Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Tiểu luận phân tích và đánh giá hệ thống quy phạm pháp luật luật thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.25 KB, 32 trang )

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

MÔN HỌC: LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI: HÃY NÊU VÀ PHÂN TÍCH HỆ THỐNG QUY PHẠM
PHÁP LUẬT LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

Sinh viên thực hiện:
Mã sinh viên:
Lớp: Luật Thương mại quốc tế

Hà Nội, 2022


MỤC LỤC
MỤC LỤC

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài tiểu luận
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3. Phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Kết cấu của tiểu luận

1
1
2
2
2


3

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LUẬT THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ
1.1 Khái niệm luật Thương mại quốc tế
1.2 Chủ thể của luật thương mại quốc tế
1.2.1 Thương nhân
1.2.2 Quốc gia và các chủ thể khác
1.3 Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật thương mại quốc tế

3
3
4
5
8
9

CHƯƠNG 2: HỆ THỐNG QUY PHẠM LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
12
2.1 Hệ thống quy phạm pháp luật quốc gia
12
2.2 Hệ thống quy phạm pháp luật quốc tế
17
2.2.1 Điều ước quốc tế
17
2.2.2 Tập quán pháp quốc tế
21
2.2.3 Án lệ quốc tế
25
CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG MẠI

QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
26
3.1 Thành công trong quy định pháp luật về thương mại quốc tế của Việt
Nam
26
3.2 Hạn chế trong quy định pháp luật về thương mại quốc tế của Việt Nam 26
3.3 Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật
27
KẾT LUẬN

28

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

29

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài tiểu luận
Thương mại quốc tế đã trở thành một lĩnh vực quan trọng tạo điều kiện cho
các nước tham gia trao đổi, bn bán, khơng chỉ vậy thương mại quốc tế cịn tạo
điều kiện cho phát triển kinh tế và làm giàu cho quốc gia. Không thể phủ nhận
thương mại quốc tế có vai trị và tầm quan trọng lớn trong nền kinh tế của nước
ta và Việt Nam cũng đã đạt nhiều thành công đáng kể khi tham gia ngành này.
Những thành cơng ấy như là điềm báo tích cực cho tương lai của nước ta trên
con đường hội nhập kinh tế thế giới. Để có được những thành cơng như vậy,
Nhà nước đã có nhiều đổi mới trong tư tưởng và đường lối làm chính sách cũng
như các văn bản pháp luật sao cho phù hợp với thời đại. Tuy nhiên, do nhiều lý

do khách quan và chủ quan mà các quy định luật pháp liên quan đến thương mại
quốc tế vẫn còn một số tồn tại nhất định. Và đây chính là lý do em chọn đề tài
“Nêu và phân tích hệ thống quy phạm luật thương mại quốc tế” làm đề tài
tiểu luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm tìm ra giải pháp nâng cao quy định pháp luật Việt Nam liên quan
đến thương mại quốc tế thơng qua việc đánh giá, phân tích hệ thống quy phạm
pháp luật thương mại quốc tế trong và ngồi nước, từ đó chỉ ra những điểm đã
làm được và chưa làm được của pháp luật Việt Nam so với pháp luật thế giới.
3. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận chủ yếu nêu, phân tích và so sánh về Hệ thống quy phạm quốc gia và
Hệ thống quy phạm quốc tế quy định về thương mại quốc tế.


4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, em đã kết hợp sử dụng một số phương pháp
chung được áp dụng trong nghiên cứu khoa học như: phương pháp tổng hợp;
phương pháp phân tích tài liệu; phương pháp hệ thống hoá; phương pháp thống
kê; phương pháp chứng minh; phương pháp mô tả; phương pháp khảo cứu;
phương pháp giả thiết;…
5. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận gồm 3 chương lớn:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về luật Thương mại quốc tế
- Chương 2: Hệ thống quy phạm luật Thương mại quốc tế
- Chương 3: Nhận xét quy định pháp luật về Thương mại quốc tế của Việt
Nam và giải pháp hoàn thiện pháp luật.


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LUẬT THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ

1.1 Khái niệm luật Thương mại quốc tế
Có thể nói rằng, thương mại quốc tế có ý nghĩa sống cịn đối với các nước
tham gia vì nó cho phép các quốc gia mở rộng khả năng tiêu dùng. Bên cạnh
việc tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong và ngồi nước, thương mại quốc tế
cịn giúp quốc gia khai thác được những thế mạnh, tiềm năng của đất nước
mình. Thương mại quốc tế như một “sợi dây” liên kết kinh tế - xã hội giữa các
nước thêm bền chặt, từ đó giúp ổn định tình hình kinh tế và chính trị trên thế
giới. Với những vai trị to lớn như thế, nhắc đến thương mại quốc tế không thể
bỏ qua hệ thống quy phạm luật thương mại quốc tế. Tình hình thương mại quốc
tế sẽ rối ren vơ cùng khi thiếu đi một môi trường pháp lý tạo nên sự bình đẳng
quyền và lợi ích giữa các nước. Vậy luật thương mại quốc tế là gì?
Theo GS.TS Nguyễn Bá Diến “Luật thương mại quốc tế là tổng thể các
nguyên tắc và quy phạm pháp luật, bao gồm quy phạm pháp luật quốc gia, quy
phạm điều ước và tập quán quốc tế nhằm điều chỉnh các quan hệ thương mại quan hệ thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, thương mại đầu tư và
thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ - có yếu tố nước ngồi”.1
PGS.TS Nơng Quốc Bình định nghĩa tổng qt về luật thương mại quốc tế
“là tổng hợp các nguyên tắc, các quy phạm điều chỉnh quan hệ giữa các chủ
thể trong hoạt động thương mại quốc tế”.2
Trước hết, hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.3 Thương mại quốc tế là hoạt động
thương mại có yếu tố nước ngồi. Các dấu hiệu của yếu tố nước ngoài trong
thương mại quốc tế gồm: (i) Chủ thể tham gia vào quan hệ đó là pháp nhân hoặc
1

