Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

nhận thức về CNXH của ĐCS Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.43 KB, 31 trang )

BÀI BÁO CÁO HỌC PHẦN
CHÍNH TRỊ VIỆT NAM THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

SỰ PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM


STT
1
2
3
4
5
6

TỪ VIẾT TẮT
CNXH
XHCN
TBCN
HTKTXH
TKQĐ
CNH-HĐH

NGHĨA TỪ VIẾT TẮT
Chủ nghĩa xã hội
Xã hội chủ nghĩa
Tư bản chủ nghĩa
Hình thái kinh tế xã hội
Thời kỳ q độ
Cơng nghệ hóa-Hiện đại hóa



BẢNG NHĨM TỪ VIẾT TẮT


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.1

Khái niệm về chủ nghĩa xã hội………………………...………………01

1.2

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam..…...…………………

05
CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1 Sự phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về CNXH của
Việt

Nam

……………………..

……………………………………………………..09
2.1.1 Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội từ khi mới ra
đời……………………………………………………………………………...09
2.1.2 Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội đang trong

giai đoạn khủng hoảng thoái trào …………………...…………………………11
2.2 Sự phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường đi
lên

CNXH

của

Việt

Nam

……………………………………………………...12
2.2.1 Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường đi lên CNXH của
Việt Nam ở thời kỳ trước đổi mới ………………………….………….………12
2.2.2 Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường đi lên CNXH của
Việt Nam ở thời kỳ đổi mới cho đến hiện nay…………………………………14
2.2.3 Nhận thức về thời kỳ quá độ và những đặc điểm của con đường quá độ, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam…………....20
KẾT LUẬN…………………………………………………………………....27
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………....29


CHƯƠNG 1: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.1 Khái niệm về CNXH
Chủ nghĩa xã hội bao gồm các tư tưởng chính trị ủng hộ một hệ thống kinh
tế-xã hội mà trong đó các sở hữu và các tài sản là thuộc quyền điều khiển của tồn
thể cộng đồng nhằm mục đích tiến đến sự công bằng trong xã hội và trong kinh tế
cũng như tiến đến một sự hợp tác tốt hơn.

Theo C.Mác, Ăngghen, chủ nghĩa xã hội là một nấc thang trong q trình
phát triển của xã hội lồi người là một xã hội phát triển cao hơn xã hội tư bản và
thay thế chủ nghĩa tư bản. Hình thái cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ
nghĩa xã hội bắt đầu từ thời kì quá độ. Và dù là quá độ trực tiếp hay gián tiếp thì
cũng đều nằm trong quy luật và xu hướng tất yếu của lịch sử nhân loại.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh Khái niệm chủ nghĩa xã hội mang nhiều ý nghĩa
khác nhau, chủ yếu tập trung vào các nội dung sau:
Chủ nghĩa xã hội như là một phong trào lịch sử mang tính chính trị xã hội;
Chủ nghĩa xã hội là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, ở đây, Hồ Chí Minh hiểu
chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ nghĩa Mác – Lênin; Chủ nghĩa xã hội là giai
đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa; Chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa Cộng sản là một chế độ xã hội đối lập với chế độ tư bản mà hình thức xấu xa
tàn bạo nhất của nó là chủ nghĩa thực dân, cả chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa
thực dân mới.
Trong các nội dung trên, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến nội dung cuối cùng
và đem đến nhiều kiến giải rất độc đáo, mộc mạc dễ hiểu mang tính phổ thông đại
chúng để mọi tầng lớp nhân dân ta có thể hiểu được, nhận thức đúng để hành động
đúng đắn và thiết thực. Có thể nêu một số kiểu định nghĩa thường gặp trong tư
tưởng Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội như là một chế độ xã hội hoàn chỉnh, bao
gồm nhiều mặt khác nhau của đời sống, là con đường giải phóng nhân loại cần lao,
áp bức. Hồ Chí Minh cho rằng, “chỉ có chủ nghĩa Xã Hội mới cứu nhân loại, đem
1


lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc tự do, bình đẳng, bác ái,
đồn kết, ấm no trên trái đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui,
hịa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hịa thế giới chân chính, xóa bỏ những
biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những bức tường dài ngăn cản người
lao động trên thế giới hiểu nhau và thương yêu nhau”. Hoặc dưới dạng tổng hợp
hơn “muốn cho chủ nghĩa Cộng sản thực hiện được cần phải có cơng nghệ, đất

