1
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
Hoạt động học tập là một khâu của quá trình dạy học. Trong học tập thì lấy
tự học làm cốt lõi. Tự học là sự nỗ lực của mỗi cá nhân nhằm đạt đến một mục
đích nào đó trên con đường chiếm lĩnh kho tàng tri thức của nhân loại. Sự nỗ lực
đó của con người bao gồm cả tư duy, trí tuệ, động cơ tâm lí, thái độ tình cảm. Hay
nói cụ thể hơn, tự học là cách học với sự tự giác, tính tích cực và độc lập cao của
từng cá nhân. Và theo đó, kết quả tự học cao hay thấp phụ thuộc vào năng lực tự
học của mỗi người. Có thể thấy rằng, tự học là một vấn đề quan trọng, là nhân tố
nội lực quyết định chất lượng học tập, còn hoạt động dạy chỉ là ngoại lực có tác
dụng định hướng, kích thích, điều khiển và chỉ đạo trực tiếp hoặc gián tiếp quá
trình học.
Xã hội ngày càng phát triển thì việc hình thành “xã hội học tập” và việc phát
triển một nền “giáo dục suốt đời” càng có ý nghĩa. Việc học tập suốt đời giúp con
người luôn cập nhật những kiến thức, những hiểu biết mới có ý nghĩa về mặt xã
hội, chính trị, văn hóa, góp phần tích cực trong việc xây dựng xã hội bền vững.
Trong việc học, tự học là vấn đề cốt lõi để giải quyết vấn đề học tập suốt đời.
Nhưng vấn đề đặt ra là tự học như thế nào? Hình thành năng lực tự học cho học
sinh trung học phổ thông (THPT) ra sao đối với từng mơn học nói chung và mơn
Lịch sử nói riêng cũng là vấn đề cần phải bàn luận. Trong xã hội hiện đại, khi khoa
học công nghệ phát triển mạnh mẽ, sự cùng nổ của cuộc cách mạng 4.0 đã có tác
động, ảnh hưởng sâu sắc đến giáo dục nói chung và q trình tự học nói riêng, thì
việc hướng dẫn, giáo dục và hình thành năng lực tự học cho học sinh là nhiệm vụ
quan trọng của người thầy. Chỉ có dạy cách học và học cách tự học, tự sáng tạo
mới đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển xã hội.
Hiện nay, giáo dục cũng như các ngành kinh tế xã hội khác đang gặp phải
những khó khăn, thách thức lớn do dịch bệnh Covid – 19 gây ra. Từ trường hợp
được ghi nhận đầu tiên ngày 23/1/2020, đến nay Việt Nam đã trải qua bốn đợt
dịch, trong đó, đợt dịch thứ 4 (từ 27/4/2021) đang diễn ra hết sức phức tạp tại
Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam. Do dịch bệnh, nhiều địa phương đã
2
phải thực hiện giãn cách xã hội, do vậy, rất nhiều trường học phải chuyển từ dạy –
học trực tiếp sang trực tuyến. Việc học sinh tạm dừng đến trường đã đặt ra khó
khăn và thách thức lớn đối với các nhà trường trong việc duy trì chất lượng giảng
dạy. Trong bối cảnh đó, việc rèn luyện năng lực tự học cho học sinh nói chung lại
càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết.
Xuất phát từ những đòi hỏi của cuộc sống và xã hội về chất lượng nguồn
nhân lực, từ mục tiêu, vị trí, vai trị bộ mơn và thực tiễn dạy học Lịch sử ở trường
THPT, cùng với sự trăn trở với nghề, lòng nhiệt tình mong muốn các em học sinh
ln hứng thú và say mê bộ môn Lịch sử nhiều hơn, cũng như giúp các em tự học
tốt môn Lịch sử trong giai đoạn dịch bệnh Covid -19, tác giả đã quyết định tiến
hành triển khai giải pháp trong dạy học môn Lịch sử như sau:
Một số biện pháp rèn luyện năng lực tự học môn Lịch sử cho học sinh
THPT trong bối cảnh dịch bệnh Covid – 19.
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến (Hiện trạng dạy – học Lịch
sử ở trường THPT trước khi tạo ra sáng kiến)
Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu, đặc biệt qua thực trạng dạy – học trong tình
hình dịch bệnh đang diễn biến phức tạp, tác giả nhận thấy việc rèn luyện năng lực
tự học nói chung và năng lực tự học mơn Lịch sử nói riêng cho học sinh trong các
nhà trường trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Để nắm rõ về thực trạng tự học của
học sinh, tác giả đã tiến hành điều tra tại một số trường THPT và thu được kết quả
về tình hình thực tế như sau:
* Về phía giáo viên
Việc học tập mơn Lịch sử là q trình nhận thức biến những kiến thức khoa
học lịch sử tích lũy từ nhiều thế hệ của nhân loại, được lựa chọn thành kiến thức
của mình. Trong giảng dạy mơn Lịch sử, hầu hết giáo viên đã cố gắng thay đổi
phương pháp dạy học, sử dụng nhiều kĩ thuật dạy học hiện đại theo hướng phát
triển năng lực người học, lấy người học làm trung tâm. Trong q trình đó, giáo
viên đóng vai trị là người tổ chức, hướng dẫn và định hướng các hoạt động, giúp
học sinh tự học, tự lĩnh hội kiến thức. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, ở các trường
3
THPT hiện nay, giáo viên vẫn chủ yếu giảng giải, minh họa, cho ghi chép vì lo học
sinh khơng có tài liệu để ôn thi. Nhiều giáo viên chưa thực sự thay đổi phương
pháp dạy học phù hợp với từng tiết dạy, chưa tích cực hóa các hoạt động của học
sinh để tạo cho các em suy nghĩ, sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri thức. Vì thế,
nhiều học sinh không nắm được nội dung cốt lõi của bài mà chỉ học một cách máy
móc, dẫn đến việc khi trả lời câu hỏi chưa tóm tắt được nội dung theo ý hiểu của
mình, khơng chắt lọc được kiến thức, phụ thuộc vào sách giáo khoa hay vở ghi.
