MỤC LỤC
I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
1
II. Mô tả giải pháp
3
II. 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
3
II. 1.1 Giáo viên với thời đại 4.0
3
II. 1.2. Chương trình giáo dục phổ thơng mới
6
II. 1.2.1 Mục tiêu giáo dục Chương trình giáo dục phổ thơng mới
6
II.1.2.2. Chương trình giáo dục phổ thơng mới có gì khác so với chương
trình hiện hành
8
II.1.3. Mơn Lịch sử trong chương trình giáo dục phổ thơng mới
10
II.1.3.1. Khái qt nội dung giáo dục môn Lịch sử
10
II. 1.3.2. Chú ý trong đổi mới phương pháp
11
II. 1.3.3. Đánh giá kết quả giáo dục môn Lịch sử
13
II. 1.3.4. Bản chất của qúa trình dạy học lịch sử ở trường THPT
13
II. 1.4. Đặc điểm học sinh THPT
14
II. 1.5. Thực trạng dạy và học môn Lịch sử hiện nay
15
II. 1.5.1. Phổ điểm thi THPT Quốc gia qua các năm 2018, 2019, 2020,
2021
15
II. 1.5.2. Thực trạng dạy và học ở các trường THPT
20
II. 1.5.3. Việc sử dụng các trang mạng xã hội trong học sinh THPT và
giáo viên
21
II. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
24
II. 2.1. Thế hệ Z
24
II. 2.2. Lớp học truyền thống
25
II. 2.2.1. Ưu điểm
25
II. 2.2.2. Nhược điểm
27
II. 2.3. Lớp học đảo ngược
27
II. 2.3.1. Khái niệm lớp học đảo ngược - Flipped Classroom
27
II. 2.3.2. Ưu điểm
30
II. 2.3.3. Nhược điểm
32
II. 2.3.4. Quy trình dạy học Lịch sử theo mơ hình lớp học đảo ngược
35
II. 3.3. Ứng dụng trong thực tiễn giảng dạy
36
II. 3.3.1. Điều tra, khảo sát
36
II. 3.3.2. Tổ chức dạy thực nghiệm
36
II. 3.3.3. Kết quả nghiên cứu
38
III. Hiệu quả do sáng kiến đem lại
42
III.1. Hiệu quả kinh tế (Giá trị làm lợi tính thành tiền)
42
III.2. Hiệu quả về mặt xã hội (Giá trị làm lợi khơng tính thành tiền)
42
IV. Cam kết khơng sao chép hoặc vi phạm bản quyền.
43
Phụ lục
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
Môn Lịch sử thuộc môn khoa học xã hội. Đây là mơn học có vai trị đặc biệt
quan trọng, cung cấp những tri thức về quá khứ để hiểu hiện tại và hướng tới tương
lai. Môn Lịch sử giúp cho học sinh những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân
tộc và lịch sử thế giới, góp phần hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo
dục lòng yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào dân tộc, tình đồn kết quốc tế.
Đồng thời, học lịch sử còn bồi dưỡng lực tư duy, hành động và thái độ ứng xử đúng
đắn trong cuộc sống.
Mặc dù là mơn học có vai trị vơ cùng quan trọng nhưng môn học này không
được đánh giá cao cả trong nhà trường và ngoài xã hội. Học sinh ngại học mơn học
vì vừa dài, vừa khó, khó xin được việc khi ra trường. Phụ huynh xem nhẹ, xã hội
coi thường. Số phận môn Lịch sử khiến nhiều người lo ngại. Nhưng nếu quay lưng
với Lịch sử, dân tộc mình sẽ đi về đâu?
Hiện nay ngành Giáo dục đang tiến hành đổi mới toàn diện nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục. Môn Lịch sử đã và đang tiến hành đổi mới để đưa mơn Lịch
sử về đúng vai trị, vị trí vốn có của nó. Nhưng làm thế nào để học sinh u thích
mơn học đó câu hỏi trăn trở của nhiều người thầy. Nhiều phương pháp dạy học tích
cực được áp dụng khiến bài học Lịch sử trở nên hấp dẫn hơn, nhiều học sinh u
thích với mơn học hơn.
Trong chương trình mơn học Lịch sử hiện hành, học sinh THPT được tiếp
cận các tri thức lịch sử cả thế giới và Việt Nam theo các phân kì: Cổ trung, cận đại
và hiện đại. Qua nhiều năm giảng dạy tôi thấy chương trình Lịch sử lớp 10 rất hay
thu hút được học sinh bởi kiến thức Lịch sử thế giới và Việt Nam cổ trung, và một
phần cận đại phong phú và đa dạng, kích thích sự tìm hiểu của học sinh. Chương
trình Lịch sử 12 cũng rất hay với những kiến thức về lịch sử thế giới hiện đại, nhiều
sự kiện gần gũi gắn với hiện tại, tuy nhiên chương trình này lại quá dài, nhiều sự
kiện. Để dạy hay được một bài thuộc Lịch sử lớp 12 là điều khơng dễ. Nhưng đối
với chương trình Lịch sử lớp 11 chủ yếu về lịch sử cận đại với nhiều bài học khô
2
khan, ít tư liệu, nhất là việc giảm tải chương trình khiến cho giáo viên rất khó khăn
trong việc làm thế nào để duy trì sự hứng thú của học sinh.
Chương trình Giáo dục phổ thơng năm 2018 thực hiện ở lớp 10 trong năm
học 2022-2023 và các năm học tiếp theo theo hướng tiếp cận và phát triển năng lực
của học sinh. Mục tiêu giúp học sinh làm chủ kiến thức phổ thông, biết vận dụng
hiệu quả kiến thức, kĩ năng đã học vào đời sống và tự học suốt đời, có định hướng
lựa chọn nghề nghiệp phù hợp, biết xây dựng và phát triển hài hoà các mối quan hệ
xã hội, có cá tính, nhân cách và đời sống tâm hồn phong phú, nhờ đó có được cuộc
sống có ý nghĩa và đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước và nhân loại.
Nội dung và phương pháp giảng dạy cũng thay đổi để phù hợp với chương trình
giáo dục phổ thơng mới để đạt mục tiêu dạy học.
Ngày nay, loài người đang ở thời đại công nghệ thông tin – thời đai 4.0.
