật với hư cấu. Đồng thời, nó cũng
giảm đi số cơng cụ mà các sử gia có thể sử dụng để chuyển giao những
khám phá của họ. Như vậy, chỉ đủ cho một sử gia tài năng thiết lập các sự
việc và tập trung chứng cứ. Nửa kia của cơng việc là thâm nhập tâm trí
người đọc, vật lộn với mọi khả năng nhận thức bị bóp méo mà tất cả những
người đọc lịch sử đều trang bị. Những khả năng nhận thức đó khơng chỉ
gồm có các giác quan mà cịn cả những lộ trình tri thức phức hợp đã được
định trước, thay đổi từ thuật ngữ, địa danh và những mã có tính biểu tượng,
đến những quan điểm chính trị, những tập quán xã hội, tình cảm, những
niềm tin tơn giáo, ký ức thị giác, và tri thức về lịch sử truyền thống. Mọi
người đọc lịch sử đều có một kho lưu trữ kinh nghiệm đã có trước đó và
qua đó mọi thơng tin về quá khứ nhập vào sẽ được sàng lọc.
Vì lý do này, rằng sử gia có hiệu năng phải thận trọng khi chuyển giao
thông tin của họ, cũng như họ đã cẩn trọng trong sưu tầm và định hình nó.
Ở phần này của cơng việc, họ cũng có những bận tâm tựa như các nhà thơ,
nhà văn và nghệ sĩ. Họ phải để mắt đến các tác phẩm của những người
khác, những người đã giúp nhào nặn và truyền đạt những ấn tượng về quá
khứ của chúng ta - các sử gia nghệ thuật, các nhà âm nhạc học, bảo tàng
học, các chuyên viên lưu trữ, những nhà minh hoạ, những nhà vẽ bản đồ,
những người viết nhật ký và viết tiểu sử, những nhà làm phim, những nhà
ghi âm, những nhà viết tiểu thuyết lịch sử. Ở mỗi giai đoạn thì cái phẩm
chất chủ yếu - như được định nghĩa lần đầu tiên bởi Vico - là ‘trí tưởng
tượng sáng tạo có tính lịch sử’. Khơng có nó thì tác phẩm của sử gia vẫn là
một lá thư không gửi, một thông điệp chưa được phát đi.
Trong cái thời đại được cho là khoa học này thì khía cạnh tưởng tượng



của nghề viết sử dĩ nhiên đã bị giáng cấp. Người ta đã xem trọng thái quá
những báo cáo kinh viện không đọc được và những dữ liệu nghiên cứu khó
có thể tiêu hóa. Những sử gia có trí tưởng tượng trù phú như Thomas
Carlyle khơng chỉ bị phê bình vì mang q nhiều chất thơ mà cịn bị lãng
qn. Tuy vậy, những vững tin của Carlyle về quan hệ giữa lịch sử và thi ca
là điều đáng để chúng ta cân nhắc. Điều quan trọng là chúng ta phải biết rà
sốt và kiểm tra - điều mà đơi khi Carlyle đã thiếu sót. Nhưng ‘nói lên một
điều gì đó là đúng’ cũng là một việc quan trọng. Mọi sử gia hẳn phải nói
lên câu chuyện của họ một cách thuyết phục, bằng không họ sẽ bị ngoảnh
mặt.28
Trong những năm gần đây, ‘trào lưu hậu hiện đại’ là một thú tiêu khiển
cho những ai dành ưu tiên cho nghiên cứu của các sử gia trên về quá khứ.
Điều đó liên quan đến một trào lưu noi theo bước chân của hai triết gia
Pháp là Foucault và Derrida, cơng kích cả những chuẩn mực đã được chấp
thuận của kiến thức lịch sử lẫn những nguyên tắc của phương pháp qui
ước. Ở một tuyến tiếp cận, điều đó dẫn đến việc triệt hạ giá trị của những
nguồn tư liệu theo cách mà những người theo thuyết ‘deconstruction’ tìm
cách tháo dỡ ‘cái ý nghĩa’ của các văn bản văn học. Ở một nơi khác, nó đã
tố giác ‘sự chuyên chế bạo ngược của các sự thật’ và ‘những hệ tư tưởng
chuyên chính’ được cho là ẩn náu phía sau mỗi khối lượng thơng tin. Cực
đoan hơn, nó cho rằng mọi lời tuyên bố về thực tế đã xảy ra đều là ‘cưỡng
ép’. Và trong số những người cung cấp sự cưỡng ép đó có tất cả những sử
gia đang biện luận cho ‘một cam kết về những giá trị của con người’. Dưới
con mắt của những nhà phê bình theo thuyết deconstruction thì lịch sử đã bị
thu hẹp vào ‘trò đùa của các sử gia’ và trở thành một công cụ của những
người cấp tiến đã bị chính trị hố với lịch làm việc của riêng họ. Do khinh
miệt dữ liệu đã được kê ra nên những người theo thuyết deconstruction gợi
ý rằng, việc am hiểu một điều gì đó thì cịn nguy hiểm hơn là chẳng biết



