Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận cao học QUẢN lý bảo vệ CHỦ QUYỀN BIỂN đảo ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.33 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
Trang
NỘI DUNG ................................................................................................................... 4
1. Khái niệm, đặc điểm quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo ............................4
1.1. Khái niệm ................................................................................................4
1.2. Đặc điểm, nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình . .5
2. Nội dung và mục tiêu quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo

.............6

2.1. Bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc trên
biển, đảo................................................................................................6
2.2. Bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội và văn hoá trên biển, đảo và vùng
biển

ven

........................................................................................................................ 7
2.3. Bảo Mục tiêu quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo......................................8
3. Giải pháp quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo............................12
3.1. Tăng cường tiềm lực quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trên các lĩnh vực chính trị,

kinh tế - xã hội, tư tưởng - văn hóa, khoa học giáo dục....................................................12
3.2. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh trên biển, đảo

......................15

3.3. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế, tạo lập môi trường thuận lợi để
phát triển............................................................................................18
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 22



MỞ ĐẦU
Biển và hải đảo có vị trí hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ngày nay, trong điều kiện nguồn tài nguyên
thiên nhiên trên đất liền đang ngày càng cạn kiệt, không gian kinh tế truyền thống trở nên
chật chội, nhiều quốc gia đang hướng ra biển để tìm kiếm, khai thác các nguồn tài
nguyên, bảo đảm các nhu cầu về nguyên, nhiên liệu, năng lượng, thực phẩm... Biển và hải
đảo ngày càng trở thành nguồn lực kinh tế to lớn và không gian sinh tồn mới; đồng thời
có ý nghĩa quan trọng về an ninh, quốc phòng. Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ
quyền. Lãnh thổ Việt Nam là một chỉnh thể thống nhất, bất khả xâm phạm, với diện tích
đất liền là 331.689 km2, với 4.550 km đường biên giới, là nơi sinh sống của trên 90 triệu
dân thuộc 54 dân tộc anh em đoàn kết trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia có lãnh hải, các đảo, các vùng biển giàu tài ngun có vị
trí chiến lược giao thơng đường biển như Việt Nam. Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới
quốc gia là một nội dung đặc biệt quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định : "Kiên quyết, kiên trì
đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và tồn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc; giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh
quốc gia, giữ gìn trật tự, an tồn xã hội". Vậy làm thế nào để bảo vệ chủ quyền biển đảo
Việt Nam? Thông qua bài tiểu luận em muốn đóng góp một số giải pháp về vấn đề này.
Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt
Nam hiện nay.

(2)

. Vì vậy, chọn đề tài:, “Quản lí, bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam

trong tình hình mới” trở nên hết sức cấp thiết.
NỘI DUNG
1. Khái niệm, đặc điểm quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo

1.1. Khái niệm
Biển và đại dương ngày càng có vai trị quan trọng trong quá trình tồn tại, phát triển của
nhân loại. Ngày nay, tiến ra biển, khai thác biển và đại dương đang trở thành xu thế khách quan
và là mối quan tâm của tất cả các quốc gia có biển và khơng có biển.
Việt Nam là một quốc gia ven biển nằm trên bờ phía Tây của Biển Đơng, có chủ quyền,
(


quyền chủ quyền và quyền tài phán trên một vùng biển có diện tích hơn một triệu ki lơ mét
vng với hàng ngàn đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc
chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam. Biển Đơng gắn bó mật
thiết với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta qua hàng ngàn năm. Ngày nay, khai thác
tiềm năng và lợi thế của biển là địi hỏi khỏch quan của cơng cuộc xây dựng đất trong thời kỳ
mới. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, Biển Đông đang tồn tại những nguy cơ tiềm ẩn có thể
dẫn tới mất ổn định, xung đột vũ trang và là mối quan tâm chiến lược của các nước trong khu
vực và nhiều nước lớn khác. Vì vậy, quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo vừa là mục tiêu chiến
lược, vừa là yêu cầu cấp bách của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong tình
hình mới.
Quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo là bảo đảm thi hành pháp luật của Nhà nước, các
điều ước quốc tế, hiệp định với các nước có liên quan mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia,
trên các vùng biển và thềm lục địa của quốc gia. Thông qua các hoạt động kiểm tra, kiểm soát,
giám sát việc thực thi pháp luật trên biển; kịp thời ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm ở trên
biển, bảo đảm cho pháp luật về biển của Nhà nước được tuân thủ chính xác và nghiêm minh.
Trên cơ sở đã, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các vùng
biển và thềm lục địa của quốc gia; bảo vệ nguồn lợi cho đất nước; bảo vệ tài nguyên, môi
trường biển, sự phát triển bền vững của kinh tế biển; duy trì an ninh chính trị, bảo đảm an tồn
cho sản xuất, tài sản của Nhà nước, tài sản và tính mạng của nhân dân; phát hiện, ngăn chặn, xử
lý các hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm chủ quyền trên vùng biển và thềm lục địa của
quốc gia.
Quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng pháp