Những ứng dụng công nghệ thông tin giúp các hoạt động của con người trở nên dễ
dàng hơn. Công nghệ thông tin được ứng dụng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Công nghệ thông tin đang được ứng dụng rộng rãi trong ngành giáo dục để phát
huy hiệu quả dạy và học ở các cấp. Cùng với sự phát triển của công nghệ thơng tin,
việc giảng dạy của giáo viên có những sự thay đổi để đáp ứng yêu cầu mới.
Theo thống kê, lượng người dùng mạng xã hội trên toàn thế giới tăng 8%
trong 3 tháng vừa qua, lên mức 3,3 tỷ người, chiếm 43% dân số thế giới. Ấn Độ là
nước có lượng người dùng Facebook cao nhất thế giới, Việt Nam xếp ở vị trí thứ 7.
Điều này đồng nghĩa với việc các nền tảng mạng xã hội vẫn có hàng triệu người
dùng mới mỗi ngày, hay bình quân 12,4 người dùng mới mỗi giây.
Facebook vẫn đang dẫn đầu với 2,23 tỷ người dùng, YouTube và WhatsApp
đồng hạng ở vị trí thứ 2 với 1,5 tỷ người dùng, tiếp sau đó là các nền tảng Facebook
Messenger, WeChat, Instagram.
Do sự phát triển của công nghệ nhất là các mạng xã hội khiến các kết nối trở
nên dễ dàng hơn. Việc giáo viên và học sinh liên hệ qua các mạng xã hội ngày càng
phổ biến. Việc dạy và học sẽ diễn ra mọi lúc, mọi nơi theo sự chủ động của người
học với sự hỗ trợ của các phần mềm hiện đại. Trước sự phát triển đó, việc hình
thành một lớp học đảo ngược sẽ đem lại hiệu quả lớn đối với ngành giáo dục nói
chung và mơn Lịch sử nói riêng.
3
II. Mô tả giải pháp
II. 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
II. 1.1 Giáo viên với thời đại 4.0
Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, Việt Nam
đang tiến lên nền kinh tế công nghiệp. Cùng với nền kinh tế công nghiệp, Việt Nam
đang hướng đến đi vào nền kinh tế tri thức. Như vậy rõ ràng Việt Nam đang thực
hiện đồng thời sự chuyển dịch kép.
Nền kinh tế tri thức một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho giáo dục - đào tạo
phát triển; nhưng mặt khác, hết sức quan trọng, đòi hỏi rất nhiều ở giáo dục những
khả năng mới về đội ngũ GV, phương pháp dạy và học, phương pháp kiểm tra,
đánh giá...
Trong bối cảnh tồn cầu hố và nền kinh tế tri thức, sự tác động của cơng
nghệ đã làm cho thế giới có nhiều biến đổi sâu sắc và thường xuyên. Với sự bùng
nổ thông tin với sự xuất hiện Internet đặc biệt là sự ra đời của các mạng xã hội
khiến cho việc trao đổi thơng tin một cách nhanh chóng, việc tiếp cận tri thức nhân
loại rất thuận lợi và đầy đủ, khoảng cách khơng cịn là vấn đề nữa. Lồi người đã
chuyển sang nền văn minh mới: Văn minh trí tuệ.
Cách mạng cơng nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) bắt đầu diễn ra từ đầu những năm
2000 và đến khoảng năm 2013 thì xuất hiện cụm từ "công nghiệp 4.0". CMCN
4.0 là một thuật ngữ bao gồm một loạt các cơng nghệ tự động hóa hiện đại, trao đổi
dữ liệu và chế tạo, dựa trên nền tảng cơng nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ
thông tin. CMCN 4.0 với đặc trưng của nó là sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, rô
bốt, Internet kết nối vạn vật, công nghệ di động khơng dây, máy tính lượng tử,
điện tốn đám mây, hệ thống dữ liệu nhanh, khoa học vật liệu, sinh học,
…Trong đó, đặc trưng cơ bản nhất là kết nối.
Với những đặc trưng đó, CMCN 4.0 đã mở ra một thời đại mới trong tiến
trình phát triển của nhân loại và tác động mạnh mẽ, làm thay đổi mọi lĩnh vực đời
sống xã hội, từ sản xuất kinh tế, dịch vụ, y tế, giao thơng, hệ thống quản lí đến văn
hóa, giáo dục.
4
CM 4.0 tất yếu dẫn đến nền giáo dục 4.0. Để phù hợp với thời đại mới, giáo
dục đang có những cải cách sâu rộng và toàn diện. Việc dạy và học khơng cịn là
truyền thụ tri thức, tiếp thu tri thức một cách bị động và một chiều, đơn giản chỉ là
thầy đọc, trò chép. Giáo dục chuyển sang các kĩ năng tự học, tự giải quyết vấn đề,
hợp tác trao đối với nhau, tư duy phân tích, phản biện, tư duy sáng tạo, có khả năng
thích nghi với các thách thức, đặc biệt là trí tuệ cảm xúc (EQ) cùng nhiều kĩ năng
khác. Trong đó, trong thời đại mới, các kĩ năng cần phải có là
- Kĩ năng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT): như năng lực giải
quyết vấn đề dựa trên máy tính và các công cụ công nghệ.
- Kĩ năng tư duy: như sức sáng tạo, tư duy phản biện, kĩ năng giải quyết vấn
đề, kĩ năng ra quyết định, và khả năng tự học suốt đời.
- Kĩ năng làm việc: như khả năng giao tiếp và hợp tác làm việc theo nhóm.
- Kĩ năng sống (thích nghi) trong xã hội tồn cầu, bao gồm vấn đề ý thức
công dân, cuộc sống và sự nghiệp, trách nhiệm cá nhân và xã hội, bao gồm cả vấn
đề hiểu biết tính đa dạng văn hóa.
Vậy trong thời đại mới, giáo viên có vai trị như thế nào, cần có những năng
lực gì.
Giáo viên vẫn là trung tâm trong thời đại số. Yếu tố quyết định ở người dạy
chính là kiến thức, năng lực, phẩm chất và lịng u nghề. Tình cảm thầy và trị là
những giá trị không thể đo lường được trong Dạy và Học. Khơng một máy móc nào
có thể làm được những điều ấy.