GS.TS Nguyễn Bá Diến, 2005, Khoa Luật - ĐHQG HN, Giáo trình Luật thương mại quốc tế tr.17
TS. Nơng Quốc Bình, 2017, Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại quốc tế tr.15
3
Khoản 1 điều 3 Luật thương mại 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2019
2



cơng dân nước ngồi; (ii) Đối tượng của quan hệ giao dịch đó (tài sản - động
sản hoặc bất động sản) đang tồn tại ở nước ngoài (nhà ở, tiền trong ngân
hàng...); (iii) Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó diễn
ra ở nước ngoài (ký kết hợp đồng hoặc sự kiện vi phạm hợp đồng...).
Như vậy có thể khái quát về luật thương mại quốc tế là một lĩnh vực pháp
luật bao gồm tổng thể các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh
hoạt động thương mại có yếu tố nước ngoài của các chủ thể và vấn đề giải quyết
tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại của họ. Ngồi ra, luật thương
mại quốc tế cịn vừa sở hữu các quy phạm mang đặc tính của cơng pháp quốc tế
khi điều chỉnh quan hệ quốc gia và chủ thể của luật quốc tế phát sinh trong hoạt
động thương mại; vừa có những quy phạm mang tính tư pháp quốc tế khi điều
chỉnh các quan hệ giữa các cá nhân, pháp nhân phát sinh trong hoạt động
thương mại quốc tế.4
1.2 Chủ thể của luật thương mại quốc tế
Chủ thể của luật thương mại quốc tế không chỉ gồm các cá nhân, pháp
nhân mà còn bao gồm cả các quốc gia và tổ chức quốc tế liên chính phủ.
1.2.1 Thương nhân
Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh.5 Như vậy, thương nhân được chia thành 2 loại: tổ chức và cá nhân.
Cá nhân - Thương nhân: Trước hết, cá nhân hay thể nhân là những con
người cụ thể có đầy đủ dấu hiệu pháp lý về thương nhân, có đầy đủ năng lực
pháp luật và năng lực hành vi để thực hiện các hoạt động thương mại, đồng thời
tự mình gánh chịu những trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về hoạt
động thương mại đó. Các dấu hiệu pháp lý cụ thể về thương nhân thường quy
4
5


GS.TS Nguyễn Bá Diến, 2005, Khoa Luật - ĐHQG HN, Giáo trình Luật thương mại quốc tế tr.18
khoản 1 Điều 6 Luật thương mại 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2019


luật trong pháp luật quốc gia, chủ yếu căn cứ vào điều kiện nhân thân và điều
kiện nghề nghiệp của thể nhân. Vì thế, để được xác định là một chủ thể của
quan hệ thương mại quốc tế thì trước hết cá nhân phải là một chủ thể trong quan
hệ thương mại trong nước. Theo quy định tại điều 73 luật Thương mại 2005 sửa
đổi, bổ sung năm 2019 “Thương nhân Việt Nam được quyền hoạt động mua bán
hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa ở nước ngồi theo quy định của Chính
phủ”, như vậy trong quy định về thương nhân của Việt Nam, nếu thương nhân
muốn tham gia hoạt động thương mại quốc tế phải có đầy đủ các điều kiện do
Chính phủ quy định.
Thứ nhất, điều kiện về nhân thân: Đây là điều kiện pháp lý gắn liền với
một con người cụ thể. Để xét một người có đủ điều kiện về nhân để trở thành
thương nhân ngoài dựa vào năng lực pháp luật và năng lực hành vi còn phụ
thuộc vào một vài yếu tố khác như: khơng phải người bị cơ quan có thẩm quyền
tước quyền tham gia kinh doanh; đang không chấp hành án phạt tù;... Điều kiện
về nhân thân sẽ có sự khác nhau tùy theo quy định pháp luật của từng quốc gia,
vì vậy đối với thương nhân có quốc tịch nước ngồi có hành vi thương mại tại
nước sở tại sẽ căn cứ điều kiện về nhân thân dựa trên điều ước quốc tế được ký
kết giữa các quốc gia mà có thỏa thuận các nguyên tắc pháp lý trong xác định
địa vị pháp lý của cơng dân nước ngồi.6
Thứ hai, điều kiện về nghề nghiệp: Một cá nhân để được coi là thương
nhân thì người đó phải thực hiện hoạt động thương mại. Các hoạt động thương
mại này phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, không bị gián đoạn hay chỉ
là tạm thời. Lợi nhuận từ những hoạt động thương mại này là nguồn thu nhập
chính của thương nhân. Tuy vậy, tiêu chí này chưa đủ để tạo thành tư cách
thương nhân, bởi các chủ thể hàng ngày thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các
hoạt động được pháp luật cho phép về mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và

các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác nhưng không thuộc đối tượng phải
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh thì sẽ
6

TS. Nơng Quốc Bình, 2017, Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại quốc tế tr.18


không gọi là thương nhân theo quy định của Luật Thương mại. Theo Bộ luật
Thương mại thống nhất Hoa Kỳ (UCC) năm 1952 hương nhân là những người
“thực hiện những nghiệp vụ với những hàng hóa thuộc chủng loại nhất định
hoặc thực hiện những nghiệp vụ bằng cách khác nào đó và xét về tính chất
nghiệp vụ của mình, họ được coi như là những người có kiến thức hoặc kinh
nghiệm đặc biệt trong những nghiệp vụ hoặc đối với những hàng hóa là đối
tượng của các hợp đồng thương mại...".7
Bên cạnh đó, thương nhân phải thực hiện hoạt động thương mại độc lập,
mang danh nghĩa chính mình và vì lợi ích của bản thân mình. Điều 121-1 Bộ
luật Thương mại Cộng hoà Pháp quy định, thương nhân phải thực hiện hành vi
thương mại mang danh nghĩa chính mình và vì lợi ích của bản thân mình. Và
theo khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định, thương
nhân phải hoạt động thương mại một cách độc lập. Thực hiện hành vi thương
mại độc lập, mang danh nghĩa chính mình và vì lợi ích của bản thân mình được
hiểu là thương nhân thực hiện hành vi thương mại một cách tự thân, nhân danh
mình, vì lợi ích của bản thân và tự chịu trách nhiệm về việc thực hiện hành vi
thương mại đó.
Thương nhân phải thường xuyên thực hiện các hành vi thương mại có tính
nghề nghiệp, đây là một trong những đặc điểm pháp lý không thể thiếu để xác
định điều kiện của thương nhân, tức là chủ thể thực hiện thương mại một cách
thực tế, lặp đi lặp lại và có tính chun nghiệp.
Pháp nhân - Thương nhân: Pháp nhân là một tổ chức (một chủ thể pháp
luật) có tư cách pháp lý độc lập, có thể tham gia vào các hoạt động kinh tế,

chính trị, xã hội… theo quy định của pháp luật. Pháp nhân nước ngồi là tổ
chức có tư cách pháp nhân và được thành lập theo quy định của pháp luật nước
ngồi. Pháp nhân đó được cơng nhận là có quốc tịch nước ngoài và được hưởng
tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật nước ngoài. Nếu một tổ chức có
“tư cách pháp nhân” thì tổ chức đó có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của một pháp
7

Khoản 104 điều 2 Bộ luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ (UCC) năm 1952