luật của Nhà nước với quá trình kinh tế - xã hội, các hoạt động trên biển, đảo nhằm duy trì và
phát triển các mối quan hệ, các hoạt động đã trong trật tự, theo đãng định hướng của Nhà nước
trong việc thăm dũ, khai thác các tiềm năng của biển đảo, thực thi và bảo vệ chủ quyền, các
quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam trên các vùng biển, đảo và thềm lục
địa của quốc gia phù hợp với luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực.
1.2. Đặc điểm, nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới
Quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của quốc gia có nội dung toàn diện phù hợp với luật
pháp quốc tế và các hiệp định mà Việt Nam đã ký với các nước có liên quan. Quản lý, bảo vệ


chủ quyền biển, đảo của quốc gia bao gồm, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán quốc gia của Việt Nam trên các vùng biển, đảo. Vùng biển Việt Nam, bao gồm: nội thủy,
lãnh hải, vùng tiếp giỏp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền,
quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, được xác định theo pháp luật Việt
Nam, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên và phự hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982. Quản lý, bảo
vệ chủ quyền quốc gia trên biển còn là bảo vệ các quyền của quốc gia về biển phù hợp với luật
pháp quốc tế và các hiệp định mà Việt Nam đã ký với các nước có liên quan.
Quản lý, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo quốc gia của Việt Nam là nhiệm vụ khó
khăn, phức tạp, lâu dài. Nước ta có bờ biển dài hơn 3260 ki lơ mét và diện tích các vùng biển
thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền rộng trên 1 triệu ki lô mét vng. Vùng biển nước ta có vị
trí quan trọng về an ninh - quốc phòng và nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế biển.
Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan về biển. Ngày 12 tháng 5 năm
1977, Chính phủ ra Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giỏp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa Việt Nam; ngày 12 tháng 11 năm 1982, Chính phủ ra Tuyên bố về đường cơ sở
dùng để tính chiều rộng lãnh hải; ngày 23 thỏng 6 năm 1994, kỳ họp thứ V Quốc hội Khố IX
nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Nghị quyết phê chuẩn Công ước của Liên hợp
quốc về Luật Biển năm 1982; Luật Biên giới quốc gia năm 2003; Nghị định số 161/2003/NĐCP ngày 18 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ về Quy chế Khu vực biên giới biển; Luật Biển
Việt Nam năm 2012 ... Ngoài ra, Việt Nam đã đàm phán phân định vùng biển với một số nước
có vùng biển tiếp giáp (với Trung Quốc ở vịnh Bắc Bộ, Thái Lan ở vùng biển Tây Nam; phân

định thềm lục địa với Indonesia). Đã là những cơ sở pháp lý quan trọng để quản lý, bảo vệ chủ
quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phỏn quốc gia và giữ gìn an ninh trật tự trên các vùng biển
của nước ta; đồng thời là cơ sở để tiếp tục tiến hành đàm phán phân định ranh giới vùng biển
với các nước liên quan.
Tình hình liên quan đến chủ quyền, an ninh trật tự trên các vùng biển nói chung và ở khu
vực biên giới biển nói riêng cơ bản ổn định. Các hiệp định phân định vùng biển, hiệp định hợp
tác nghề cá ký với các nước được thực hiện đầy đủ, hiệu quả, là một trong những nhân tố tích
cực góp phần giữ vững chủ quyền, an ninh trật tự và tạo môi trường ổn định, thuận lợi cho phát
triển kinh tế biển. Các lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển (chuyên trách và chuyên ngành)


không ngừng được củng cố về mọi mặt, ngày càng phát triển và phối hợp chặt chẽ tạo nên sức
mạnh tổng hợp, thường xuyên tổ chức tuần tra, kiểm soát bảo vệ chủ quyền, giữ gìn an ninh
trật tự trên biển, nhất là trên những vùng biển trọng điểm.
Diện tích biển của Việt Nam chiếm khoảng 29% biển Đông, rộng gấp ba lần diện tích
lãnh thổ đất liền. Việt Nam cịn có chủ quyền với hàng nghỡn hũn đảo lớn nhỏ và hai quần đảo
xa bờ là quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Tài nguyên vùng biển và ven biển nước ta
được đánh giá là rất phong phú và đa dạng, phân bố rộng khắp trên dải đất liền ven biển đến
các vùng nước ven bờ, các hải đảo và các vùng biển. Cả nước có 63 tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương thì có 28 tỉnh, thành phố ven biển, trong đã có 11 huyện đảo. Trên 50% số dân của
nước ta sống ở các tỉnh ven biển. Đã vừa là những điều kiện khách quan thuận lợi để nước ta
phát triển đa dạng các ngành kinh tế biển, đồng thời cịng đặt ra những khó khăn trong quản lý,
bảo vệ biển, đảo và khai thác lợi thế kinh tế từ biển, đảo.
Vì vậy, quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam là nhiệm vụ khó khăn, phức
tạp, lâu dài; phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại.
2. Nội dung và mục tiêu quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo
2.1. Bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc trên
biển, đảo
Bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc trên biển, đảo

cần thực hiện tốt việc quản lý, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phỏn quốc gia
trên các vùng biển.
Vùng biển của Việt Nam, bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giỏp lãnh hải, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia
của Việt Nam, được xác định theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ
mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với Công ước của
Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Bảo vệ chủ quyền quốc gia ở vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa là bảo vệ đặc quyền của quốc gia về bảo tồn, quản lý, thăm dũ, khai thác tài
nguyên thiên nhiên của biển ở những nơi đã; thực chất là bảo vệ lợi ích kinh tế ở vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia. Như vậy, chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển


gắn bó mật thiết. Các hoạt động thăm dũ, khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường... ở vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa là biểu hiện của quyền làm chủ trên biển của quốc gia
2.2. Bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội và văn hoá trên biển, đảo và vùng ven biển
An ninh, trật tự an toàn xã hội là nhu cầu và điều kiện cần thiết để con người tồn tại và
hoạt động ở mọi môi trường địa lý. Biển là môi trường có điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và
nhiều biến động, lại là mơi trường mở, thường xun có sự giao lưu quốc tế, nên đòi hỏi về bảo
đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội lại càng cao hơn.
Nội dung chủ yếu của bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội và văn hóa
trên biển và vùng ven biển của nước ta là:
- Bảo vệ an ninh quốc gia trên mọi lĩnh vực: chính trị, tư tưởng, văn hố, khoa học cơng
nghệ, quốc phòng, an ninh...;
- Ngăn chặn kịp thời người và phương tiện xâm nhập đất liền để tiến hành các hoạt động
phá hoại, gây rối, làm gián điệp, truyền bá văn hoá đồi truỵ và thực hiện các hành vi tội phạm
khác;
- Bảo vệ lao động sản xuất, tính mạng và tài sản của Nhà nước và nhân dân trên biển và
ven biển;
- Phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai;
- Thực hiện tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn;

- Phịng ngừa, chế ngự, xử lý các xung đột do tranh chấp lợi ích giữa các tổ chức và cá
nhân trong sử dụng và khai thác biển.
2.3. Mục tiêu quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo
Mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN...
Trước yêu cầu bức thiết của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Đảng ta
nhận thức sâu sắc và thể hiện rõ quan điểm về phát triển kinh tế độc lập tự chủ, kinh tế
biển, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế. Quan
điểm đó được thể hiện tập trung trong các nghị quyết, chỉ thị như: Nghị quyết 03/-NQ/TW


ngày 6-5-1993 của Bộ Chính trị (khóa VII) về “Một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển
trong những năm trước mắt”; Chỉ thị 20-CT/TW ngày 22-9-1997 của Bộ Chính trị (khóa
VIII) về “Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng CNH, HĐH”; đặc biệt là “Chiến
lược biển Việt Nam đến năm 2020” trong Nghị quyết TW 4 (khoá X): “Đến năm 2020,
phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển”.
Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam là trách nhiệm thiêng liêng của mỗi
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ XHCN…”.
Thời gian qua, sự biến đổi khôn lường của tình hình thế giới, khu vực và trên biển Đơng
khiến nhiệm vụ phịng thủ, bảo vệ đất nước, nhất là an ninh trên biển trở thành nhiệm
vụ nhiều khó khăn, thách thức. Để hồn thành nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, điều tiên quyết đặt ra là phải không ngừng củng cố, tăng cường sức mạnh quốc
gia, xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân trên biển. Trong đó, xây dựng thế trận lịng
dân, đảm bảo bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc là vấn đề
chiến lược, mang tính cấp bách, then chốt.
Vì vậy, chúng ta cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề sau đây:
1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo

Công tác tuyên truyền biển, đảo cần bám sát thực tiễn tình hình, khơng ngừng đổi mới
nội dung, đa dạng hóa hình thức, phương pháp tun truyền phù hợp với trình độ nhận
thức của từng đối tượng, đồng thời tận dụng có hiệu quả các phương tiện kỹ thuật và chú
trọng mở rộng phạm vi tuyên truyền.
Công tác tuyên truyền về chủ quyền quốc gia trên biển địi hỏi có sự phối hợp đồng bộ
giữa các cấp, các ngành và các địa phương; phải có sự chỉ đạo thống nhất, chặt chẽ từ
Trung ương tới cơ sở về nội dung và phương pháp tuyên truyền. Nội dung tuyên truyền
phải đa dạng và phong phú trên các phương tiện thông tin đại chúng trong nước và quốc
tế, lồng ghép chặt chẽ giữa các hoạt động đối ngoại, chính trị, kinh tế, qn sự, quốc
phịng… Qua đó, nhân dân Việt Nam cũng như cộng đồng quốc tế hiểu và nắm vững các
vùng, khu vực thuộc chủ quyền lịch sử lâu đời của Việt Nam cũng như chủ quyền biển
Việt Nam được xác lập trên cơ sở các điều khoản quy định trong Công ước quốc tế về
Luật Biển 1982.