gì.29
Tuy vậy, hiện tượng vừa kể đã khơi dậy nhiều vấn đề hơn là giải quyết
chúng. Nó làm cho người ta thắc mắc tại sao phương pháp biên chép sử tự
do có tính qui ước thì được định nghiã là ‘thuộc phái hiện đại’; và tại sao
cái từ ‘hậu hiện đại’ khơng được dành cho những ai đang tìm cách tạo một
cân bằng giữa cái cũ và cái mới. Chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi
những người theo phái deconstruction bị triệt hạ bởi chính những phương
pháp của họ. ‘Chúng ta đã sống sót sau ‘Cái Chết của Thượng Đế’ và ‘Cái
Chết của Con Người’. Chúng ta chắc chắn sẽ sống sót sau ‘Cái Chết của
Lịch Sử’... và sau cái chết của thuyết hậu hiện đại.’30
Nhưng giờ đây chúng ta hãy trở về với vấn đề mức độ biểu kiến. Bất
kỳ một sự tường thuật nào ghi chép sự kiện lịch sử theo trật tự chúng xảy ra
(biên niên) trong những thời kỳ dài thì được cho là khác với cái tồn cảnh
phối hợp mọi đường nét có liên quan đến một giai đoạn cá biệt hoặc thời
điểm cá biệt. Trong hướng tiếp cận đầu, có tính biên niên, sử gia phải nhấn
mạnh đến những chuyển động và những sự kiện có tính cách tân, tuy khơng
điển hình vào buổi đầu chúng xuất hiện, nhưng sẽ nổi trội vào thời kỳ
muộn hơn. Trong hướng tiếp cận thứ hai, có tính đồng bộ, thì sử gia phải
kết hợp cả cái cách tân lẫn cái truyền thống, và những tương tác của
chúng. Lối tiếp cận thứ nhất thì có nguy cơ sai niên đại, và lối thứ hai thì
có nguy cơ lâm vào sự bất động.
Buổi đầu của châu Âu cận đại đã được dùng như là một trong những
phòng thí nghiệm để giải quyết vấn đề đó. Một khi đã bị thống trị bởi
những sử gia thăm dò những cội nguồi của chủ nghĩa nhân văn. Tin Lành,
chủ nghĩa tư bản, khoa học và nhà nước dân tộc, nó sau đó đã thu hút sự
chú ý của những chuyên gia, những người đã, một cách chính xác, cho thấy
bằng cách nào những yếu tố của các thế giới trung cổ và dị giáo đã sống



còn và phát triển. Một sử gia am tường phải bằng một cách nào đó tạo một
sự cân bằng giữa hai lối tiếp cận vừa kể. Chẳng hạn, khi mô tả về thế kỷ
16, thật là thiếu sáng suốt nếu sử gia dành toàn bộ để viết về những thuật sĩ
luyện kim, những phù thủy và những chuyện hoang đường, cũng như trước
đây người ta chỉ viết về Luther, Copernicus, hoặc sự nổi lên của Nghị viện
England khi mô tả thế kỷ này. Một lịch sử có tính bao qt, tồn diện thì
phải ghi nhận những tranh luận của các chun gia, nhưng đồng thời nó
phải tìm ra một con đường để vươn lên trên những quan tâm đang trôi qua
của họ.
Những khái niệm về châu Âu
‘Châu Âu’ là một ý tưởng tương đối cận đại. Nó đã dần dà thay thế
khái niệm ‘Thế giới Kitơ giáo’ có trước đó, trong một tiến trình tri thức
phức tạp kéo dài từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 18. Tuy vậy, thời kỳ quyết định đã
được đạt đến vào những thập kỷ trước và sau 1700, sau những thế hệ xung
đột tôn giáo. Trong giai đoạn đầu đó của Thời Đại Khai Sáng cái từ ‘Thế
giới Kitô giáo’ gây bối rối cho cộng đồng các quốc gia đã phân ly vì nó
gợi nhớ đến tính đồng nhất Kitơ giáo chung của họ; và cái tên gọi ‘châu
Âu’ đã thỏa mãn nhu cầu của họ vì nó mang những hàm ý khơng thiên vị
một sắc thái riêng nào. Tại phương Tây, những cuộc chiến chống Louis
XIV khiến cho một số nhà văn chính luận kêu gọi phải có hành động chung
cho những phân chia đang nổi cộm vào thời bấy giờ. William Penn (1644 1718) tín đồ giáo phái Quaker và là người thành lập bang Pennsylvania, đã
được nhiều người biết đến do phát biểu công khai ủng hộ một sự khoan
dung phổ quát và một nghị viện châu Âu. Tu viện trưởng bất đồng chính
kiến người Pháp, Charles Castel de St Pierre (1658 - 1743), tác giả của
Projet d’une paix perpétuelle (1713), kêu gọi thành lập một hợp bang gồm
các cường quốc châu Âu nhằm bảo đảm một nền hịa bình trường cửu. Ở



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×