Giáo viên là người tạo môi trường học tập, phát triển tính sáng tọc, tư duy của
người học. Và cũng là những người định hướng và dẫn dắt phát triển người học cả
về trí tuệ lẫn tình cảm. Như vậy Cơng nghệ có phát triển như thế nào đi chăng nữa
cũng không thể thiếu người thầy. Theo Phạm Hồng Quang : “vai trò người thầy
trong học tập kết nối mạng đó là sáng tạo, phản biện và giáo dục”.
Để đáp ứng yêu cầu mới, một giáo viên ngày nay phải
- Hiểu biết cơng nghệ thơng tin và có khả năng ứng dụng chúng trong DH;
5
- Khi DH phải nhận thức đúng đối tượng (đối tượng dạy - người học và đối tượng
DH - nội dung DH) trên cơ sở đó thao tác đúng đối tượng;
- Phải hiểu cấu trúc các phương pháp dạy học (PPDH), biết triền khai đúng quy
trình và biết phối hợp các PPDH trong quá trình DH;
- Thấu hiểu cách học trong mơi trường thơng tin và truyền thơng để có thể hướng
dẫn HS học và có khả năng làm tốt vai trị cố vấn cho họ.
- Có kiến thức đo lường và đánh giá trong DH để đánh giá chính xác khách quan
kết quả học tập của người học, góp phần khẳng định chất lượng sản phẩm đào tạo
của mình.
- Quan trọng là lòng yêu nghề, mến trẻ, là gương sáng cả về trí tuệ và đạo đức.
Như vậy, các kĩ năng một giáo viên cần phải có trong thời đại mới nhất là
chương trình giáo dục phổ thơng mới với yêu cầu mới của người thầy.
-Về năng lực dạy học
+ Kĩ năng thiết kế và tổ chức DH theo định hướng phát triển năng lực người
học.
+Kĩ năng thiết kế và tổ chức DH-GD bằng trải nghiệm.
+Kĩ năng DH tích hợp, lồng ghép, liên môn; DH theo chủ đề/chuyên đề
+ Kĩ năng sử dụng các phương pháp và kỹ thuật DH tích cực, hiện đại.
+ Kĩ năng sử dụng cơng nghệ thơng tin và sử dụng thiết bị DH có hiệu quả.
+ Kĩ năng thuyết trình, truyền thụ kiến thức sao cho HS hứng thú, có cảm
hứng và u thích môn học.
+ Kĩ năng đặt câu hỏi, dẫn dắt, nêu vấn đề trong DH.
+ Kĩ năng tương tác với HS một cách cực.
+ Kĩ năng xử lý các tình huống DH.
+ Cách lấy ví dụ để liên hệ, ứng dụng kiến thức bài học vào thực tiễn cuộc
sống.
+ Kĩ năng sử dụng một số phương pháp và hình thức kiểm tra- đánh giá mới,
6
+ Kĩ năng thiết kế các đề kiểm tra -đánh giá theo tiếp cận phát triển năng lực
HS.
+ Kĩ năng và cách thức phát triển chương trình mơn học.
+ Hướng dẫn và tổ chức HS nghiên cứu khoa học, tự học …vv.
-Về năng lực GD và quản lý lớp học
+ Các kiến thức về đặc điểm tâm lý lứa tuổi HS hiện nay.
+ Kỹ năng tổ chức và quản lý lớp học (trong đó chú ý đến các vấn đề: cách xử
lý hành vi vi phạm đạo đức và GD HS cá biệt; cách quản lý HS trong và ngoài giờ
học; cách tổ chức hoạt động sinh hoạt tập thể cho HS;…)
+ Các phương pháp giảng dạy kỹ năng sống, giá trị sống cho HS.
+ Các kỹ năng mềm để kiềm chế cảm xúc tiêu cực và giao tiếp có hiệu quả với
HS.
+ Kỹ năng ứng xử, giao tiếp, thiết lập mối quan hệ với đồng nghiệp, cha mẹ
HS và tập thể GV trong nhà trường để phối hợp GD HS.
+ Kĩ năng thích ứng với sự thay đổi của môi trường GD mới.
+ Kĩ năng tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp đáp ứng yêu cầu chương
trình phổ thơng mới.
II. 1.2. Chương trình giáo dục phổ thơng mới
II. 1.2.1 Mục tiêu giáo dục Chương trình giáo dục phổ thơng mới
Thứ nhất, về mục tiêu giáo dục, Chương trình giáo dục phổ thông mới tiếp
tục được xây dựng trên quan điểm coi mục tiêu giáo dục phổ thông là giáo dục con
người toàn diện, giúp học sinh phát triển hài hịa về đức, trí, thể, mĩ.
Thứ hai, về phương châm giáo dục, Chương trình giáo dục phổ thơng mới kế
thừa các nguyên lí giáo dục nền tảng như “Học đi đơi với hành”, “Lí luận gắn liền
với thực tiễn”, “Giáo dục ở nhà trường kết hợp với giáo dục ở gia đình và xã hội”.
Thứ ba, về nội dung giáo dục, bên cạnh một số kiến thức được cập nhật để
phù hợp với những thành tựu mới của khoa học - cơng nghệ và định hướng mới của
chương trình, kiến thức nền tảng của các môn học trong Chương trình giáo dục phổ
7
thông mới chủ yếu là những kiến thức cốt lõi, tương đối ổn định trong các lĩnh vực
tri thức của nhân loại, được kế thừa từ Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành,
nhưng được tổ chức lại để giúp học sinh phát triển phẩm chất và năng lực một cách
hiệu quả hơn.
Thứ tư, về hệ thống môn học, trong chương trình mới, chỉ có một số mơn học
và hoạt động giáo dục mới hoặc mang tên mới là: Tin học và Công nghệ, Ngoại
ngữ, Hoạt động trải nghiệm ở cấp tiểu học; Lịch sử và Địa lí, Khoa học tự nhiên ở
cấp Trung học cơ sở; Âm nhạc, Mĩ thuật, Giáo dục kinh tế và pháp luật ở cấp
Trung học phổ thông; Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp ở các cấp Trung học
cơ sở, Trung học phổ thông
Thứ năm, về thời lượng dạy học, tuy chương trình mới có thực hiện giảm tải
so với chương trình hiện hành nhưng những tương quan về thời lượng dạy học giữa
các môn học khơng có sự xáo trộn.
Thứ sáu, về phương pháp giáo dục, chương trình mới định hướng phát huy
tính tích cực của học sinh, khắc phục nhược điểm của phương pháp truyền thụ một
chiều.
