Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

PHÂN TÍCH THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA QUÁ TRÌNH TÁI CƠ CẤU NGÀNH NÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA THỜI GIAN QUA. LIÊN HỆ THỰC TIỄN ĐỊA PHƯƠNG.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.89 KB, 12 trang )

PHÂN TÍCH THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA Q TRÌNH TÁI CƠ
CẤU NGÀNH NÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA THỜI GIAN QUA. LIÊN HỆ
THỰC TIỄN ĐỊA PHƯƠNG.
Chuỗi số liệu tăng trưởng GDP, tỷ lệ tăng sản phẩm nông nghiệp và kim
ngạch xuất khẩu nông sản từ những năm đầu đổi mới đến nay cho thấy, nông nghiệp
đã trở thành “bệ đỡ” của nền kinh tế nước ta trước biến động khó lường của kinh tế
toàn cầu với những thành tựu lớn. Tuy nhiên, đến nay, những hạn chế về chất lượng,
tính bền vững, sự sáng tạo và cách thức phát triển, cùng những yêu cầu mới đã và
đang đòi hỏi ngành nơng nghiệp Việt Nam cần có những bước chuyển mới mang
tính đột phá hơn.
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định tiếp tục thực hiện có hiệu
quả chủ trương cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây
dựng nông thôn mới. Phát triển nền nơng nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng
công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái dựa trên tiến bộ khoa học và công nghệ; phát
huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả,
sức cạnh tranh, bảo đảm vệ sinh an tồn thực phẩm, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Gắn kết chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ... Đó là những định hướng
rất đúng đắn. Tuy nhiên, làm thế nào để vượt qua những khó khăn, thách thức, thực
hiện thành công tái cơ cấu hợp lý, đưa nông nghiệp phát triển tương xứng với tiềm
năng, thế mạnh là bài toán đặt ra với chúng ta hiện nay.
Cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và nông nghiệp.
Theo Ngô Thắng Lợi (2012) cho rằng, cơ cấu kinh tế được hiểu là tổng thể
các bộ phận hợp thành của nền kinh tế cùng các mối quan hệ chủ yếu về định tính
và định lượng, ổn định và phát triển giữa các bộ phận ấy với nhau hay của toàn bộ
hệ thống trong những điều kiện của nền sản xuất xã hội và trong những khoảng thời
gian nhất định. Cơ cấu kinh tế không chỉ thể hiện ở quan hệ tỷ lệ về mặt số lượng
mà quan trọng hơn là mối quan hệ tác động qua lại giữa các bộ phận hợp thành nền
kinh tế.
Cơ cấu kinh tế không phải là một hệ thống tĩnh, bất biến mà luôn ở trạng thái
vận động, biến đổi không ngừng. Một cơ cấu kinh tế hợp lý phải có các bộ phận kết
hợp một cách hài hòa, cho phép khai thác tối đa các nguồn lực của đất nước một


cách có hiệu quả, bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng với nhịp độ cao và phát triển ổn
định, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của người dân.

1


Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình chuyển cơ cấu ngành kinh tế từ
dạng này sang dạng khác phù hợp với sự phát triển của phân công lao động xã hội,
sự phát triển của lực lượng sản xuất và phát triển khoa học - công nghệ. Đây khơng
phải đơn thuần là sự thay đổi vị trí của từng ngành, mà là sự thay đổi cả về lượng và
chất trong nội bộ cơ cấu ngành. Quá trình thay đổi của cơ cấu ngành từ trạng thái
này sang trạng thái khác gọi là sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Theo nghĩa hẹp, nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội,
cung cấp sản phẩm trồng trọt và sản phẩm chăn nuôi, phục vụ đời sống con người.
Theo nghĩa rộng, nông nghiệp là ngành sản xuất - kinh doanh, tạo ra nơng
phẩm hàng hóa, phục vụ sản xuất và đời sống con người.
Như vậy, nông nghiệp không chỉ sản xuất ra nông phẩm phục vụ trực tiếp cho
tiêu dùng mà còn thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực khác: công nghiệp chế
biến, marketing (quảng bá hình ảnh, xây dựng thương hiệu...), gắn với phân phối
(tiêu thụ) nông phẩm trên thị trường; sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị.
Đối tượng của sản xuất nơng nghiệp ngày càng được mở rộng: đất đai, sinh
vật - tạo ra sản phẩm tươi sống, các nông phẩm ở dạng “thô”, thúc đẩy phát triển
công nghiệp chế biến, tạo ra sản phẩm “tinh”, gắn với xây dựng thương hiệu, quảng
bá hình ảnh..., sản xuất nơng nghiệp theo “chuỗi”, làm gia tăng giá trị của sản phẩm
nông nghiệp, phục vụ nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng phong phú, đa dạng.
Như vậy, theo quan điểm hiện đại, nông nghiệp là ngành sản xuất - kinh
doanh, tạo ra nông phẩm hàng hóa gắn với chuỗi giá trị: sản xuất nông phẩm tươi
sống - chế biến - marketing - tiêu thụ nơng phẩm trên thị trường trong nước và ngồi
nước. Với cách hiểu trên, nông nghiệp là nền tảng để phát triển nhiều ngành nghề,
lĩnh vực sản xuất - kinh doanh khác, tạo ra việc làm, kể cả những việc làm có giá trị

