Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 19541986

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161 KB, 26 trang )

PHÂN TÍCH Q TRÌNH PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1986. NHẬN THỨC VÀ TRÁCH
NHIỆM CỦA BẢN THÂN ĐỐI VỚI VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY.
BÀI LÀM
Ngay từ khi ra đời (2-1930), Đảng ta đã xác định rõ ràng và dứt khoát con
đường phát triển của cách mạng Việt Nam, là con đường XHCN. Lãnh tụ Hồ Chí
Minh đã có những chỉ dẫn có ý nghĩa rất quan trọng, từ việc đưa ra quan niệm,
phương châm, phương pháp, đến việc chuẩn bị những điều kiện để tiến lên
CNXH...Vận dụng sáng tạo những tư tưởng của Người, qua hơn 30 năm đổi mới,
nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về CNXH và con đường đi lên CNXH ở
Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Hiện nay, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế
đang đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để hiện thực hóa con
đường XHCN mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Như chúng ta đã biết, từ năm 1954 đến 1975, miền Bắc quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từ một nền kinh tế kém phát triển
và chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh.
- Đảng lãnh đạo hồn thành những nhiệm vụ cịn lại của cách mạng dân
tộc dân chủ và khôi phục kinh tế (1954-1957)
Trong những năm đầu sau ngày miền Bắc được giải phóng, Đảng tập trung
lãnh đạo thực hiện những nhiệm vụ: Hoàn thành việc tiếp quản vùng địch tạm chiếm
trước đây và đấu tranh thực hiện Hiệp định Giơnevơ, thực hiện cải cách ruộng đất;
đồng thời, tiến hành khôi phục nền kinh tế quốc dân, trên cơ sở đó phát triển sản
xuất, ổn định đời sống nhân dân.
Hoàn thành tiếp quản vùng địch tạm chiếm
Ngay từ những ngày đầu khi miền Bắc được giải phóng, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân tiến hành chống địch phá hoại các cơ sở kinh tế, văn hoá trong các thành
phố, thị xã trước khi địch phải rút qn. Do đó, chính quyền cách mạng thực hiện
việc tiếp quản vùng địch tạm chiếm nhanh gọn và đỡ tổn thất.


Để thực hiện âm mưu làm rối loạn xã hội, rút đi một lực lượng lao động của
miền Bắc và tạo cho các lực lượng thân Pháp có thêm chỗ dựa về chính trị - xã hội,
thực dân Pháp và chính quyền tay sai đã sử dụng mọi thủ đoạn lừa phỉnh, dụ dỗ,
1


cưỡng ép những người đã tham gia vào chính quyền và quân đội thân Pháp, đồng
bào theo đạo Thiên chúa, một số trí thức, tư sản, cơng nhân kỹ thuật di cư vào Nam.
Chúng đã cung cấp tiền của, phương tiện cho bọn phản động gây rối trật tự trị an ở
Bùi Chu (Nam Định), Phát Diệm (Ninh Bình), gây bạo loạn ở Ba Làng (Thanh
Hoá), Quỳnh Lưu (Nghệ An). Đây là cuộc đấu tranh chính trị sâu sắc nhưng nhiều
cấp uỷ chưa thấy hết được tính chất phức tạp và cấp bách của nó, do đó khơng có
những chủ trương biện pháp đối phó kịp thời, thậm chí có nơi đã không dám trấn áp
bọn phản động cầm đầu, sợ vi phạm Hiệp định Giơnevơ... Đảng đã phê phán những
sai lầm đó và thành lập các ban chỉ đạo chống cưỡng ép di cư, nhiều chính sách cụ
thể được ban hành kịp thời như: chính sách đối với tơn giáo, chính sách đối với cơng
chức, trí thức, giáo viên trước đây làm việc cho Pháp; chính sách đối với những
cơng thương gia, chính sách đối với nguỵ qn; đồng thời, Đảng đã huy động hàng
vạn cán bộ, bộ đội giúp đỡ các địa phương vận động quần chúng đấu tranh chống
địch cưỡng ép di cư, do đó đã thu được những kết quả tốt đẹp.
Tiếp tục tiến hành cải cách ruộng đất
Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành cơng, trong q trình kháng
chiến chống thực dân Pháp, Đảng đã lãnh đạo thực hiện giảm tô, giảm tức, thực hiện
cải cách ruộng đất ở vùng tự do. Năm 1954, miền Bắc được hồn tồn giải phóng,
Đảng và Nhà nước tiếp tục tiến hành cải cách ruộng đất ở những nơi trước đây chưa
có điều kiện thực hiện do nằm trong vùng địch tạm chiếm.
Nghị quyết của Bộ Chính trị tháng 9-1954 và Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa II (5-1955) chỉ rõ: “Để củng cố miền Bắc,
trước hết cần hoàn thành cải cách ruộng đất ở miền Bắc”, chia ruộng đất cho nơng
dân, xóa bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ. Để bảo đảm thực hiện

thắng lợi cải cách ruộng đất, Trung ương Đảng chủ trương: “Dựa hẳn vào bần cố
nơng, đồn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp với phú nông, đánh đổ giai cấp địa
chủ, tiêu diệt chế độ phong kiến từng bước và có phân biệt”. Bên cạnh đó, “cần chú
trọng phân biệt đối xử với các hạng địa chủ, triệt để phân hóa giai cấp địa chủ và
chiếu cố địa chủ kháng chiến một cách đúng mức làm sao cho càng ít kẻ địch càng
tốt”.
Thực hiện chủ trương của Đảng, cải cách ruộng đất được tiến hành khẩn
trương. Đến tháng 7-1956, cải cách ruộng đất đã căn bản hoàn thành ở đồng bằng,
trung du và một số xã miền núi. Cuộc vận động cải cách ruộng đất đạt được một số
kết quả như: thực hiện 8 đợt giảm tô, 5 đợt cải cách ruộng đất, chia 334.000 hécta
ruộng đất cho 2 triệu hộ nông dân. Giai cấp địa chủ và tàn dư của xã hội phong kiến
đã bị xóa bỏ. Năng lực sản xuất trong nơng nghiệp được giải phóng thơng qua việc
xác lập kinh tế hộ nông dân, đưa người nơng dân trở thành chủ thể trong q trình sản
xuất, góp phần quan trọng vào việc khơi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh.

2


Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành cải cách ruộng đất, Đảng đã phạm phải
một số sai lầm nghiêm trọng phổ biến và kéo dài trong chỉ đạo thực hiện. Do chủ
quan giáo điều, không xuất phát đầy đủ từ thực tiễn, Đảng đã không thấy rõ được
những thay đổi quan trọng về quan hệ giai cấp, xã hội ở nông thôn Việt Nam sau
Cách mạng tháng Tám, nhất là những thay đổi trong kháng chiến. Do đó, trong chỉ
đạo thực hiện cải cách ruộng đất, đã cường điệu hoá đấu tranh giai cấp ở nông thôn,
dẫn đến mở rộng quá mức đối tượng đấu tranh. Sử dụng hình thức, phương pháp
đấu tranh không phù hợp với đối tượng là địa chủ ở nông thôn Việt Nam.
Trong chỉnh đốn tổ chức, đã nhận định sai về tình hình tổ chức cơ sở Đảng ở
nông thôn, cho rằng về cơ bản đã bị địch lũng đoạn, từ đó dẫn đến xử lý oan những
cán bộ, đảng viên tốt, sai lầm này gây ra một số tổn thất đối với Đảng và quan hệ
giữa Đảng và các tầng lớp nhân dân.

Tại Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương, khoá II (9-1956), Đảng
đã nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm, cơng khai tự phê bình trước nhân dân và
tiến hành sửa sai một cách kiên quyết, khẩn trương, thận trọng và có kế hoạch lãnh
đạo chặt chẽ, vì vậy đã từng bước khắc phục được những sai lầm trong cải cách
ruộng đất. Thái độ chân thành tự phê bình của Đảng đã được nhân dân đồng tình
ủng hộ, uy tín của Đảng dần được khơi phục. Do đó, Đảng đã nhanh chóng ổn định
tình hình chính trị – xã hội, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân và khơi phục,
củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong cán bộ, đảng viên.
Tiến hành khơi phục kinh tế
Ngay sau ngày hịa bình được lập lại, Bộ Chính trị nhận định: "Chúng ta sẽ
đứng trước một nhiệm vụ to lớn trong công tác kinh tế là hàn gắn vết thương của
chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, giảm bớt những khó khăn về đời sống của
nhân dân, phát triển kinh tế một cách có kế hoạch và làm từng bước, mở rộng việc
giao lưu kinh tế giữa thành thị và thôn quê".
Trong khôi phục kinh tế, Đảng đặt trọng tâm là sản xuất nông nghiệp. Trong
khôi phục sản xuất nông nghiệp thì lĩnh vực trồng trọt được chú trọng trước hết. Do
đó, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách để khuyến khích phát triển sản xuất
nơng nghiệp, bảo đảm cho nơng dân có ruộng đất để canh tác, những diện tích khai
hoang, phục hóa, tăng vụ được giảm và miễn thuế, được tự do th mướn nhân
cơng, trâu bị; khuyến khích phát triển ngành, nghề phụ.
Việc khơi phục kinh tế nông nghiệp được kết hợp với cải cách ruộng đất, vận
động tổ đổi công, giúp nhau sản xuất. Đảng và Nhà nước hết sức chăm lo xây dựng
cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nông nghiệp. Trong ba năm (1954-1957), sáu hệ thống
thủy nông lớn được sửa chữa, hàng chục cơng trình thủy lợi hạng vừa được xây
dựng, số cán bộ kỹ thuật nông nghiệp được đào tạo ở bậc đại học và trung học
chuyên nghiệp được tăng cường. Do đó, tình hình nơng thơn có chuyển biến lớn.
3