Việc này, căn bản đã hạn chế vai trò chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong quá
trình thực hiện bài dạy, nhiều giáo viên tiến hành hoạt động khởi động chưa hiệu
quả, chưa nêu được vấn đề cần nhận thức của bài học, điều này làm giảm sự tập
trung chú ý của học sinh đối với bài học ngay từ hoạt động đầu tiên. Khi kết thúc
bài học, nhiều giáo viên chưa dành thời gian thích hợp để hướng dẫn học sinh tự
học ở nhà một cách chu đáo, vì thế, hiệu quả tự học của học sinh chưa cao.
Khi dịch Covid – 19 xuất hiện, nhiều trường học nằm trong vũng giãn cách
xã hội phải chuyển sang hình thức học trực tuyến, cả giáo viên và học sinh đều bỡ
ngỡ và gặp rất nhiều khó khăn. Hầu hết, giáo viên đều đã cập nhật và sử dụng các
phần mềm dạy học trực tuyến như zoom, out meeting, olm.vn, shub – classroom...
Tuy nhiên, do hạn chế tiếp xúc trực tiếp, hạn chế trong việc sử dụng các phương
pháp và kĩ thuật dạy học, nhiều giáo viên vẫn lúng túng trong việc hướng dẫn, tổ
chức cho học sinh hình thành kiến thức mới. Tình hình đó cho thấy, nếu giáo viên
khơng có giải pháp trong việc rèn năng lực tự học cho học sinh thì khơng thể hồn
thành mục tiêu của mơn học.
* Về phía học sinh
Hiện nay học sinh chán học sử, tỏ thái độ thờ ơ, đối phó với bộ mơn là thực
trạng phổ biến. Qua điều tra thực tế các trường THPT trên địa bàn huyện về thực
trạng học môn Lịch sử của học sinh từ khi dịch Covid – 19 xuất hiện, tác giả thu
được một số một số kết quả như sau:
- Đại bộ phận học sinh học một cách thụ động, chủ yếu dựa vào tài liệu giáo
viên cho ghi chép để học thuộc, dẫn đến tình trạng học sinh học thuộc được kiến
4
thức nhưng khơng tường minh, vì vậy khơng biết kết nối các kiến thức cũ để có
kiến thức mới.
- Học sinh học chủ yếu chỉ để đối phó với thi cử, kiểm tra nên ý thức học để
tự giải quyết vấn đề chưa trở thành động lực trong học tập, chưa chủ động làm
phong phú thêm kiến thức cho bản thân.
- Việc học trên lớp cịn mang tính chất một chiều, nghĩa là chủ yếu giáo viên
truyền thụ kiến thức (đặc biệt đối với khối lớp 12 – do yêu cầu thi cử), học sinh rất
ít khi trình bày ý kiến của mình, vì cho rằng kiến thức của mình yếu kém, khơng
đủ tự tin để trình bày.
- Do quan niệm mơn chính, mơn phụ, các em thường tập trung vào các mơn
tự nhiên hay các tổ hợp có nhiều cơ hội việc làm, nên không chú trọng đến môn
Lịch sử, nhiều học sinh lười học, chưa có niềm say mê, chưa ham thích và chưa có
ý thức tự học. Học sinh đến lớp hầu như không chuẩn bị bài, trên lớp ít chú ý, khi
có câu hỏi thảo luận hoặc xuất hiện các tình huống có vấn đề, nhiều học sinh
không tham gia động não nên việc học không đạt hiệu quả cao.
- Khi dịch Covid – 19 xuất hiện, nhiều trường phải tạm dừng đến trường và
chuyển sang hình thức dạy – học trực tuyến. Nhiều học sinh chưa chuẩn bị được
các điều kiện về công nghệ thông tin để học. Trong quá trình học, do đường truyền
mạng kém, cả giáo viên và học sinh thường bị out ra khỏi lớp, điều này làm cho
việc học bị gián đoạn. Giáo viên cũng khó có thể sát xao với từng học sinh, khó
quản lí được việc học trước màn hình máy tính hoặc điện thoại của học sinh. Thêm
vào đó, tình trạng học sinh học online một cách đối phó diễn ra khá phổ biến, nhiều
học sinh đăng nhập vào lớp nhưng chưa có ý thức học nghiêm túc, còn làm việc
riêng, chưa tập trung, chú ý vào bài giảng. Tất cả những yếu tố đó ít nhiều cũng
ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học.
Xuất phát từ thực trạng trên, tác giả nhận thấy rằng, hơn bao giờ hết, trong
bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp, việc rèn luyện năng lực tự học Lịch sử cho
học sinh là một việc làm cần thiết và là một trong những nhiệm vụ tối quan trọng
của người thầy để đảm bảo duy trì chất lượng dạy và học Lịch sử. Rèn luyện năng
lực tự học Lịch sử cho học sinh có vị trí quan trọng trong việc đào tạo người lao
5
động có năng lực thực hành, tự chủ, năng động, sáng tạo, giúp học sinh đào sâu,
củng cố , mở rộng kiến thức khi phải học trực tuyến. Đó cũng là biện pháp thiết
thực góp phần nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử trong tình hình dịch bệnh, tiếp
tục thực hiện mục tiêu đào tạo và phát triển toàn diện con người.
2. Mơ tả giải pháp sau khi có sáng kiến (Biện pháp rèn luyện năng lực
tự học Lịch sử cho học sinh)
Rèn luyện năng lực tự học cho học sinh bao gồm những nội dung sau:
- Trang bị cho học sinh những kiến thức về phương pháp học tập bộ môn.
Đặc trưng của kiến thức lịch sử là tính q khứ, tính khơng lặp lại, tính cụ thể, hệ
thống.Vì vậy, con đường hình thành kiến thức lịch sử cho học sinh phải đi từ
nghiên cứu sự kiện, tạo biểu tượng để hình thành khái niệm, rút ra qui luật và bài
học lịch sử. Giáo viên cần căn cứ vào đặc trưng này để hình thành và rèn luyện cho
học sinh phương pháp học tập bộ mơn, trong đó có phương pháp tự học.
- Hình thành và rèn luyện cho học sinh các kĩ năng tự học ở trên lớp (trong
trường hợp học trực tiếp tại trường), ở nhà (trong cả trường hợp học trực tiếp và
trực tuyến), và các hoạt động ngoại khóa (nếu có điều kiện tổ chức).
- Năng lực tự học lịch sử còn bao gồm cả yếu tố thái độ, đạo đức như ý chí,
lịng quyết tâm, tính kiên trì, tinh thần vượt khó trong học tập.