7


nhân mà luật đã quy định. Cũng tương tự như cá nhân, pháp nhân cũng có
những điều kiện nhất định để được coi là “thương nhân”, các điều kiện thường
được quy định trong luật thương mại của từng quốc gia.
Một pháp nhân sau khi đã đáp ứng đầy đủ điều kiện tham gia hoạt động
thương mại trong nước thì cũng được phép tham gia hoạt động thương mại quốc
tế. Dĩ nhiên đối với một số trường hợp mà pháp luật của quốc gia sở tại sẽ bổ
sung thêm một số quy định để xác định tư cách chủ thể đối với pháp nhân. ví dụ
như quy định pháp luật về các biện pháp bảo đảm đầu tư, các quyết định về
thuế, tài chính, quy định về đặt chi nhánh và văn phịng đại diện…
Mỗi pháp nhân đều phải có năng lực pháp luật dân sự, đó là khả năng của
pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự. Đối với pháp nhân, năng lực pháp
luật dân sự được phát sinh chính từ thời điểm được thành lập bởi các cơ quan có
thẩm quyền hoặc chính tại thời điểm được cho phép thành lập hoặc thời điểm
ghi vào sổ đăng ký. Theo khoản 2 Điều 86 Bộ luật Dân sự năm 2015, năng lực
dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu pháp nhân phải đăng ký hoạt
động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi
vào sổ đăng ký.

1.2.2 Quốc gia và các chủ thể khác
Trong hoạt động thương mại quốc tế, quốc gia cũng vừa là một chủ thể
trong quan hệ thương mại quốc tế cũng vừa tham gia xây dựng pháp luật thương
mại quốc tế. Một quốc gia có tư cách chủ thể tham gia hành vi thương mại quốc
tế khi ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế về thương mại hoặc khi quốc gia
tham gia giao dịch thương mại với các chủ thể khác.
Khi tham gia ký kết hoặc gia nhập các điều ước quốc tế về thương mại, các
quốc gia có tư cách chủ thể là bởi khi ấy quốc gia có quyền thỏa thuận, đàm
phán với các quốc gia khác về quyền và lợi ích của mình trong thương mại quốc
tế. Khi quốc gia tham gia giao dịch thương mại chủ thể khác, quốc gia với tư


cách là một chủ thể đặc biệt có thể thực hiện theo hai cấp độ sau: 8 (i) quan hệ
thương mại giữa nhà nước với nhà nước; hoặc (ii) quan hệ thương mại giữa nhà
nước với cá nhân hoặc pháp nhân khác.
Vì là một chủ thể đặc biệt nên một số nguyên tắc sẽ bị hạn chế nếu quốc
gia không tuyên bố từ bỏ quyền miễn trừ của mình, để có thể tham gia hoạt
động giao dịch thương mại một cách bình đẳng quốc gia thường tự mình tuyên
bố từ bỏ hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ. Việc này có ý nghĩa thúc đẩy các giao
dịch thương mại quốc tế, tạo mơi trường pháp lý bình đẳng giữa các bên tham
gia quan hệ hợp đồng, điều này cũng giúp thu hút sự tham gia của các thể nhân
và pháp nhân nước ngoài. Theo Luật miễn trừ chủ quyền nước ngoài của Hoa
Kỳ năm 1976 (Foreign Sovereign Immunities Act) quy định một quốc gia nước
ngồi sẽ khơng được hưởng quyền miễn trừ xét xử trước tòa án của Hoa Kỳ nếu
quốc gia nước ngồi đó đã tun bố từ bỏ quyền miễn trừ quốc gia.9
1.3 Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật thương mại quốc tế
Để cho thương mại quốc tế phát triển ổn định không thể thiếu một số
nguyên tắc đơn giản và là nền tảng của hệ thống này, các nguyên tắc này quyết
định nội dung và định hướng tồn bộ q trình của cơ chế điều chỉnh của
thương mại quốc tế, bao gồm: (i) Nguyên tắc thương mại không phân biệt đối

xử; (ii) Nguyên tắc tự do thương mại và tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng
bình đẳng; (iii) Nguyên tắc minh bạch ổn định trong thương mại; (iv) Nguyên
tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng; (v) Nguyên tắc bảo hộ hợp lý
các ngành sản xuất trong nước
(i) Nguyên tắc thương mại không phân biệt đối xử: Nguyên tắc này được
cụ thể hoá trong hai quy định: Chế độ đãi ngộ tối huệ quốc và và chế độ đãi ngộ
quốc gia.

8
9

GS.TS Nguyễn Bá Diến, 2005, Khoa Luật - ĐHQG HN, Giáo trình Luật thương mại quốc tế tr.26
Điều 1605, Luật miễn trừ chủ quyền nước ngoài của Hoa Kỳ năm 1976


Đãi ngộ tối huệ quốc (Most favoured nation; MFN) là chính sách khơng
phân biệt đối xử trong thương mại, nó đề ra cho tất cả các đối tác thương mại
quy chế hải quan và thuế quan như nhau được gọi là “tối huệ quốc”. Là một
trong những quy chế pháp lý quan trọng trong thương mại mại quốc tế hiện đại.
Tầm quan trọng đặc biệt của nguyên tắc này được thể hiện ngay trong điều I
Hiệp định GATT, điều II Hiệp định GATS và Điều IV Hiệp định TRIPs. Theo
nguyên tắc này nếu một quốc gia thành viên dành cho một quốc gia thành viên
khác một sư đãi ngộ hay miễn trừ về các lĩnh vực thương mại, thuế quan, vận tải
và địa vị pháp lý cơng dân, thì cũng phải dành cho tất cả các quốc gia thành viên
còn lại đãi ngộ và miễn trừ đó. Ví dụ trong thương mại hàng hóa nếu Trung
Quốc dành cho sản phẩm của Hoa Kỳ mức thuế quan ưu đãi thì Trung Quốc
cũng phải dành cho sản phẩm cùng loại của các quốc gia thành viên còn lại mức
thuế ưu đãi này. Và như vậy, kết quả là không phân biệt đối xử với bất kỳ đối
tác thương mại nào. Hoặc tại Việt Nam, nguyên tắc này được đưa vào văn bản
quy phạm pháp luật cụ thể theo điểm a khoản 3 điều 5 Luật Thuế xuất khẩu,

nhập khẩu 2016 quy định: “Thuế suất ưu đãi áp dụng đối với hàng hóa nhập
khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối
huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam; hàng hóa từ khu phi thuế
quan nhập khẩu vào thị trường trong nước đáp ứng Điều kiện xuất xứ từ nước,
nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ
thương mại với Việt Nam”10 và nguyên tắc này cũng trở thành một nguyên tắc
quản lý ngoại thương của Nhà nước Việt Nam “Bảo đảm thực hiện đầy đủ các
nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia trong hoạt động ngoại thương
theo pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên.”.11
Chế độ đãi ngộ quốc gia (National Treatment – NT), quy định tại Ðiều III
Hiệp định GATT, Ðiều 17 GATS và điều 3 TRIPS. Nội dung của nguyên tắc này
10
11