Năm 1957, các chỉ tiêu sản xuất nông nghiệp đều vượt mức năm 1939 (năm có sản

lượng cao nhất dưới thời Pháp thuộc). Sản xuất nông nghiệp được khôi phục và phát
triển, nạn đói bị đẩy lùi. Kết quả này góp phần ổn định chính trị, trật tự và an tồn
xã hội.
Việc khơi phục cơng nghiệp, thương nghiệp, tiểu thủ cơng nghiệp được đẩy
mạnh. Chính sách khơi phục cơng nghiệp, thương nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của
Đảng và Nhà nước là: Nhà nước bảo hộ cho các xí nghiệp cơng thương và tư thương
được sản xuất kinh doanh phục vụ dân sinh, bảo hộ sự giao lưu hàng hóa giữa thành
thị và nông thôn, làm sống động thị trường, đồng thời thúc đẩy phát triển ngành
thương nghiệp toàn quốc. Đối với cơng nghiệp và thương nghiệp tư nhân, nếu có lợi
cho quốc kế dân sinh thì khuyến khích phục hồi và phát triển, nếu khơng có lợi thì
hạn chế một cách thích đáng bằng các sắc lệnh chứ khơng thủ tiêu một cách vội
vàng. Chính phủ cịn khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp để sản xuất ra
nhiều hàng hoá tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của các tầng lớp nhân
dân. Đối với công nghiệp quốc doanh, tập trung sản xuất hàng tiêu dùng với quy mô
nhỏ và vừa nhằm phục vụ dân sinh, khôi phục giao thông vận tải và bưu điện phục
vụ cho giao lưu kinh tế.
Nhờ chủ trương chỉ đạo đúng đắn của Đảng, thủ cơng nghiệp của miền Bắc
nhanh chóng được khơi phục và phát triển. Đến cuối năm 1957, có 150.000 cơ sở
sản xuất với 430.000 lao động, nhiều ngành nghề mới được phát triển; thủ công
nghiệp chiếm khoảng 63,7% tổng giá trị sản lượng công nghiệp. Tỷ trọng hàng tiêu
dùng, sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp tăng từ 8,4% năm 1955 lên 48,5%
năm 1956 và đạt 68,6% năm 1957.
Bên cạnh đó, Đảng coi trọng thành phần kinh tế quốc doanh, tạo điều kiện
cho thành phần này từng bước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Năm
1955, miền Bắc mới chỉ có 19 xí nghiệp với 17.290 công nhân, nhưng chỉ sau hơn
ba năm khôi phục và xây dựng đã có 78 xí nghiệp với 46.430 công nhân; giá trị tổng
sản lượng công nghiệp chiếm 10% tổng giá trị sản lượng công, nông nghiệp và bằng
mức năm 1939.
Về giao thông vận tải, chỉ sau một thời gian ngắn, bốn tuyến đường sắt nối
liền thủ đô Hà Nội với các tỉnh đã nhanh chóng được khơi phục. Ngày 28-2-1955,

tuyến đường sắt liên vận quốc tế Hà Nội - Đồng Đăng (Lạng Sơn) được khánh
thành. Ngày 1-1-1956, đường sắt từ Hà Nội đến Lào Cai thông tuyến. Các tuyến
đường bộ, đường thủy, đường không chủ yếu của miền Bắc đều được khôi phục.
- Đảng lãnh đạo cải tạo xã hội chủ nghĩa và bước đầu xây dựng cơ sở vật
chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội (1958-1960)
Cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp

4


Tháng 11-1958, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
khóa II đề ra kế hoạch 3 năm (1958-1960) với nội dung cơ bản: “Đẩy mạnh phát
triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy sản xuất nông nghiệp làm trọng
tâm, nhằm giải quyết vấn đề lương thực, giải quyết phần lớn hàng tiêu dùng và
hết sức chú trọng tăng thêm các tư liệu sản xuất. Ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ
công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh theo chủ nghĩa xã hội, chủ
yếu nhất là đẩy mạnh hợp tác hóa nơng nghiệp, đồng thời tích cực phát triển và
củng cố thành phần kinh tế quốc doanh. Trên cơ sở sản xuất phát triển, nâng cao
một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, nhất là nhân dân lao động
và tăng cường củng cố quốc phịng”.
Tiếp đó, Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa II (41959) thông qua hai nghị quyết: Nghị quyết về vấn đề hợp tác hố nơng nghiệp và
Nghị quyết về cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh theo chủ nghĩa xã hội.
Về vấn đề hợp tác hố nơng nghiệp:
Chủ trương của Đảng là đưa nông dân từ làm ăn cá thể đi dần từ tổ đổi
công lên hợp tác xã bậc thấp, rồi hợp tác xã bậc cao. Hợp tác hóa đi đơi với thủy
lợi hóa và tổ chức phân cơng lại lao động xã hội để phát huy tính ưu việt và sức
mạnh của tập thể. Nguyên tắc tiến hành là: tự nguyện, quản lý dân chủ (có sự
giúp đỡ của Nhà nước) và cùng có lợi.
Hội nghị xác định hình thức và bước đi của hợp tác hóa là: hợp tác hóa đi
trước cơ giới hóa, do vậy, hợp tác hóa phải đi đơi với thủy lợi hóa và tổ chức phân

công lại lao động xã hội để phát huy tính ưu việt và sức mạnh của tập thể. Tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng, đông đảo nông dân hưởng ứng đi vào làm ăn tập thể. Đến
cuối năm 1958, miền Bắc xây dựng được 4.723 hợp tác xã. Chỉ trong 2 năm (19591960), về hình thức, cơng cuộc hợp tác hóa đã hồn thành về cơ bản. Năm 1960, đã
thành lập 41.400 hợp tác xã, thu hút 85,83% tổng số hộ nông dân với 80% diện tích
(trong đó, 14,5% số hộ nơng dân gia nhập hợp tác xã bậc cao).
Về tiến hành cải tạo công nghiệp, thương nghiệp tư bản tư doanh:
Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa II chủ trương
“cải tạo hịa bình” đối với giai cấp tư sản. “Về kinh tế, tiếp tục dùng chính sách
sử dụng, hạn chế và cải tạo, chủ yếu là cải tạo: đưa công, thương nghiệp tư bản tư
doanh đã được cải tạo bước đầu bằng hình thức vừa và thấp của chủ nghĩa tư bản
nhà nước lên hình thức cao của tư bản nhà nước và vào con đường hợp tác hóa,
nhằm biến đổi về căn bản công thương nghiệp tư bản tư doanh. Thực hiện việc
chuộc lại trả dần tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản dân tộc, biến chế độ sở hữu
tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thành chế độ sở hữu vừa tư bản chủ nghĩa,
vừa xã hội chủ nghĩa, tiến lên hoàn toàn xã hội chủ nghĩa. Về chính trị, đối với
giai cấp tư sản dân tộc, tiếp tục dùng chính sách vừa đồn kết vừa đấu tranh, đấu
5


tranh để đi đến đoàn kết hơn nữa trên cơ sở mới. Đi đơi với cải tạo xí nghiệp tư
bản, cần giáo dục, cải tạo con người tư sản và sắp xếp cơng việc cho họ, làm cho
họ có cơ hội lao động để cải tạo và phục vụ nhân dân”.
Sau quá trình tiến hành cải tạo, đến năm 1960, 100% hộ tư sản công nghiệp,
97,2% hộ tư sản thương nghiệp đã được cải tạo.
Đối với thợ thủ công và những người buôn bán nhỏ, chủ trương của Đảng là
đưa thợ thủ công vào hợp tác xã thủ công nghiệp; đưa những người buôn bán nhỏ
vào hợp tác xã mua bán và chuyển dần sang sản xuất. Kết quả là, đến cuối năm
1960, có 87,9% thợ thủ cơng (260.000 người) vào hợp tác xã thủ công nghiệp; 45%
hộ buôn bán nhỏ (100.000 người) vào các hợp tác xã mua bán và 50.000 người
chuyển sang sản xuất nông nghiệp.