gia tăng cao ở khu vực nơng thôn, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội nông thôn
nhanh và bền vững.
Đặc điểm của nông nghiệp.
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản, không thể thiếu của xã hội tạo ra nông phẩm nuôi sống con người. Song, nông nghiệp phụ thuộc vào thiên
nhiên, thị trường tiêu thụ; chịu tác động tiêu cực “kép” từ thiên tai và thách thức
cạnh tranh trên thị trường. Do đó, rủi ro phát triển sản xuất - kinh doanh nông
nghiệp là lớn, tác động tiêu cực đến phát triển bền vững nông nghiệp, nông dân và
nông thôn.
Tư liệu sản xuất chủ yếu của ngành nông nghiệp là đất đai, nguồn nước... Đối
tượng sản xuất là cây, con sinh trưởng, phát triển theo mùa vụ và phụ thuộc phần lớn
2


vào khí hậu, thời tiết; tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là đất đai canh tác, nguồn
nước... và có xu hướng suy giảm mạnh; môi trường ô nhiễm gia tăng; biến đổi khí
hậu tác động tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp ngày càng lớn,... Trong khi khoa
học, công nghệ sản xuất nơng nghiệp chưa thể làm chủ hồn tồn tác động tiêu cực
từ thiên nhiên.
Phát triển nông nghiệp hàng hóa gắn trực tiếp với mở rộng và phát triển thị
trường tiêu thụ trịng nước và quốc tế. Trình độ phát triển của thị trường là nhân tố
quyết định quy mơ, tốc độ, chất lượng nơng phẩm hàng hóa... Vì vậy, chủ thể sản
xuất - kinh doanh nông nghiệp phải tuân thủ các quy luật của thị trường, chấp nhận
những tác động từ thị trường. Hội nhập quốc tế càng sâu rộng, thị trường nơng sản
sẽ ln có sự biến động và chịu sức ép cạnh tranh, đem lại thách thức rất lớn cho
quốc gia phát triển nông nghiệp ở trình độ trung bình và thấp; chủ yếu xuất khẩu
nơng sản thơ và có sản phẩm tương đồng.
Nơng nghiệp là ngành kinh tế có giá trị gia tăng thấp; rất khó hấp dẫn đầu tư
phát triển, tác động trực tiếp đến phát triển kinh tế nông thôn và nông dân. Ở các
nước đang phát triển, cơng nghiệp hóa nơng nghiệp, nơng thơn thường gặp khó khăn
chung là khan hiếm nguồn lực đầu tư phát triển nền nông nghiệp tiên tiến, hiện đại,

dễ rơi vào luẩn quẩn: Sản xuất - kinh doanh nơng nghiệp khơng phát triển - khả
năng tích lũy thấp - năng lực đầu tư trở lại cho nông nghiệp hạn chế - thu nhập và
sức mua của người nông dân thấp - sản xuất và kinh doanh nông nghiệp không phát
triển; năng lực nội sinh từ khu vực nông thôn thường thấp và gia tăng chậm hơn so
với các ngành kinh tế công nghiệp, dịch vụ cũng như khu vực thành thị.
Độ co giãn của cầu nông phẩm hàng hóa (chưa qua chế biến) thấp, dễ dẫn đến
tình trạng “được mùa, mất giá”. Vì vậy, mở rộng và phát triển các mặt hàng nơng
phẩm phải gắn bó chặt chẽ, hiệu quả với thị trường đầu ra.
Vai trò của nông nghiệp trong phát triển kinh tế-xã hội.
Nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm - nguồn sống cho con người; có
đóng góp tích cực vào tăng trưởng, phát triển chung của nền kinh tế. Các quốc gia
sản xuất nông nghiệp khơng chỉ tham gia vào q trình bảo đảm an ninh lương thực
cho quốc gia mình mà cịn góp phần bảo đảm an ninh lương thực của khu vực và
quốc tế. Đặc biệt, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập
sâu vào nền kinh tế thế giới, việc một nước tham gia bảo đảm an ninh lương thực,
cung cấp nơng phẩm hàng hóa tồn cầu sẽ hình thành nhóm các quốc gia xuất khẩu
và nhóm các quốc gia nhập khẩu nơng phẩm hàng hóa dựa trên nền tảng lợi thế so
sánh. Thu nhập từ hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản sẽ đem lại lợi ích -