Điểm a khoản 3 điều 5 Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2016
Khoản 3 điều 4 Luật Quản lý ngoại thương 2017

10


là hàng hố nhập khẩu và hàng hóa tương tự sản xuất trong nước phải được đối
xử cơng bằng, bình đẳng như nhau. Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như
sau: bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới, trả xong thuế
hải quan và các chi phí khác tại cửa khẩu, bắt đầu đi vào thị trường nội địa, sẽ
được hưởng sự đối xử ngang bằng (không kém ưu đãi hơn) với sản phẩm tương
tự được sản xuất trong nước.
(ii) Nguyên tắc tự do thương mại và tạo ra môi trường cạnh tranh ngày
càng bình đẳng: Tự do hóa thương mại là việc dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và
phi thuế quan để làm cho luồng hàng hóa và dịch vụ di chuyển từ nước này sang

nước khác được thuận lợi hơn. Tự do hóa thương mại trước hết nhằm mở rộng
thị trường xuất khẩu của mỗi nước và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hàng hóa
và dịch vụ nước ngồi dễ dàng xâm nhập vào. 12 Lợi ích lớn nhất của tự do hóa
thương mại là thúc đẩy trao đổi, buôn bán, phát huy lợi thế so sánh của các
nước, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn lực. Đối với người tiêu dùng (bao gồm cả những nhà nhập khẩu nguyên
vật liệu để sản xuất ra hàng hóa), tự do hóa thương mại sẽ tạo cho họ cơ hội lựa
chọn hàng hóa tốt hơn với giá hợp lý hơn.13
Cạnh tranh cơng bằng (fair competition) được hiểu là thương mại quốc tế
được tiến hành trong những điều kiện cạnh tranh bình đẳng như nhau. Thêm vào
đó, WTO là tổ chức được thành lập nhằm tăng cường và thúc đẩy cạnh tranh tự
do, công bằng giữa các quốc gia thành viên. Ðể thực hiện được nguyên tắc này,
WTO quy định trường hợp nào là cạnh tranh bình đẳng, trường hợp nào là
khơng bình đẳng từ đó được phép hay khơng được phép áp dụng các biện pháp
như trả đũa, tự vệ, chống bán phá giá… Ý nghĩa của nguyên tắc này thể hiện ở
chỗ thông qua cạnh tranh lành mạnh chất lượng hàng hoá ngày càng được nâng
cao cùng với năng suất lao động. Một khía cạnh nữa của ngun tắc này đó là
sự giản thiểu tối đa sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động thương mại bằng
12

GS.TS Nguyễn Bá Diến, 2005, Khoa Luật - ĐHQG HN, Giáo trình Luật thương mại quốc tế tr.31
Trích trong sách: Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng,
2016, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, />13

11


các hình thức như trợ giá, bù lỗ. Thơng qua nguyên tắc này, cơ hội sẽ ngang
bằng hơn cho mọi doanh nghiệp - thương nhân.
(iii) Nguyên tắc minh bạch ổn định trong thương mại: Nguyên tắc này bao

gồm minh bạch về chính sách và minh bạch về tiếp cận thị trường. Minh bạch
về chính sách yêu cầu mọi quy định có liên quan đến thương mại của một thành
viên phải được công bố công khai, dễ tiếp cận, phù hợp với luật lệ của WTO và
áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ. Đồng thời, phải dành cơ hội thỏa đáng
cho các bên có liên quan được góp ý trong q trình lập quy.14 Ví dụ các quốc
gia khơng thể đơn phương tăng thuế nhập khẩu, mà chỉ có thể tăng thuế nhập
khẩu sau đã tiến hành đàm phán lại và đã đền bù thỏa đáng cho lợi ích của các
bên bị thiệt hại do chính sách tăng thuế đó.
(iv) Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng: Theo quy
định của Việt Nam thì Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu
dùng được quy định thương nhân thực hiện hoạt động thương mại có nghĩa vụ
thơng tin đầy đủ, trung thực cho người tiêu dùng về hàng hố và dịch vụ mà
mình kinh doanh và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thơng tin
đó. Bên cạnh đó, thương nhân thực hiện hoạt động thương mại phải chịu trách
nhiệm về chất lượng, tính hợp pháp của hàng hố, dịch vụ mà mình kinh
doanh.15
(v) Nguyên tắc bảo hộ hợp lý các ngành sản xuất trong nước: Đây là cơng
cụ chính sách thương mại để bảo vệ ngành sản xuất trong nước khỏi thiệt hại do
sự gia tăng của hàng nhập khẩu. Để áp dụng các biện pháp phòng vệ thương
mại, các nước thành viên phải tiến hành điều tra theo các nguyên tắc, quy trình,
thủ tục đã được quy định trong các hiệp định liên quan của WTO. Biện pháp
phòng vệ thương mại chỉ được áp dụng khi các hiện tượng, hành vi gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại đến ngành sản xuất trong nước của nước nhập khẩu.
Các vụ, việc điều tra phòng vệ thương mại thường tập trung ở một số quốc gia
14

Trung tâm WTO TP.HCM - TP, 2012, Các Nguyên Tắc Hoạt Động Của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới
(WTO), />15
Điều 14 Luật Thương mại 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2019


12


có pháp luật và thực tiễn áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại đã được
xây dựng và phát triển, như Hoa Kỳ, Canada, Liên minh châu Âu (EU), Nga,...16
CHƯƠNG 2: HỆ THỐNG QUY PHẠM LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
2.1 Hệ thống quy phạm pháp luật quốc gia
Luật quốc gia, thường được gọi là luật trong nước, là những luật tồn tại
“bên trong” một quốc gia cụ thể. Luật pháp quốc gia do Nhà nước ban hành
hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của Nhà nước và được Nhà nước bảo đảm thực
hiện bằng các biện pháp tổ chức, giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế bởi bộ máy
Nhà nước. Pháp luật là cơ sở pháp lý cho tổ chức, hoạt động của đời sống xã hội
và Nhà nước, là công cụ để Nhà nước thực hiện quyền lực của mình.
Luật quốc gia trong thương mại quốc tế là tổng hợp các quy định điều
chỉnh các hoạt động của các chủ thể trong hoạt động thương mại quốc tế. Trong
thương mại quốc tế, luật quốc gia là một nguồn luật quan trọng, chúng có thể
được thể hiện dưới hình thức thành văn bản hoặc không thành văn bản (án lệ).17
Luật thương mại quốc tế được xây dựng dựa trên sự thỏa thuận, đàm phán
của các bên tham gia nên việc áp dụng luật của quốc gia cũng có nguyên tắc
tương tự như vậy, tức là trong mua bán hàng hóa quốc tế, các bên có quyền tự
do thỏa thuận chọn nguồn luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng của mình. Trong
trường hợp khi các bên chủ thể thỏa thuận, lựa chọn áp dụng luật quốc gia bên
nào và một trường hợp đặc biệt là khi có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến.
Thứ nhất, khi các bên quy định về luật áp dụng ngay từ giai đoạn đàm
phán, ký kết hợp đồng, bằng cách chỉ rõ trong hợp đồng rằng luật của một nước
nào đó sẽ được áp dụng cho hợp đồng. Trường hợp này gọi là các bên đã quy
định trong hợp đồng điều khoản luật áp dụng cho hợp đồng. Theo đó, các bên
16