Các nội dung trên có quan hệ mật thiết, đan xen vào nhau. Thông qua rèn
luyện các kĩ năng tự học, giáo viên sẽ trang bị cho học sinh kiến thức và phương
pháp học tập bộ môn. Nếu giáo viên có kiến thức lịch sử uyên thâm, phương pháp
giảng dạy hay nhưng học sinh không chịu đầu tư thời gian tự học, khơng nỗ lực,
khơng tích cực, tự giác thì kết quả học tập sẽ khơng cao.
Để rèn luyện năng lực tự học môn Lịch sử cho học sinh, giáo viên có thể sử
dụng các biện pháp như sau:
2.1. Trường hợp học trực tiếp trên lớp
Trong trường hợp tình hình dịch bệnh ổn định, học sinh vẫn được đến
trường, việc rèn luyện năng lực tự học môn Lịch sử cho học sinh diễn ra ngay khi
ở trên lớp, ở nhà và khi tham gia các hoạt động ngoại khóa. Khi hoạt động dạy –
6
học diễn ra bình thường trên lớp, giáo viên có thể rèn luyện năng lực tự học cho
học sinh theo các biện pháp như sau:
* Thứ nhất, rèn luyện cho học sinh biết tự điều chỉnh khi nghe giảng để
nắm vững các kiến thức cơ bản cần hình thành.
Nội dung của mỗi bài học là rất nhiều, trong vòng một tiết học, học sinh
không thể ghi chép hết tất cả những nội dung giáo viên truyền đạt, mà cần phải biết
chắt lọc những nội dung chủ yếu, cốt lõi nhất. Để giúp học sinh làm được điều này
giáo viên cần:
- Giao nhiệm vụ học tập cho học sinh một cách cụ thể, rõ ràng và định
hướng phương pháp, cách thức tổ chức thực hiện giúp học sinh hình dung các công
việc cần phải thực hiện để giải quyết được nhiệm vụ được giao. Điều này thể hiện
ở việc xây dựng tình huống học tập trong hoạt động khởi động, nêu vấn đề trước
mỗi nội dung bài học, gợi ý, định hướng cho học sinh về cách thức thực hiện
nhiệm vụ, ...
* Ví dụ: Khi dạy Bài 3: Các nước Đơng Bắc Á, lớp 12 – chương trình
chuẩn, trong hoạt động khởi động, giáo viên cho học sinh quan sát lược đồ khu
vực Đông Bắc Á, yêu cầu học sinh quan sát và trả lời các câu hỏi:
+ Đây là khu vực nào? Kể tên các nước, vùng lãnh thổ trong khu vực.
+ Tình hình các nước trong khu vực trước chiến tranh thế giới thứ hai có
điểm gì nổi bật? (Với câu hỏi này học sinh sử dụng kiến thức đã được hình thành
năm lớp 11 để trả lời).
+ Giáo viên nêu vấn đề: Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình khu vực
có những chuyển biến như thế nào?
Qua hoạt động khởi động nêu trên, giáo viên đã giao nhiệm vụ cho học sinh
một cách rõ ràng, học sinh có thể sử dụng kiến thức địa lí, sự hiểu biết của bản
thân và kiến thức đã học để giải quyết các vấn đề đó. Tuy nhiên, trong vấn đề cuối
cùng: Những biến đổi của khu vực sau chiến tranh thế giới thứ hai thì những hiểu
biết và kiến thức của học sinh chưa đủ để giải quyết, tình huống đó đã tạo ra một
rào cản của nhận thức, vì vậy sẽ tạo được hứng thú lớn của học sinh khi vào bài
mới.
7
- Kích thích học sinh tích cực, độc lập suy nghĩ, tự hình thành kiến thức cơ
bản thơng qua hệ thống các câu hỏi gợi mở, hướng dẫn, vận dụng trình bày nêu
vấn đề, tổ chức cho học sinh làm việc nhóm... để giúp học trình trả lời được vấn đề
của mục hay tồn bài.
* Ví dụ: khi học bài 16: Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa
tháng Tám (1939 – 1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hịa ra đời, lớp 12 –
chương trình chuẩn, tìm hiểu về hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương tháng 11/1939 và tháng 5/1941, giáo viên có thể hướng dẫn học
sinh tìm hiểu bằng cách lập bảng so sánh như sau:
Nội dung
Hội nghị 11/1939
Hội nghị 5/1941
Địa điểm
Người chủ trì
Nội dung hội nghị:
- Nhiệm vụ, mục tiêu.
- Khẩu hiệu.
- Phương pháp đấu tranh.
- Hình thức mặt trận.
- Chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa.
Ý nghĩa
Việc hướng dẫn học sinh lập bảng về Hội nghị tháng 11/1939 và Hội nghị
tháng 5/1941 giúp học sinh dễ dàng hình thành kiến thức mới về chủ trương đấu
tranh của Đảng Cộng sản Đông Dương trong giai đoạn 1939 – 1945. Không những
thế, học sinh cịn có thể so sánh được những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai
hội nghị. Qua đó, học sinh hiểu sâu sắc sự kiện và nâng cao được năng lực tự học
trên lớp của mình.
- Hướng dẫn học sinh biết kết hợp các công việc trong quá trình nghe giảng:
vừa nghe giảng, vừa ghi chép, vừa trao đổi thảo luận, theo dõi sách giáo khoa.
Trong quá trình hình thành kiến thức mới học sinh phải tự ghi chép được những
8
nội dung cơ bản của bài theo dàn ý và tự đặt ra những câu hỏi, thắc mắc để giải
quyết trên lớp hoặc tiếp tục suy nghĩ ở nhà.
- Kiểm tra hoạt động nhận thức của học sinh để đánh giá mức độ lĩnh hội,
hình thành kiến thức mới, mức độ nắm vững kiến thức và kết quả hoạt động nhận
thức độc lập của học sinh. Đây là một trong những khâu rất quan trọng của quá
trình dạy – học, giúp giáo viên đánh giá chính xác hiệu quả dạy – học trên lớp,
mức độ nhận thức của học sinh. Có nhiều cách kiểm tra đánh giá, giáo viên có thể
kiểm tra trong quá trình diễn ra tiết học, hoặc cuối giờ, kiểm tra theo hình thức trị
chơi, câu hỏi ngắn, câu hỏi trắc nghiệm...