Từ nhiều năm nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phổ biến và chỉ đạo áp dụng
nhiều phương pháp giáo dục mới (như mơ hình trường học mới, phương pháp bàn
tay nặn bột, giáo dục STEM,…); do đó, hầu hết giáo viên các cấp học đã được làm
quen, nhiều giáo viên đã vận dụng thành thạo các phương pháp giáo dục mới.
Đặc biệt trong tình hình dịch bệnh Covid19 diễn biến phức tạp trong những
năm vừa qua, ngành Giáo dục có những biện pháp thích ứng với tình hình một cách
linh hoạt. Nhiều lớp học online được diễn ra ở các cấp học trên khắp các tỉnh thành
vừa phát huy tinh thần chống dịch, vừa đạt được hiệu quả giáo dục. Việc tiếp cận
với E-learning trên truyền hình cũng như trên Internet khơng cịn xa lạ với học sinh
trên khắp cả nước.
II. 1.2.2. Chương trình giáo dục phổ thơng mới có gì khác so với chương trình
hiện hành
8
Thứ nhất, chương trình giáo dục phổ thơng hiện hành được xây dựng theo
định hướng nội dung, nặng về truyền thụ kiến thức, chưa chú trọng giúp học sinh
vận dụng kiến thức học được vào thực tiễn.
Theo mơ hình này, kiến thức vừa là “chất liệu”, “đầu vào” vừa là “kết quả”,
“đầu ra” của quá trình giáo dục. Vì vậy, học sinh phải học và ghi nhớ rất nhiều
nhưng khả năng vận dụng vào đời sống rất hạn chế.
Chương trình giáo dục phổ thông mới được xây dựng theo mô hình phát triển
năng lực, thơng qua những kiến thức cơ bản, thiết thực, hiện đại và các phương
pháp tích cực hóa hoạt động của người học, giúp học sinh hình thành và phát triển
những phẩm chất và năng lực mà nhà trường và xã hội kì vọng. Theo cách tiếp cận
này, kiến thức được dạy học khơng nhằm mục đích tự thân.
Nói cách khác, giáo dục khơng phải để truyền thụ kiến thức mà nhằm giúp
học sinh hoàn thành các công việc, giải quyết các vấn đề trong học tập và đời sống
nhờ vận dụng hiệu quả và sáng tạo những kiến thức đã học.
Quan điểm này được thể hiện nhất quán ở nội dung giáo dục, phương pháp
giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục.
Thứ hai, Chương trình giáo dục phổ thơng hiện hành có nội dung giáo dục
gần như đồng nhất cho tất cả học sinh; việc định hướng nghề nghiệp cho học sinh,
ngay cả ở cấp trung học phổ thông chưa được xác định rõ ràng.
Chương trình giáo dục phổ thơng mới phân biệt rõ hai giai đoạn: giai đoạn
giáo dục cơ bản (từ lớp 1 đến lớp 9) và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp
(từ lớp 10 đến lớp 12).
Trong giai đoạn giáo dục cơ bản, thực hiện yêu cầu của Nghị quyết 29, Nghị
quyết 88 và Quyết định 404, chương trình thực hiện lồng ghép những nội dung liên
quan với nhau của một số mơn học trong chương trình hiện hành để tạo thành mơn
học tích hợp, thực hiện tinh giản, tránh chồng chéo nội dung giáo dục, giảm hợp lí
số mơn học;
Đồng thời thiết kế một số môn học (Tin học và Công nghệ, Tin học, Công
nghệ, Giáo dục thể chất, Hoạt động trải nghiệm, Hoạt động trải nghiệm, hướng
9
nghiệp) theo các chủ đề, tạo điều kiện cho học sinh lựa chọn những chủ đề phù hợp
với sở thích và năng lực của bản thân.
Trong giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, bên cạnh một số môn học
và hoạt động giáo dục bắt buộc, học sinh được lựa chọn những môn học và chuyên
đề học tập phù hợp với sở thích, năng lực và định hướng nghề nghiệp của mình.
Thứ ba, trong Chương trình giáo dục phổ thơng hiện hành, sự kết nối giữa
chương trình các cấp học trong một mơn học và giữa chương trình các mơn học
chưa chặt chẽ; một số nội dung giáo dục bị trùng lặp, chồng chéo hoặc chưa thật sự
cần thiết đối với học sinh phổ thơng.
Chương trình giáo dục phổ thơng mới chú ý hơn đến tính kết nối giữa
chương trình của các lớp học, cấp học trong từng môn học và giữa chương trình
của các mơn học trong từng lớp học, cấp học. Việc xây dựng Chương trình tổng
thể, lần đầu tiên được thực hiện tại Việt Nam, đặt cơ sở cho sự kết nối này.
Thứ tư, chương trình giáo dục phổ thơng hiện hành thiếu tính mở nên hạn
chế khả năng chủ động và sáng tạo của địa phương và nhà trường cũng như của tác
giả sách giáo khoa và giáo viên.
Chương trình giáo dục phổ thơng mới bảo đảm định hướng thống nhất và
những nội dung giáo dục cốt lõi, bắt buộc đối với học sinh toàn quốc, đồng thời
trao quyền chủ động và trách nhiệm cho địa phương và nhà trường trong việc lựa
chọn, bổ sung một số nội dung giáo dục và triển khai kế hoạch giáo dục phù hợp
với đối tượng giáo dục và điều kiện của địa phương, của cơ sở giáo dục, góp phần
bảo đảm kết nối hoạt động của nhà trường với gia đình, chính quyền và xã hội.
II. 1.3. Mơn Lịch sử trong chương trình giáo dục phổ thơng mới
II. 1.3.1. Khái quát nội dung giáo dục môn Lịch sử
Nội dung giáo dục môn Lịch sử được xác định dựa trên các căn cứ chủ yếu:
Vị trí, mục tiêu, đặc điểm, tính chất mơn học ở cấp THPT. u cầu phát triển năng
lực, phẩm chất (bao gồm cả thái độ và kỹ năng) của học sinh thông qua môn học
này. Đặc điểm tâm lí lứa tuổi và tâm lí học sư phạm của học sinh từ lớp 10 - 12.