nơng nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình”.[1]
Theo Hồ Chí Minh, chủ thể xây dựng CNXH là “những con người mới
XHCN”. Đó là những con người “có tư tưởng và tác phong XHCN”, “có ý thức
làm chủ Nhà nước”, “thấm nhuần sâu sắc tinh thần tập thể XHCN và tư tưởng mình
vì mọi người, mọi người vì mình”, “chăm lo việc nước như chăm lo việc nhà”,
“biết tự mình lo toan, gánh vác, khơng ỷ lại, không ngồi chờ, đùn đẩy công việc”;
đồng thời, phải biết “thắng được chủ nghĩa cá nhân, lợi mình hại người, tự do vô tổ
chức, vô kỷ luật và những tính xấu khác”, bởi nó là “kẻ địch nguy hiểm của
CNXH”[2]. Người còn chỉ rõ: CNXH là “do nhân dân tự xây dựng lấy”, “muốn xây
dựng CNXH thì khơng có cách nào khác là phải dốc lực lượng của mọi người ra để
sản xuất... Muốn phát triển sức sản xuất thì trước hết phải nâng cao năng xuất lao
động và muốn nâng cao năng suất lao động thì phải tổ chức lao động cho tốt” [3].
Đây chính là một trong những tư tưởng đặc sắc, quan trọng nhất trong hệ thống tư
tưởng văn hóa Hồ Chí Minh.
Trên nền tảng lý luận Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Cách
mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) là cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để nhất, chưa
từng có trong lịch sử nước nhà. Nhưng, “nói một cách đơn giản và dễ hiểu là:
CNXH không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước
1[] Báo Đồng Khởi, (1/10/2017), Quan niệm Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa Xã Hội
2[] Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3
3[] Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3
2


hết là nhân dân lao động”, để “ai cũng được làm việc, được ăn no mặc ấm, được
học hành, người già yếu được giúp đỡ, các cháu bé thì được chăm sóc”

[4]

. Người


cũng chỉ rõ: “Trong sự nghiệp xây dựng CNXH, chúng ta nhất định có những khó
khăn. Biến đổi một xã hội cũ thành một xã hội mới, không phải là một chuyện dễ”
[5]

. Điều lớn lao nhất của cách mạng XHCN là phải xây dựng được nền tảng, vật

chất của CNXH. Mà muốn xây dựng được nền tảng, vật chất cho CNXH, điều quan
trọng nhất lại phải có những con người XHCN theo cách nói của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Vì ý nghĩa đó, trong q trình lãnh đạo cách mạng gắn với CNXH, Hồ Chí
Minh và Đảng ta luôn quan tâm đến chủ thể xây dựng CNXH.
Theo Hồ Chí Minh, xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội ở giai đoạn đầu của xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Tuy còn tồn đọng tàn dư của quá khứ nhưng xã hội xã hội
chủ nghĩa khơng cịn áp bức, bốc lột, do nhân dân lao động làm chủ, trong đó con
người sống ấm no, tự do, hạnh phúc; quyền lợi của cá nhân và tập thể vừa thống
nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau.[6]
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng viết rằng: “Chúng ta cần một xã hội mà
trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ khơng phải vì lợi nhuận mà bóc
lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi
với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo
và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn
nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công,
"cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta
cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống
trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm
đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta
4[] Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3
5[] Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3
6[] Bộ Giáo dụ và Đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3



cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và
phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ khơng phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải
chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã
hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và
nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi”.[7]
Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tổng kết thực tiễn quá
trình cách mạng Việt Nam, nhất là trong ba mươi lăm năm đổi mới, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã hình thành một quan niệm tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa: “Xã
hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hố tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đồn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Việc hình thành những quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên
chủ nghĩa xã hội là cơng việc rất khó khăn. Mơ hình xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa chưa có trong thực tiễn lịch sử, đặc biệt đối với nền kinh tế chưa phát triển
như nước ta.
1.2 Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Ngay từ khi ra đời (2 - 1930), Đảng ta đã xác định rõ ràng và dứt khoát con
đường phát triển của cách mạng Việt Nam, là con đường XHCN. Lãnh tụ
Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn có ý nghĩa rất quan trọng, từ việc đưa ra quan
7[] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. ngày 16/5/2021.
4



niệm, phương châm, phương pháp, đến việc chuẩn bị những điều kiện để tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh chính trị đầu tiên được hội nghị thành lập Đảng (2 1930) thông qua đã nêu rõ mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm
cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, “để đi tới xã hội cộng sản”. Luận cương
chính trị tháng 10/1930 nhấn mạnh con đường phát triển của cách mạng Việt Nam
“bỏ qua thời kỳ tư bản mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”. Sự lựa
chọn con đường XHCN đã rõ ràng và dứt khoát ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời. Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội
hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa khơng
cịn, phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất
nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: "Đảng và nhân
dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh". Thực tiễn lịch sử
cũng đã chứng minh, nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách
mạng lâu dài, gian khổ, hy sinh chống lại sự cường quyền, áp bức của các thế lực
ngoại xâm để giành và giữ nền độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Đường lối xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH”. Ngay
trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú trọng “Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” cũng đã
viết: Chỉ có CNXH mới có thể giải quyết căn cơ vấn đề độc lập cho dân tộc và cuộc
sống tự do, hạnh phúc cho số đông nhân dân. Thực tiễn Việt Nam, từ khi có Đảng
Cộng sản, có Nhà nước XHCN, nhất là 35 năm đổi mới đã chứng minh điều
này.Tuy nhiên, đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó là điều mà chúng ta ln
ln trăn trở, suy nghĩ, tìm tịi, lựa chọn để từng bước hồn thiện đường lối, quan
điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp
với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới,
từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước
5



nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về CNXH và thời kỳ quá độ đi lên
CNXH; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất
mục tiêu cuối cùng của CNXH với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh
một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu
cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại
của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng
nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...
Theo Lênin, đi lên CNXH là “điều không tránh khỏi” đối với tất cả các quốc
gia. Tuy nhiên, đi lên CNXH như thế nào, bằng con đường nào thì mỗi quốc gia
cũng “hồn tồn khơng giống nhau”. Phải kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù để
tìm ra con đường, cách thức xây dựng CNXH vừa đúng với quy luật chung, vừa
phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia. Theo đó, đi lên chủ nghĩa xã hội,
nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ là một tất yếu nhằm chuẩn bị mọi điều
kiện vật chất, kỹ thuật, đời sống tinh thần của chủ nghĩa xã hội, tạo sự biến đổi về
chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là thời kỳ khó khăn, phức tạp,
đối với những nước có điểm xuất phát thấp thì cịn khó khăn, phức tạp hơn nhiều
lần. Do vậy, Việt Nam đi lên CNXH “nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự
đấu tranh giữa cái cũ và cái mới” [8]. Đồng thời, đi lên CNXH “bỏ qua chế độ
TBCN” cũng là phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử lồi người, khơng phải
là “dị biệt”. Tuy nhiên, phải hiểu đầy đủ, thực chất của nội dung “…bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa”, là bỏ qua cái gì, khơng bỏ q cái gì. Điều này ở Việt Nam chỉ
thực sự được làm rõ trong thời kỳ đổi mới. Tại Đại hội lần thứ IX (2001), lần đầu
tiên, Đảng ta có quan điểm mới, rõ ràng về vấn đề “bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa”. Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
8[] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. ngày 16/5/2021.
6



quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”. Nghĩa là không để
cho các yếu tố của chủ nghĩa tư bản “giữ vị trí thống trị”. Có như vậy, mới khắc
phục được “tình trạng áp bức, bất cơng, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những
thói hư, tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội
chủ nghĩa “Tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ
tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng
sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Như vậy, “bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa” chứ “không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại
đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản”. “Nói bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất cơng, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua
những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị khơng phù hợp với chế độ
XHCN, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại
đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa
những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển” [8]. Để
thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta phải: Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây
dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội;
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hịa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây
dựng nền dân chủ XHCN, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,
kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh toàn diện.

7



CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1 Sự phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về CNXH của Việt
Nam
2.1.1 Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về CNXH từ khi mới ra
đời
Mục tiêu cách mạng mà Đảng đề ra trước hết là giành lại độc lập cho dân
tộc, ruộng đất cho nông dân. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 do Đảng Cộng sản
và lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo đã xóa bỏ chế độ thuộc địa, chấm dứt chế độ
phong kiến, mở ra thời đại mới của dân tộc Việt Nam, thời đại dân tộc độc lập,
nhân dân được làm chủ xã hội và cuộc sống, xây dựng xã hội tốt đẹp vì ĐỘC LẬP TỰ DO - HẠNH PHÚC.
Sau Cách mạng Tháng Tám, thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam,
nhiệm vụ giải phóng dân tộc vẫn là vấn đề sống cịn và vì vậy mục tiêu tiến lên
CNXH vẫn chưa thể đặt ra trực tiếp, mà phải vừa kháng chiến vừa kiến quốc.
Trong nhiệm vụ kiến quốc, Đảng và Chính phủ chú trọng phát triển chế độ dân chủ
nhân dân tạo những tiền đề, mầm mống tiến tới CNXH khi kháng chiến thắng lợi.
Năm 1946, trong chuyến thăm chính thức nước Pháp, khi trả lời các nhà báo, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ quan điểm: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu
một chủ nghĩa. Riêng tơi, tơi đã nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác... Muốn cho chủ
nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ thuật, nông nghiệp và tất cả mọi
người đều được phát triển hết khả năng của mình. Ở nước chúng tơi, những điều
kiện ấy chưa có đủ”. Những điều kiện cần thiết chưa có đủ địi hỏi trên con đường
phát triển theo định hướng XHCN, Đảng và chính quyền cách mạng phải cùng với
toàn dân chủ động tạo dựng những điều kiện: phát triển kỹ thuật tức lực lượng sản
xuất hiện đại để phát triển cơng nghiệp, nơng nghiệp ở trình độ cao, đặc biệt là
8