Cùng với kết quả cải tạo xã hội chủ nghĩa, thành phần kinh tế quốc doanh
cũng ngày càng phát triển và đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Sản xuất nơng nghiệp trong 3 năm (1958-1960) vẫn tăng trung bình mỗi năm
5,6% (mặc dù năm 1960 thiên tai gây ra những hậu quả lớn). Thu nhập quốc dân
tính theo đầu người từ năm 1955 đến năm 1960 tăng gấp đôi, sức mua của xã hội
tăng 70%.
Về văn hóa, giáo dục và y tế:
Trong 3 năm (1958-1960) văn hoá, giáo dục miền Bắc đạt được những kết
quả tích cực: năm học 1960-1961, có 1.900.000 học sinh phổ thơng, 13.000 sinh
viên đại học, 30.700 học sinh trung học chuyên nghiệp. Năm 1960, cứ 100 người
dân có 18 người đi học (năm 1939, tỷ lệ này là 3/100 người). Tồn miền Bắc, có
2.965 nhà văn hóa, 211 trạm truyền thanh, xuất bản 27,5 triệu cuốn sách và phát
hành 61 triệu tờ báo và tạp chí. Về y tế, đã có 203 bệnh viện và bệnh xá, số giường
bệnh tăng lên theo từng năm.
Sau 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958-1960), nền kinh tế bị chiến tranh
tàn phá đã được khôi phục, những nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đã hồn thành. Thành quả đó đã tạo ra sự chuyển biến sâu sắc về kinh tế,
chính trị - xã hội của miền Bắc, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải
thiện một bước. Vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý, điều hành của Nhà nước dân
chủ nhân dân ngày càng được củng cố và tăng cường.
Bình qn hàng năm, nơng nghiệp tăng 11,2%, công nghiệp tăng gấp 2 lần so
với năm 1957 (từ năm 1958 đến năm 1960, giá trị sản lượng cơng nghiệp tăng bình
qn 22,6%/năm). Năm 1960, miền Bắc có 172 xí nghiệp cơng nghiệp do Trung
ương quản lý. Kinh tế, văn hoá tiếp tục tăng trưởng trên cơ sở quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa dưới hai hình thức sở hữu chủ yếu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập
thể. Kinh tế quốc doanh có bước phát triển đáng kể và bước đầu phát huy vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế hợp tác xã trở thành phổ biến, cùng với kinh
6



tế quốc doanh hợp thành nền tảng của nền kinh tế miền Bắc. Biên chế nhà nước năm
1960 tăng 2 lần so với năm 1955. Quy mô xây dựng cơ bản được mở rộng. Thành
tựu lớn nhất của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa là đã xoá bỏ chế độ áp bức bóc
lột, các giai cấp bóc lột đã bị xố bỏ.
Tuy nhiên, trong q trình cải tạo, Đảng đã phạm phải sai lầm chủ quan, duy
ý chí, nóng vội, muốn nhanh chóng xóa bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa mà không tôn trọng quy luật khách quan, chưa tính đến đầy đủ, chính xác tình
hình, hồn cảnh cụ thể của đất nước và của miền Bắc. Trong cải tạo các thành phần
kinh tế, đã đồng nhất tập thể hóa với hợp tác hóa, quá sớm để hoàn thành việc xác
lập sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, coi đó là hai hình thức sở hữu của chế độ xã
hội chủ nghĩa trong khi miền Bắc mới bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Do đó, trong tiến hành cải tạo nông nghiệp, đã vi phạm nguyên tắc tự nguyện, chưa
tính đến tính tất yếu và yêu cầu thực sự của q trình phát triển nơng nghiệp; trong
cải tạo công thương nghiệp, chưa quan tâm đúng mức đến nguyên tắc cùng có lợi,
chưa tìm ra cơ chế và giải pháp quản lý phù hợp, do vậy hiệu quả kinh tế thấp.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) và kế hoạch 5
năm lần thứ nhất (1961-1965)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp từ ngày 5 đến ngày 10-91960 tại Thủ đơ Hà Nội. Dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự
khuyết, thay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước.
Sau khi phân tích tình hình đất nước từ sau thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, Đại hội nêu lên ba đặc điểm của miền Bắc khi bước vào thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó, Đại hội đề ra chiến lược của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là tiến hành đồng thời hai chiến lược cách
mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở
miền Nam. Hai chiến lược cách mạng này có quan hệ mật thiết, tác động, thúc đẩy,
hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển để thực hiện mục tiêu chung của cách mạng Việt
Nam là độc lập, hịa bình, thống nhất Tổ quốc.
Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc là: “Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền thống

phấn đấu anh dũng, lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết
với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu để đưa miền Bắc tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no
hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu
tranh thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ hịa bình ở Đông nam Á và thế giới”.

7


Cùng với xác định đường lối chung, Đại hội còn đề ra đường lối xây dựng
kinh tế của miền Bắc, trong đó chủ trương ưu tiên phát triển cơng nghiệp nặng một
cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Đại hội III của Đảng đã thông qua Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965),
với nhiệm vụ: “… thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng
bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời hoàn thành cải
tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế miền Bắc nước ta trở thành nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa”.
Sau Đại hội III của Đảng, miền Bắc bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ lấy xây
dựng chủ nghĩa xã hội làm nhiệm vụ trọng tâm. Ban Chấp hành Trung ương Đảng tổ
chức các hội nghị chuyên đề cụ thể hóa đường lối phát triển kinh tế trong kế hoạch 5
năm lần thứ nhất.
Đầu tháng 1-1961, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
quyết định những nhiệm vụ của Kế hoạch Nhà nước năm 1961, trong đó nhấn mạnh
nhiệm vụ quan trọng nhất là củng cố và phát triển hợp tác xã sản xuất nông nghiệp,
phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc. Hội nghị lần thứ
5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khoá III (7-1961) đánh giá những tiến bộ trong
nông nghiệp, từ đó xác định nhiệm vụ và phương hướng chung phát triển nông
nghiệp trong Kế hoạch 5 năm là phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hố xã hội chủ
nghĩa và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.

Đường lối cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa do Đại hội III của Đảng đề ra đã
được cụ thể hóa trong Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (61962). Hội nghị bàn về nhiệm vụ, phương hướng xây dựng và phát triển công
nghiệp trong quá trình thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất…
Để khắc phục những yếu kém, tiêu cực mới nảy sinh trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội và để đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong
năm 1963, Bộ Chính trị đề ra 3 cuộc vận động lớn: Cuộc vận động cải tiến quản lý
hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật trong nông nghiệp; cuộc vận động nâng cao tinh thần
trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế-tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ơ,
lãng phí, quan liêu (gọi tắt là cuộc vận động ba xây, ba chống); và cuộc vận động
xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa miền núi.
Trong quá trình thực hiện cuộc vận động, các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp
đã được củng cố thêm một bước, quy mô của nhiều hợp tác xã được mở rộng và
chuyển lên bậc cao, công tác quản lý hợp tác xã về các mặt sản xuất, lao động và tài
chính được cải tiến, việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các hợp tác xã sản
xuất nông nghiệp được mở rộng, công tác lãnh đạo và chỉ đạo nơng nghiệp của các
cấp ủy đảng có nhiều tiến bộ.

8


Tháng 12-1964, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tiến hành Hội nghị lần thứ
mười để bàn về vấn đề thương nghiệp và giá cả.
Cùng với những chủ trương về phát triển kinh tế, công tác xây dựng Đảng
cũng được Đảng quan tâm. Ngày 25-2-1961, Bộ Chính trị ra Nghị quyết Về cuộc
vận động chỉnh huấn mùa Xuân năm 1961. Đây là cuộc chỉnh huấn trong Đảng để
nhận thức thống nhất đường lối và những quan điểm của Đảng, chống những biểu
hiện của "chủ nghĩa cá nhân, tham ơ, lãng phí, tác phong quan liêu mệnh lệnh, thái
độ bảo thủ rụt rè".
Thực hiện những chủ trương của Trung ương Đảng, Nhà nước đã tổ chức
nhiều phong trào thi đua sôi nổi trong các ngành, các địa phương, đơn vị và trong

các tầng lớp nhân dân. Trong nơng nghiệp, có phong trào thi đua theo gương của
Hợp tác xã Đại Phong (Quảng Bình); trong cơng nghiệp, có phong trào thi đua với
Nhà máy cơ khí Dun Hải (Hải Phịng); trong tiểu thủ cơng nghiệp, có phong trào
thi đua với Hợp tác xã thủ cơng nghiệp Thành Cơng (Thanh Hóa); trong ngành giáo
dục, có phong trào thi đua hai tốt (dạy tốt, học tốt) học tập Trường cấp II Bắc Lý
(Hà Nam); trong quân đội, có phong trào thi đua "Ba nhất". Đặc biệt, phong trào
"Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt" theo
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị chính trị đặc biệt tháng 3-1964
khi đế quốc Mỹ leo thang mở rộng chiến tranh ở miền Nam đã làm tăng thêm khơng
khí phấn khởi, hăng hái vươn lên hoàn thành Kế hoạch năm năm lần thứ nhất.
Từ sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” ngày 5-8-1964, đế quốc Mỹ chính thức tiến hành
chiến tranh phá hoại miền Bắc, do đó kế hoạch 5 năm mới thực hiện được 4 năm đã
phải chuyển hướng, nhưng những mục tiêu chủ yếu của kế hoạch đã căn bản hoàn
thành. Nhân dân miền Bắc đã thực hiện được một bước đáng kể kế hoạch xây dựng
cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội:
Tốc độ phát triển cơng nghiệp bình qn giai đoạn 1961-1965 đạt
13,6%/năm. Đến năm 1965, miền Bắc đã xây dựng được 1.132 xí nghiệp cơng
nghiệp quốc doanh và hàng chục nghìn cơ sở thủ cơng nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, bảo đảm cung ứng 90% số lượng hàng tiêu dùng thông thường cho nhân
dân. Đến năm 1965, miền Bắc có 650.000 lao động cơng nghiệp và thủ cơng
nghiệp, trong đó có 2.615 người có trình độ đại học và trên đại học, 11.600 cán bộ
có trình độ trung cấp.
Giá trị tổng sản lượng nơng nghiệp bình qn hàng năm tăng 4,1%, cơ sở vật
chất kỹ thuật trong nông nghiệp ngày càng được tăng cường.
Đồng thời, miền Bắc đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển văn hoá,
xã hội và giáo dục. Hầu hết các xã vùng đồng bằng, trung du và nhiều xã ở miền
núi có trường cấp I, cấp II, các huyện có trường phổ thơng cấp III. Năm 1965 so
với năm 1960 số trường học phổ thông các cấp tăng từ 7.066 lên 10.294, số học
9