* Thứ hai, rèn luyện cho học sinh biết cách chọn lọc kiến thức để ghi
chép theo ý hiểu của bản thân.
Thực tế hiện nay ở trường phổ thông tồn tại hai xu hướng ghi chép bài: đó là
ghi sơ lược dàn bài hoặc ghi chép tỉ mỉ, chi tiết, dàn trải... Cả hai cách ghi bài này
đều gây cho học sinh những khó khăn nhất định trong quá trình học tập trên lớp và
ở nhà. Ghi bài sơ sài học sinh khơng hình dung được nội dung cụ thể của bài học,
đặc biệt sẽ không đáp ứng được yêu cầu của thi cử hiện nay. Còn nếu ghi bài quá
chi tiết, tỉ mỉ và dàn trải thì việc học lại trở thành đọc – chép, học sinh bị động, và
đặc biệt là trên lớp không có đủ thời gian. Muốn cho học sinh ghi chép tỉ mỉ, giáo
viên lại phải nhồi nhét, vội vàng, tiết học lại trở nên căng thẳng với cả thầy và trị.
Vì lí do trên, giáo viên cần hướng dẫn, rèn luyện cho học sinh biết cách ghi
chép tóm tắt nội dung bài học sao cho ngắn gọn, đủ ý, chính xác, dễ hiểu, dễ nhớ,
gợi tư duy. Muốn vậy, học sinh phải biết tổng hợp nhanh, ghi chép nhanh, ghi nhớ
các vấn đề và biết cách trình bày trong vở ghi. Để làm được điều đó, giáo viên cần
hướng dẫn cho học sinh biết cách:
- Ghi dàn ý bài học theo nội dung chính của bài học mà giáo viên trình bày
trên bảng và đối chiếu với sách giáo khoa để ghi lại những sự kiện chính.
- Cụ thể hóa nội dung bài học bằng những hình ảnh đơn giản, phù hợp với
nội dung bài học và kiến thức cần được hình thành.
- Ghi các số liệu, niên đại quan trọng, niên biểu, đồ thị...
9
- Ghi lại các tài liệu lịch sử gốc, những câu nói nổi tiếng của các danh nhân,
câu trích khơng có trong sách giáo khoa...
- Ghi những từ mới, thuật ngữ để hiểu nội dung khái niệm, kiến thức cơ bản
của bài học.
- Ghi những phân tích, đánh giá, mở rộng và những hướng dẫn, dặn dị của
giáo viên.
* Ví dụ:
Khi dạy học Mục I - Bài 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến
tranh thế giới thứ hai (1945 – 1949) – lớp 12 – chương trình chuẩn , giáo viên
cần hướng dẫn học sinh nắm được những ý chính, khái quát về Hội nghị Ianta:
- Hoàn cảnh
- Thời gian
- Thành phần tham gia
- Những quyết định quan trọng của hội nghị
- Tác động...
Trên cơ sở dàn ý bai học đó, học sinh ghi chép những nội dung cốt lõi nhất
vào vở của mình. Trong quá trình ghi chép, học sinh có thể dùng những loại bút
khác màu mực hoặc bút lông để đánh dấu những nội dung quan trọng cần được lưu
ý.
Như vậy, để rèn luyện năng lực tự học trên lớp cho học sinh, giáo viên cần
rèn luyện cho học sinh biết cách ghi chép nội dung bài học theo ý hiểu, hướng dẫn
học sinh biết cách xây dựng đề cương, tóm tắt sách giáo khoa, đoạn trích khi đọc
sách giáo khoa lịch sử. Đồng thời, trong quá trình dạy học trên lớp, giáo viên cần
trình bày bảng khoa học theo hệ thống, logic, giúp học sinh dễ nhớ, dễ hiểu. Điều
này đòi hỏi giáo viên cần xác định đúng những kiến thức cơ bản cần ghi lên bảng,
nhấn mạnh những kiến thức cần phân tích, mở rộng trong khi giảng bài.
* Thứ ba, rèn luyện học sinh biết kết hợp sử dụng sách giáo khoa với vốn
sống thực tế cùng với những kiến thức đã học để tự trả lời câu hỏi, bài tập của
giáo viên.
10
Việc tự trả lời các câu hỏi của giáo viên đưa ra trong các giờ học sẽ giúp học
sinh nhớ nhanh, nhớ lâu, hiểu sâu sắc kiến thức và phát triển tư duy độc lập cho
các em. Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thơng, giáo viên có thể sử dụng nhiều
câu hỏi (tùy đối tượng học sinh) để học sinh động não, suy nghĩ trả lời như câu hỏi,
vấn đề nhận thức được đặt ra ở đầu giờ, đầu mỗi mục, hệ thống các câu hỏi gợi mở
trong suốt quá trình tiến hàn bài học mang nội dung tìm kiếm từng phần hay phân
tích, đánh giá, khái qt sự kiện, hiện tượng lịch sử, câu hỏi yêu cầu học sinh vận
dụng kiến thức... Trên cơ sở yêu cầu của câu hỏi, giáo viên hướng dẫn học sinh
vận dụng các nguồn kiến thức đã có và hướng dẫn học sinh quy trình giải quyết
từng loại câu hỏi phù hợp.
* Ví dụ: Khi dạy học Mục I - Bài 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau
chiến tranh thế giới thứ hai (1945 – 1949) – lớp 12 – chương trình chuẩn, để
học sinh hiểu rõ hơn về thành phần tham dự hội nghị Ianta, giáo viên đặt câu hỏi:
“Tại sao thành phần tham dự hội nghị Ianta gồm có 3 nước Liên Xơ, Mĩ Anh?”
Học sinh sẽ sử dụng những kiến thức đã được học về Chiến tranh thế giới
thứ hai năm lớp 11 để giải thích: đây là những nước trụ cột trong phe đồng minh,
có vai trò quyết định trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít....
* Thứ tư, rèn luyện học sinh biết sử dụng sách giáo khoa một cách hợp lí,
hiệu quả.