3


giá trị cao hơn và lớn hơn trên đơn vị sản phẩm lương thực cùng loại so với tiêu
dùng trong nước. Yếu tố này sẽ kích thích sản xuất nơng nghiệp phát triển vừa
hướng về xuất khẩu, vừa phục vụ tiêu dùng trong nước. Thơng qua đó, cơ cấu kinh
tế nơng nghiệp dịch chuyển theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo thêm
nhiều việc làm, gia tăng tích lũy vốn từ nông nghiệp. Đồng thời, gia tăng thu nhập
và sức mua cho người lao động, tạo ra nội lực và động lực cho kinh tế nông thôn
phát triển.
Nông nghiệp là ngành cung cấp nguyên liệu, phục vụ công nghiệp chế biến

trên địa bàn nông thôn. Sự phát triển của cơng nghiệp chế biến nơng sản góp phần
thúc đẩy và mở rộng hoạt động liên kết giữa các chủ thể (nhà nông, nhà nước, ngân
hàng, nhà khoa học) sản xuất - kinh doanh nông nghiệp; thực hiện sản xuất theo
chuỗi giá trị; tạo ra giá trị và giá trị tăng thêm, đẩy mạnh tăng trưởng, phát triển kinh
té ngành nông nghiệp nói riêng, nền kinh tế nói chung. Đồng thời, nông nghiệp,
nông thôn là thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm hàng hóa nơng nghiệp, cơng
nghiệp và dịch vụ. Ở các nước đang phát triển, dân cư sống tập trung ở khu vực
nông nghiệp, nông thôn, thị trường tiêu thụ càng được mở rộng và phát triển.
Thành tựu và hạn chế của q trình tái cơ cấu ngành nơng nghiệp ở nước ta
thời gian qua.
Hơn 20 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (1991-2000 và
2001-2010), cơ cấu ngành kinh tế nông nghiệp của nước ta có nhiều thay đổi theo
hướng tiến bộ. Ngành nơng nghiệp giảm dần mang tính chiến lược từ 38,7% năm
1990 xuống còn 24,5% năm 2000 và 20,6% năm 2010. Tuy nhiên, so với mục tiêu
của chiến lược phát triển kinh tế thì việc chuyển dịch này cịn chậm.
Trong điều kiện tình hình kinh tế thế giới khơng thuận lợi (khủng hoảng khu
vực 1997-1998; khủng hoảng kinh tế thế giới 2008- 2012), nhưng Việt Nam vẫn tiến
hành cơng nghiệp hóa đất nước và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mục tiêu, góp
phần nâng cao đời sống của một bộ phận người dân. Từ chỗ nền kinh tế khủng
hoảng, thiếu lương thực, thực phẩm, quá trình chuyển dịch cơ cấu đã tạo ra kết quả
to lớn; nông nghiệp đã tạo ra bước đột phá, đưa Việt Nam thành nước xuất khẩu
lương thực, thực phẩm; tỷ trọng nông nghiệp giảm xuống, nhưng giá trị tuyệt đối
tăng lên, góp phần bảo đảm an ninh lương thực, tạo nền tảng cho công nghiệp chế
biến phát triển. Hơn nữa, trong giai đoạn này, chúng ta đã chuyển dịch một lực
lượng lao động dư thừa từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch
vụ.