sinh phổ thơng tăng từ 1.899.600 lên 2.934.900. Trong đó, số học sinh cấp III tăng
nhanh nhất, từ 26.000 lên 78.600 học sinh. Ngành đại học và trung học chuyên
nghiệp cũng phát triển mạnh. Năm 1960, có 9 trường đại học với 8.100 sinh viên,
đến năm 1965, đã có 18 trường đại học và cao đẳng với 34.000 sinh viên. Hệ thống
các trường trung cấp chuyên nghiệp cũng phát triển mạnh với hơn 60.000 học sinh.
Tồn miền Bắc có hơn 4,5 triệu người đi học trên tổng số 16 triệu dân.
Cơng tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân từng bước được chú trọng, mạng lưới
y tế được xây dựng rộng rãi từ thành thị đến nông thôn.
Đánh giá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong 10 năm ở miền Bắc
(1954-1964), tại Hội nghị chính trị đặc biệt (3-1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa
từng thấy trong lịch sử dân tộc, đất nước, xã hội và con người đều đổi mới”.
Tháng 12-1965, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhận định:
“Trải qua hơn 10 năm thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội, miền Bắc đã trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng Việt
Nam trong cả nước, với chế độ chính trị ưu việt, với lực lượng kinh tế và quốc
phòng lớn mạnh”.
- Miền Bắc chuyển hướng phát triển kinh tế, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa
xã hội trong điều kiện có chiến tranh (1965-1975)
Trước sự thất bại của đế quốc Mỹ trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở
miền Nam Việt Nam, ngày 5-8-1964, đế quốc Mỹ dựng lên sự kiện “Vịnh Bắc Bộ”,
mở đường cho quá trình tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc xã hội chủ nghĩa
bằng không quân và hải quân. Cuộc chiến tranh phá hoại do đế quốc Mỹ gây ra đối
với miền Bắc diễn ra rất ác liệt từ ngày 7-2-1965, nhằm phá hoại thành quả xây
dựng chủ nghĩa xã hội, đánh phá hậu phương miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện của
miền Bắc đối với miền Nam.
Trong bối cảnh đó, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
khóa III (3-1965) ra Nghị quyết Về tình hình và nhiệm vụ cấp bách trước mắt, xác
định: miền Bắc phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng xây

dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng cho phù hợp với tình hình mới.
Tiếp đó, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa III (12-1965)
xác định vai trị, vị trí của cách mạng mỗi miền. Miền Bắc đóng vai trị hậu phương
lớn, giữ vị trí quyết định nhất đối với sự nghiệp cách mạng cả nước. Cách mạng
miền Nam đóng vai trị tiền tuyến lớn, giữ vị trí trực tiếp quyết định đối với sự
nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Thực hiện chủ trương mới của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã tổ chức
nhiều phong trào thi đua sơi nổi. Tồn miền Bắc dấy lên cao trào chống Mỹ, cứu
nước, vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Mọi hoạt động ở miền Bắc nhanh chóng chuyển
10


hướng. Các cơ quan, nhà máy, trường học và một bộ phận dân cư khẩn trương phân
tán, sơ tán khỏi những vùng trọng điểm đánh phá của địch. Các phong trào thi đua
dấy lên mạnh mẽ như: phong trào quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của các
lực lượng vũ trang với khẩu hiệu “nhằm thẳng quân thù mà bắn” của liệt sĩ Nguyễn
Viết Xuân, phong trào “ba sẵn sàng” của thanh niên, phong trào “ba đảm đang” của
phụ nữ, phong trào thi đua của công nhân, nông dân và trí thức…
Đồng thời với q trình chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế, ngay từ
đầu và trong suốt quá trình chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, quân và dân
miền Bắc đã đánh trả quyết liệt lực lượng không quân và hải quân Mỹ. Từ ngày 7-21965 đến ngày 31-10-1968, miền Bắc đã bắn rơi 3.243 máy bay, bắn chìm và cháy
143 chiếc tàu chiến, tàu biệt kích của đế quốc Mỹ, tiêu diệt và bắt sống nhiều giặc
lái. Bảo đảm giao thông, vận tải thông suốt liên tục trở thành một công tác trọng tâm
của cuộc kháng chiến.
Dưới bom đạn ác liệt, chủ trương chuyển hướng xây dựng kinh tế đã được
thực hiện khẩn trương và có hiệu quả. Mặc dù đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền
Bắc tới nấc thang cao nhất, nhưng miền Bắc vẫn vững mạnh. Sản xuất nơng nghiệp
có bước phát triển về thâm canh, tăng năng suất cây trồng, cũng như về xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật của các hợp tác xã nông nghiệp.
Bị thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam, Bắc, tháng 3-1968, đế quốc Mỹ tuyên

bố hạn chế ném bom miền Bắc. Tháng 5-1968, Mỹ phải chấp nhận đàm phán với
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam ở Pari. Từ ngày 1-11-1968, đế quốc Mỹ buộc phải chấm dứt ném bom,
chấm dứt bắn phá bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc.
Giữa lúc nhân dân hai miền Nam-Bắc đang giành được những thắng lợi to lớn
trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngày 2-9-1969,
Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra lời kêu gọi
đồng bào và chiến sỹ cả nước “biến đau thương thành hành động cách mạng”, thực
hiện Di chúc thiêng liêng của Người.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, nhân dân miền Bắc đã sôi nổi tham gia vào
các hoạt động nhằm khôi phục và phát triển kinh tế. Nền kinh tế miền Bắc đã dần
chuyển từ trạng thái thời chiến sang hoạt động bình thường nhằm giải quyết hàng
loạt các vấn đề bức xúc: vấn đề quản lý kinh tế, vấn đề tăng cường tiềm lực kinh tế
và quốc phòng chi viện cho cách mạng miền Nam. Việc bồi dưỡng và nêu gương
“người tốt, việc tốt” theo Chỉ thị số 168 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (ngày 131-1969) được coi là một trong những biện pháp cơ bản để xây dựng Đảng và các lực
lượng nòng cốt của cách mạng, xây dựng con người mới và cuộc sống mới.
Chính trong bối cảnh miền Bắc đang dần thốt ra khỏi khơng khí chiến tranh
để bước vào một giai đoạn mới trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dịp
11


kỷ niệm 40 năm thành lập Đảng, đồng chí Lê Duẩn đã viết tác phẩm “Dưới lá cờ vẻ
vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi
mới”. Tác phẩm đã tổng kết 40 năm lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
của Đảng và tổng kết bước đầu về quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Trong điều kiện kinh tế Việt Nam, để giải quyết những nhiệm vụ kinh tế cơ bản,
Đảng xác định miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng đang thực hiện bước đi
ban đầu của thời kỳ quá độ với nhiệm vụ cơ bản là tích lũy vốn cho cơng nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa và cải thiện đời sống nhân dân. Đây là sự ghi nhận về những tìm
tịi trong thời kỳ q độ tiến lên chủ nghĩa xã hội của Đảng.

Cũng trong năm 1970, Trung ương Đảng phát động ba cuộc vận động lớn, đó
là: cuộc vận động lao động sản xuất, vận động phát huy dân chủ và vận động nâng
cao chất lượng đảng viên.
Tháng 1-1971, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tiến hành Hội nghị lần thứ
19, khoá III. Hội nghị đặc biệt nhấn mạnh việc đưa sản xuất nông nghiệp từ sản xuất
nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Từ đó, Hội nghị đã đề ra những nhiệm vụ
kinh tế cụ thể trong 3 năm (1971-1973).
Để cứu vãn nguy cơ phá sản hồn tồn của chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh” ở miền Nam Việt Nam, từ ngày 6-4-1972, đế quốc Mỹ huy động một lực
lượng lớn không quân và hải quân tiến hành chiến tranh phá hoại trở lại miền Bắc,
hòng làm giảm ý chí và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của quân và dân
Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời của Đảng, quân và dân miền Bắc đã kiên
cường chiến đấu, đánh bại mọi hành động chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo
vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, trong cuộc chiến đấu chống lại
cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 của đế quốc Mỹ (từ ngày 18-12 đến
ngày 29-12-1972), quân và dân miền Bắc đã chiến đấu kiên cường, lập nên chiến
công vang dội, giáng cho khơng qn chiến lược Mỹ địn thất bại nặng nề. Ngày 151-1973, Chính phủ Mỹ phải tuyên bố ngừng mọi hoạt động ném bom bắn phá và thả
mìn phong tỏa miền Bắc Việt Nam.
Ngày 27-1-1973, đại diện Chính phủ Mỹ và chính quyền Sài Gịn phải cùng
đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hịa và Chính phủ Cách mạng lâm thời
cộng hịa miền Nam Việt Nam ký chính thức bản Hiệp định Pari về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hịa bình ở Việt Nam.
Sau Hiệp định Pari, hịa bình được lập lại, nhân dân miền Bắc nhanh chóng
bắt tay vào khôi phục và phát triển kinh tế, đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội và dồn sức chi viện cho cách mạng miền Nam tiến tới giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước.