Tuyên truyền về các điều khoản và nghĩa vụ cần phải chấp hành các quy định của luật
pháp Việt Nam khi hoạt động hoặc tham gia giao thông trong phạm vi lãnh hải, các vùng
nội thuỷ, vùng đảo, quần đảo và khu vực đặc quyền kinh tế trên biển Việt Nam; về các
quan điểm chủ đạo và nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong thực thi quyền tài
phán quốc gia trên các vùng biển, đảo, quần đảo và các khu vực đặc quyền kinh tế biển.
Đặc biệt, chú trọng nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành, nhất là các cấp, ngành ở
địa phương ven biển, nhận thức rõ tính chất phức tạp của nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền
biển, đảo trong bối cảnh mở cửa, hội nhập quốc tế; khẳng định, củng cố niềm tin cho nhân
dân cả nước, cộng đồng quốc tế về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa; làm chuyển biến ý thức, trách nhiệm của mỗi người… Qua đó phát huy sức
mạnh của tồn Đảng, tồn qn, tồn dân và của cả hệ thống chính trị, kết hợp sức mạnh
trong và ngoài nước, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc.
Công tác tuyên truyền phải được tiến hành sâu rộng trong và ngoài nước, phải gắn kết
giữa lịch sử với hiện tại để người dân thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của biển, đảo

trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước; làm cho mỗi công dân Việt Nam thấy
được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với chủ quyền biển, đảo quốc gia. Từ đó đồn
kết, chung sức đồng lòng quyết tâm làm chủ, bảo vệ biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
2. Ưu tiên nguồn lực cho phát triển kinh tế biển, đảo và thực hiện có hiệu quả chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội trên các vùng ven biển, hải đảo
Biển Việt Nam chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn về kinh tế. Vì vậy, để khai thác, sử
dụng hiệu quả và biến các tiềm năng ấy thành nguồn lực, động lực đẩy mạnh sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước cần tập trung đầu tư nguồn lực thích đáng cho
các ngành kinh tế mũi nhọn, có thế mạnh ở các vùng ven biển, trên các đảo và quần đảo
như: Khai thác, chế biến dầu khí; hệ thống cảng và dịch vụ vận tải biển; khai thác, chế
biến hải sản, du lịch... Trong đó, ưu tiên xây dựng các trung tâm dịch vụ, thành lập các tập
đoàn kinh tế mạnh có đủ khả năng vươn xa, kết hợp phát triển kinh tế với làm chủ biển,
đảo; tập trung nguồn vốn, khoa học, công nghệ, nguồn lao động để khai thác có hiệu quả
các tiềm năng của biển; ưu tiên phát triển hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội và quốc phòng an ninh trên khu vực quần đảo Trường Sa và các đảo lớn xa bờ, tạo điều kiện thuận lợi
đẩy nhanh tốc độ sản xuất của nhân dân đang sinh sống trên các đảo và quần đảo.


Quá trình thu hút nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội biển, đảo đòi hỏi các ngành
chức năng và địa phương cần phối hợp nghiên cứu, khảo sát tổng thể, xác định rõ tiềm
năng, thế mạnh của từng vùng, từng khu vực, đánh giá đúng, đủ các yếu tố tự nhiên cũng
như xu thế phát triển. Việc quy hoạch phải tính đến sự kế thừa, phát triển, tính liên kết
giữa các vùng và các khu vực; phải gắn bờ, biển, đảo và quần đảo trong một không gian
sinh tồn về kinh tế và quốc phịng. Vì vậy, nếu không khảo sát đầy đủ, đánh giá một cách
khoa học thì kết quả sẽ thấp, thậm chí khơng mang lại hiệu quả mà cịn phá vỡ tính cân
bằng trong quá trình phát triển kinh tế biển.
3. Kết hợp chặt chẽ giữa thúc đẩy nhanh q trình dân sự hóa trên biển với xây dựng
thế trận quốc phòng - an ninh trên biển vững mạnh, đủ khả năng bảo vệ chủ quyền
quốc gia trên biển
Dân sự hóa các vùng biển, đảo vừa là cơ sở để chúng ta khai thác có hiệu quả các nguồn
tài nguyên trên biển, vừa là tiền đề để xây dựng, củng cố và phát huy lực lượng tại chỗ

phục vụ chiến lược quốc phòng - an ninh trên biển. Đảng ta đã khẳng định trong Chiến
lược biển Việt Nam đến năm 2020: “Thực hiện quá trình dân sự hóa trên biển, đảo gắn
với tổ chức dân cư, tổ chức sản xuất và khai thác biển. Có chính sách đặc biệt để khuyến
khích mạnh mẽ nhân dân ra định cư ổn định và làm ăn dài ngày trên biển; thí điểm xây
dựng các khu quốc phịng - kinh tế tại các đảo, quần đảo Trường Sa, vùng biển, đảo của
Tổ quốc”(3). Đây là một chủ trương chiến lược có ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với sự
nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước. Chủ trương này đã và đang được hiện
thực hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế biển đi đơi với bảo đảm quốc phịng, an ninh,
bảo vệ vững chắc chủ quyền của Việt Nam trên biển.
Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, công tác dân sự hóa trên các
vùng biển, đảo, nhất là ở những vùng biển, đảo chiến lược đã được đẩy mạnh, ảnh hưởng
tốt đến sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để củng cố và xây dựng thế
trận lòng dân trên biển. Ở một số đảo có vị trí đặc biệt quan trọng về an ninh, quốc phịng
như: Quần đảo Hồng Sa, Trường Sa… q trình dân sự hố bước đầu được thực hiện có
hiệu quả, tạo được dư luận tốt đối với quần chúng nhân dân trong và ngoài nước. Cơ sở
hạ tầng trên nhiều đảo ở Trường Sa được xây dựng ngày càng khang trang. Đời sống của
nhân dân từng bước đi vào ổn định. Nhân dân Trường Sa hoàn toàn tin tưởng vào chủ