nhân tố con người, phải nâng cao dân trí, xây dựng con người phát triển tồn diện
có trí tuệ và năng lực tự giác xây dựng một xã hội mới.
Luận cương cách mạng Việt Nam được Đại hội II của Đảng (2-1951) thông
qua đã xác định phương hướng rõ ràng là: hồn thành giải phóng dân tộc, phát triển
dân chủ nhân dân, tiến tới CNXH. Luận cương nêu rõ: “Nhiệm vụ trung tâm của
Đảng là đẩy mạnh việc kỹ nghệ hóa, phát triển kỹ nghệ nặng, phát triển thật rộng
bộ phận kinh tế Nhà nước, tập thể hóa nơng nghiệp dần dần, thực hiện những kế
hoạch dài hạn để gây thêm và củng cố cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, đặng tiến lên
thực hiện chủ nghĩa xã hội. Những bước cụ thể của giai đoạn này phải tùy theo điều
kiện cụ thể của tình hình trong nước và ngồi nước khi đó mà quyết định. Song một
điều chắc chắn là chừng nào ta chưa chuẩn bị cơ sở kinh tế đầy đủ và chưa làm cho
số đông quần chúng nhân dân nhận rõ chủ nghĩa xã hội là cần thiết, thì chủ nghĩa
đó chưa thể thực hiện được. Ở nước ta, thời gian chuẩn bị đó, so với các nước dân
chủ nhân dân khác, nhất định sẽ lâu hơn, vì ta phải kiến quốc trên cơ sở một nước
nơng nghiệp lâu năm bị đế quốc thống trị, tàn phá”.
Những điều kiện để tiến lên CNXH mà Hồ Chí Minh và Đại hội II của Đảng
nêu ra phản ánh sự nhận thức đúng đắn về CNXH từ thực tiễn Việt Nam có ý nghĩa
chỉ đạo thực tiễn.
Sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc (1954-1975) và trên cả nước sau
năm 1975 đã bước đầu tạo dựng một xã hội mới với bản chất tốt đẹp và sức mạnh
về mọi mặt bảo đảm giành thắng lợi trong đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất
đất nước và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đó là điều khơng thể phủ nhận. Tuy vậy, trong
cách mạng XHCN cũng đã phạm phải sai lầm, khuyết điểm trong chính sách kinh
tế, xã hội dẫn tới khủng hoảng từ năm 1979. Đảng đã kịp thời tự phê bình và chỉ ra
những nguyên nhân cần phải khắc phục, đó là bệnh nóng vội, chủ quan, duy ý chí,
giáo điều, chưa nắm vững hoàn cảnh, đặc điểm thực tiễn đất nước, chưa nhận thức
rõ quy luật khách quan. Đảng đã từng bước đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy
kinh tế, từng bước sửa đổi cơ chế chính sách cho phù hợp, phát huy tính tích cực
9



của các thành phần kinh tế, của cơ chế thị trường, chú trọng lợi ích của người lao
động, sửa đổi cách thức quản lý nặng về tập trung, hành chính, bao cấp cản trở
những động lực của sự phát triển.
2.1.2 Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội đang
trong giai đoạn khủng hoảng thoái trào
Như chúng ta đã biết, cho đến trước khi tiến hành cơng cuộc đổi mới tồn
diện đất nước, Việt Nam đã trải qua chặng đường hơn 10 năm xây dựng chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi cả nước. Ban đầu, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội theo
mơ hình Xơ Viết ở miền Bắc cũng đã đạt được những kết quả nhất định và có đóng
góp quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tuy nhiên,
do nhiều nguyên nhân khác nhau cả chủ quan lẫn khách quan, mơ hình chủ nghĩa
xã hội đã khơng diễn ra như mong muốn. Trái lại, vào giai đoạn cuối những năm 70
đầu những năm 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế - xã hội nước ta rơi vào tình trạng
khủng hoảng, lạm phát, đời sống nhân dân hết sức khó khăn.
Trước tình hình đó, với tinh thần ''nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật, nói rõ sự thật'', Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nghiêm túc phê
bình và tự phê bình. Đại hội VI là mốc quan trọng đánh dấu đường lối đổi mới toàn
diện của Đảng, mở ra một giai đoạn phát triển mới của đất nước trong tiến trình xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện
thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa khơng cịn,
phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào giai đoạn khủng hoảng, thối trào, gặp rất
nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: "Đảng và nhân
dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh".
“Trước đây, khi cịn Liên Xơ và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới
thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như khơng có gì phải bàn, nó
mặc nhiên coi như đã được khẳng định”. Nhưng đứng trước tình hình cải tổ của
10