4



Trên thực tế, trong thời kỳ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 1991-2000, Việt Nam đã thành công trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài hàng thập niên trước
đó. Thành công lớn nhất trong giai đoạn này là Việt Nam vừa duy trì sự tăng trưởng
liên tục của khu vực nông nghiệp, cải thiện thu nhập cho khu vực nông thơn, vừa
tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa một sổ ngành quan trọng. Từ sau Đại hội
VIII, chủ trương cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn nhằm nâng
cao năng suất lao động khu vực nông nghiệp, tạo tiền đề dịch chuyển lao động sang
khu vực công nghiệp và khu vực dịch vụ. Chuyển dịch cơ cấu ngành kéo theo
chuyển dịch cơ cấu về lao động. Cơ cấu lao động liên tục chuyển dịch theo hướng
tích cực. Cụ thể, lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp lăm 1990 là 73% lực
lượng lao động, giảm xuống cịn 57,1% năm 2005 và 48,7% năm 2010. Thành cơng
nhất trong 20 năm đổi mới là đã dịch chuyển lao động dư thừa, bán thời vụ từ khu
vục nông nghiệp có thu nhập thấp sang khu vực cơng nghiệp và dịch vụ có thu nhập
cao hơn. Bằng chứng là, tỷ lệ lao động ở khu vực công nghiệp liên tục tăng từ
11,2% lực lượng lao động năm 1990 lên 18,2% năm 2005 và 21,7% năm 2010. Tỷ
lệ lao động của khu vực dịch vụ cũng tăng từ 15,8% năm 1990 lên 24,7% năm 2005
và 29,6% năm 2010.
Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nơng nghiệp vẫn cịn nhiều hạn
chế, bất cập: Tốc độ chuyển dịch còn chậm. Tỷ trọng nơng nghiệp trong GDP cịn
cao (năm 2005 là 21,02%; năm 2010 là 20,58%). Cơ cấu nội bộ từng ngành còn bất
hợp lý. Trong nội bộ tùng ngành, sự chuyển dịch cũng chưa hiệu quả, ngành nông
nghiệp vẫn chủ yếu dựa trên phương thức canh tác, sản xuất lạc hậu;
Đến năm 2016, nhằm tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về Đề án
“Một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mơ hình tăng trưởng,
nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh hanh của nền kinh
tế”, Nghị quyết số 142/2016/QH13 của Quốc hội về Kê hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2016- 2020, Nghị quyết số 98/2015/QH13 của Quốc hội về Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội năm 2016, Quyết định số 339/QĐ-TTg của Thủ tướng

Chính phủ về phê duyệt Đề án “Tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mơ
hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh
giai đoạn 2013-2020”, Chính phủ đã xây dựng Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai
đoạn 2016-2020, trong đó danh giá các kết quả đạt được và chưa đạt được: Tái cơ
cấu các ngành kinh tế đã đạt được một số thay đổi về chuyển dịch tỷ trọng các
ngành: tái cơ cấu nông nghiệp được tiến hành theo hướng tăng cường ứng dụng tiến
5


bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tổ chức lại sản xuất và phát triển xúc tiến thương
mại bước đầu đạt kết quả tích cực; tái cơ cấu cơng nghiệp đã tạo ra được sự thay đổi
tích cực trong cơ cấu nội bộ ngành theo hướng gia tăng tỷ trọng công nghiệp chế
biến, giảm tỷ trọng công nghiệp khai thác và nâng cao năng lực cạnh tranh. Bên
cạnh đó, việc tái cơ cấu kinh tế chưa tác động đáng kể đến thay đổi mơ hình tăng
trưởng, tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, việc mở rộng quy mô, nhiệm
vụ nâng cao chất lượng, hiệu quả chưa đạt mục tiêu đề ra. Thực hiện tái cơ cấu các
ngành kinh tế chưa tạo ra được sự thay đổi tích cực đủ lớn trong cơ cấu kinh tế giữa
các ngành, nội ngành: tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới tiến
triển chậm so với yêu cầu hội nhập và thích nghi với biến đổi khí hậu.
Trong Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
5 năm giai đoạn 2016-2020 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5
năm giai đoạn 2021- 2025, việc thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 20162020 được đánh giá như sau: Cơ cấu lại các lĩnh vực trọng tâm của nền kinh tế được
thực hiện quyết liệt và đạt nhiều kết quả tích cực. Cơ cấu lại ngành nghề và nội bộ
từng ngành cũng đạt kết quả khả quan. Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP
giảm xuống trong khi tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng
lên. Cụ thể, tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong GDP giảm từ 18,9% năm 2010
xuống còn 13,1% năm 2020. Sự sụt giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong
GDP kéo theo sự dịch chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực cơng
nghiệp và dịch vụ có năng suất lao động cao hơn. Tuy nhiên, phát triển nơng nghiệp
vẫn cịn những yếu tố thiếu bền vững, tăng trưởng chưa vững chắc. Đổi mới tổ chức