Sách giáo khoa là tài liệu học tập cơ bản của mỗi học sinh để có thể tự học
trên cơ sở có hướng dẫn của giáo viên. Nội dung sách giáo khoa lịch sử cung cấp
cho học sinh những hệ thống tri thức khoa học, chính xác về lịch sử lồi người và
lịch sử dân tộc. Qua đó, rèn luyện cho học sinh tư duy logic biện chứng, năng lực
tự học lịch sử và giáo dục thế giới quan khoa học, chính xác, những tư tưởng, tình
cảm đúng đắn. Để làm được điều đó, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực hiện
những cơng việc sau:
- Tìm trong sách giáo khoa những nội dung cần thiết để trả lời câu hỏi khi
giải quyết vấn đề mà giáo viên đưa ra thông qua việc hướng dẫn học sinh đọc từng
phần nội dung bài viết hoặc sử dụng các đoạn chữ nhỏ trong sách giáo khoa.
11
* Ví dụ: Khi dạy học Mục I - Bài 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau
chiến tranh thế giới thứ hai (1945 – 1949) – lớp 12 – chương trình chuẩn, để
làm rõ sự phân chia phạm vi ảnh hưởng giữa các nước lớn ở châu Âu và châu Á,
giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác phần chữ nhỏ trong sách giáo khoa để thấy
được sự phân chia giữa các nước lớn, từ đó giải thích được tác động của những
quyết định đó đối với sự hình thành trật tự thế giới hai cực do Liên Xô và Mĩ đứng
đầu mỗi cực.
- Hướng dẫn học sinh khai thác kênh hình để hiểu sâu sắc kiến thức thông
qua tranh ảnh, sơ đồ, đồ thị, và đọc được các loại bản đồ lịch sử. Để học sinh được
rèn luyện khả năng này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh khai thác từng loại kênh
hình sao cho phù hợp với đặc thù mỗi loại và theo một quy trình nhất định.
* Ví dụ: khi học bài 6: Nước Mĩ, lớp 12 – chương trình chuẩn, để hiểu rõ
hơn về sự phát triển khoa học kĩ thuật của Mĩ sau chiến tranh thế giới thứ hai, học
sinh có thể khai thác hình 18: Trung tâm Hàng khơng vũ trụ Ken – nơ – đi. Giáo
viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu bằng cách miêu tả, nhận xét hình ảnh để rút ra
đặc điểm của sự phát triển khoa học kĩ thuật của nước Mĩ.
* Thứ năm, hướng dẫn học sinh biết tự chuẩn bị bài mới.
Để việc học trên lớp nhanh chóng và hiệu quả, học sinh cần có sự chuẩn bị
bài mới trước khi đến lớp. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh cách đọc sách giáo
khoa để tóm tắt nội dung chủ yếu của bài học, ghi lại những nội dung không hiểu,
đặc biệt là các thuật ngữ, khái niệm… điều này giúp học sinh có một tâm thế sẵn
sàng, chủ động trong quá trình hình thành kiến thức mới trên lớp.
* Ví dụ: Khi dạy học bài 10: Cách mạng khoa học công nghệ và xu thế
tồn cầu hóa nửa sau thế kỉ XX, lớp 12 – chương trình chuẩn, giáo viên hướng
dẫn học sinh chuẩn bị bài trước ở nhà với các nội dung sau:
- Nguồn gốc, đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học công nghệ.
- Khái niệm, biệu hiện, tác động của xu thế tồn cầu hóa.
- Tìm hiểu các khái niệm cơ bản: cách mạng khoa học – công nghệ; lực
lượng sản xuất, tồn cầu hóa....
12
Bằng cách giao nhiệm vụ như trên, học sinh có thể dễ dàng chuẩn bị các nội
dung của bài 10 ở nhà và triển khai bằng nhiều cách như sơ đồ hóa, làm poster...
Điều này giúp cho q trình học ở trên lớp sẽ đơn giản, dễ dàng và hứng thú hơn.
* Thứ sáu, rèn luyện năng lực tự học thơng qua các hoạt động ngoại
khóa.
Hoạt động ngoại khóa là một hình thức tổ chức dạy học lịch sử ở trường phổ
thơng, có tác dụng tích cực trong việc giáo dưỡng, giáo dục và phát triển tồn diện
học sinh, góp phần cùng với các tiết học trên lớp hoàn thành nhiệm vụ bộ mơn.
Qua hoạt động ngoại khóa, học sinh được rèn luyện khả năng làm việc độc lập với
sách giáo khoa, tài liệu tham khảo và các nguồn kiến thức khác. Trên cơ sở đó, học
sinh nắm vững kiến thức qua việc tìm tịi, nghiên cứu. Vì vậy, nếu tổ chức tốt các
hoạt động ngoại khóa sẽ có tác dụng lớn trong việc nâng cao năng lực tự học cho
học sinh. Hình thức hoạt động ngoại khóa rất đa dạng: đọc sách, kể chuyện, trao
đổi, thảo luận, tham quan, dã ngoại, sưu tầm tài liệu lịch sử địa phương... Thơng
qua hoạt động ngoại khóa, giáo viên rèn được cho học sinh nhiều thói quen tự học
như: tự ơn luyện kiến thức, đọc sách, sưu tầm hình ảnh, vận dụng kiến thức đã học
vào thực tiễn.
13
* Ví dụ: để học sinh có thêm những hiểu biết sâu sắc thêm về cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mĩ của dân tộc, giáo viên có thể tổ chức một buổi
ngoại khóa với chủ đề: “Ấn tượng về anh bộ đội cụ Hồ”. Trong đó, học sinh có thể
tùy ý sử dụng các hình thức thể hiện khác nhau về hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ như
dựng các bài nhạc kịch, sân khấu hóa lịch sử, vẽ tranh, sáng tác nhạc.. Hoạt động
này chắc chắn sẽ khơi gợi được hứng thú, kích thích được sự sáng tạo và phát
triển, rèn luyện năng lực tự học cho học sinh.
Có thể nói rằng, tiến hành bài học lịch sử ở trên lớp là hình thức tổ chức dạy
học cơ bản, chủ yếu ở trường phổ thông. Nếu rèn luyện được cho học sinh năng
lực tự học lịch sử qua các giờ trên lớp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả bài học nói
riêng và hiệu quả giáo dục bộ mơn nói chung. Vì vậy, trong q trình dạy – học,
giáo viên có thể linh động lựa chọn các biện pháp trên đây sao cho phù hợp với đối
tượng học sinh, phù hợp với đơn vị, nội dung kiến thức cần được hình thành.