Liên Xơ có những biểu hiện chệch hướng XHCN, Đảng ta sớm nhận ra phải xây
dựng một mơ hình CNXH Việt Nam. Sự sụp đổ của mơ hình CNXH ở Liên Xô và
các nước Đông Âu là do những hạn chế, yếu kém kéo dài không được khắc phục,
do sai lầm trong nhận thức và lãnh đạo, quản lý không được sửa chữa và nhất là do
sự tấn công trực diện của các thế lực thù địch và phản bội. Cũng chính từ thất bại
và tổn thất to lớn đó là bài học để các Đảng Cộng sản, các nước kiên định con
đường XHCN, trong đó có Việt Nam phải không ngừng đổi mới tư duy lý luận và
tổng kết thực tiễn để tìm ra quy luật phát triển riêng. Kiên định, trung thành với lý
luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng phải khơng ngừng đổi mới và phát
triển sáng tạo mới thành công.
2.2 Sự phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường đi lên
CNXH của Việt Nam
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
đã trải qua một quá trình lâu dài và khơng đơn giản. Trong q trình đó Đảng Cộng
sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
tham khảo kinh nghiệm quốc tế, xuất phát từ thực tiễn đất nước, có nhiều tìm tịi,
sáng tạo trong nhận thức lý luận, nhất là trong thời kỳ đổi mới. Công cuộc đổi mới
ở Việt Nam đã diễn ra gần 35 năm, đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử. Một trong những thành tựu to lớn là Đảng và nhân dân ta nhận thức về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng rõ hơn.
2.2.1 Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường đi lên
CNXH của Việt Nam ở thời kỳ trước đổi mới
Trước đổi mới, tức là trước Đại hội VI (năm 1986) trở về trước, quan niệm
về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta chịu ảnh hưởng của mơ hình Xơ
Viết. Đây cũng là tình hình chung trong tất cả các nước trong hệ thống XHCN.
Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng
cộng sản Việt Nam luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của
Đảng cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách

11


quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930, trong cương lĩnh
chính trị của mình, Đảng cộng sản Việt Nam đã tiến hành chủ trương cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, “bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa mà tranh đấu thẳng lên
con đường xã hội chủ nghĩa” . Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, đó là điểm nổi
bật, xuyên suốt và chủ đạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Độc lập dân tộc là điều
kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc
lập dân tộc.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tiếp theo là thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh
liệt để giải phóng dân tộc bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và
mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả
nước đi lên CNXH đã khẳng định lựa chọn này là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với
điều kiện Việt Nam.
Từ đó đến nay, Đảng ta đã kiên trì với sự lựa chọn lịch sử đó. CNXH vẫn là
mục tiêu, lý tưởng khơng thay đổi của cách mạng Việt Nam.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc được giải phóng và đi lên CNXH,
miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối cách mạng
XHCN đã bước đầu hình thành. Đại hội III của Đảng (năm 1960) đánh dấu một
mốc lịch sử quan trọng: vạch ra con đường tiến lên CNXH ở miền Bắc và con
đường giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Đại hội đã xác định đường lối
chung của Đảng trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở miền Bắc: Đoàn kết toàn dân,
phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống phấn đấu anh dũng và lao động cần cù
của nhân dân ta, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH,
xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở
vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà, góp phần
tăng cường sức mạnh khối XHCN, bảo vệ hịa bình ở Đông Nam Á và thế giới…
Đến Đại hội IV của Đảng (năm 1976), với khí thế của người chiến thắng, Đảng ta

đã đề ra đường lối đẩy nhanh quá trình đi lên CNXH trên phạm vi cả nước. Đại hội
12


IV cũng xác định đường lối chung cách mạng XHCN ở nước ta là: nắm vững
chun chính vơ sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH; xây
dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN, xây dựng nền sản xuất lớn XHCN, xây dựng
nền văn hóa mới, con người mới XHCN; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa
bỏ nghèo nàn lạc hậu…; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hịa bình, độc lập,
thống nhất và XHCN; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới
vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hôi.
2.2.2 Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường đi lên
CNXH của Việt Nam ở thời kỳ đổi mới cho đến hiện nay
Đại hội VI đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong tư duy lý luận của
Đảng, mở đầu quá trình đổi mới và sự hình thành nhận thức mới của Đảng về chủ
nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta thông qua đổi mới, như một cuộc cải biến cách mạng lâu
dài, toàn diện, sâu sắc và triệt để, có kế thừa và có phát triển. Đại hội VI đã đưa ra
quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc: Nhất thiết phải
theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp. Phải xuất phát từ thực tế
của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều
thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả 3 mặt xây dựng chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.
Bước vào thời kỳ đổi mới, qua các kỳ đại hội, nhận thức về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã ngày càng sáng tỏ hơn. Những điểm mới trong
nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta
thời kỳ đổi mới đã cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý báu thể hiện trên những nét