Thời lượng được quy định cho môn học này ở mỗi lớp. Kinh nghiệm trong thiết kế
chương trình mơn Lịch sử ở trong nước và nước ngoài. Điều kiện dạy học ở các
10
vùng miền của nước ta hiện nay, triển vọng cải thiện trong những năm tới. Đặc
điểm khách quan của Sử học và yêu cầu của việc ứng dụng tri thức lịch sử trong
cuộc sống hiện đại.
Có 3 đặc điểm khái quát về nội dung giáo dục ở môn Lịch sử.
Thứ nhất, đó là nội dung giáo dục lịch sử với tính cách là một mơn khoa học:
Dựa trên thành tựu cập nhật của giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam và thế giới, tôn
trọng những nguyên tắc cơ bản của sử học (trung thực, khách quan, toàn diện, cụ
thể), hướng tới hình thành thế giới quan khoa học, tư duy phê phán, thực chứng,
biện chứng của người học.
Thứ hai, Lịch sử là mơn học dạy làm người, góp phần phát triển các phẩm
chất của cơng dân Việt Nam tồn cầu: Yêu nước, nhân ái, trung thực, khoan dung,
dũng cảm, chăm chỉ, cởi mở tiếp nhận cái mới và sống hòa thuận với thế giới xung
quanh, trọng danh dự của bản thân và tơn trọng sự khác biệt, u hịa bình… Thứ
ba, Lịch sử là mơn học có định hướng ứng dụng cao theo đúng tinh thần “ôn cố tri
tân”, biết học lịch sử để làm gì, có thể ứng dụng tri thức lịch sử vào cuộc sống như
thế nào.
Nội dung giáo dục với các mạch kiến thức cốt lõi của môn học được thiết kế
như sau:
Nội dung các chủ đề, gồm: Chủ đề định hướng nghề nghiệp (Lịch sử và Sử
học; Vai trò của Sử học); Lịch sử thế giới (Một số nền văn minh thế giới thời kỳ cổ
- trung đại; Các cuộc cách mạng công nghiệp trong lịch sử thế giới; Cách mạng tư
sản và sự phát triển của chủ nghĩa tư bản; Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa
xã hội; Thế giới trong và sau Chiến tranh lạnh; Quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của nước Mỹ từ năm 1945 đến nay; Công cuộc cải cách mở cửa ở Trung Quốc từ
năm 1978 đến nay); Lịch sử Đông Nam Á (Lịch sử văn minh Đơng Nam Á;
Q trình giành độc lập dân tộc của các quốc gia Đông Nam Á; ASEAN:
Những chặng đường lịch sử); Lịch sử Việt Nam (Một số nền văn minh trên đất
nước Việt Nam (trước năm 1858); Cộng đồng các dân tộc Việt Nam; Chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc và chiến tranh giải phóng dân tộc trong lịch sử Việt Nam (trước
Cách mạng tháng Tám năm 1945); Làng xã Việt Nam trong lịch sử; \Một số cuộc
11
cải cách lớn trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1858); Lịch sử bảo vệ chủ quyền,
các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông; Chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc và chiến tranh giải phóng dân tộc trong lịch sử Việt Nam (từ sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945); Công cuộc Đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay; Lịch sử
quan hệ đối ngoại Việt Nam; Hồ Chí Minh trong lịch sử Việt Nam).
Bên cạnh nội dung giáo dục cốt lõi, trong mỗi năm học, những học sinh có
thiên hướng khoa học xã hội và nhân văn được chọn học một số chuyên đề học tập.
II. 1.3.2. Chú ý trong đổi mới phương pháp
Dạy và học lịch sử theo định hướng tiếp cận năng lực được thực hiện trên
nền tảng những nguyên tắc cơ bản của khoa học lịch sử: Thông qua các nguồn sử
liệu khác nhau để tái hiện lịch sử, phục dựng một cách chân thực, khách quan quá
trình hình thành, phát triển của các sự kiện, quá trình lịch sử, đồng thời đặt q
trình phát triển đó trong sự tương tác với các nhân tố liên quan trong suốt quá trình
vận động của chúng.
Giáo viên không đặt trọng tâm vào việc truyền đạt kiến thức lịch sử cho học
sinh mà chú trọng việc hướng dẫn học sinh nhận diện và khai thác các nguồn sử
liệu, từ đó tái hiện quá khứ, nhận thức lịch sử, đưa ra suy luận, đánh giá về bối
cảnh, nguồn gốc, sự phát triển của sự kiện, quá trình lịch sử để tìm kiếm sự thật lịch
sử một cách khoa học, xây dựng và phát triển những năng lực chuyên môn của môn
Lịch sử.
Để thực hiện mục tiêu giáo dục của Chương trình mơn Lịch sử, cần coi trọng
và phối hợp chặt chẽ giữa giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và xã hội ngay
từ cấp tiểu học đến các cấp THCS, THPT ở những mức độ và hình thức khác nhau.
Bên cạnh đó, cần ứng dụng CNTT và truyền thông trong dạy học lịch sử,
khuyến khích học sinh tự tìm đọc, thu thập tư liệu lịch sử trên mạng Internet, trong
thư viện để thực hiện các nghiên cứu cá nhân hoặc theo nhóm, có khả năng trình
bày, thảo luận kết quả nghiên cứu; xây dựng kỹ năng sử dụng các phương tiện
CNTT để hỗ trợ cho việc tái hiện, tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử.
Dạy học lịch sử theo định hướng phát triển năng lực chú trọng đến vấn đề
như: Phát hiện và giải quyết vấn đề, làm việc theo nhóm, coi trọng việc sử dụng các
12
phương tiện trực quan như: Hiện vật lịch sử, tranh ảnh lịch sử, bản đồ, biểu đồ, sa
bàn, mơ hình, phim tài liệu lịch sử.
Học sinh cần được hướng dẫn phương pháp tự học, biết cách tìm tịi, khai
thác các nguồn sử liệu, đồng thời biết cách phân tích sự kiện, quá trình lịch sử và tự
mình rút ra những nhận xét, đánh giá, tạo cơ sở phát triển năng lực tự học lịch sử
suốt đời và khả năng ứng dụng vào cuộc sống những hiểu biết về lịch sử, văn hố,
xã hội Việt Nam và thế giới.