12



Từ ngày 19-6 đến ngày 6-7-1973 và từ ngày 1-10 đến ngày 4-10-1973, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, khoá III tiến hành họp Hội nghị lần thứ 21. Về cách
mạng ở miền Bắc, Hội nghị chỉ rõ: miền Bắc một mặt phải tranh thủ những điều
kiện thuận lợi hiện có, ra sức khôi phục và phát triển kinh tế quốc dân, đồng thời
phải tiếp tục làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn đối với cách mạng miền Nam và
tích cực đấu tranh để Hiệp định Pari về Việt Nam được thi hành nghiêm chỉnh.
Hội nghị lần thứ 22 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khoá III được tiến
hành từ ngày 20-12-1973 đến ngày 7-1-1974. Hội nghị đã thảo luận và quyết định
những vấn đề về nhiệm vụ, phương hướng khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc
trong hai năm 1974-1975.
Cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, vì vậy, tháng 12-1974, Hội nghị lần thứ 23 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, khóa III họp và ra Nghị quyết Về tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao
sức chiến đấu của Đảng để hoàn thành sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc.
Dưới ánh sáng các nghị quyết của Đảng, trong hơn hai năm (từ đầu năm 1973
đến đầu năm 1975), miền Bắc đã đạt được những thành tựu đáng kể trong công cuộc
khôi phục nền kinh tế bị tàn phá do chiến tranh, làm tròn nghĩa vụ cao cả của hậu
phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam.
Về cơ bản, trong 10 năm (1965-1975), kinh tế và xã hội miền Bắc vẫn phát
triển theo đường lối chung đã được xác định trong quá trình thực hiện kế hoạch 5
năm lần thứ nhất (1961-1965). Dưới sự lãnh đạo của Đảng và tinh thần vượt khó
của nhân dân miền Bắc, nền kinh tế miền Bắc đã đáp ứng được những nhu cầu cấp
thiết của nhân dân, đảm bảo thực hiện đúng vai trò của hậu phương đối với tiền
tuyến miền Nam. Cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp được tăng cường.
Trong điều kiện chiến tranh, công cuộc tập thể hố vẫn được duy trì, quy mơ hợp
tác xã cũng được mở rộng. Nhiều khu công nghiệp lớn đã hình thành, có nhiều cơ
sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng như than, điện, cơ khí,
luyện kim, hóa chất được xây dựng… Tuy vậy, những nhược điểm của hợp tác xã

ngày càng tăng, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển nông nghiệp ngày càng
nhiều. Bên cạnh đó, do chiến tranh phá hoại của địch, nên sản xuất cơng nghiệp
gặp nhiều khó khăn.
- Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội từ tháng 5 - 1975 đến tháng 3
- 1982
Từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của
Đảng chính thức diễn ra tại Thủ đơ Hà Nội. Trên cơ sở phân tích hồn cảnh lịch sử
đất nước, Báo cáo nêu lên ba đặc điểm của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới:
Một là, Việt Nam đang trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ
13


biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa.
Hai là, Tổ quốc đã hồ bình, thống nhất, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội có
nhiều thuận lợi, song những hậu quả của 30 năm chiến tranh cũng gây nhiều khó
khăn, trở ngại.
Ba là, hồn cảnh quốc tế có nhiều thuận lợi, nhưng cuộc đấu tranh giữa lực
lượng cách mạng và phản cách mạng trên thế giới còn nhiều gay go và phức tạp.
Xuất phát từ ba đặc điểm cơ bản đó, Báo cáo Chính trị đã xác định đường lối
chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: “Nắm vững chun chính vơ
sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba
cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách
mạng tư tưởng và văn hố, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy
mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng
nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người
mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xố bỏ nghèo nàn và lạc
hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phịng, giữ gìn an
ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hồ bình,

độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội" .
Trên cơ sở đường lối chung, đường lối xây dựng kinh tế trong giai đoạn cách
mạng mới được Đảng xác định với nội dung cơ bản là: “Đẩy mạnh cơng nghiệp hố xã
hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ;
vừa xây dựng kinh tế trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế
trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, kết
hợp phát triển lực lượng sản xuất với việc hoàn thiện quan hệ sản xuất mới”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đề ra phương hướng, nhiệm
vụ của kế hoạch 5 năm (1976-1980) với hai mục tiêu cơ bản: Xây dựng một bước
cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế cơng nông
nghiệp trên phạm vi cả nước và cải thiện một bước đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân.
Đại hội chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, phấn đấu đến năm
1980, hoàn thành cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa. Ở miền Bắc, trên cơ sở đẩy mạnh
công nghiệp xã hội chủ nghĩa, tiếp tục củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IV, Đảng và Nhà nước tập trung chỉ đạo
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước.
14


Thứ nhất, cải tạo xã hội chủ nghĩa các thành phần kinh tế ở miền Nam: Nhà
nước tiến hành tiếp quản các cơ sở vật chất kỹ thuật do chế độ cũ để lại, quốc hữu
hóa các cơ sở sản xuất, kinh doanh của tư bản nước ngoài; quản lý thống nhất về
kinh tế, xóa bỏ ngân hàng tư nhân, nắm độc quyền phát hành tiền tệ, quốc hữu hóa
các ngành vận tải đường sắt, đường biển và đường hàng không, thống nhất quản lý
xuất nhập khẩu, quản lý lương thực thực phẩm và nhiều lĩnh vực kinh tế trọng yếu.
Tháng 3-1977, Bộ Chính trị quyết định trong 2 năm 1977-1978 hoàn thành về

cơ bản nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản, tư
doanh, trước hết là xoá bỏ thương nghiệp tư bản chủ nghĩa. Ngày 22-4-1978, Bộ
Chính trị ra Chỉ thị số 44-CT/TW về việc Tiếp tục đẩy mạnh công tác cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với công, thương nghiệp tư doanh ở miền Nam. Chỉ thị nhấn mạnh:
cải tạo phải kết hợp với xây dựng các ngành cơng nghiệp; xóa bỏ thương nghiệp tư
bản chủ nghĩa và xây dựng thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, thiết lập thị trường có
tổ chức. Thực hiện chủ trương của Đảng, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công
nghiệp, thương nghiệp tư bản tư doanh được tiến hành mạnh mẽ ở các thành phố lớn
ở miền Nam, với việc xây dựng hình thức xí nghiệp quốc doanh, cơng tư hợp doanh
và xí nghiệp hợp tác, gia công.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nơng nghiệp: Do tình hình ruộng đất ở miền
Nam rất phức tạp, Đảng chủ trương điều chỉnh ruộng đất và coi đó là bước chuẩn bị
để đưa nơng dân lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Tháng 8-1977, Ban Bí thư ra Chỉ
thị số 15-BBT Về xây dựng hợp tác xã thí điểm ở miền Nam, với phương hướng kết
hợp chặt chẽ các ngành sản xuất, chế biến và lưu thông phân phối, kết hợp cải tạo
với xây dựng, bảo đảm ba lợi ích, kết hợp hợp tác hóa với thủy lợi hóa, cơ giới hóa,
cải tạo nơng nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa, kết hợp kinh
tế với văn hóa. Ngày 14 - 4 - 1978, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 43 CT/TW Về
việc nắm vững và đẩy mạnh công tác cải tạo nông nghiệp ở miền Nam. Chỉ thị nêu
rõ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nơng nghiệp ở miền Nam nhằm xóa bỏ bóc lột ở
nông thôn, đưa nông dân đi vào con đường hợp tác hóa nơng nghiệp, đi lên chủ
nghĩa xã hội. Từ cuối năm 1978, phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông
nghiệp tiếp tục được đẩy mạnh. Ở miền Trung và Tây Nguyên, đến đầu năm 1979
đã căn bản hồn thành hợp tác hố nơng nghiệp. Đến tháng 7-1980, ở Nam Bộ đã có
12.246 tập đồn sản xuất, nhưng hoạt động kém hiệu quả. 1.518 hợp tác xã được
thành lập cũng trong tình trạng rất khó khăn, một số nhanh chóng tan rã. Cuối năm
1980, hàng loạt hợp tác xã và tập đoàn sản xuất tan rã, toàn miền Nam chỉ cịn 173
hợp tác xã, 3.722 tập đồn sản xuất.
Nhìn chung, cải tạo các thành phần kinh tế ở các tỉnh miền Nam diễn ra
nhanh nhưng hiệu quả thấp.


15


Cùng với q trình đẩy mạnh hợp tác hóa nơng nghiệp ở miền Nam, miền Bắc
thực hiện củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp. Các hợp tác
xã mở rộng quy mô, tổ chức theo hướng tập trung, chun mơn hố, cơ giới hố.
Tháng 1-1978, Bộ Chính trị ra Chỉ thị về Xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện,
nhằm xây dựng 400 huyện thành pháo đài chiến đấu và đơn vị kinh tế công - nông
nghiệp. Đến năm 1979, miền Bắc đã xây dựng 4.154 hợp tác xã quy mơ tồn xã. Một
số địa phương hợp nhất 2-3 hợp tác xã thành một hợp tác xã quy mô trên 1.000 hécta.
Thứ hai, thực hiện Kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976 - 1980): Trong 5 năm,
đầu tư của Nhà nước cho nông nghiệp không ngừng tăng, 19% đến 36%, nhưng trên
thực tế, năng suất lúa ngày càng giảm. Bình quân sản lượng lương thực 5 năm
(1976-1980) đạt 13,4 triệu tấn, khơng hồn thành mục tiêu Đại hội IV đề ra. Về phát
triển công nghiệp, Nhà nước đầu tư phát triển các ngành công nghiệp cơ bản trên
phạm vi cả nước, tuy nhiên do đầu tư dàn trải nên hiệu quả kinh tế - xã hội không
cao. Giai đoạn 1976-1980, tốc độ tăng trong lĩnh vực cơng nghiệp bình qn chỉ đạt
0,6%. Tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng 1,4% hàng năm, thu nhập quốc dân chỉ tăng
0,4%. Nhìn chung, các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm Đại hội IV đề ra đều không đạt.
Trong khi nhân dân cả nước đang nỗ lực phấn đấu thực hiện các nhiệm vụ phát
triển kinh tế, xã hội thì tình hình biên giới phía Tây Nam và phía Bắc của Tổ quốc diễn
biến ngày càng căng thẳng. Ở biên giới phía Tây Nam, từ đầu tháng 5-1975, quân Pôn
Pốt bắt đầu những hoạt động quân sự gây xung đột, chống phá Việt Nam. Ngày 3-51975, đổ bộ lên đảo Phú Quốc. Ngày 8-5-1975, xâm phạm nhiều nơi dọc biên giới
Việt Nam từ Hà Tiên đến Tây Ninh, chiếm đảo Thổ Chu. Từ tháng 5-1975 đến cuối
năm 1977, quân Pôn Pốt đã liên tiếp gây ra các vụ xung đột ở biên giới phía Tây
Nam của Việt Nam.
Với chủ trương giải quyết mọi vấn đề trong quan hệ giữa hai nước bằng con
đường hịa bình, Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần đề nghị đàm phán hai bên, nhưng
chính quyền Pơn Pốt đã khước từ và tiếp tục ngoan cố tiến hành chiến tranh xâm