trương, chính sách của Đảng.
Cùng với q trình dân sự hóa ở các vùng biển, đảo, việc bảo vệ chủ quyền biển đảo và
duy trì lợi ích quốc gia trên biển giai đoạn hiện nay cần kết hợp chặt chẽ hơn nữa giữa
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh. Việc quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội ở các khu vực ven biển, trên biển và các đảo phải tuân thủ các yêu cầu đặt
ra trong kế hoạch tổng thể của khu vực phịng thủ địa phương, phải mang tính hệ thống,
bảo đảm sự liên kết chặt chẽ giữa biển, đảo với đất liền; kết hợp chặt chẽ giữa thế trận
“tĩnh” của đảo và bờ với thế “động” của lực lượng tác chiến cơ động trên biển tạo nên thế
trận liên hoàn, vững chắc.
Trang bị kỹ thuật phục vụ cho mục đích kinh tế-xã hội phải phù hợp với hệ thống trang
bị kỹ thuật quốc phòng - an ninh trong hệ thống các cụm lực lượng trên biển, thực hiện

kiểm soát, giám sát, báo động, chi viện, hỗ trợ nhau trong đấu tranh phòng chống các hoạt
động xâm phạm chủ quyền, lợi ích quốc gia. Các cơ sở hậu cần, kỹ thuật kinh tế - xã hội
ven bờ, trên biển và trên các đảo phải sẵn sàng huy động cho nhiệm vụ quốc phòng, ưu
tiên xây dựng các đảo tiền tiêu xa bờ có cơng sự kiên cố, trang bị hoả lực mạnh, có khả
năng tác chiến dài ngày. Q trình thiết kế, xây dựng hạ tầng cơ sở trên biển, đảo phải
mang tính lưỡng dụng cao, khơng chỉ bền vững trước tác động của mơi trường biển mà
cịn phải bền vững khi chuyển sang phục vụ mục đích quốc phịng - an ninh.
Bên cạnh đó, cần xây dựng một lực lượng kiểm ngư đủ mạnh để bảo vệ việc khai thác,
đánh bắt hải sản của ngư dân trên biển, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn trên
biển; đồng thời kiểm tra, giám sát, phát hiện, ngăn chặn các hành động khai thác hải sản
trái phép của nước ngoài trên vùng biển của Việt Nam. Các địa phương ven biển, huyện
đảo phải có lực lượng dân quân tự vệ vừa tham gia sản xuất, khai thác hải sản, vừa làm
nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự trên biển, kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các
hành động xâm phạm lợi ích, chủ quyền quốc gia.
4. Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở các huyện đảo
đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc
Hệ thống chính trị ở các huyện đảo, nhất là những huyện đảo xa bờ - vừa là “cầu nối”
đưa chủ trương, chính sách của Đảng đến với quần chúng, vừa là chủ thể trực tiếp tổ chức


lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện các chủ trương của Đảng trên các địa bàn biển, đảo. Vì vậy,
xây dựng hệ thống chính trị ở các huyện đảo vững mạnh là một giải pháp quan trọng để
củng cố thế trận quốc phịng tồn dân trên biển đáp ứng u cầu bảo vệ chủ quyền biển
đảo Tổ quốc hiện nay. Quy trình thực hiện là phải hồn thiện hệ thống chính trị với các
thiết chế đầy đủ, cơ cấu hợp lý và cơ chế hoạt động hiệu quả, phù hợp với điều kiện hoạt
động đặc thù trên các địa bàn biển, đảo. Trong đó phát huy vai trị và chức năng hoạt động
của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là tổ chức đảng; thực hiện tốt các chính sách
xã hội đối với các huyện đảo xa bờ và các địa bàn trọng điểm, chiến lược; coi trọng giải
quyết tốt mối quan hệ và sự phối hợp hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị
ở mỗi huyện đảo và giữa các huyện đảo với nhau, tạo ra thế trận liên hồn trên biển để có

thể nhanh chóng tập hợp và sử dụng hiệu quả sức mạnh của các lực lượng tại chỗ phục vụ
cho quốc phòng - an ninh trên biển.
Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, có vị trí đặc biệt
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước hiện nay và mai sau.
Bảo vệ chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ trọng yếu và là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta. Để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả đó, hơn lúc nào hết phải
phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, giữ vững độc lập, chủ quyền,
quyền chủ quyền, quyền tài phán, tồn vẹn vùng biển nói riêng và tồn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc nói chung, xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
3. Giải pháp quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo
3.1. Tăng cường tiềm lực quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trên các lĩnh vực chính trị,
kinh tế - xã hội, tư tưởng - văn hóa, khoa học giáo dục
+> Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở các huyện đảo đáp
ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc
Hệ thống chính trị ở các huyện đảo, nhất là những huyện đảo xa bờ - vừa là “cầu nối”
đưa chủ trương, chính sách của Đảng đến với quần chúng, vừa là chủ thể trực tiếp tổ chức
lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện các chủ trương của Đảng trên các địa bàn biển, đảo. Vì vậy,