2.2. Trường hợp học trực tuyến tại nhà
Trước những diễn biến phức tạp của dịch bệnh, các nhà trường có thể
chuyển sang hình thức dạy học trực tuyến bất cứ lúc nào. Trong trường hợp đó, thì
việc rèn luyện năng lực tự học lịch sử ở nhà cho học sinh lại càng trở nên quan
trọng và cần thiết. Để đáp ứng được yêu cầu bộ môn và duy trì chất lượng dạy học,
giáo viên cần hướng dẫn, rèn luyện học sinh tự học ở nhà bằng các biện pháp cụ
thể như sau:
* Thứ nhất, hướng dẫn, rèn luyện học sinh tự học để nắm vững tài liệu
học tập theo các bước như sau:
- Nghiên cứu lại vở ghi và sách giáo khoa để thống nhất và hiểu sâu kiến
thức.
- Tái hiện lại kiến thức đã học bằng nhiều hình thức như sơ đồ hóa kiến
thức, lập bảng thống kê, niên biểu các sự kiện, so sánh các sự kiện…
* Ví dụ: đối với Bài 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh
thế giới thứ hai (1945 – 1949), lớp 12 – chương trình chuẩn, để học sinh có thể
nắm vững được những nội dung kiến thức về trật tự hai cực Ianta, giáo viên có thể
hướng dẫn học sinh tự học bằng việc sơ đồ hóa kiến thức như sau:
14
* Một số sơ đồ tư duy học sinh tự học trong chương trình lịch sử lớp 12 –
chương trình chuẩn:
15
- Hoàn thành các bài tập và hệ thống câu hỏi được giao.
- Tự làm việc với bản đồ, lược đồ, tranh ảnh ngồi sách giáo khoa.
* Ví dụ: Khi học bài 3: Các nước Đông Bắc Á, lớp 12 – chương trình
chuẩn, để hình dung được vị trí địa lí, phạm vi, các quốc gia có trong khu vực, học
sinh có thể tìm kiếm trên mạng và làm việc với lược đồ sau:
16
- Tự đọc các tài liệu lịch sử, văn hóa trong tài liệu tham khảo, sách đọc để
hiểu thêm hơn về những kiến thức đã học và mở rộng hiểu biết.
* Ví dụ, khi học Bài 15: Phong trào dân chủ 1936 - 1939, lớp 12 – chương
trình chuẩn, để hiểu thêm về khơng khí đấu tranh sổi nổi của nhân dân Nam Định
trong phong trào đấu tranh đòi các quyền tự do, dân sinh, dân chủ trong thời kì
1936 – 1939, học sinh có thể tham khảo đoạn tài liệu báo mạng như sau: “Từ ngày
31/10/1935 đến ngày 6/10/1937 tại Nam Định đã nổ ra 33 cuộc đấu tranh - một kỷ
lục về các cuộc đấu tranh từ trước tới giờ. Nổi bật là cuộc đấu tranh có quy mô
lớn chưa từng thấy của 8.000 công nhân Nhà máy sợi kéo dài hơn một tháng từ
2/2/1937 đến 3/3/1937.Tháng 5/1937, tỉnh ủy lâm thời được thành lập lại do Đặng
Hữu Rạng làm bí thư, sau đó Trần Hoạt được cử làm bí thư. Lúc này ngồi các đại
lý sách báo cánh tả của Đảng tuyên truyền các sách báo cách mạng và tiến bộ,
nhiều sách báo từ Hà Nội chuyển về cũng được phân phát khắp nơi như: Vấn đề
dân cày của Qua Ninh (Trường Chinh) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp), Nhật ký
tuyệt thực chín ngày rưỡi của Phan Đình Khải (Lê Đức Thọ)... Tháng 3/1938, Tỉnh
ủy tổ chức một cuộc mít tinh với hơn 4.000 người tham gia, lấy danh nghĩa là đưa
tiễn Công sứ Alơmăng, nhưng thực chất là cuộc biểu dương lực lượng đòi tự do
lập nghiệp đồn, tự do hội họp, địi tăng lương... ngay tại sân ga Nam Định.
Phát huy khí thế trên, ngày 29/7/1938, Đảng bộ lại tổ chức cơng nhân biểu
tình lấy cớ “đón thống sứ Saten (Châtel)” để đưa yêu sách đòi tự do dân chủ.
Cũng năm 1938, Đảng bộ Nam Định cịn vận động được đơng đảo quần chúng về
dự mít tinh lớn ở khu Đấu Xảo (Hà Nội) để kỷ niệm ngày Quốc tế lao động nhằm
ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp, phản đối bọn phản động thuộc địa, đòi tự do dân
chủ và yêu cầu phòng thủ Đông Dương”.
Đoạn tài liệu trên không nằm trong sách giáo khoa, giáo viên có thể cung
cấp cho học sinh hoặc học sinh có thể đọc tham khảo trên mạng để có cái nhìn đa
chiều về cuộc đấu tranh dân tộc dân chủ của nhân dân Việt Nam nói chung cũng
như tinh thần đấu tranh của nhân dân Nam Định nói riêng. Việc sử dụng đoạn tài
liệu này đồng thời cũng góp phần khơng nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả dạy học
lịch sử địa phương.
17
- Tận dụng các nguồn tài liệu sẵn có hoặc làm bài tập giáo viên giao trên các
phần mềm ứng dụng dạy học trực tuyến như olm.vn; onluyen.vn, shub –
classroom...
Học sinh làm bài tập trên các ứng dụng học trực tuyến
18
* Thứ hai, hướng dẫn học sinh tự ôn tập
Do đặc trưng của lịch sử là mang tính quá khứ, việc thường xun củng cố,
ơn tập có vai trị quan trọng, là khâu khơng thể thiếu trong q trình dạy học bộ
môn. Để hướng dẫn và rèn luyện học sinh tự học, tự ôn tập ở nhà, giáo viên cần chỉ
rõ mục tiêu phần kiến thức cần ôn tập, giao nhiệm vụ học học sinh và xác định rõ
thời gian hồn thành, đưa ra cộng cụ và tiêu chí đánh giá kết quả tự học của học
sinh, kiểm tra việc tự học của học sinh.