lược Việt Nam. Ngày 31-12-1977, chính quyền Pơn Pốt đơn phương cắt đứt quan hệ
ngoại giao với Việt Nam, tiến hành chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam của
Việt Nam. Cuối năm 1978, chính quyền Pơn Pốt huy động 19/23 sư đồn mở cuộc
tấn công xâm lược với quy mô lớn vào Việt Nam. Ngày 23-12-1978, 3 sư đồn qn
Pơn Pốt tấn cơng vào vùng Bến Sỏi, Bến Cầu thuộc tỉnhTây Ninh với mục tiêu
chiếm Tây Ninh và tiến đến chiếm thành phố Hồ Chí Minh. Trước hành động ngoan
cố của qn Pơn Pốt, quân và dân Việt Nam đã kiên quyết tiến cơng, đánh đuổi hồn
tồn qn xâm lược ra khỏi lãnh thổ đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Ngày 26-12-1978, Bộ Chỉ huy quân đội cách mạng thuộc Mặt trận dân tộc
cứu nước Campuchia (thành lập ngày 2-12-1978) đã phát động chiến dịch nổi dậy

16


của nhân dân Campuchia, đồng thời, kêu gọi quân đội Việt Nam giúp đỡ nhân dân
Campuchia đánh đổ tập đoàn Pôn Pốt phản động và chế độ diệt chủng. Theo đó,
qn tình nguyện Việt Nam đã phối hợp với qn và dân Campuchia tiến công quân
Pôn Pốt, cứu dân tộc Campuchia khỏi họa diệt chủng. Ngày 7-1-1979, thủ đô
Phnôm Pênh được giải phóng.
Ở biên giới phía Bắc, từ năm 1978, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc bắt
đầu xấu đi. Trung Quốc đơn phương cắt toàn bộ viện trợ kinh tế và kỹ thuật cho Việt
Nam, rút chuyên gia đang làm việc ở Việt Nam về nước, công khai thực hiện chính
sách thù địch với Việt Nam. Ngày 17-2-1979, 60 vạn quân Trung Quốc (gồm 11
quân đoàn chủ lực và 20 sư đoàn bộ binh) với nhiều loại vũ khí, xe tăng, máy bay
tiến cơng trên tồn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam, gồm các tỉnh: Lai Châu (nay
là tỉnh Điện Biên và tỉnh Lai Châu), Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và
Quảng Ninh.
Trước hành động xâm lược của quân Trung Quốc, quân và dân Việt Nam, mà
trực tiếp là quân dân các tỉnh biên giới phía Bắc đã kiên cường chiến đấu để bảo vệ độc

lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Nhân dân u chuộng hồ bình và
cơng lý trên thế giới đã ủng hộ cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Trước sự chiến đấu ngoan cường của nhân dân Việt Nam và sự phản đối của dư luận
thế giới, ngày 5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân. Đến ngày 18-3-1979, quân
đội Trung Quốc rút hoàn toàn ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Cuộc chiến tranh bảo vệ
biên giới phía Bắc của nhân dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi.
Có thể nói, thực hiện Nghị quyết Đại hội IV của Đảng, các nhiệm vụ, mục
tiêu kinh tế - xã hội đề ra đều không đạt yêu cầu. Cùng với những tác động khách
quan khác, đặc biệt là tác động của chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh
biên giới phía Bắc đã làm cho tình hình kinh tế, xã hội của Việt Nam ngày càng trở
nên khó khăn. Từ năm 1979, Việt Nam thực sự lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã
hội. Sản xuất trì trệ, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế bị giảm sút, nhiều mặt bị
mất cân đối nghiêm trọng, lưu thông phân phối ách tắc, căng thẳng. Lạm phát tăng
với 3 con số (1976:128%, 1981: 313%). Nhà nước phải nhập khẩu lương thực với
khối lượng lớn (1978: 1,9 triệu tấn; 1979: 2,2 triệu tấn). Đời sống nhân dân, cán bộ
viên chức và lực lượng vũ trang ngày càng rất khó khăn. Những nhu cầu tối thiểu
như lương thực, hàng tiêu dùng thiết yếu thiếu gay gắt. Nạn đói diễn ra nhiều nơi.
Vấn đề công ăn việc làm, tệ nạn xã hội trở nên nhức nhối.
Tình hình đất nước đặt ra yêu cầu cấp thiết cho Đảng là phải tìm đường lối
đổi mới, khắc phục những hạn chế của cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa, tập
trung, bao cấp; điều chỉnh mục tiêu và phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội
nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển, khắc cuộc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội
đang diễn ra ngày càng sâu sắc.

17


Từ ngày 15 đến ngày 23-8-1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IV) tổ
chức họp Hội nghị lần thứ 6 thông qua hai nghị quyết: Nghị quyết số 20-NQ/TW về
“Tình hình và nhiệm vụ cấp bách” và Nghị quyết số 21 - NQ/TW về “Phương hướng

nhiệm vụ phát triển hàng công nghiệp tiêu dùng và công nghiệp địa phương”.
Nội dung chính của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng là: Coi việc đẩy mạnh sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp nhằm đảm bảo
vững chắc lương thực, thực phẩm và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp là
“nhiệm vụ trọng tâm nhất”. Ban hành ngay chính sách khuyến khích sản xuất nơng
nghiệp, ổn định mức bán nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần còn lại bán cho
Nhà nước theo giá thoả thuận và lưu thơng tự do, khuyến khích tập thể và gia đình
xã viên khai hoang, phục hoá, đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ. Kết hợp kế hoạch với
thị trường, khẳng định sự cần thiết tồn tại thị trường tự do, khuyến khích sản xuất
“bung ra” đúng hướng. Ở miền Nam tồn tại 5 thành phần kinh tế: quốc doanh, tập
thể, công tư hợp doanh, cá thể, tư bản tư nhân. Hội nghị chủ trương thực hiện các
nhiệm vụ trên bằng các giải pháp mới về quản lý kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa:
khắc phục một bước sự trì trệ của cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp;
kết hợp ba lợi ích của tập thể, cá nhân và xã hội.
Hội nghị Trung ương 6 đã thể hiện bước đầu đổi mới tư duy của Đảng về kinh
tế, khởi đầu cho quá trình tìm kiếm giải pháp tháo gỡ cuộc khủng hoảng kinh tế - xã
hội, tháo gỡ từng bước những ràng buộc của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp,
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Vì vậy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IV) chính là bước đột phá đầu tiên trong
q trình tìm đường lối đổi mới của Đảng.
Quán triệt Nghị quyết Trung ương 6, Chính phủ đã ban hành một số quyết
định đánh dấu bước đầu đổi mới trên lĩnh vực kinh tế như: Quyết định ngày 16-81979 về việc khuyến khích tận dụng ruộng đất trong nông nghiệp vào sản xuất;
Quyết định ngày 10-9-1979 về việc xóa bỏ các trạm kiểm sốt có tính chất “ngăn
sơng, cấm chợ”, ngăn cản việc lưu thơng hàng hóa ở các địa phương… Những quyết
định kịp thời của Chính phủ theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 bước
đầu mang đến hiệu quả kinh tế.
Trong khi Đảng và Nhà nước đang từng bước cụ thể hóa Nghị quyết Trung
ước 6, ở một số địa phương và một số cơ sở công nghiệp quốc doanh đã mạnh dạn
tìm cách tháo gỡ và thử nghiệm cách quản lý mới. Trong nông nghiệp, những năm
1977-1979, Hợp tác xã Đồn Xá (huyện Đồ Sơn, Hải Phịng) đã thực hiện khoán

việc và khoán sản phẩm cho xã viên và nhóm xã viên. Tiếp đó, một số hợp tác xã ở
Vĩnh Phú, Nghệ An, tập đồn sản xuất nơng nghiệp xã Hưng Lộc (huyện Thống
Nhất, tỉnh Đồng Nai)… cũng thực hiện hiệu quả khốn trong nơng nghiệp. Trong