Phạm Ngọc Huệ, Tăng Cường Phòng Vệ Thương Mại Để Bảo Vệ Sản Xuất Và Thị Trường Trong Nước

Trước Yêu Cầu Hội Nhập Quốc Tế,
/>17
TS.Nơng Quốc Bình, 2017, Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại quốc tế tr.24

13


có thể tự do thỏa thuận luật áp dụng, ví dụ: “Mọi vấn đề không được quy định
hoặc quy định không đầy đủ trong hợp đồng này sẽ được giải quyết theo luật
Việt Nam” hoặc “Các vấn đề phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này
được giải quyết theo luật nước người bán”. Như vậy khi tranh chấp phát sinh,
các bên và tịa án có thể dựa vào luật Việt Nam hoặc luật nước người bán để giải
quyết.
Tuy nhiên, việc này khơng hề dễ thỏa thuận, vì mỗi bên đều nắm rõ quy
định pháp luật của mình và nếu áp dụng luật của nước mình thì chắc chắn có
nhiều lợi ích hơn so với bên kia, đặc biệt khi xảy ra xung đột trong quá trình
thực hiện hợp đồng. Vậy nên để quá trình ký kết hợp đồng diễn ra thuận lợi,
thành cơng thì hồn tồn phụ thuộc vào sự nhân nhượng và khôn khéo trong
ngoại giao giữa các bên.
Trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam có liên quan đến hành
vi thương mại quốc tế cũng có đề cập đến vấn đề này, điển hình tại Bộ luật hàng
hải 2015 quy định các bên tham gia trong hợp đồng liên quan đến hoạt động
hàng hải có quyền thỏa thuận riêng, nếu Bộ luật này khơng hạn chế. Trong
trường hợp Bộ luật này có quy định hoặc các bên có thỏa thuận trong hợp đồng,
luật nước ngồi có thể được áp dụng tại Việt Nam đối với quan hệ hợp đồng liên
quan đến hoạt động hàng hải, nếu luật đó khơng trái với các ngun tắc cơ bản
của pháp luật Việt Nam.18
Một dẫn chứng khác trong luật Việt Nam về quyền quyết định áp dụng
pháp luật giữa các bên trong hợp đồng được quy định cụ thể ở khoản 5 điều 4
Luật Đầu tư 2020, đối với hợp đồng trong đó có ít nhất một bên tham gia là nhà

đầu tư nước ngoài hoặc tổ chức kinh tế, các bên có thể thỏa thuận trong hợp
đồng việc áp dụng pháp luật nước ngoài hoặc tập qn đầu tư quốc tế nếu thỏa
thuận đó khơng trái với quy định của pháp luật Việt Nam.19

18
19

Khoản 1, 3 điều 5 Bộ luật hàng hải 2015
Khoản 5 điều 4 Luật Đầu tư 2020


Thứ hai, nếu có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật quốc gia sẽ
được áp dụng. Nếu trong q trình ký kết hợp đồng, các bên khơng đi đến được
thỏa thuận chung về lựa chọn áp dụng luật pháp của một trong các bên thì các
bên hồn tồn có thể thỏa thuận áp dụng pháp luật của nước thứ ba, ví dụ: pháp
luật nơi thực hiện hợp đồng; pháp luật nơi có tài sản liên quan đến hợp đồng;
pháp luật nơi ký kết hợp đồng;... Như việc để xác định năng lực ký kết và thực
hiện hợp đồng thương mại quốc tế, tư pháp quốc tế của hầu hết các nước đều
quy định áp dụng luật quốc tịch của các bên chủ thể. Vậy, pháp luật của nước
mà các bên mang quốc tịch sẽ là pháp luật quy định về năng lực pháp luật và
năng lực hành vi giao kết hợp đồng của mỗi bên.20 Ở trường hợp này, dù trong
hợp đồng các bên khơng có thỏa thuận về pháp luật áp dụng nhưng khi xác định
năng lực pháp luật của các bên chủ thể trong quan hệ pháp luật thương mại quốc
tế thì vẫn phải áp dụng luật của quốc gia do quy phạm xung đột dẫn chiếu đến.
Các hệ thuộc luật thường được quy phạm xung đột dẫn chiếu đến gồm:21
(i) Hệ thuộc luật nhân thân (Lex personalis) thường được áp dụng trong mối
quan hệ liên quan đến nhân thân của con người như các quan hệ về năng lực
pháp luật và năng lực hành vi, các quan hệ về hơn nhân, gia đình, thừa kế động
sản,… Hệ thuộc luật nhân thân thường tồn tại dưới hai dạng là hệ thuộc luật
quốc tịch và hệ thuộc luật nơi cư trú.

(ii) Hệ thuộc luật quốc tịch của pháp nhân (Lex societatis) là hệ thống pháp luật
của nước mà pháp nhân mang quốc tịch.
(iii) Hệ thuộc luật nơi có tài sản (Lex rei sitae) là hệ thống pháp luật của nước
nơi tài sản tồn tại. Hệ thuộc luật này được áp dụng chủ yếu trong việc điều
chỉnh các quan hệ sở hữu tài sản, đặc biệt gần như tất cả các quan hệ tài sản mà
đối tượng của tài sản là bất động sản.
(iv) Hệ thuộc luật lựa chọn (Lex voluntatis) là hệ thống pháp luật của nước mà
các bên trong hợp đồng quốc tế thỏa thuận lựa chọn. Đây là một trong những
20
21

TS.Nơng Quốc Bình, 2017, Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại quốc tế tr.26
Xem thêm: GS.TS Nguyễn Bá Diến, 2009, Khoa Luật - ĐHQG HN, Giáo trình Tư pháp quốc tế

15


nguyên tắc rất quan trọng trong hầu hết các văn bản pháp lý cả quốc gia lẫn
quốc tế.
(v) Hệ thuộc luật nơi thực hiện hành vi (Lex loci actus) là hệ thống pháp luật
của nước nơi hành vi được thực hiện. Vì hành vi có nhiều loại nên hệ thuộc luật
này cũng có nhiều dạng cụ thể khác nhau, đó là: hệ thuộc luật nơi ký kết hợp
đồng, hệ thuộc luật nơi thực hiện hợp đồng, hệ thuộc luật nơi thực hiện nghĩa
vụ, hệ thuộc luật nơi tiến hành kết hôn.
(vi) Hệ thuộc luật nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật (Lex loci delicti
commissi) là hệ thống pháp luật của nước, nơi hành vi gây thiệt hại xảy ra, sẽ
được áp dụng giải quyết vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp
đồng.
(vii) Hệ thuộc luật tịa án (Lex fori) là hệ thống pháp luật của nước có tịa án
đang xét xử vụ án.