Mở rộng khơng gian dạy học, khơng chỉ trong lớp học mà cịn trên thực địa
(di tích lịch sử và văn hố), bảo tàng, khu triển lãm...; tổ chức cho học sinh đi tham
quan, dã ngoại, kết hợp các hoạt động dạy học trong lớp học với hoạt động trải
nghiệm trên thực tế. Việc kết hợp các thành tựu của khoa học giáo dục hiện đại với
việc sử dụng một cách tích cực các phương pháp của sử học là chìa khố thành
cơng của quá trình dạy học lịch sử.
Sự phối hợp giữa ba mơi trường giáo dục (nhà trường, gia đình, xã hội) là
nền tảng quan trọng để hình thành năng lực chun mơn Lịch sử. Trong đó, nhà
trường xây dựng và phát triển kiến thức, kỹ năng cho học sinh; gia đình và xã hội
tạo điều kiện để học sinh vận dụng kiến thức, kỹ năng lịch sử vào những tình huống
thực tiễn của cuộc sống.
Giáo viên là người chủ động thiết lập và duy trì mối liên hệ thường xuyên
giữa nhà trường với gia đình và xã hội trong cơng tác giáo dục lịch sử thơng qua
các mơ hình phối hợp như: Tổ chức hoạt động giáo dục truyền thống lịch sử, giáo
dục chủ quyền biển đảo cho học sinh có sự tham gia của phụ huynh học sinh và các
tổ chức xã hội, tổ chức các hoạt động “Cha mẹ lắng nghe con kể chuyện lịch sử”,
“Cha mẹ cùng con khám phá lịch sử đất nước, lịch sử địa phương”...
II. 1.3.3. Đánh giá kết quả giáo dục môn Lịch sử
Việc đánh giá kết quả giáo dục cần được thực hiện trên các phương diện:
Các phẩm chất, năng lực chung và các năng lực chuyên môn Lịch sử; đánh giá quá
trình, đánh giá cuối kỳ, cuối năm học, cuối cấp, đánh giá cấp quốc gia... Trong
đánh giá kết quả học tập, cần căn cứ vào yêu cầu cần đạt được xác định trong
13
chương trình mơn học để xác định phương thức, phương pháp và nội dung đánh
giá.
Cần chú ý rằng: Đánh giá năng lực và phẩm chất không lấy việc kiểm tra khả
năng tái hiện kiến thức lịch sử làm trung tâm của việc đánh giá. Bên cạnh nội dung
lí thuyết, coi trọng việc đánh giá các kỹ năng thực hành (làm việc với các nguồn sử
liệu, bản đồ, atlat, biểu đồ, sơ đồ, bảng số liệu, tranh ảnh, quan sát; thu thập, xử lí
và hệ thống hố thơng tin, sử dụng các dụng cụ học tập ngồi trời, sử dụng cơng
nghệ và thơng tin truyền thơng trong học tập...).
Ngồi ra, cần đa dạng hố các hình thức và phương pháp đánh giá như: Bài
thi/bài kiểm tra theo hình thức tự luận và trắc nghiệm khách quan; kiểm tra miệng,
quan sát, thực hành, bài tập, các dự án/sản phẩm học tập, nghiên cứu... Về phương
thức đánh giá: Bao gồm cả đánh giá định tính, đánh giá định lượng và sự kết hợp
định tính với định lượng, trên cơ sở đó tổng hợp việc đánh giá chung năng lực và
sự tiến bộ của học sinh.
II. 1.3.4. Bản chất của qúa trình dạy học lịch sử ở trường THPT
Thứ nhất: Quá trình dạy học lịch sử là một quá trình nhận thức đặc thù. Đây là
nhận thức của cá thể học sinh nên quá trình nhận thức của học sinh trong học tập có ba
đặc điểm là tính gián tiếp, được hướng dẫn và tính giáo dục.
Thứ hai: Q trình nhận thức lịch sử của học sinh có đặc điểm riêng. Giai đoạn
nhận thức đầu là giai đoạn nhận thức cảm tính (tri giác tài liệu về sự kiện quá trình
lịch sử tạo biểu tượng), giai đoạn tiếp theo là giai đoạn nhận thức lí tính (bằng hoạt
động tư duy tích cực độc lập, học sinh đi đến những tri thức trìu tượng, khái qt
thơng qua “xử lí các tri thức cụ thể” tiếp đó học sinh phải biết vận dụng các kiến
thức đó để hiểu hiện tại, hành động đúng trong thực tiễn.
Nhận thức của học sinh trong học tập lịch sử cũng giống như q trình nhận
thức nói chung. Nét khác biệt là xuất phát từ sự kiện, từ việc tri giác tài liệu, giáo
viên hướng dẫn cho học sinh tạo biểu tượng, nắm được khái niệm lịch sử. từ đó rút
ra quy luật, bài học kinh nghiệm của quá khứ để học sinh vận dụng vào cuộc sống,
phục vụ cho hiện tại.
14
Như vậy dạy lịch sử tức là khơi dậy lòng tự hào và ý thức dân tộc của học sinh
trong mỗi trang sử. Khơng phải chỉ có học thuộc lịng cái có sẵn, đúc kết sẵn là học
sinh có thể rút ra ngay bài học kinh nghiệm, ý nghĩa của lịch sử, cái mà học sinh có
thể học được ở đây là làm sao có thể cảm nhận những mất mát hy sinh to lớn của
những người đi trước, là xương máu là mồ hôi công sức của biết bao con người,
những chuyển biến về nhiều lĩnh vực xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa trong
các giai đoạn lịch sử khác nhau để từ đó ý thức được việc giữ gìn thành quả của cha
ơng trong q trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dạy lịch sử là khơi lên trong tâm
hồn học sinh lòng biết ơn sâu sắc, lịng tự hào dân tộc, tình u q hương đất
nước, thêm yêu những trang sử hào hùng của dân tộc. Những cái đó khơng đâu
ngồi những câu chuyện người thật việc thật, những hình ảnh sinh động, những câu
chuyện mang tính thơng tin mang hơi thở của thời cuộc.
II. 1.4. Đặc điểm học sinh THPT
Học sinh THPT là lứa tuổi đã có sự hồn thiện về mặt thể lực về trọng lượng,
chiều cao, hệ thần kinh, hệ xương, hệ tuần hoàn. Trong sư phạm tương tác, người
học học thông qua các giác quan, qua hệ thần kinh, nên sự phát triển của hệ thần
kinh với lứa tuổi này là hết sức quan trọng. Ở lứa tuổi THPT, cấu trúc của hệ thần
kinh và chức năng của bộ não phức tạp hơn. Số lượng dây thần kinh liên hợp được
tăng lên và liên kết các phần khác nhau của vỏ não lại, do đó các em có khả năng
phát triển mạnh tư duy ngôn ngữ và những phẩm chất ý chí khác.