18


cơng nghiệp, đầu năm 1979, một số nhà máy, xí nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh đã
thực hiện “xé rào”, tổ chức lại sản xuất theo hướng tự hạch toán kinh doanh.
Trước thực tiễn đang diễn ra trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp,
Trung ương Đảng đã kịp thời tổng kết lý luận để soi đường cho thực tiễn phát triển.
Ngày 21-10-1980, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thơng báo số 22, cho phép các
địa phương khốn thử cây lúa, khoán sản phẩm và khoán việc. Tháng 12-1980, Hội
nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương (khóa IV) chủ trương mở rộng và hồn
thiện các hình thức khốn trong nơng nghiệp. Ngày 13-1-1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị
số 100 CT/TW về cải tiến công tác khốn, mở rộng khốn sản phẩm đến nhóm lao
động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp. Nội dung cơ bản của Chỉ thị
số 100 CT/TW là cải tiến mạnh mẽ các hình thức khốn của đội sản xuất đối với xã
viên, mở rộng khốn sản phẩm.
Trong cơng nghiệp, ngày 21-1-1981, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết
định số 25-CP về Một số chủ trương và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền tự
chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh. Quyết định cho phép các xí nghiệp
quốc doanh có nhiều nguồn cân đối và thực hiện kế hoạch 3 phần (phần Nhà nước
giao, phần tự làm và phần sản phẩm phụ). Cùng ngày, Hội đồng Chính phủ ban hành
Quyết định số 26-CP về Mở rộng hình thức trả lương khốn, lương sản phẩm và vận
dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh của Nhà nước
nhằm tạo động lực cho người lao động hăng hái lao động sản xuất.
Các quyết định của Trung ương Đảng và Hội đồng Chính phủ với những điểm
mới trong quản lý nông nghiệp và công nghiệp, đã góp phần làm giảm tình trạng trì
trệ trong sản xuất của các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất và doanh nghiệp Nhà nước.

Năm 1981, sản xuất công nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp địa phương vượt
kế hoạch 7,5%. Sản lượng lương thực năm 1981 lên 18,2 đạt 15 triệu tấn năm 1985.
Nhà nước huy động lương thực tăng gấp đôi.
Trong khi sản xuất nông nghiệp và cơng nghiệp có chuyển biến tích cực thì
trên mặt trận phân phối, lưu thông ngày càng rối ren. Ngày 23-6-1980, Bộ Chính trị
ra Nghị quyết số 26-NQ/TW về cải tiến công tác phân phối lưu thông. Nghị quyết số
26 nhấn mạnh nguyên tắc giá cả phù hợp với chi phí sản xuất và lưu thơng. Tích cực
chuẩn bị để tiến đến xóa bỏ tem phiếu.
Q trình đổi mới từng phần, theo tinh thần Hội nghị Trung ương 6 là những
thử nghiệm, tìm tịi của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, đã bước đầu cho
kết quả tốt; tuy chưa đồng bộ nhưng là cơ sở, tạo tiền đề để Đảng hoạch định đường
lối đổi mới toàn diện đất nước.
- Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội từ tháng tháng 3 - 1982 đến
tháng 12-1986

19


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng được tổ chức tại thủ đô Hà Nội
từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982. Đại hội nêu lên hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng
của Việt Nam trong giai đoạn mới là: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn
sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ
chiến lược có quan hệ mật thiết với nhau.
Đại hội có nhận thức mới về thời kỳ quá độ của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội khi xác định: quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lịch sử lâu dài, trải qua
nhiều chặng đường, với những bước đi cụ thể. Trong đó, chặng đường trước mắt bao
gồm thời kỳ 5 năm 1981-1985 và kéo dài đến năm 1990 là khoảng thời gian có tầm
quan trọng đặc biệt.
Đại hội điều chỉnh nội dung bước đi của công nghiệp hóa, trước hết cần tập
trung phát triển mạnh nơng nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; ra sức đẩy

mạnh hàng tiêu dùng; tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng;
Khẳng định trong một thời gian nhất định ở miền Nam vẫn tồn tại 5 thành phần kinh tế
gồm: quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, cá thể và tư bản tư doanh.
Đại hội V có ý nghĩa quan trọng trong q trình q độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Đại hội phản ánh những tư duy đổi mới của Đảng đang được hình thành,
nhấn mạnh nơng nghiệp là mặt trận hàng đầu trong chặng đường trước mắt, coi ổn
định tình hình kinh tế - xã hội là nhiệm vụ bức thiết nhất. Tuy nhiên, những nhận
thức mới của Đảng tại Đại hội V mới chỉ diễn ra trong khuôn khổ đổi mới bộ phận,
từng phần trong quá trình từng bước tìm tòi đổi mới tư duy kinh tế và chỉ đạo thực
tiễn của Đảng.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội V, trong lĩnh vực nơng nghiệp và cơng nghiệp
đã có chuyển biến rõ rệt. Tốc độ phát triển nông nghiệp năm 1985 tăng 4,9%; sản
lượng nông nghiệp đạt 18.200.000 tấn. Tuy nhiên, lĩnh vực phân phối, lưu thông vẫn
luôn rối ren, ách tắc. Lạm phát từ 125% năm 1980, tăng lên 313% năm 1981 và
774% năm 1986. Nền kinh tế Việt Nam vẫn đứng trước những khó khăn gay gắt mà
thực chất là khủng khoảng nghiêm trọng.
Từ ngày 1 đến ngày 7-6-1985, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa V) họp bàn về giá - lương - tiền. Hội nghị khẳng định: khơng thể ổn
định được tình hình kinh tế và đời sống, cân bằng được ngân sách và tiền mặt trong
khi vẫn duy trì bao cấp theo giá và lương. Hội nghị chủ trương: Phải dứt khoát xóa
bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ,
hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Nội dung cụ thể là: tính đủ chi phí
hợp lý trong giá thành sản phẩm; Thực hiện cơ chế một giá trong toàn bộ hệ thống
giá: Tiền lương thực tế phải đảm bảo nguồn lao động sống chủ yếu bằng lương, tái
sản xuất lao động, xóa bỏ tem phiếu, trả lương bằng tiền; Các tổ chức kinh tế phải
chịu trách nhiệm lỗ, lãi của mình; Chuyển hẳn hoạt động của ngân hàng sang kinh
20


doanh xã hội chủ nghĩa; Thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản

xuất hàng hóa.
Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng là sự đổi mới trên lĩnh
vực lưu thông, phân phối; tiếp tục thể hiện tư duy đổi mới của Đảng về lĩnh vực
kinh tế. Hội nghị đánh dấu bước đột phá thứ hai trong quá trình tìm đường lối đổi
mới của Đảng.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, từ ngày 14-9-1985, cuộc tổng
điều chỉnh giá - lương - tiền (lần thứ 2) diễn ra bằng việc đổi tiền, ban hành một số
giá mới và chế độ tiền lương mới; thực hiện chế độ một giá kinh doanh; xóa bỏ hoàn
toàn giá cung cấp và chế độ tem phiếu, chỉ giữ lại sổ gạo cho những người ăn lương.
Song, do chưa chuẩn bị chu đáo về mọi mặt nên đã dẫn tới sự đảo lộn tình hình kinh
tế, xã hội; lạm phát phi mã; lưu thông phân phối rối ren. Năm 1986, Nhà nước phải
trở lại thực hiện chính sách hai giá.
Tháng 5-1986, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá
V) thảo luận Dự thảo Báo cáo Chính trị chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng. Tháng 8-1986, Hội nghị Bộ Chính trị và Ban Bí thư đã thảo luận
và đưa ra kết luận 3 vấn đề lớn về kinh tế thời kỳ quá độ:
Một là, về cơ cấu kinh tế: chủ trương điều chỉnh lớn cơ cấu kinh tế và cơ cấu
đầu tư theo hướng lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công
nghiệp nhẹ, cơng nghiệp nặng phát triển có chọn lọc.
Hai là, về cải tạo xã hội chủ nghĩa: là nhiệm vụ phải tiến hành thường xuyên,
liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, tồn tại nhiều thành phần kinh tế; kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh
và tập thể) giữ vai trò chủ đạo.
Ba là, về cơ chế quản lý: lấy kế hoạch làm trung tâm, sử dụng đúng đắn quan
hệ hàng hóa - tiền tệ, dứt khốt xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, vận dụng
quy luật giá trị, thực hiện cơ chế một giá.
Kết luận của Bộ Chính trị là bước đột phá thứ ba, có giá trị quan trọng về lý
luận và thực tiễn đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Trên
cơ sở những quan điểm của Bộ Chính trị, tháng 11-1986, Hội nghị lần thứ 11 Ban
chấp hành Trung ương Đảng (khóa V) đã thơng qua Báo cáo Chính trị trình bày tại

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng - xác định đường lối đổi mới.
Như vậy, từ Hội nghị Trung ương 6, khóa IV (8-1979) đến Hội nghị Trung ương
8, khóa V (6-1985), Hội nghị Bộ Chính trị (8-1986), đã từng bước đưa ra những chủ trương có tính chất đổi mới từng phần, từng bước đi vào thực tiễn cuộc sống, là cơ sở và
tiền đề quan trọng hình thành đường lối đổi mới tồn diện được thơng qua tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng.