căn bản sau:
13


Đại hội VII là vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ
nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp
tục khẳng định: "Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo
con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh". Đại hội VII, trên cơ sở tổng kết thực tiễn 5 năm đầu của đổi mới đã
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong văn kiện quan trọng này, câu trả lời “chủ nghĩa xã hội là gì?” xã hội xã hội
chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là một xã hội như thế nào? Đã lần đầu tiên được
đề cập tới một cách có hệ thống dưới hình thức luận đề, xác định 6 đặc trưng của xã
hội xã hội chủ nghĩa và bảy phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Những đặc trưng đó vừa thể hiện tính phổ biến theo học thuyết Mác - Lênin về chủ
nghĩa xã hội, vừa thể hiện tính đặc thù dân tộc, có tính đến đặc điểm của thời đại.
Nhận thức 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa trước hết là nhận thức được
những thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội. Bản chất ấy cũng đồng thời nói lên
những mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội vươn tới. Xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như toàn bộ tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta là từng bước đạt tới cái chất và mục tiêu ấy của chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở đó Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII (1991) ra đời và đề ra mơ hình CNXH
Việt Nam gồm sáu đặc trưng. Một trong những nét mới trong tư duy đổi mới là
Đảng khẳng định đường lối đối ngoại hịa bình, hữu nghị, hợp tác. Xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là một xã hội có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Phát triển tư tưởng đó, từ sau Đại hội
VII, Đảng ta nhất quán với chủ trương đoàn kết, hợp tác, hữu nghị và hịa bình để
phát triển, Việt Nam mong muốn là bạn của tất cả các nước, sẵn sàng hợp tác song
phương và đa phương.

Như vậy, có thể khẳng định rằng, mơ hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta được xác định ngày càng rõ hơn và ngày càng được hiện thực hóa
14


trong cuộc sống. Có thể thấy rằng, sự nhận thức về mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa
của Đảng ta là một quá trình, vừa là sự phản ánh, tổng kết kinh nghiệm vừa là quá
trình vươn lên định hướng cho thực tiễn đổi mới. Từ những phác thảo đầu tiên được
thể hiện trong Cương lĩnh năm 1991, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và
nhân dân ta phấn đấu xây dựng gồm 6 đặc trưng.
Đại hội VIII của Đảng nhận định nước ta đã kết thúc chặng đường đầu tiên
và bắt đầu bước vào chặng đường tiếp theo của thời kì quá độ đi lên CNXH với nội
dung trọng tâm là đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Đại hội IX sau 15 năm đổi mới, Đảng ta có bước phát triển mới về nhận thức
bỏ qua chế độ TBCN “tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa
học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế
hiện đại”. Từ sau ĐH IX, Đảng ta đã hình thành nhận thức, coi phát triển kinh tế là
trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt và coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội.
Đại hội X Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
(Bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ
quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội
với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để
nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”. Từ
những bài học và kinh nghiệm thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối
đổi mới, Đảng ta đã có nhận thức sâu sắc hơn về bản chất, đặc trưng của CNXH, ở
Đại hội lần thứ X xác định và xây dựng 8 đặc trưng cơ bản. Đảng cũng nêu ra nhận
định ở Đại hội X là “nhận thức của chúng ta về CNXH và con đường đi lên CNXH

ngày càng sáng tỏ hơn, hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội
XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ
bản nhất”.
15


Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, từ việc tổng kết thực tiễn công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ
sung, phát triển nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện ở 8
phương hướng cơ bản nhằm thực hiện thành công mục tiêu tổng quát khi kết thúc
thời kỳ quá độ là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội và
kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để đưa Việt
Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Trên cơ sở phân tích thực tiễn cách mạnh Việt Nam, nhận định về bối cảnh
thời đại, Đại hội XI của Đảng (2011) một lần nữa tiếp tục khẳng định: “Theo quy
luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”. Đại hội
đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Tiếp tục khẳng định đường lối phát triển của đất
nước, Đại hội XII của Đảng làm rõ thêm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam; chỉ rõ “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn
của Đảng cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát
triển của lịch sử”.
Qua quá trình bổ sung, phát triển từ Đại hội VIII đến đại hội XI của Đảng,
đặc biệt Đại hội X đã bổ sung vào mơ hình chủ nghĩa xã hội thêm hai đặc trưng
mới. Đến Cương lĩnh bổ sung, phát triển 2011, Đảng ta đã nhận thức rõ hơn về mơ
hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với tám đặc trưng với một số nhận thức mới hơn
so với tám đặc trưng ở Đại hội X đã đề ra. Đến đây, mơ hình chủ nghĩa xã hội ở
nước ta đã được định hình rõ nét.
Đại hội XII và nhiều nghị quyết của Đảng đã tiếp tục cụ thể hóa, phát triển
các phương hướng cơ bản được nêu trong Cương lĩnh

-

Nhận thức cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước một cách tồn diện hơn:

cơng nghiệp hóa gắn hiện đại hóa; gắn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển
kinh tế tri thức, tức là phù hợp xu thế phát triển của nhân loại
16