xây dựng hệ thống chính trị ở các huyện đảo vững mạnh là một giải pháp quan trọng để
củng cố thế trận quốc phịng tồn dân trên biển đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển
đảo Tổ quốc hiện nay. Quy trình thực hiện là phải hồn thiện hệ thống chính trị với các
thiết chế đầy đủ, cơ cấu hợp lý và cơ chế hoạt động hiệu quả, phù hợp với điều kiện hoạt
động đặc thù trên các địa bàn biển, đảo. Trong đó phát huy vai trị và chức năng hoạt động
của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là tổ chức đảng; thực hiện tốt các chính sách
xã hội đối với các huyện đảo xa bờ và các địa bàn trọng điểm, chiến lược; coi trọng giải
quyết tốt mối quan hệ và sự phối hợp hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị
ở mỗi huyện đảo và giữa các huyện đảo với nhau, tạo ra thế trận liên hoàn trên biển để có

thể nhanh chóng tập hợp và sử dụng hiệu quả sức mạnh của các lực lượng tại chỗ phục vụ
cho quốc phòng - an ninh trên biển.
Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, có vị trí đặc
biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước hiện nay và mai
sau. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ trọng yếu và là trách nhiệm của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta. Để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả đó, hơn lúc nào hết
phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, giữ vững độc lập, chủ quyền,
quyền chủ quyền, quyền tài phán, tồn vẹn vùng biển nói riêng và tồn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc nói chung, xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
- Tăng cường tiềm lực quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo cần phải hoàn thiện hệ thống
các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách về biển đảo.
Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: Kết hợp chặt
chẽ quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội trên từng địa bàn lãnh thổ, trong cơng
tác quy hoạch, kế hoạch và các chương trình, dự ỏn. Phát triển kinh tế ven biển và hải đảo theo
định hướng Chiến lược biển đến năm 2020. Xây dựng hợp lý hệ thống cảng biển, các khu công
nghiệp, khu kinh tế, đô thị ven biển gắn với phát triển công nghiệp đãng và sửa chữa tàu, khai
thác, chế biến dầu khí, du lịch biển; phát triển kinh tế đảo, khai thác hải sản xa bờ gắn với tỡm
kiểm cứu hộ, cứu nạn và giữ vững chủ quyền vùng biển quốc gia; đẩy mạnh việc điều tra cơ
bản đối với một số loại tài nguyên biển quan trọng; khuyến khích cán bộ, viên chức nhà nước


làm việc trên các đảo xa, khuyến khích di dân từ đất liền ra đảo để phát triển kinh tế - xã hội và
tăng cường quốc phòng, an ninh trên các đảo.
- Tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức cho nhân dân về chủ quyền biển, đảo.
Tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức cho nhân dân về chủ quyền biển, đảo là biện
pháp quan trọng làm cho quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
đến với mọi người dân, biến những quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước thành sức mạnh hành động của cả dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khi

nhân dân được giác ngộ, nhất là thế hệ trẻ thấu suốt mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ và trách
nhiệm bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ biển, đảo; ý thức về biển, đảo của cả dân tộc được thức tỉnh sẽ
tạo thành sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc.
Tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức cho nhân dân, trước hết cần làm cho nhân dân
nhận rõ về tình hình phức tạp trên Biển Đơng trong thời gian gần đây và những năm tới; quan
điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước trong giải quyết vấn đề biển đảo, còng như chủ trương
tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế gắn với nhiệm vụ bảo vệ biển
đảo; trách nhiệm của ngư dân trong khai thác biển đảo làm giàu cho quê hương, đất nước, đồng
thời góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
- Thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở vùng ven biển, đảo làm nền
tảng giữ vững ổn định, bảo vệ biển, đảo.
Thực hiện thắng lợi Chiến lược biển đến năm 2020 sẽ tạo ra nền tảng vật chất không
ngừng cải thiện đời sống nhân dân, chăm lo phát triển vùng ven biển, hải đảo, bảo đảm công
bằng xã hội nhằm giữ yên Lòng dân, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân vào Đảng và
chế độ xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế phát triển, xã hội ổn định thì sức mạnh quốc phịng, an ninh được tăng cường.
Đất nước có điều kiện đầu tư cho lực lượng vũ trang những trang bị kỹ thuật hiện đại, nhất là
lực lượng Hải quân, Phịng khơng - Khơng qn là những qn chủng sử dụng nhiều vũ khớ,
trang bị kỹ thuật cao trong tác chiến. Kinh tế - xã hội ở vùng ven biển, hải đảo phát triển là
nguồn nội lực bảo đảm vững chắc cho lực lượng vũ trang trên hướng biển về mọi mặt, không
chỉ về cơ sở vật chất hậu cần - kỹ thuật, lương thực, thực phẩm, vũ khí, đạn dược... mà còn
cung cấp cho các lực lượng vũ trang những con người tồn diện, có phẩm chất chính trị, đạo