sản xuất còn chậm; đa số doanh nghiệp và hợp tác xã nơng nghiệp có quy mơ nhỏ,
hoạt động hiệu quả chưa cao. Sản xuất nơng nghiệp cịn manh mún, tích tụ ruộng
đất cịn khó khăn, thị trường tiêu thụ nơng sản thiếu ổn định.
Tóm lại, sau hơn 30 năm đổi mới (1986-2020), việc cơ cấu lại ngành nghề và
nội bộ ngành nông nghiệp cũng đạt kết quả khả quan. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp
được tiến hành theo hướng tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, tổ chức lại sản xuất và phát triển xúc tiến thương mại bước đầu đạt kết quả tích
cực. Tỷ trọng ngành nơng nghiệp trong GDP giảm xuống trong khi tỷ trọng của khu
vực công nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng lên. Sự dịch chuyển lao động từ khu
vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ có năng suất lao động cao
hơn. Tuy nhiên, phát triển nơng nghiệp vẫn cịn những yếu tố thiếu bền vững, tăng
trưởng chưa vững chắc. Đổi mới tổ chức sản xuất còn chậm; đa số doanh nghiệp và
hợp tác xã nơng nghiệp có quy mơ nhỏ, hoạt động hiệu quả chưa cao. Sản xuất nông

6


nghiệp cịn manh mún, tích tụ ruộng đất cịn khó khăn, thị trường tiêu thụ nông sản
thiếu ổn định.
Theo Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp trên địa bàn huyện Giồng Riềng
theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030.
Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng về phát triển
nông nghiệp và nông thôn, huyện đã đạt được nhiều thành tựu khá toàn diện và to
lớn. Diện tích của huyện chủ yếu là đất nơng nghiệp chiếm đến 91,5% diện tích đất
tự nhiên, trong những năm qua diện tích chuyên trồng lúa tăng 1.244 ha, trong khi
đó diện tích trồng cây lâu năm và đất rừng sản xuất (tràm) giảm mạnh, nguyên nhân
là do người dân chuyển những vườn cây tạp, kém hiệu quả chuyển sang trồng lúa,
đặc biệt là đất nuôi trồng thủy sản mặc dù có đưa vào quy hoạch nhưng thực tế chỉ
tiêu đất nuôi trồng thủy sản không thực hiện được.

Trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp của huyện là đã phá thế độc
canh cây lúa nâng cao tỷ lệ sản xuất lúa chất lượng cao; phát triển nhiều mơ hình
sản xuất đa canh tổng hợp trên đất lúa nâng cao đáng kể hiệu quả sử dụng đất như:
mơ hình 2 lúa + cá , 2 lúa + rau, 3 vụ lúa, chuyên canh rau màu… đạt lợi nhuận bình
qn 55- 90 triệu đồng/ha/năm trở lên góp phần tăng thu nhập kinh tế hộ. Tốc độ
tăng trưởng khá cao và ổn định, đảm bảo an ninh lương thực, tạo việc làm và thu
nhập cho dân cư nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã
hội, bảo vệ và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững. Bước đầu
đã hình thành được những vùng sản xuất hàng hóa gắn với chế biến và tiêu thụ nông
sản phẩm.
Các tổ chức sản xuất được phát triển từ tổ hợp tác sản xuất nhỏ lẻ lên hợp tác
xã nơng nghiệp, đến nay tồn huyện có 680 tổ hợp tác, 100 hợp tác xã nơng nghiệp,
diện tích trong bờ bao hợp tác bơm tát tập thể là 42.754 ha, chiếm 91,7% diện tích
sản xuất lúa. Một số đơn vị hợp tác sản xuất lúa theo tiêu chí cánh đồng lớn, tạo mơi
trường thuận lợi giửa người sản xuất và các doanh nghiệp liên kết tiêu thụ sản phẩm,
tạo nên động lực cho người sản xuất, kinh doanh và mọi thành phần kinh tế hăng hái
tham gia sản xuất, chủ động sáng tạo, chấp nhận cạnh tranh trên thị trường. Đồng
thời, việc ứng dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học cơng nghệ mới đã góp phần đáng
kể nâng cao năng suất và chất lượng của nông nghiệp trong những năm qua.
Nông nghiệp phát triển đa dạng và khá tồn diện, phát triển nhiều mơ hình
sản xuất tổng hợp trên đất vườn, đất ruộng, cải tạo vườn tạp và vườn cây khơng có
hiệu quả kinh tế; bước đầu hình thành cơ cấu sản xuất hợp lý theo hướng bền vững,