Học sinh THPT là lứa tuổi có độ nhạy cảm rất cao về tri giác nhìn và nghe.
Bên cạnh đó ở lứa tuổi này có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan vận động:
mắt nhìn, tai nghe, tay viết, óc suy nghĩ. Tri giác có mục đích đạt mức phát triển
cao, có khả năng quan sát tốt. Quan sát ở các em chịu sự điều khiển của hệ thống
tín hiệu thứ 2 nhiều hơn. Sự phát triển của tư duy gắn chặt với sự phát triển ngơn
ngữ càng thể hiện rõ nét. Các em có khả năng điều khiển quan sát của mình theo kế
hoạch chung và chú ý tất cả các khâu trong quá trình hoạt động.
Ngồi ra ở học sinh THPT trí nhớ chủ định có vai trị chủ đạo. Hình thức ghi
nhớ phong phú và đa dạng song ghi nhớ từ ngữ và logic chiếm ưu thế và tăng rõ
rệt. Các em đã tạo được tâm thế phân hoá trong ghi nhớ.
15
Chú ý có chủ định chiếm ưu thế, các em biết đề ra mục đích của chú ý. Thái
độ lựa chọn mơn học đã quyết định tính chú ý của các em. Hứng thú ổn định đối
với môn học nên chú ý sau chủ định của các em xuất hiện thường xuyên hơn. Năng
lực di chuyển và phân phối chú ý được phát triển và hoàn thành những khả năng
vừa nghe giảng vừa ghi chép.
Tư duy cũng đã phát triển nhất là tư duy lí luận, tư duy trìu tượng một cách
độc đáo và sáng tạo. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ hơn và nhất quán
hơn, đồng thời tính phê phán của tư duy cũng phát triển. Thích tranh luận để làm
sáng tỏ những quan điểm của mình.
II. 1.5. Thực trạng dạy và học mơn Lịch sử hiện nay
II. 1.5.1. Phổ điểm thi THPT Quốc gia qua các năm 2018, 2019, 2020,
2021
a. Phổ điểm thi Quốc gia năm 2018
Cụ thể, năm 2018, điểm thi trung bình của mơn Lịch sử là 3,79, có 4.226 bài
thi đạt từ 8 điểm trở lên, chiếm 0,75% tổng số bài thi môn này.
16
b. Phổ điểm thi quốc gia năm 2019
Tổng số thí sinh dự thi là 569.905 em. Điểm trung bình là 4,3; điểm trung vị là 4.0.
Số thí sinh đạt điểm liệt là 395 em.
Đáng chú ý, có tới 70,01% thí sinh có điểm dưới 5. Điểm được nhiều thí sinh đạt
nhất là 3,75
17
Phổ điểm thi quốc gia năm 2019
c. Phổ điểm thi tốt nghiệp năm 2020
Theo phổ điểm thi tốt nghiệp THPT mơn Lịch sử của cả nước năm 2020, có
553.987 thí sinh tham gia thi mơn Lịch sử, trong đó điểm trung bình là 5,19 điểm,
điểm trung vị là 5 điểm.
Điểm số có nhiều thí sinh đạt được nhất là 4,5 điểm.
Số thí sinh có điểm từ 1 trở xuống là 111, chiếm tỷ lệ 0,02%.
Số thí sinh đạt điểm dưới trung bình là 260.074, chiếm tỷ lệ 46,95%.
Có 371 thí sinh đạt điểm 10 trong bài thi môn Lịch sử của kỳ thi tốt nghiệp THPT
năm nay.
18
Phổ điểm thi tốt nghiệp năm 2020
d. Phổ điểm thi tốt nghiệp năm 2021
Với môn Lịch sử của cả nước năm 2021, có 637.005 thí sinh tham gia thi
bài thi Lịch sử, trong đó điểm trung bình là 4,97 điểm, điểm trung vị là 4,75 điểm;
điểm số có nhiều thí sinh đạt nhất là 4 điểm. Số thí sinh có điểm <= 1 là 540 (chiếm
tỷ lệ 0.08%); số thí sinh đạt điểm dưới trung bình là 331.429 (chiếm tỷ lệ 52.03%).
19
Phổ điểm thi tốt nghiệp năm 2021
Như vậy điểm thi THPT Quốc gia, và Tốt nghiệp qua các năm, tỉ lệ học sinh
đạt điểm trung bình chiếm tỉ lệ thấp.
e. Nguyên nhân
20
Có nhiều ngun nhân để lí giải cho kết quả đó.
Thứ nhất: bởi xã hội hiện đại đang theo xu hướng làm ăn kinh tế, con người
thực dụng hơn. Đa số phụ huynh xem nhẹ môn học này; không quan tâm đầu tư mà
chủ yếu cho con học thêm các mơn Tốn, Lý, Hóa, Tiếng Anh… để dễ chọn ngành
nghề, trường đại học, có cơ hội việc làm nghề nghiệp tốt hơn.
Thứ hai: do khối lượng kiến thức trong chương trình học nặng nề. Bên cạnh
đó, chương trình mơn học hiện nay quá nặng nề, chi tiết, bắt học sinh phải nhớ
nhiều. Nội dung sách giáo khoa lịch sử đậm chất báo cáo, nghiêng về sự kiện.
Thứ ba: Cách kiểm tra đánh giá cũng cịn máy móc, nghiêng về ghi nhớ nên
chưa thực sự khiến học sinh hứng thú với môn học.
Thứ tư: Thực tế cho thấy, phần nhiều các thí sinh nằm trong tỷ lệ 70% dưới
điểm trung bình chọn Lịch sử là môn thi chỉ để công nhận tốt nghiệp. Với những
thí sinh thi THPT quốc gia chỉ lấy kết quả để xét tốt nghiệp, các em phần lớn sẽ
chọn tổ hợp môn xã hội. Nguyên nhân các em quan niệm rằng, tổ hợp môn Khoa
học xã hội sẽ dễ hơn tổ hợp môn Khoa học tự nhiên. Tâm lý chung của các thí sinh
này là chỉ cần qua điểm liệt để đỗ tốt nghiệp, chứ không quan tâm điểm của môn là
cao hay thấp
Thứ năm: phương pháp giáo dục sai lầm. Từ trước đến nay chúng ta vẫn giáo
dục theo hướng tiếp cận nội dung mà chưa chuyển sang tiếp cận năng lực. Nhồi
nhét mớ kiến thức có sẵn vừa nặng về học thuộc ghi nhớ, vừa nặng về tuyên truyền
mà không biết áp dụng vào đâu sẽ gây nhàm chán cho người học.