Tại Việt Nam, theo điều 683 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Hợp đồng,
các bên trong quan hệ hợp đồng được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đối
với hợp đồng, trừ trường hợp sau:
(i) hợp đồng có đối tượng là bất động sản thì pháp luật áp dụng đối với việc
chuyển giao quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là bất động sản, thuê bất
động sản hoặc việc sử dụng bất động sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là
pháp luật của nước nơi có bất động sản;
(ii) pháp luật do các bên lựa chọn trong hợp đồng lao động, hợp đồng tiêu dùng
có ảnh hưởng đến quyền lợi tối thiểu của người lao động, người tiêu dùng theo
quy định của pháp luật Việt Nam thì pháp luật Việt Nam được áp dụng;
(iii) các bên có thể thỏa thuận thay đổi pháp luật áp dụng đối với hợp đồng
nhưng việc thay đổi đó khơng được ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của
người thứ ba được hưởng trước khi thay đổi pháp luật áp dụng, trừ trường hợp
người thứ ba đồng ý.
Theo đó, trường hợp các bên khơng có thỏa thuận về pháp luật áp dụng thì
pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó được áp dụng.


“Pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng” được giải thích
là: Pháp luật của nước nơi người bán cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập
nếu là pháp nhân đối với hợp đồng mua bán hàng hóa; Pháp luật của nước nơi
người cung cấp dịch vụ cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp
nhân đối với hợp đồng dịch vụ; Pháp luật của nước nơi người nhận quyền cư trú
nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng chuyển
giao quyền sử dụng hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ; Pháp luật của
nước nơi người lao động thường xuyên thực hiện công việc đối với hợp đồng
lao động. Nếu người lao động thường xuyên thực hiện công việc tại nhiều nước
khác nhau hoặc không xác định được nơi người lao động thường xun thực
hiện cơng việc thì pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng
lao động là pháp luật của nước nơi người sử dụng lao động cư trú đối với cá

nhân hoặc thành lập đối với pháp nhân; Pháp luật của nước nơi người tiêu dùng
cư trú đối với hợp đồng tiêu dùng.
Tại Việt Nam, các văn bản quy phạm pháp luật là nguồn pháp luật cơ bản
và chủ yếu để làm nền móng xây dựng nên quy định pháp luật thương mại quốc
tế, có thể kể đến như: Hiến pháp 2013; Luật thương mại 2005 sửa đổi, bổ sung
năm 2019; Luật Đầu tư 2020; Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2016; Bộ
luật Dân sự 2015; Luật Doanh nghiệp 2020; Bộ luật Hàng hải 2015; Luật Hàng
không dân dụng 2019;... Bên cạnh các văn bản pháp luật, một số văn bản dưới
luật nhằm điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế cũng được coi là nguồn của
luật thương mại quốc tế của Việt Nam, như: Nghị định số 101/2021/NĐ-CP về
biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, danh mục hàng hóa và mức
thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan; Nghị
định số 69/2018/NĐ-CP nghị định quy định chi tiết một số điều của luật quản lý
ngoại thương; Thông tư số 02/2021/TT-NHNN hướng dẫn giao dịch ngoại tệ
trên thị trường ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối;
Nghị định số 85/2021/NĐ-CP về thương mại điện tử;...


2.2 Hệ thống quy phạm pháp luật quốc tế
2.2.1 Điều ước quốc tế
Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hiện nay, điều ước quốc tế là một trong
những công cụ hiệu quả nhất mà các quốc gia có thể sử dụng để thiết lập các
quan hệ đối ngoại. Chính vì thế, trong pháp luật các nước nói chung, điều ước
quốc tế đóng một vai trị quan trọng và thường được ưu tiên áp dụng trong
trường hợp xảy ra xung đột giữa các quy định của văn bản quy phạm pháp luật
quốc gia và pháp luật quốc tế về cùng một vấn đề. Điều ước quốc tế là thỏa
thuận bằng văn bản được ký kết nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ một nước
với bên ký kết nước ngoài, làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ của nước đó theo pháp luật quốc tế, khơng phụ thuộc vào tên gọi là hiệp ước,
công ước, hiệp định, định ước, thỏa thuận, nghị định thư, bản ghi nhớ, công hàm

trao đổi hoặc văn kiện có tên gọi khác. Điều ước quốc tế bao gồm các điều ước
quốc tế song phương và các điều ước quốc tế đa phương về thương mại giữa các
quốc gia và các chủ thể khác của công pháp quốc tế.
Thứ nhất, điều ước quốc tế song phương được ký kết giữa hai quốc gia,
chủ thể của luật quốc tế, dựa trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, tơn trọng
độc lập và chủ quyền của nhau nhằm thiết lập và phát triển quan hệ kinh tế
thương mại giữa các bên, đồng thời ấn định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên
trong quan hệ kinh tế thương mại và việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Các điều
ước quốc tế song phương là cơ sở pháp lý cho các quan hệ dân sự - kinh tế,
thương mại giữa Việt Nam với nước khác, trước hết là các Hiệp định tương trợ
tư pháp và pháp lý.
Hiệp định tương trợ tư pháp là Điều ước quốc tế chuyên môn được ký kết
nhằm thiết lập các nguyên tắc, quy chuẩn, quy phạm pháp luật hợp tác giúp đỡ
lẫn nhau giữa các nước trong giải quyết các vấn đề tư pháp.22 Hiệp định tương
22