đức và trình độ năng lực để hồn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ biển, đảo.
Phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển của nước ta, gắn
phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển. Tập trung phát
triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, ưu tiên phát triển các ngành công
nghiệp năng lượng, đãng tàu, xi măng, chế biển thủy sản chất lượng cao… Đẩy nhanh tốc độ
đơ thị hóa, tạo thành các trung tâm kinh tế biển mạnh, tạo thế tiến ra biển, gắn với phát triển đa

dạng các ngành dịch vụ, nhất là ngành có giá trị gia tăng cao như dịch vụ xuất, nhập khẩu, du
lịch, dịch vụ nghề cá, dịch vụ dầu khí, vận tải… Phát triển cảng biển, dịch vụ cảng và vận tải
biển, sông - biển; phát triển các đội tàu biển… Phát triển kinh tế đảo phù hợp với vị trí, tiềm
năng và lợi thế của từng đảo, quần đảo.
- Bồi dưỡng nguồn nhân lực, xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ biển.
Kinh tế tri thức có vai trị ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất.
Vì vậy, bồi dưỡng nguồn nhân lực, xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ biển là việc làm
cần thiết hiện nay để phát triển kinh tế biển theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố; đồng
thời đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong tình hình mới.
Hiện nay, hơn 50% dân số nước ta sống ở các tỉnh ven biển; mức tăng dân số tự nhiên và
cơ học đều cao hơn mức trung bình của cả nước. Trong khi đã, trình độ học vấn của cư dân ven
biển thấp hơn các vùng khác; lao động ngư nghiệp chỉ chiếm tỷ lệ hơn 10%, phần đơng khơng
được đào tạo nghề. Dân trí thấp gây khó khăn cho việc tiếp thu cơng nghệ mới, chấp hành chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về khai thác biển đảo, bảo vệ tài nguyên,
môi trường và xây dựng "thế trận Lịng dân" trong tình hình mới.
Ở nước ta, khoa học cơng nghệ chưa trở thành động lực phát triển kinh tế biển. Cán bộ
khoa học cơng nghệ biển có trình độ cao chiếm tỷ lệ thấp, số lượng cơng trình khoa học cơng
nghệ nghiên cứu và nhất là được ứng dụng vào khai thác biển khơng nhiều, Vì vậy, đẩy mạnh
cơng tác đào tạo, tăng nhanh số, chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học cơng nghệ biển và các
cơng trình nghiên cứu khoa học cơng nghệ biển là địi hỏi cấp bỏch hiện nay để phát triển kinh
tế biển và tăng cường quốc phòng, an ninh trên biển đảo.
3.2. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh trên biển, đảo
- Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trên biển, vùng ven biển.


Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Vì vậy, để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước
trên biển, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về khai thác, quản lý biển với nền kinh tế nhiều
thành phần, nhiều ngành nghề, nhiều vùng, nhiều quy mụ, nhiều trình độ; phù hợp với thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đặc điểm của biển, vùng ven biển nước ta là
"mở cửa lớn" để giao lưu với thế giới, đồng thời kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phịng, an

ninh.
Cùng với hồn thiện hệ thống pháp luật về biển, cần tăng cường khả năng bảo đảm thi
hành pháp luật trên biển, vùng ven biển, bao gồm các hoạt động kiểm tra, kiểm soát, giám sát
việc thi hành pháp luật, kịp thời ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm, bảo đảm cho pháp luật
về biển của Nhà nước được thi hành chính xác và nghiêm minh.
- Xây dựng thế trận kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh trên biển.
Thế trận kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh trên biển là sự bố trí các lượng lượng,
các cơ sở vật chất - kỹ thuật của các ngành kinh tế biển, của quốc phòng, an ninh trên biển và
ven biển theo ý định, quy hoạch và kế hoạch thống nhất, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung
thống nhất của Đảng và Nhà nước trong phạm vi cả nước và trong từng vùng, từng địa phương,
nhằm tạo được sự thuận lợi cho nhau, hỗ trợ lẫn nhau giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh trên
biển, bảo đảm sự phát triển nhanh và bền vững của kinh tế biển, đồng thời tăng cường được
sức mạnh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia trên biển và vùng ven biển.
- Đào tạo, xây dựng kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, bố trí dân cư... Xây dựng
thế trận kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh cần được hiểu là thực hiện sự kết hợp tất cả
các lĩnh vực đã với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với các lĩnh vực đã ngay từ
khâu điều tra, phân tích, đánh giá và dự báo các nguồn lực (bên trong và bên ngoài) phát triển
vùng; trong khi thiết kế quy hoạch và trong q trình tổ chức thực hiện quy hoạch.
Nội dung chính xây dựng thế trận kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh trên biển là
xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh - kinh tế trên biển và
ven biển.
Trong phân bố cơ sở vật chất - kỹ thuật của các ngành kinh tế biển, cần tránh những vị trí
có địa hình khống chế khu vực. Dành cho các lực lượng vũ trang một số địa bàn có giá trị đặc
biệt về quốc phòng, an ninh ở ven biển. Ở những địa hình này có thể hình thành khu vực kết


hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, do quốc phòng, an ninh quản lý, lực lượng sản xuất ở đây
là những đơn vị lực lượng vũ trang làm kinh tế kết hợp quốc phòng, an ninh, các cơ sở cơng
nghiệp quốc phịng tận dụng năng lực, tham gia sản xuất hàng dân dụng hoặc các mặt hàng vừa
phục vụ kinh tế, vừa phục vụ quốc phòng, an ninh.