- Xác định rõ hơn phương hướng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
- Phương hướng xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cũng như
mối liên hệ giữa xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với xây dựng
con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được
xác định rõ hơn.
- Xác định gắn kết nhiệm vụ quốc phòng, an ninh quốc gia với nhiệm vụ giữ
vững chế độ, bảo vệ Đảng, giữ vững an toàn, trật tự xã hội, văn hóa.
- Đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết trong đối ngoại.
- Chuyển “dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của công cuộc đổi
mới” thành “dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của phát triển đất
nước”.
Tính chất pháp quyền xã hội chủ nghĩa được khẳng định trong phương
hướng xây dựng Nhà nước ở Việt Nam. Coi xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trên tất cả các mặt
lập pháp, hành pháp, tư pháp và xây dựng đội ngũ công chức là nhiệm vụ trọng tâm
của đổi mới hệ thống chính trị.
Khẳng định và kiên định, kiên trì nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đại hội XII nêu rõ sức mạnh của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền
của đất nước được giữ vững. Quan hệ đối ngoại rộng mở và đang đi vào chiều sâu,

vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày một nâng cao. Đó là tiền đề
quan trọng để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ,
phát triển sáng tạo, để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việt
Nam kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, là một hình mẫu đặc thù của
chủ nghĩa xã hội với điểm xuất phát thấp và phải gánh chịu hậu quả chiến tranh
nặng nề. Mỗi nhiệm kỳ đại hội của Đảng là một chặng đường, xác định đúng mục
17


tiêu, nhiệm vụ và kết quả đạt được của nhiệm kỳ trước tạo tiền đề phát triển cho
nhiệm kỳ sau.
Đại hội XIII của Đảng, tháng 1-2021 tuy Đảng ta không bổ sung thêm đặc
trưng nào nhưng lại thể hiện khá rõ nét sự phát triển nhận thức lý luận về sự thống
nhất biện chứng giữa mơ hình CNXH với cách thức xây dựng xã hội chủ nghĩa và
mục tiêu cần hướng tới. (1) Có nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững; (2) Có thể
chế chính trị khoa học, dân chủ, văn minh, trong đó con người được tự do phát triển
toàn diện; (3) Độc lập, chủ quyền được đảm bảo; (4) Hịa bình, hữu nghị, hợp tác
cùng phát triển là giá trị cao nhất của CNXH.
Cụ thể:
Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững
Đại hội XIII của Đảng xác định định hướng thứ nhất là: “Tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vữngvề kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội, mơi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn,
vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát
triển nhanh và bền vững đất nước”[9]
Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài
Phát triển con người gắn kết chặt chẽ với xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnh, khơng ngừng cải

thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phịng, chống và giảm
nhẹ thiên tai, dịch bệnh
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế tồn diện, sâu rộng, có hiệu quả
9[] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia,
Hà Nội 2008.
18


Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường công khai, minh bạch, trách
nhiệm giải trình, kiểm sốt quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt
động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức”. Đây khơng chỉ là định
hướng, mà cịn chính là những giải pháp hợp lý, những yêu cầu mới đặt ra giúp cho
việc xây dựng, củng cố, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Những thành tựu to lớn ấy có được là do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
2.2.3 Nhận thức về thời kỳ quá độ và những đặc điểm của con đường
quá độ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Tính tất yếu của thời kì quá độ lên CNXH được lý giải từ các căn cứ sau đây:
Một là, CNTB và CNXH khác nhau về bản chất. CNTB được xây dựng trên
cơ sở chế độ tư hữu TBCN về các tư liệu sản xuất; dựa trên chế độ áp bức và bóc
lột. CNXH được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu,
tồn tại dưới 2 hình thức là nhà nước và tập thể; khơng cịn các giai cấp đối kháng,
khơng cịn tình trạng áp bức, bóc lột. Muốn có xã hội như vậy cần phải có một thời
kỳ lịch sử nhất định.
Hai là, CNXH được xây dựng trên nền sản xuất đại cơng nghiệp có trình độ
cao. Quá trình phát triển của CNTB đã tạo ra cơ sở vật chất – kỹ thuật nhất định
cho CNXH, nhưng muốn có cơ sở vật chất – kỹ thuật đó cần phải có thời gian tổ
chức, sắp xếp lại. Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình CNH tiến lên
CNXH, TKQĐ cho việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho CNXH có thể kéo

dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành CNH XHCN.
Ba là, các quan hệ xã hội của CNXH khơng tự phát nảy sinh trong lịng
CNTB, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo XHCN. Sự phát triển
của CNTB dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những điều kiện, tiền đề cho
sự hình thành các quan hệ xã hội XHCN, do vậy cũng cần phải có thời gian nhất
định để xây dựng và phát triển các quan hệ đó.
19


Bốn là, công cuộc xây dựng CNXH là một công việc mới mẻ, khó khăn và
phức tạp, cần phải có thời gian để giai cấp công nhân từng bước làm quen với
những cơng việc đó. Thời kì q độ là thời kì lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi
lên CNXH cũng đều phải trải qua ngay cả đối với những nước có nền kinh tế phát
triển. Con đường phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở
Việt Nam mà chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn là con đường phát triển
rút ngắn theo phương thức quá độ gián tiếp. Đó là con đường phát triển tất yếu
khách quan, hợp quy luật theo tiến trình phát triển lịch sử tự nhiên của Cách mạng
Việt Nam vì:
là do bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ: thế giới bước vào thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư
bản (CNTB) lên CNXH. CNTB lúc đó là xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay
muộn cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai
đoạn đầu là giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa. CNTB khơng phải là tương lai của
lồi người, nó khơng vượt qua những mâu thuẫn mà mâu thuẫn cơ bản nhất là mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; mâu thuẫn này càng ngày càng
phát triển gay gắt và sâu sắc hơn; CNXH mà con người đang vươn tới là hình thái
kinh tế xã hội cao hơn CNTB đó là xã hội vì sự nghiệp giải phóng con người, sự
phát triển tự do và toàn diện của loài người.
Nhận thức rõ về thời kỳ quá độ lên CNXH và bỏ qua chế độ TBCN
trong thời kỳ quá độ lên CNXH
Tiền đề khách quan, chủ quan để Việt Nam bỏ qua tư bản chủ nghĩa lên chủ