7


khai thác tốt tiềm năng đất đai, lao động, tăng hiệu quả kinh tế cho nơng dân. Có
nhiều mơ hình sản xuất đa canh tổng hợp phát triển có hiệu quả, một số xã đã hình
thành vùng chuyên canh sản xuất rau, màu ; tạo được vùng sản xuất hàng hóa có
chất lượng tương đối tốt như: khoai lang, dưa hấu, dưa leo, khổ qua; các loại hình

ni thuỷ sản phong phú hơn tăng thêm sản lượng; Diện tích vườn cây ăn trái
chuyên canh và đa canh cũng không ngừng tăng.
Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ yêu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp, nơng thơn được tăng cường. Hệ thống thuỷ lợi đảm bảo tưới tiêu cho 100%
diện tích lúa 2-3 vụ; bờ bao hợp tác chủ động bơm tát được trên 91% diện tích sản
xuất lúa; 100% diện tích bơm tát bằng động cơ, trong đó khoảng 23% diện tích bơm
bằng điện; cơ giới hố khâu làm đất 100%; gặt đập bằng máy được trên 90% diện
tích; sấy lúa được 80% sản lượng lúa hè thu; diện tích sử dụng giống lúa cấp xác
nhận trên 75% diện tích hàng vụ.
Tuy nhiên, nơng nghiệp tăng trưởng cịn kém bền vững và tính cạnh tranh
thấp, tình trạng "kéo giá" bất lợi cho sản xuất nông nghiệp diễn ra kéo dài trong
nhiều năm qua sản xuất nông nghiệp phải đương đầu với hàng loạt rủi ro về dịch
bệnh và thiên tai. Cạnh tranh trên thị trường diễn ra quyết liệt và người nông dân
luôn phải chịu vị thế bất lợi. Vì vậy, tăng trưởng của GDP nơng nghiệp thời gian qua
có xu hướng giảm sút. Cùng với các biến động bất lợi trong kinh tế vĩ mô quốc gia
và tác động của khủng hoảng kinh tế quốc tế như tình trạng lạm phát, giá nơng sản
và tác động của các chính sách thắt chặt tiền tệ… đã gây nhiều thiệt hại cho việc
làm và thu nhập của nông dân thời gian gần đây.
Tập quán canh tác của nông dân cịn mang nặng tính cá thể nên quy mơ sản
xuất nhỏ, manh mún, nơng dân chưa tích cực tổ chức nhiều khâu dịch vụ trong các
hợp tác xã, kết cấu hạ tầng phục vụ bảo quản chế biến nông sản cịn kém phát triển;
mơ hình sản xuất cánh đồng lớn có hiệu quả kinh tế cao nhưng phát triển chậm, diện
tích lúa tham gia cánh đồng lớn cịn ít, tiêu thụ nơng sản hàng hóa chưa ổn định;
cơng nghiệp chế biến nông sản hạn chế nên chất lượng nhiều loại nông sản thấp,
nhất là rau màu, sản phẩm chăn ni. Phần lớn nơng sản chưa có thương hiệu, giá trị
gia tăng thấp.
Hệ thống thủy lợi đê bao hiện nay đã khép kín, chủ động tưới tiêu cho trên
91,7% diện tích đất lúa, nhưng một số nơi đã xuống cấp, hệ thống thủy lợi nội đồng
chưa hoàn thiện và đồng bộ.
Ảnh hưởng của phát triển mạnh về công nghiệp – dịch vụ ở các địa phương

xung quanh kéo theo lực lượng lao động của huyện tập trung làm việc trong các khu

8


– cụm công nghiệp, các ngành dịch vụ làm cho lao động nông nghiệp ngày càng
giảm, lực lượng lao động nơng nghiệp ngày càng bị già hóa, khả năng tiếp thu các
tiến bộ khoa học kỹ thuật bị hạn chế; giá thuê nhân công luôn ở mức cao, đặc biệt
khi vào mùa vụ thu hoạch.
Mặc dù huyện nằm trong vùng có nhiều điều kiện để tăng trưởng về nơng
nghiệp, song huyện Giồng Riềng phải đối mặt với sức ép rất lớn về cạnh tranh quyết
liệt giữa các sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra so với các huyện lân cận. Để tồn tại
và phát triển bền vững đòi hỏi phải có biện pháp nâng cao chất lượng, mẫu mã nơng
sản hàng hóa.
Các tổ chức đồn thể chính trị xã hội từ huyện đến xã mặc dù đã triển khai
các trương trình, kế hoạch nhà nước để dân biết nhưng việc tun truyền chưa sâu
rộng. Mơ hình sản xuất có hiệu quả chưa được quan tâm chỉ đạo đúng mức, còn
lúng túng tìm kiếm thị trường tiêu thụ nên phát triển vẫn cịn chậm.
Sản xuất nơng nghiệp chưa cân đối giữa trồng trọt, chăn ni và ni trồng
thuỷ sản, trong đó chăn ni có mặt sụt giảm do giá cả đầu ra và dịch bệnh đe doạ
gây hại.
Từ những thành tựu và hạn chế yếu kém được nhìn nhận, Bản thân xin đề
xuất một số định hướng trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về sự cần
thiết, tất yếu và tầm quan trọng của thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nông
thôn mới đến các cấp, ngành, địa phương và người dân; cần có nhận thức đầu đủ về
sản xuất nơng nghiệp hàng hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, biến đổi khí
hậu. Đặc biệt, cần nâng cao nhận thức của chủ thể - người dân trong công cuộc xây
dựng nông thôn mới trong bối cảnh xã hội mới. Tuyên truyền trên các phương tiện
thông tin đại chúng để cập nhật các thông tin về khoa học và công nghệ. Hiệu quả