Hiệp định tương trợ tư pháp là gì?,
/>

trợ tư pháp thường là điều ước quốc tế song phương chuyên về hợp tác giữa các
cơ quan tư pháp các nước kết ước trong lĩnh vực dân sự và hình sự. Tuy vậy,
cũng có khơng ít trường hợp hiệp định tương trợ tư pháp chỉ được ký kết nhằm
hợp tác giữa các nước trong một lĩnh vực nhỏ của hoạt động tư pháp. Ngoài các
Hiệp định tương trợ tư pháp chung giữa Việt Nam và các nước được ký kết như
Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và Hung-ga-ri (năm 2019); Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
(năm 2020); Hiệp định về dẫn độ giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Cộng hịa Mơ-dăm-bích (năm 2019);... Các hiệp định tương trợ tư pháp ngoài
việc giúp thừa nhận chế độ bảo hộ pháp lý cho cơng dân cịn giúp các nước

tham gia ký kết xác định thẩm quyền tố tụng của các cơ quan tư pháp các quốc
gia liên quan và pháp luật cần áp dụng để giải quyết các vấn đề tư pháp cụ thể
như về quyền sở hữu, hợp đồng dân sự - kinh tế - thương mại; quy định về cách
thức lập hồ sơ uỷ thác; thực hiện các uỷ thác và các hoạt động tố tụng riêng biệt
khác.
Việt Nam đã ký các hiệp định thương mại song phương với các nước như:
Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản,… Đến nay, Việt Nam đã ký kết hiệp định thương
mại và hàng hải với hơn 100 quốc gia khắp toàn thế giới như với Cu Ba năm
1970, với Campuchia năm 1991, với Lào năm 1991, với Chile năm 1993, với
Hàn Quốc năm 1993, với Thụy Sĩ năm 1993,... và gần đây nhất là Hiệp định
Thương mại Việt Nam - Lào có thời hạn từ ngày 4/10/2020 đến ngày 4/10/2023.
So với các hiệp định thương mại đa phương, các hiệp định thương mại song
phương dễ dàng được đàm phán, bởi vì chỉ có hai quốc gia thỏa thuận.
Ngồi các Hiệp định thương mại, đầu tư song phương giữa các quốc gia,
Việt Nam còn tham gia ký kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA). Hiệp định
thương mại tự do được hiểu là các hiệp định hợp tác kinh tế được ký giữa hai
hay nhiều thành viên nhằm loại bỏ các rào cản với phần lớn hoạt động thương
mại đồng thời thúc đẩy trao đổi thương mại giữa các nước thành viên với nhau.


Các rào cản thương mại có thể dưới dạng thuế quan, xuất nhập khẩu, các hàng
rào phi thuế quan khác như tiêu chuẩn kỹ thuật,… Ví dụ: Hiệp định Đối tác
Kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) năm 2009; Hiệp định Thương mại Tự do
Việt Nam - Hàn Quốc (VKFTA) năm 2015; Hiệp định Thương mại Tự do giữa
Việt Nam và Israel (VIFTA) đang trong giai đoạn đàm phán;...
Thứ hai, điều ước quốc tế đa phương là loại điều ước quốc tế do từ ba chủ
thể trong quan hệ quốc tế trở lên ký kết kết hoặc tham gia. Tương tự như với nội
dung điều ước quốc tế song phương thì điều ước quốc tế đa phương cũng đề cập
đến lĩnh vực nhất định: thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, sở hữu trí
tuệ,...

Điều ước quốc tế có thể quy định nguyên tắc chung mà các bên bắt buộc
phải tuân thủ trong suốt quá trình giao kết hợp đồng và thực hiện giao dịch
thương mại quốc tế, đó là các nguyên tắc như nguyên tắc tối huệ quốc, nguyên
tắc có đi có lại,... Bên cạnh đó, điều ước quốc tế cũng quy định cụ thể về quyền
và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch thương mại quốc tế, ví dụ Cơng ước
Viên 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Cơng ước
đưa ra những quy định cụ thể như về quyền và nghĩa vụ của người bán - người
mua, vấn đề chuyển dịch rủi ro đối với hàng hóa,...
Việc hình thành các Hiệp định FTA hiện đang là xu thế tất yếu trong quá
trình hội nhập, phát triển mà các quốc gia khơng thể đứng ngồi cuộc. Nhận
thức rõ điều này, trong những năm qua Việt Nam rất tích cực tham gia đàm
phán, ký kết các Hiệp FTA song phương và đa phương. Tính đến tháng 01/2021,
Việt Nam đã chính thức tham gia, ký kết thực hiện 14 Hiệp định thương mại tự
do có hiệu lực và 01 Hiệp định thương mại tự do đã chính thức ký kết, sắp có
hiệu lực, hiện đang đàm phán 02 Hiệp định thương mại tự do. Trong số 14 Hiệp
định thương mại tự do đã có hiệu lực và đang triển khai, Hiệp định Đối tác tồn
diện và Tiến bộ xun Thái Bình Dương (CPTPP) là Hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới đầu tiên mà Việt Nam tham gia, tiếp theo đó là Hiệp định Thương


mại tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA).23 Việc tham gia các Hiệp
định Thương mại tự do thế hệ mới như TPP sẽ tạo ra áp lực để cải cách thể chế
nhưng cũng là cơ hội để hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Việt Nam còn là thành viên của một số điều ước quốc
tế đa phương về thương mại như Công ước Viên 1980 về hợp đồng hàng hóa
quốc tế (CISG); Cơng ước Vacsava 1929 về thống nhất một số quy tắc liên quan
đến vận chuyển hàng không quốc tế; Công ước New York 1958 về công nhân và
thi hành các phán quyết của trọng tài nước ngoài; UCP600 - bộ các quy định về
việc ban hành và sử dụng thư tín dụng; Cơng ước Lahay về luật áp dụng đối với
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế;...

Điều ước quốc tế có giá trị bắt buộc áp dụng đối với các nước thành viên,
vậy nên điều ước quốc tế về thương mại quốc tế có giá trị pháp lý bắt buộc đối
với các bên trong giao dịch đã là thành viên tham gia điều ước quốc tế đó.
Trường hợp xảy ra xung đột giữa pháp luật thương mại của quy phạm pháp luật
quốc gia và điều ước quốc tế thì quốc gia thành viên phải ưu tiên áp dụng điều
ước quốc tế. Một trường hợp khác, khi chủ thể trong giao dịch không mang
quốc tịch hoặc khơng có nơi cư trú ở nước thành viên của điều ước quốc tế về
thương mại thì các quy định trong điều ước đó vẫn điều chỉnh quyền và nghĩa
vụ của các bên nếu các bên đã thỏa thuận áp dụng điều ước quốc tế đó.
Việt Nam có 4 nguyên tắc ký kết và thực hiện điều ước quốc tế được quy
định tại Luật Điều ước quốc tế 2016, cụ thể:24 (i) Khơng trái với Hiến pháp nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; (ii) Tôn trọng độc lập, chủ quyền, tồn
vẹn lãnh thổ quốc gia, khơng sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, không can
thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi và những nguyên
tắc cơ bản khác của pháp luật quốc tế; (iii) Bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc,
phù hợp với đường lối đối ngoại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

23

Thanh Phương2021, Việt Nam tích cực tham gia ký kết các Hiệp định FTA, mở ra nhiều cơ hội phát triển kinh
tế - xã hội />24
Điều 3 Luật Điều ước quốc tế 2016