21


Từ đó cho ta thấy q trình phát triển nhận thức của Đảng về chủ nghĩa
xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ năm 1954 đến năm
1986 như sau:
- Nhận thức rõ hơn về những nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
Nhìn một cách tổng quát, nhận thức của Đảng về mục tiêu, bản chất của chủ
nghĩa xã hội và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là xây dựng thành
công Tổ quốc Việt Nam hịa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội. Điều này phù hợp với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và về giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con người.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam từ điểm xuất phát là một nước
nông nghiệp lạc hậu lại trải qua chiến tranh giải phóng lâu dài nên cần được nhận
thức và vận dụng phù hợp với thực tiễn của đất nước. Từ những điều kiện như thế,
khi miền Bắc mới bước vào thời kỳ quá độ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ quan
điểm: "chủ nghĩa xã hội không thể làm mau được mà phải làm dần dần", "tiến lên
chủ nghĩa xã hội, không thể một sớm một chiều". Người đặt vấn đề: chúng ta phải
dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến dần lên chủ
nghĩa xã hội. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác-Lênin để dùng
lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh

nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có
như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng
Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách
mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta".
Những vấn đề của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được
Đảng chú trọng tổng kết từ thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Năm
1970, Đảng đề ra nội dung của bước đi ban đầu là tích lũy vốn cho cơng nghiệp hóa
và cải thiện đời sống nhân dân, xử lý đúng đắn quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng.
Đại hội V của Đảng (tháng 3-1982) xác định những nhiệm vụ của chặng đường đầu
tiên của thời kỳ quá độ, sửa chữa những khuyết điểm về chủ quan, nóng vội, duy ý
chí. Quá trình tìm đường để đi đến hoạch định đường lối đổi mới tại Đại hội VI
(tháng 12-1986) là quá trình đổi mới tư duy lý luận kết hợp với khảo nghiệm thực
tiễn để nhận thức rõ những đặc trưng và quy luật khách quan của thời kỳ quá độ.
Thực tiễn đổi mới ở Việt Nam, bài học từ sự biến động ở các nước Đông Âu và Liên
Xô càng đòi hỏi Đảng ta phải chú trọng tổng kết thực tiễn, nắm vững đặc điểm của
Việt Nam, phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
Chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: chủ nghĩa xã hội là một
học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi
tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan và trình độ phát
triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã
hội khoa học dựa trên học thuyết Mác – Lênin trong thời đại ngày nay.
22


Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta nhưng đây là
sự nghiệp lâu dài, vơ cùng khó khăn và gian khổ. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội
từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản
xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực
thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất

thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ
chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa làm,
vừa rút kinh nghiệm, phải biết kế thừa những thành tựu của dân tộc và tiếp thu
những tinh hoa của nhân loại, kinh nghiệm của thời đại.
Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và
nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng
đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội,
phù hợp thực tế và quy luật khách quan; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn
giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm
vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân
phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời
kỳ quá độ; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước
pháp quyền với nhà nước tư sản...
Đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã đặc biệt chú trọng tới sự
phát triển dân tộc, phát huy động lực quan trọng và mạnh mẽ nhất là sự đoàn kết dân
tộc, có chính sách dân tộc bình đẳng, đồn kết, giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau trong
phát triển ở một quốc gia đa tộc như người Việt Nam.
- Nhận thức về động lực của sự phát triển con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
Trong hệ thống động lực phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trước hết là ba
động lực quan trọng sau:
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là động lực quan trọng hàng đầu và
có ý nghĩa quyết định đối với thành công của sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong tương lai. Đảng ta nhận thức rằng, đại đoàn kết dân tộc chỉ được
củng cố và phát huy mạnh mẽ khi các nhân tố cấu thành cộng đồng dân tộc ý thức rõ
lợi ích chung của đất nước, lấy đó làm quan điểm tương đồng, mọi người đều hướng
nỗ lực của mình vào việc thực hiện lợi ích chung. Ở nước ta hiện nay, điểm tương
đồng chung là: Giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì “Dân giàu, nước

mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công
cuộc đổi mới nhằm khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người, tính
tích cực, chủ động, năng động của nhân dân được tăng lên.
Kết hợp hài hịa lợi ích xã hội, tập thể, cá nhân, quan tâm lợi ích thiết thân của
con người. Đảng ta nhận thức rằng, làm cho mỗi con người quan tâm tới lợi ích
chính đáng của mình, lấy đó làm động lực trực tiếp, thúc đẩy mạnh mẽ nhất hoạt
động của họ sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình xây dựng xã hội mới. Thực
23


tiễn đổi mới đã minh chứng, sự cần thiết phải kết hợp hài hịa lợi ích cá nhân với lợi
ích chung, trong đó lợi ích thiết thân của con người là động lực trực tiếp và mạnh
mẽ nhất.
Nhận thức về thời kỳ quá độ và những đặc điểm của con đường quá độ, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Lãnh đạo công
cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
nước ta có những đổi mới sâu sắc: Nhận thức rõ hơn về tính chất lâu dài, khó khăn,
phức tạp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, từ đó xác định rõ mục tiêu tổng
quát và mục tiêu chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Đó là, trong thời kỳ quá độ sẽ
tồn tại nhiều hình thức kinh tế - xã hội có tính chất q độ.
- Nhận thức đầy đủ hơn về cách thức bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cái gì bỏ qua, cái gì cần tiếp thu…Cần
phải phát huy tối đa những thuận lợi, đẩy lùi những nguy cơ, thách thức để phát
triển nhanh và bền vững. Một trong những nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ là
xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trong đó vấn đề mấu chốt
là phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Rút ra những bài học khơng thành cơng của
cơng nghiệp hóa theo mơ hình truyền thống của những năm 60, trong đó, đổi mới,
Đảng ta đã xây dựng một quan niệm mới về cơng nghiệp hóa gắn liền với hiện đại

hóa. Đó là cơng nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, tận dụng lợi thế so sánh, chú trọng
công nghiệp nông nghiệp gắn liền với đơ thị hóa nơng thơn, có chiến lược phát triển
tồn diện nơng nghiệp - nơng thơn và nơng dân.
Tuy nhiên, Nhìn lại hơn 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (19541975) và hơn 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước (1975-1986), sự lãnh đạo
của Đảng cũng bộc lộ nhiều hạn chế, khiếm khuyết đó là: Mơ hình chủ nghĩa xã hội
theo kiểu tập trung, quan liêu, bao cấp với cơ chế kế hoạch hố cao độ đã thực sự
góp phần tạo ra sức mạnh để miền Bắc thực hiện xuất sắc hai nhiệm vụ chiến lược
cách mạng. Tuy nhiên, mơ hình đó đã bộc lộ nhiều nhược điểm, đặc biệt sau khi kết
thúc chiến tranh, đất nước thống nhất, chúng ta tiếp tục duy trì mơ hình đó, dẫn đến
cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.
Trong lãnh đạo cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Đảng nhận thức còn giản đơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội, chưa nắm bắt đúng các quy luật vận động đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền
sản xuất nhỏ cịn mang nặng tính tự cấp, tự túc. Vì vậy, “những nguyên tắc cơ bản
của cách mạng xã hội chủ nghĩa nhất là những vấn đề có tính quy luật của quá trình
tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa nói chung chưa được nhận
thức một cách sâu sắc.
Nhận thức và trách nhiệm của bản thân đối với vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.

24


- Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo
Nhà nước và xã hội, do tương quan lực lượng chính trị Việt Nam quy định,
được lịch sử lựa chọn, được nhân dân tin tưởng, trao gửi trọng trách bằng hiến
định và được khẳng định bằng năng lực, hiệu quả lãnh đạo. Thực tiễn cách
mạng Việt Nam và những thành quả mà Nhân dân ta đạt được, dưới sự lãnh đạo của
Đảng hơn 90 năm qua, đã hoàn toàn bác bỏ quan điểm sai trái, thù địch đó và chứng
minh Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất có đủ khả năng lãnh đạo đất

nước thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”, xây
dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân.
- Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng
tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới. Nâng cao bản
lĩnh chính trị, trí tuệ, tính chiến đấu của tồn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên,
trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp. Giữ vững bản chất giai cấp
công nhân của Đảng, vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
Kiên định những vấn đề có tính ngun tắc trong cơng tác xây dựng Đảng. Nâng
cao vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu
lực, hiệu quả; giữ vững bản lĩnh chính trị của Đảng, của các tổ chức đảng, của cán
bộ, đảng viên. Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy
luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển.
- Đảng phải luôn giữ vững độc lập, tự chủ, linh hoạt, sáng tạo trong xác
định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, phải kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ
chính trị của một đảng cầm quyền, lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy
dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân.
- Nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ của người đảng viên, một trong số
những nhiệm vụ đó được quy định trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam là
không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện và hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao. Hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao là một tiêu chí cơ bản, đầu tiên để đánh
giá chất lượng đảng viên hàng năm của Chi bộ. Để hồn thành tốt mọi cơng việc,
u cầu cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần và ý thức trách nhiệm trong thực
hiện nhiệm vụ chuyên môn một cách hiệu quả và chất lượng nhất. Về ý thức trách
nhiệm đối với nhiệm vụ được giao, đó là khi được giao bất cứ một cơng việc gì, dù
to hay nhỏ, khó hay dễ, người được giao việc phải đem hết tinh thần trách nhiệm để
thực hiện công việc một cách tự giác, làm đến nơi đến chốn để đạt kết quả tốt nhất.
Nếu khơng có tinh thần, ý thức trách nhiệm, sẽ triển khai công việc một cách đại

khái, qua loa, làm cho xong, cho có, hoặc dễ thì làm, khó thì bỏ và dẫn đến kết quả
chất lượng công việc không cao, không đạt theo đúng yêu cầu đề ra. Ý thức trách
nhiệm của mỗi người được thể hiện qua việc nắm vững đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện đúng và sáng tạo đường lối đó.
Ý thức trách nhiệm sẽ quyết định đến chất lượng, hiệu quả công việc và để hoàn

25


×