của việc tham gia mô hình để giúp nơng dân học tập và làm theo. Nâng cao trách
nhiệm và vai trò của các cấp lãnh đạo Đảng và Chính quyền trong việc hình thành
và phát triển của mơ hình.
Thứ hai, tuyển dụng, đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao năng lực cán bộ kỹ
thuật và hiệu quả quản lý nhà nước về nông nghiệp cho các cơ quan chuyên môn
cấp huyện và cán bộ của các xã thị trấn; đồng thời tăng cường cán bộ kỹ thuật, nâng
cao năng lực hoạt động cho hệ thống bảo vệ thực vật, khuyến nông, thú y từ huyện
đến xã. Tổ chức thực hiện có hiệu quả Chương trình dạy nghề theo Quyết định
1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nhằm nâng cao kiến thức kỹ thuật về nông

9


lâm ngư nghiệp cho nông dân gắn với quy hoạch xây dựng nông thôn mới, nhất là
các nghề thị trường lao động cần, ưu tiên vùng sâu, vùng xa.
Thứ ba, thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp đảm bảo theo cơ chế thị trường,
đồng thời phải đảm bảo các mục tiêu cơ bản về lợi ích cho nơng dân và người tiêu
dùng; chuyển mạnh từ phát triển theo chiều sang nâng cao chất lượng, hiệu quả
thể hiện bằng giá trị, lợi nhuận; chú trọng đáp ứng các yêu cầu về xã hội nhằm nâng
cao lợi thế cạnh tranh của các ngành hàng nơng nghiệp nói riêng và tồn ngành nơng
nghiệp huyện Giồng Riềng nói chung. Do đó, cần thực hiện đồng bộ các nội dung:
từ tái cơ cấu sử dụng các nguồn lực, tái cơ cấu công nghệ sản xuất, tái cơ cấu về
hình thức tổ chức sản xuất và đặc biệt là tái cơ cấu về các chủ thể sản xuất kinh
doanh nhằm gia tăng về hiệu quả và chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu khách
hàng... Với các nội dung này, cần có sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế,
xã hội vào quá trình tái cơ cấu ngành. Nơng dân và doanh nghiệp trực tiếp đầu tư
đổi mới quy trình sản xuất, cơng nghệ và thiết bị để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh và sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn.
Thứ tư, củng cố phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động các đơn vị kinh tế
tập thể. Đẩy mạnh các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản theo

chuỗi giá trị, kết nối với hệ thống tiêu thụ trong và ngoài tỉnh; đẩy mạnh đổi mới và
phát triển các hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới và chú trọng tổ chức sản xuất theo
hướng nhóm hộ sản xuất nơng sản theo hướng hàng hóa, chất lượng đảm bảo gắn
với chế biến và tiêu thụ. Ngoài ra, về mặt quản lý nhà nước cần thường xuyên điều
chỉnh, bổ sung hồn thiện cơ chế, chính sách, tạo động lực mới cho phát triển.
Thứ năm, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới cho nông dân như
kỹ thuật canh tác lúa, kỹ thuật sản xuất rau an tồn theo tiêu chuẩn VietGAP v.v…
để nơng dân sản xuất giảm giá thành, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, từ
đó đem lại thu nhập cao cho người dân.
Thúc đẩy cơ giới hóa trong việc sản xuất để góp phần làm giảm thất thốt
trong khâu sản xuất tăng cao lợi nhuận cho người nông dân. Tập trung ưu tiên sử
dụng nguồn vốn ngân sách từ các dự án của tỉnh, huyện đầu tư để phát triển các mơ
hình ứng dụng khoa học cơng nghệ, tìm chọn các loại giống cây có năng suất, chất
lượng cao và khả năng chống chịu với sâu bệnh, biến đổi thời tiết, các dự án phịng
ngừa, kiểm sốt sâu bệnh, dịch bệnh; công nghệ, bảo quản, giảm tổn thất sau thu hoạch,
nâng cao giá trị gia tăng và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Thứ sáu, huy động vốn đầu tư trong nhân dân vào xây dựng hoàn chỉnh đồng
ruộng, mua sắm máy móc phục vụ sản xuất, đầu tư cho thâm canh và chuyển đổi mô