Trong điều kiện không thể đến trường, giáo viên có thể giao bài tập cho học
sinh trên các phần mềm dạy học trực tuyến, điển hình như Shub – Classroom và
phần mềm onluyen.vn. Đây là những phần mềm trực tuyến tích hợp nhiều chức
năng, giáo viên giao bài tập và giới hạn thời gian để học sinh hồn thành nhiệm vụ
của mình.
* Thứ ba, hướng dẫn học sinh biết tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
thơng qua việc hồn thành bài tập về nhà, tự trả lời câu hỏi trong sách giáo
khoa.
Để học sinh có thể tự đánh giá kết quả tự học của mình tại nhà, giáo viên
hướng dẫn học sinh cách thức đánh giá thông qua nhiều kênh, như đối chiếu với
nội dung sách giáo khoa, đối chiếu với nội dung đáp án có sẵn hoặc giáo viên gửi
trực tiếp cho học sinh.
Có thể thấy rằng, việc tự học ở nhà của học sinh rất đa dạng, phong phú, có
tác dụng lớn trong việc củng cố, hiểu sâu, hoàn thiện kiến thức, rèn các kĩ năng kĩ
xảo học tập cho học sinh và giáo dục tư tưởng tình cảm cho học sinh. Nếu tổ chức
tốt hoạt động tự học ở nhà cho học sinh sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học
bộ mơn.
Để tự học có hiệu quả cao, giáo viên cần giúp học sinh có thái độ đúng đắn
và ý thức được mục đích, nhiệm vụ của cơng việc tự học ở nhà, nhiệm vụ giao cho
học sinh ở nhà phải tạo được hứng thú đối với học sinh, vừa đảm bảo trình độ
chung của cả lớp, vừa phải chú ý đến những đối tượng học sinh giỏi và học sinh
yếu kém, tạo điều kiện thuận lợi (sách báo, tài liệu, thời gian…) để học sinh có thể
tự học. Đồng thời, rèn luyện cho học sinh thói quen, phương pháp tự học ở nhà,
19
thường xuyên kiểm tra bài tập để nâng cao ý thức, trách nhiệm của học sinh. Thêm
vào đó, khối lượng bài học, bài tập giáo viên giao cho học sinh ở nhà cũng phải
đảm bảo vừa đủ, vừa sức với các em.
* Kết luận: Có nhiều biện pháp rèn luyện năng lực tự học lịch sử cho học
sinh, song khi áp dụng mỗi biện pháp cần phải góp phần thực hiện mục tiêu dạy
học ở trường phổ thông, giúp học sinh nắm vững kiến thức, góp phần tích cực
trong việc đổi mới phương pháp dạy học, đồng thời cũng phải linh hoạt, phù hợp
với đối tượng, khả năng nhận thức của học sinh cũng như tuân thủ các phương
pháp dạy học bộ môn và con đường nhận thức lịch sử.
Trong tình hình dịch bệnh diễn biến ngày càng phức tạp, giáo viên càng phải
quan tâm nhiều hơn nữa đến việc rèn luyện năng lực tự học cho học sinh để góp
phần duy trì chất lượng dạy – học bộ mơn.
2.3. Thực nghiệm sư phạm
Để kiểm chứng tính đúng đắn và khả thi của việc rèn luyện năng lực tự học
lịch sử cho học sinh trong bối cảnh dịch bệnh Covid – 19, tác giả đã tiến hành thực
nghiệm sư phạm như sau:
Mục đích thực nghiệm
- Nhằm kiểm tra sự phù hợp và tính khả thi của một số biện pháp rèn luyện
năng lực tự học lịch sử cho học sinh.
- Khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng các biện pháp đã đề xuất.
- Rút ra được những bài học kinh nghiệm cũng như đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử.
Đối tượng thực nghiệm
Tác giả tiến hành thực nghiệm tại trường THPT Đỗ Huy Liêu, Ý Yên, Nam
Định
- Lớp thực nghiệm: 12A2 (Ban Xã hội) gồm 31 học sinh.
- Lớp đối chứng: 12A5 (Ban Xã hội) gồm 31 học sinh.
Đây là những lớp mà học sinh được đánh giá là có lực học khá của trường
THPT Đỗ Huy Liêu, có nề nếp và ý thức học tập tương đối tốt trong khối 12 và
20
trong trường. Học sinh của hai lớp đều sử dụng SGK Lịch sử 12, chương trình
chuẩn.
Nội dung và phương pháp thực nghiệm
* Nội dung thực nghiệm: Tác giả thực hiện giảng dạy thực nghiệm nội dung
phần Lịch sử thế giới, lớp 12 THPT (Chương trình chuẩn).
* Phương pháp thực nghiệm: Để khách quan trong việc lựa chọn lớp thực
nghiệm, tác giả đảm bảo nguyên tắc đồng đều về số lượng (Lớp 12A2: 31 học sinh;
lớp 12A5: 31 học sinh), mức độ học tập và nhận thức của lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng là tương đương nhau, đều thuộc lớp chuyên ban.
- Ở lớp thực nghiệm: giáo viên chú ý đến việc hướng dẫn, rèn luyện năng
lực tự học cho học sinh ở mỗi bài học.
- Ở lớp đối chứng: giáo viên giảng dạy bình thường, khơng áp dụng các biện
pháp rèn luyện năng lực tự học cho học sinh.
Tiến trình thực nghiệm
- Thời gian thực nghiệm: năm học 2020 – 2021, thời gian thực nghiệm từ
ngày 5/9/2020 đến ngày 30/11/2021.
- Sau khi tiến hành dạy học ở 2 lớp trên theo đề xuất thực nghiệm, để đánh
giá kết quả tác giả dựa trên 2 tiêu chí:
Về mặt định lượng: tác giả tiến hành kiểm tra hoạt động nhận thức của học
sinh cả hai lớp bằng các câu hỏi giống nhau thông qua bài kiểm tra 45 phút.