Ở những vùng biển trọng điểm cần xác định rõ mục tiêu quốc phòng, an ninh của từng
vùng; đối tượng đấu tranh, thành phần lực lượng vũ trang làm nòng cốt, dự kiến các tình huống
có thể xảy ra và các biện pháp xử trí... Cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích ngư dân khai
thác hải sản ở vùng biển trọng điểm để khẳng định chủ quyền và hỗ trợ lực lượng vũ trang hoạt
động. Bố trí các lực lượng làm kinh tế biển của Hải quân (với danh nghĩa các công ty nuôi
trồng, khai thác hải sản, khảo sát, khai thác dầu khí…) hoạt động ở những khu vực căng thẳng
về quốc phòng, an ninh, vừa sản xuất vừa làm nhiệm vụ quản lý biển và làm chỗ dựa cho ngư
dân khai thác biển.
Hệ thống đảo, quần đảo có tầm quan trọng đặc biệt đối với kinh tế biển của nước ta, cần
được xây dựng thành những căn cứ vững chắc để tiến ra khai thác và hoạt động ở biển xa, đồng
thời là tuyến phòng thủ bảo vệ đất liền. Xây dựng các huyện đảo mạnh về kinh tế, vững về
chính trị và quốc phịng, an ninh. Củng cố hệ thống cơng trình phịng thủ và xây dựng một số
cơ sở dịch vụ khai thác biển trên các đảo xa bờ để tăng thêm thành phần dân sự, thành phần
kinh tế và tính pháp lý của chủ quyền quốc gia đối với các đảo này.
- Xây dựng Quân đội nhân dân đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình
hình mới.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định: "Xây dựng Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có số
lượng hợp lý, với chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, đồng thời quan tâm xây dựng lực
lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc
trong mọi tình huống".
Để đáp ứng yêu cầu bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc trong tình hình mới phải bảo đảm sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân; nâng cao hiệu quản lý nhà nước về quốc phịng an ninh. Đẩy mạnh phát triển cơng nghiệp
quốc phòng, an ninh; tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang


từng bước được trang bị hiện đại, trước hết là cho lực lượng Hải quân, Không quân, lực lượng
an ninh, tình báo, cảnh sỏt cơ động.
3.3. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế, tạo lập môi trường thuận lợi để

phát triển
Trước những diễn biến phức tạp trên Biển Đông trong thời gian vừa qua, hoạt động đối
ngoại đã và đang đãng vai trò hết sức quan trọng, gúp phần to lớn bảo vệ chủ quyền và lợi ớch
quốc gia, giữ vững hồ bình và ổn định trên biển.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: Thúc đẩy giải
quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển và thềm lục địa với các nước
liên quan trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của
khu vực; làm tốt công tác quản lý biên giới, xây dựng đường biên giới hồ bình, hữu nghị, hợp
tác cùng phát triển. Quán triệt quan điểm của Đảng về đối ngoại trong bảo vệ chủ quyền biển
đảo.
Hoạt động đối ngoại phục vụ mục tiêu bảo vệ chủ quyền biển đảo phải ngăn chặn, tiến tới
đẩy lùi nguy cơ phá vì hồ bình, ổn định trong khu vực; ngăn chặn và làm thất bại ý đồ, hành
động gây hấn, xâm lấn của Trung Quốc nhằm biến vùng không tranh chấp thành "những khu
vực tranh chấp" trên vùng biển và thềm lục địa của nước ta.
Kết luận: Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến biển đảo và dành nhiều
tình cảm cho nhân dân vùng biển đảo và lực lượng vũ trang nhân dân bảo vệ biển
đảo của Tổ Quốc. Sự quan tâm và tình cảm đó được thể hiện qua từng bài viết, từng
lời căn dặn của Người khi đến thăm các địa phương hay các đơn vị Hải quân.
Ngay từ những ngày đầu Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, Người đã chọn phương
tiện đường thủy. Đường biển là nhanh nhất và duy nhất lúc đó có thể giúp Người thực
hiện ước mơ của mình. Nhờ việc “làm công” trên những con tầu buôn nước ngoài, Người
đã đi năm châu, bốn biển để tiếp thu văn minh thế giới mỗi khi tầu cập bến và đã tìm
được con đường cứu nước cho dân tộc. Đến mỗi quốc gia, Người đều có cảm nhận vẻ đẹp
thiên nhiên của biển rất khác nhau, nhưng lúc nào Người cũng tự hào về bờ biển Việt
Nam - Tổ quốc thân yêu của mình.


Biển đảo là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam, có tầm quan trọng đặc biệt
trong xây dựng và phát triển đất nước. Bởi vậy, hơn ai hết Hồ Chí Minh khơng những
hiểu tầm quan trọng của biển đảo mà Người cịn có tầm nhìn và tư duy chiến lược về vấn

đề khẳng định chủ quyền, biển đảo Tổ quốc.
Thực hiện lời dạy của Bác, Đảng và nhân dân ta kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của
dân tộc. Đặc biệt là trong tình hình mới chiến lược bảo đảm quốc phòng an ninh và bảo vệ
chủ quyền biển đảo Việt Nam là hết sức quan trọng và cấp thiết.



×