10


hình sản xuất hàng hóa ứng dụng cơng nghệ cao. Phát triển mạng lưới tín dụng phục
vụ cho phát triển nông nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân được vay vốn
với mức lãi suất, thời gian vay và lượng vốn vay phù hợp với từng đối tượng sản
xuất.
Tập trung phát triển hạ tầng như giao thông, thủy lợi, điện phục vụ cho hoạt
động sản xuất. Triển khai hiệu quả Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg ngày
14/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ. Tiếp tục triển khai tốt các chính sách hỗ trợ
sản xuất nơng nghiệp, nơng thơn, trong đó chú trọng các chính sách hợp tác, liên kết

sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông, thủy sản theo chuỗi giá trị tạo
điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tuyên
truyền vận động nơng dân góp vốn bằng nhiều hình thức vào HTX, THT để hợp tác
liên kết sản xuất cánh đồng lớn tạo ra hàng hóa quy mơ lớn theo chuỗi giá trị nhằm
phát triển sản xuất ổn định, hiệu quả, xóa dần tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún,
tự phát. Tiếp tục thực hiện đào tạo nghề cho lao động nơng thơn, tăng cường trí thức
trẻ cho hợp tác xã nông nghiệp. Liên kết xây dựng cánh đồng lớn giữa doanh
nghiệp, hợp tác xã, nhà khoa học và nông dân có hiệu quả.
Thứ bảy, nhà nước cần có các chính sách để các cơng ty ký kết hợp đồng với
nông dân qua việc cung ứng vật tư và bao tiêu sản phẩm. Mạnh dạn đầu tư xây dựng
các cơ sở chế biến có vai trị quan trọng thúc đẩy các sản phẩm lực của vùng phát
triển mà người dân khó có thể tự làm được. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu,
tìm hiểu các thị trường, xúc tiến thương mại gắn với từng sản phẩm hàng hoá cụ thể
như: xây dựng vùng nguyên liệu lúa chất lượng cao, khu vực sinh thái trồng cây ăn
trái, vùng trồng cây hồ tiêu, vùng màu chuyên canh, vùng chăn nuôi công nghiệp;
Tăng cường phối hợp,liên kết phát triển thị trường tiêu dùng nội địa tập trung vào
chợ nông thôn và các tỉnh lân cận các sản phẩn từ trái cây, rau an toàn, gia súc, gia
cầm, trứng gia cầm, thuỷ sản, hạt tiêu, gương sen,… Hỗ trợ xây dựng và phát triển
thương hiệu sản phẩm nông sản như: Khoai lang bông súng, măng cụt Hòa Thuận,
dâu xanh Long Thạnh, hồ tiêu Hòa Thuận, Ngọc Hòa các sản phẩm khác như bánh
tráng Thạnh Hưng.
Cuối cùng, cần tập trung hồn thiện và trình phê duyệt các quy hoạch đang
triển khai như: Điều chỉnh quy hoạch vùng lúa chất lượng cao kết hợp xây dựng và
thực hiện quy hoạch các cánh đồng lớn sản xuất các nông sản tập trung; điều chỉnh
quy hoạch vùng sản xuất lúa 2 vụ bị ảnh hưởng xâm nhập mặn các xã ven sông cái
bé, vùng trồng màu chuyên canh trên đất ruộng 4 xã Long thạnh, Vĩnh Thạnh, Thị
trấn và Bàn Thạch... quy hoạch thủy lợi cống đập trạm bơm vùng sản xuất 3 vụ lúa.

11



Xây dựng Quy hoạch phát triển nông nghiệp huyện Giồng Riềng đến năm 2020, có
tính đến năm 2030, trên cơ sở phát huy lợi thế nông nghiệp của huyện, tập trung
phát triển các sản phẩm chủ lực có lợi thế sản xuất hàng hóa gắn với chế biến và tiêu
thụ sản phẩm.
Với quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị. Song,
để tái cơ cấu nơng nghiệp thành cơng thì cần các giải pháp mạnh, thiết thực, đôi khi
cần phải mạnh tay bứt phá, cải cách có điều kiện để đến đích: tạo mơi trường cạnh
tranh sản xuất, kinh doanh lành mạnh, sòng phẳng giữa các thành phần kinh tế, kích
thích sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng GDP. Tăng cường thắt chặt mối quan
hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng, đó là những yếu tố cần thiết để tái cơ cấu
ngành nông nghiệp thành công.

12



×