Về mặt định tính: Quan sát, đánh giá q trình học tập của học sinh chủ yếu
trên các mặt như: Tính tích cực, chủ động, tự giác, say mê trong học tập, hứng thú
đối với tiết dạy của giáo viên, sự kết hợp hài hịa giữa hoạt động của thầy và trị,
khơng khí lớp học hào hứng, sôi nổi…
Sau khi tiến hành kiểm tra kết quả học tập ở lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng, tác giả tiến hành chấm bài thu được để rút ra kết quả của quá trình thực
nghiệm sư phạm. Cách đánh giá:
- HS đạt 9 – 10: Giỏi
- HS đạt 7 – 8: Khá
- HS đạt 5 – 6: Trung bình
21
- HS đạt dưới 5: Yếu kém
Phân tích kết quả thực nghiệm
Sau khi tiến hành giảng dạy ở 2 lớp thực nghiệm và lớp đối chứng kết quả
thu được như sau:
BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
Điểm
Lớp
Sĩ số
Giỏi
Khá
Số
lượng
Tỉ lệ %
Số
lượng
Tỉ lệ %
Trung bình
Số
Tỉ lệ %
lượng
Yếu
Số
lượng
Tỉ lệ %
Thực ngiệm 12A2
31
11
35,5
14
46,7
4
13,3
2
4,4
Đối chứng 12A3
31
6
18,2
13
40,9
8
29,5
4
11,4
So sánh kết quả thực nghiệm qua biểu đồ sau:
Biểu đồ so sánh kết quả thực nghiệm sư phạm
50
45
40
35
30
25
20
15
10
5
0
Giỏi
Khá
Lớp thực nghiệm
Trung bình
Yếu
Lớp đối chứng
Qua bảng và biểu đồ so sánh kết quả kiểm tra chất lượng giờ học đối với hai
lớp 12A2 (thực nghiệm) và 12A5 (đối chứng) có thể thấy việc rèn luyện năng lực
tự học lịch sử cho học sinh ở lớp thực nghiệm đã phát huy được tính tích cực, tự
giác, sáng tạo, hứng thú học tập của học sinh trong giờ học, tư duy của các em
được phát triển. Điều đó, chứng tỏ tính khả thi của các biện pháp mà tác giả đã đề
xuất. Do đó, sau khi kết thúc dạy thực nghiệm, tác giả đã áp dụng giải pháp đối với
22
tất cả các lớp tác giả giảng dạy để nâng cao chất lượng dạy – học bộ môn. Đồng
thời, tác giả còn chia sẻ, đề xuất với đồng nghiệp tại các trường THPT trên địa bàn
huyện cùng thử nghiệm giải pháp để một lần nữa khẳng định tính khả thi của các
biện pháp mà tác giả đề xuất.
III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI
1. Hiệu quả về mặt xã hội: góp phần nâng cao chất lượng dạy – học Lịch
sử
Tác giả chủ quan nhận thấy sự thay đổi trong phương pháp giảng dạy của
mình đã đem lại khơng khí mới cho những tiết học. Cùng với việc sử dụng kết hợp
nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học tích cực, việc rèn luyện năng lực tự học
lịch sử cho học sinh đã thực sự mang lại hiệu quả cao. Hiệu quả đó khơng chỉ thể
hiện bằng điểm số mà học sinh có được sau bài kiểm tra mà nó cịn thể hiện ở việc
học sinh nắm được bài, nhớ lâu - nhớ sâu - nhớ kĩ kiến thức đã học; học sinh có thể
phát huy khả năng tư duy, khả năng trình bày một vấn đề, khả năng phản biện…
của mình trong việc học tập mơn Lịch sử; đồng thời tạo ra sự hứng thú trong quá
trình hình thành kiến thức mới của học sinh. Giờ đây đến những tiết học Lịch sử,
thời gian không trôi đi nặng nề, học sinh được cuốn vào những hoạt động trên lớp,
khơng cịn hiện tượng uể oải, lơ đãng. Nhiều em vốn nhút nhát ít khi giơ tay phát
biểu cũng tham gia tích cực vào bài học. Khả năng ghi nhớ bài học của các em tốt
hơn, nhiều em có thể nhớ ngay được bài trên lớp. Điều đó chứng tỏ các em thực sự
hiểu và chiếm lĩnh được kiến thức, năng lực tự học lịch sử của các em được nâng
cao.
2. Khả năng áp dụng và nhân rộng
Qua nghiên cứu và tiến hành thực nghiệm tại trường THPT Đỗ Huy Liêu,
tác giả nhận thấy việc rèn luyện năng lực tự học lịch sử cho học sinh trong tình
hình dịch bệnh Covid – 19 có tác dụng lớn trong việc duy trì và nâng cao chất
lượng dạy – học môn Lịch sử của nhà trường. Tác giả đã trao đổi, chia sẻ, đề nghị
các đồng nghiệp tại trường THPT Phạm Văn Nghị, và trường THPT Đại An,
huyện Ý Yên sử dụng thử nghiệm giải pháp trong việc rèn luyện, nâng cao năng
lực tự học lịch sử của học sinh nhà trường. Qua thử nghiệm, các đồng nghiệp hoàn
23
tồn nhất trí với các biện pháp mà tác giả đề xuất, đồng thời cũng có những góp ý
chân thành để tác giả hoàn thiện hơn báo cáo sáng kiến của mình. Việc dạy thử
nghiệm tại các trường THPT trên địa bàn huyện đã được Ban giám hiệu các nhà
trường xác nhận và đánh giá cao.
Như vậy, các biện pháp rèn luyện năng lực tự học môn Lịch sử mà tác giả
trình bày trong báo cáo sáng kiến trên đây hồn tồn phù hợp, có tính khả thi cao
và có khả năng áp dụng, nhân rộng ở tất cả các trường THPT trong tỉnh và trên
tồn quốc.
IV. CAM KẾT KHƠNG SAO CHÉP HOẶC VI PHẠM BẢN QUYỀN
Tác giả xin cam kết báo cáo sáng kiến kinh nghiệm trên đây do tác giả tự
làm, không sao chép hoặc vi phạm bản quyền của các tác giả khác. Nếu báo cáo
trên đây vi phạm bản quyền tác giả xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
Đoàn Thị Cúc
CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
(Xác nhận)
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
............................................................................................................................................................
24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Côi, 2011, Rèn luyện năng lực tự học Lịch sử cho học sinh góp
phần nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn ở trường phổ thơng, Tạp chí Giáo dục số
260 (kì 2 – 4/2011).
2. Phan Ngọc Liên, 2008, Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học lịch sử ở
trường phổ thông, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
3. Đoàn Nguyệt Linh, 2015, Một số năng lực tự học môn Lịch sử cần được hình
thành
cho
học
sinh
ở
trường
/>
THPT,