nghĩa xã hội:
Cũng như lịch sử xã hội lồi người nói chung, trong thời đại ngày nay, việc
bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN quá độ lên CNXH ở Việt Nam là hoàn toàn phù
hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Điều đó được quy định bởi:
Một là, trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể hiện nay nước ta có những điều kiện
khách quan bên ngoài và bên trong để quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.
20


Điều kiện bên ngoài là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ làm cho lực lượng sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ
cao, đã mở đầu giai đoạn mới của q trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách
mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo điều kiện hiện thực để nước ta có thể tranh thủ
vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới cho sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nếu chúng ta thực hiện hiệu quả phương châm
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Trong điều kiện kinh
tế thế giới có bước nhảy vọt về cơ sở vật chất - kỹ thuật, xã hội lồi người địi hỏi
phát triển lên một xã hội mới của nền văn minh cao hơn - đó là nền văn minh của
kinh tế tri thức. Do đó, quá độ lên CNXH là con đường phát triển hợp quy luật
khách quan. Sau CNTB nhất định phải là một chế độ xã hội tốt đẹp hơn - chế độ
XHCN. Bối cảnh, điều kiện quốc tế mới nêu trên đã tạo khả năng để Việt Nam
chúng ta thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.
Điều kiện bên trong là nước ta đã giành được độc lập dân tộc, có chính quyền
của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo. Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, đặc biệt là những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi
tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu
nhập trung bình, đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế
rộng rãi, có vị thế quốc tế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Đây
là điều kiện tiên quyết, quyết định con đường quá độ lên CNXH ở nước ta.

Thời kỳ quá độ là thời kỳ mà trình độ phát triển kinh tế - xã hội chưa vượt
hồn tồn khỏi tiến trình phát triển của CNTB, tiến trình đó phải được tiếp tục đẩy
mạnh dưới chính quyền của nhân dân, mà hình thức thích hợp nhất là CNTB nhà
nước và kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước XHCN theo định hướng
XHCN. Đó cũng là tư tưởng cốt lõi của Chính sách kinh tế mới (NEP) trong TKQĐ
lên CNXH do Lê-nin vạch ra.
21


Hai là, hai xu hướng phát triển khách quan của nền kinh tế nước ta và sự
lựa chọn một trong hai xu hướng đó. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước, từ nền nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nền kinh tế
nước ta nảy sinh một yêu cầu khách quan là: chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế
hàng hóa và thúc đẩy sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển lên thành sản xuất lớn dựa
trên cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Để đáp ứng yêu cầu khách quan đó, nền
kinh tế nước ta chứa đựng trong mình hai khả năng phát triển, hai xu hướng vận
động. Và nền kinh tế nước ta có thể lựa chọn một trong hai hướng sau đây:
Hướng thứ nhất, để nền kinh tế phát triển tự phát chuyển thành nền kinh tế
TBCN, trên cơ sở phân hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ, do tác động của
quy luật giá trị. Nhưng, đi theo hướng này, CNTB ra đời, sẽ dẫn đến những hậu quả
sau: Chính quyền do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã phải tốn bao xương máu mới giành được, sẽ bị mất; và chính nhân dân lao
động lại rơi xuống địa vị người làm thuê và bị bóc lột. Đi theo con đường TBCN
thì khơng thể thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Chúng ta không đi theo con đường TBCN vì thời đại ngày nay không
phải là thời đại của CNTB, mặc dù CNTB đang có sự điều chỉnh để thích nghi với
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhưng CNTB vẫn không thể khắc phục
được những mâu thuẫn, bất công xã hội thuộc về bản chất của chế độ TBCN. Theo
quy luật phát triển của lịch sử thì CNTB khơng thể khơng bị phủ định. Đó là xu thế
khách quan. CNTB là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng

phải được thay thế bằng một chế độ xã hội mới, phát triển ở trình độ cao hơn, với
giai đoạn đầu là CNXH. Với sự phát triển mạnh mẽ của tồn cầu hóa, chính CNTB
cũng đã và đang tạo ra những tiền đề vật chất - kỹ thuật để chuyển sang CNXH.
Hướng thứ hai, là thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN dựa trên
cơ sở củng cố chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; dựa vào khối
liên minh cơng - nơng - trí thức để tổ chức và huy động mọi tiềm lực của các tầng
lớp nhân dân, tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh
22


×