II. 1.5.2. Thực trạng dạy và học ở các trường THPT
Hiện nay tại các trường THPT theo khảo sát tôi nhận thấy thực tế. Khi được
hỏi em có thích học mơn Lịch sử khơng thì có tới hơn 85% học sinh trả lời có.
Nhiều em vẫn u thích mơn học. Thích hay khơng thích phụ thuộc vào khả năng,
truyền đạt của giáo viên trên lớp, cách thức tổ chức dạy và kiểm tra của từng giáo
viên. Học sinh sẽ thoải mái hơn, không bị gị bó áp lực, khi học mơn học khơng
phải đọc chép, khơng phải học thuộc lịng các sự kiện với các ngày tháng năm khô
khan. Thực tế các em học sinh lớp 10, 11 trong các giờ học các em vẫn đón nhận
một cách vui vẻ, nhiệt tình, hào hứng. Chỉ khi đến cuối cấp do các yếu tố thi cử chi
21
phối, các em mới học lệch, tập trung vào các mơn thi của mình, chểnh mảng hơn
với những mơn khơng thi trong đó có mơn Lịch sử.
-
Nhưng khi được hỏi có thích thi mơn Lịch sử khơng thì có tới 95% khơng
thích thi mơn Lịch sử. Phần lớn các em đều nói, mơn dài, khó học, khó nhớ.
II. 1.5.3. Việc sử dụng các trang mạng xã hội trong học sinh THPT và giáo
viên
Thực tế cho thấy, Việt Nam hiện đang là một trong những nước có tốc độ tăng
trưởng và sử dụng internet và mạng xã hội nhanh nhất thế giới. Cơng nghệ thơng
tin, trong đó có mạng xã hội đã và đang được sử dụng rộng rãi trong đời sống, sinh
hoạt kinh tế - văn hóa - xã hội ở Việt Nam. Theo thống kê, tính đến đầu năm 2019,
Việt Nam đã có hơn 60 triệu người sử dụng internet, chiếm hơn 60% dân số, đứng
thứ 16 trên thế giới về số lượng người sử dụng internet và có khoảng 55 triệu người
sử dụng các nền tảng mạng xã hội, nằm trong nhóm nước có lượng người dùng lớn
nhất thế giới”.
Số lượng người dùng internet ở Việt Nam 2020 là 68,17 triệu người. Tăng 6,2
triệu người so với năm 2019, tăng đến 10%. Trong đó có hơn 145 triệu thiết bị di
động được kết nối với internet. Bình quân mỗi người dùng 2,1 thiết bị di động.
Thống kê người dùng internet ở Việt Nam 2020
Số lượng người sử dụng mạng xã hội (MXH) trên toàn thế giới đã chạm tới
con số 3.5 tỷ người, chiếm khoảng 46% tổng dân số trên thế giới. Đứng đầu là
Facebook với hơn 2,5 tỷ người. Và các mạng xã hội phổ biến nhất thế giới được liệt
kê dưới đây. (Nguồn: />
22
Số người dùng internet tại Việt Nam tăng 6,2 triệu (+ 10,0%) từ năm 2019 đến
2020.
Sự thâm nhập Internet ở Việt Nam đứng ở mức 70% vào tháng 1 năm 2020.
Người dùng phương tiện truyền thông xã hội ở Việt Nam
Có 65,00 triệu người dùng phương tiện truyền thơng xã hội tại Việt Nam vào
tháng 1 năm 2020.
Số người dùng phương tiện truyền thông xã hội tại Việt Nam tăng 5,7 triệu
(+ 9,6%) trong khoảng thời gian từ tháng 4 năm 2019 đến tháng 1 năm 2020.
Sự thâm nhập truyền thông xã hội ở Việt Nam đứng ở mức 67% vào tháng 1
năm 2020.
Thống kê số lượng di động kết nối internet tại Việt Nam
Có 145,8 triệu kết nối di động tại Việt Nam vào tháng 1 năm 2020.
Số lượng kết nối di động tại Việt Nam tăng 2,7 triệu (+ 1,9%) trong khoảng
thời gian từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 1 năm 2020.
Số lượng kết nối di động tại Việt Nam vào tháng 1 năm 2020 tương đương
với 150% tổng dân số.
Mạng xã hội Việt Nam 2020 – Thống kê người dùng mạng xã hội tại Việt Nam
2020
Hết quý 1/2020, thống kế người dùng các mạng xã hội tại Việt Nam, số
lượng người dùng số lượng rất lớn, lần lượt từ cao đến thấp như sau:
Facebook – youtube – Zalo – FB Mesenger – Instagram – Tiktok –
Twiter – Skype – Viber – Printest – Line – Linkedin – Wechat – Whatapp –
Twitch – Snapchat
Dựa trên số liệu thống kê, Facebook là nền tảng xã hội hàng đầu trên thế giới
hiện tại.
Facebook có 2,45 tỷ người dùng hoạt động hàng tháng (Facebook, 2019). …
Thống kê Facebook có hơn 80 triệu doanh nghiệp nhỏ trên toàn thế giới sử dụng
23
Trang Facebook (Facebook, 2018). Và trong đó 65% người dùng Facebook dưới 35
tuổi (Theo Statista.com, 2019)
Thống kê người dùng Facebook ở Việt Nam 2020
Hiện nay, tính đến tháng 06/2020. Tại Việt Nam đã có hơn 69 triệu tài khoản
Facebook. Chiếm 2/3 dân số Việt Nam (96,2 triệu người – số liệu năm
2019, Theo gso.gov.vn). Trong đó người dùng Facebook Việt Nam có đến 50,7% là
nam giới, cịn lại 49,3% là nữ giới và giới tính khác.
Song song đó, người dùng các mạng xã hội khác tại Việt Nam tương ứng là:
Messenger tại Việt Nam đạt : 63.230.000 người dùng
Instagram tại Việt Nam đạt: 7.149.000 người dùng.