(iv) Tuân thủ điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên.
Khi Việt Nam đã là thành viên của một điều ước quốc tế, nếu văn bản quy
phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy
định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp theo khoản 1 điều 6 Luật Điều ước

quốc tế 2016. Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế,
Nhà nước sẽ quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc
tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước
quốc tế đã đủ rõ, đủ chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ
sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước
quốc tế đó.25
2.2.2 Tập quán pháp quốc tế
Luật tập quán quốc tế bao gồm hai yếu tố cấu thành là thực tiễn chung giữa
các quốc gia và sự thừa nhận quy tắc xử sự là luật (opinio juris). Trong một số
trường hợp, bối cảnh thay đổi cơ bản có thể thúc đẩy nhanh sự hình thành luật
tập quán quốc tế. Trong những trường hợp đó, nghị quyết Đại hội đồng Liên
hiệp quốc (UN) và phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế thường đóng vai
trị quan trọng.26
Tập qn quốc tế là nguồn luật điều chỉnh trực tiếp các quan hệ kinh tế
quốc tế giữa các chủ thể tư pháp quốc tế. Giải quyết các vấn đề như: thương
mại, hàng hải, đầu tư, chuyển giao cơng nghệ, bảo hiểm, thanh tốn tố tụng kinh
tế quốc tế. Cũng như điều ước quốc tế, tập quán quốc tế là nguồn cơ bản của
thương mại quốc tế. Khác với quy phạm của điều ước quốc tế, tập quán quốc tế
không phải là văn kiện pháp lý mà là hành vi lặp đi lặp lại của tất cả các nước
hay của một số nước và thể hiện trong kiểu mẫu nhất định của hành vi. Sự áp
25

Khoản 1 điều 6 Luật Điều ước quốc tế 2016
Ts. Lê Thị Anh Đào, 2018, Đại Học Luật Hà Nội, Http://Lapphap.Vn/Pages/Tintuc/Tinchitiet.Aspx?
Tintucid=207289
26

22



dụng trong thời gian dài và tính thuyết phục ở nghĩa vụ pháp lý là những nét đặc
trưng của tập quán quốc tế. Tập quán quốc tế có thể là chung, tức là được tất cả
các nước thừa nhận, có thể mang tính chất cục bộ trong các quan hệ quốc tế
nhất định, ở khu vực nhất định. Trong các quan hệ quốc tế hiện nay, có sự tác
động qua lại của luật điều ước và luật tập quán. Các quy phạm tập quán biến
thành các quy phạm của luật điều ước quốc tế thông qua việc ghi nhận chúng
trong các điều ước quốc tế.
Một tập quán thương mại được coi là tập quán quốc tế khi có đủ các điều
kiện:27 Có nội dung cụ thể rõ ràng; Phải là thói quen duy nhất trong giao dịch
thương mại quốc tế; Phải được đại đa số các chủ thể trong thương mại quốc tế
hiểu biết và chấp nhận.
Có rất nhiều quy tắc, thông lệ quốc tế chi phối quan hệ Thương mại quốc
tế như: UCP điều chỉnh các quan hệ trong giao dịch sử dụng phương thức tín
dụng chứng từ, URR điều chỉnh các quan hệ trong giao dịch sử dụng phương
thức thanh toán nhờ thu, INCOTERMS là quy tắc giải thích thống nhất các điều
kiện thương mại.
Thứ nhất, INCOTERMS là tập hợp các quy tắc thương mại quốc tế được
công nhận và sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. INCOTERMS quy định những
quy tắc, vấn đề có liên quan đến giá cả và trách nhiệm của các bên (bên bán và
bên mua) trong hoạt động thương mại quốc tế. INCOTERMS đã qua 5 lần sửa
đổi hoặc ban hành các phiên bản mới. Mặc dù các phiên bản INCOTERMS là
không phủ nhận lẫn nhau và sự cập nhật thường xuyên chính là để bắt kịp với
nhịp độ phát triển của thương mại quốc tế. Tuy vậy, tùy thuộc vào thói quen giao
dịch mua bán, tập quán của từng vùng, địa điểm giao dịch mà người ta có thể
lựa chọn phiên bản cập nhật hay các phiên bản khác cũ hơn để áp dụng. Gần
đây nhất, Phòng thương mại quốc tế (ICC) ban hành INCOTERMS 2020 quy

27

Xem thêm: TS.Nơng Quốc Bình, 2017, Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại quốc tế tr.26


23


định về 11 điều kiện cơ bản nói về cơ sở giao hàng, phương thức vận tải. Cụ thể
đó là:28
- Nhóm 1: Áp dụng cho mọi phương thức vận tải (đường bộ, đường sắt, đường
biển, đường hàng không): Giao hàng tại xưởng); Giao cho người chuyên chở);
Cước phí trả tới; Cước phí và bảo hiểm trả tới; Giao tại địa điểm; Giao tại địa
điểm đã dỡ xuống; Giao đã trả thuế.
- Nhóm 2: Các điều kiện, quy tắc Incoterms áp dụng riêng cho vận tải biển và
đường thuỷ nội địa: Giao dọc mạn tàu; Giao hàng trên tàu; Tiền hàng, bảo hiểm
và cước phí; Tiền hàng và cước phí.
Thứ hai, là viết tắt của “The Uniform Custom and Practice for
Documentary Credit” (Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ), là
ấn phẩm của phòng thương mại quốc tế (International Chamber of Commerce ICC). Trong đó quy định quyền hạn của các bên liên quan trong giao dịch tín
dụng chứng từ, nhằm đáp ứng nhu cầu của giới tài chính, ngân hàng cũng như
các doanh nghiệp, các nhà xuất nhập khẩu về một văn bản quy định đầy đủ, dễ
áp dụng và được chấp nhận một cách thống nhất trong việc mở và xử lý một thư
tín dụng.29 Bản quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ số 600 (UCP
600) có hiệu lực từ ngày 01/07/2007 khẳng định bản chất của thư tín dụng là
một cam kết thanh tốn có điều kiện của Ngân hàng phát hành bằng việc quy
định trách nhiệm của ngân hàng phát hành; quy định rõ trách nhiệm của các
ngân hàng có liên quan khác như ngân hàng thông báo, ngân hàng thương lượng
thanh tốn, ngân hàng hồn trả… UCP 600 đã đảm bảo chắc chắn cam kết thanh
toán của ngân hàng đối với người xuất khẩu, tạo lòng tin cho người xuất khẩu
trong giao dịch mua bán ngoại thương. Từ đó, thúc đẩy góp phần thúc đẩy hoạt
động thương mại quốc tế phát triển.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, trong trường hợp quan hệ dân sự kinh tế - thương mại có yếu tố nước ngồi khơng được các văn bản pháp luật
28


GS.TS Võ Thanh Thu, Đại học kinh tế TP.HCM Điều kiện thương mại quốc tế,
/>29
UCP 600 trong Thanh toán quốc tế, />

×