Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Phân tích những ưu điểm, hạn chế của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.23 KB, 4 trang )

Câu 1 Phân tích những ưu điểm, hạn chế của hai phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư ? Rút ra ý nghĩa vận dụng đối với Việt Nam ?
Khái niệm: Giá trị thặng dư là mức độ dôi ra khi lấy mức thu của một đầu
vào nhân tố trừ đi phần giá cung của nó. Mác đã nghiên cứu giá trị thặng dư dưới
giác độ hao phí lao động, trong đó cơng nhân sản xuất ra nhiều giá trị hơn chi phí
trả cho họ – yếu tố bị quy định bơi mức tiền lương tối thiểu chỉ đủ để đảm bảo cho
họ tồn tại với tư các người lao động. Theo Mác, sự bóc lột cơng nhân chỉ có thể
được loại trừ nếu nhà tư bản trả cho họ toàn bộ giá trị mới được tạo ra
Cho nên theo ông, khi không có các cơ hội khác để một nhân tố sản xuất lựa chọn,
thì tồn bộ phần thường dành cho nó đều là giá trị thặng dư.
Hiện có 2 phương pháp chủ yếu để thu được giá trị thặng dư:
+ Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
+ Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
1. Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời
gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động,
giá trị lao động và thời gian lao động tất yếu khơng thay đổi.
Ví dụ: Ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian
lao động thặng dư là 4 giờ, mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 10 đơn vị,
thì giá trị thặng dư tuyệt đối là 40 và tỷ suất giá trị thặng dư là:
m’ = 40/40 x 100%
Nếu kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa, trong khi mọi điều khác vẫn như
cũ, thì giá trị thặng dư tuyệt đối tăng lên 60 và m’ cũng tăng lên thành:
m’ = 60/40 x 100%
Nhà tư bản nào cũng muốn kéo dài ngày lao động của người cơng nhân,
nhưng việc kéo dài đó không thể vượt quá giới hạn sinh lý của công nhân. Vì họ
cịn phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài
thời gian lao động còn bị sự phản kháng của giai cấp cơng nhân đấu tranh địi giảm
giờ làm.
Giai cấp tư sản muốn kéo dài ngày lao động, còn giai cấp công nhân lại muốn rút
ngắn thời gian lao động. Do đó, độ dài ngày lao động được xác định tùy thuộc vào



so sánh lực lượng trong cuộc đấu tranh hai giai cấp nói trên, điểm dừng của độ dài
ấy là điểm mà ở đó lợi ích kinh tế của nhà tư bản và của người lao động được thực
hiện theo một thỏa hiệp tạm thời.
Khi độ dài ngày lao động không thể kéo dài thêm, nhà tư bản tìm cách tăng
cường độ lao động của công nhân. Tăng cường độ lao động về thực chất cũng
tương tự như kéo dài ngày lao động, tức là chi phí nhiều sức lao động hơn trong
một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, kéo dài thời gian lao động và tăng cường
độ lao động là biện pháp để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
2. Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời
gian lao động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian
lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động vẫn như cũ.
Ví dụ: Ngày lao động là 10 giờ, trong đó 5 giờ là lao động tất yếu, 5 giờ là
lao động thặng dư. Nếu giá trị sức lao động giảm đi 1 giờ thì thời gian lao động tất
yếu rút xuống cịn 4 giờ. Do đó, thời gian lao động thặng dư tăng từ 5 giờ lên 6 giờ
và tỷ suất giá trị thặng dư (m’) tăng từ 100% lên 150%.
Giá trị sức lao động được quyết định bởi giá trị các tư liệu tiêu dùng và dịch
vụ để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, muốn hạ thấp giá trị sức lao động thì
phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người cơng nhân.
Do đó, cần phải tăng năng suất lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu
tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra các tư liệu tiêu
dùng.
Muốn tăng năng suất lao động phải cải tiến sản xuất, đổi mới cơng nghệ; xí
nghiệp nào tăng năng suất trước thì thu được giá trị thặng dư siêu ngạch.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng
công nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng
hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó. Khi số đơng các xí nghiệp đều đổi mới kỹ
thuật và cơng nghệ một cách phổ biến thì giá trị thặng dư siêu ngạch của doanh
nghiệp đó sẽ khơng cịn nữa.
Trong từng xí nghiệp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm

thời, nhưng trong phạm vi xã hội thì nó lại thường xun tồn tại. C.Mác gọi giá trị


thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối, vì giá
trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở tăng năng
suất lao động, chỉ khác ở chỗ là một bên là tăng năng suất lao đông xã hội và một
bên là tăng năng suất lao động cá biệt.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh mẽ thúc đẩy các nhà tư bản đổi
mới công nghệ để tăng năng suất lao động cá biệt, đánh bại đối thủ của mình trong
cạnh tranh.
Tuy giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối có sự khác nhau nhưng cả hai
loại đó đều là một bộ phận giá trị mới do cơng nhân tạo ra, đều có nguồn gốc là lao
động không được trả công.
Trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
chiếm ưu thế, song trong thế kỉ XX thì sản xuất giá trị thặng dư tương đối chiếm
ưu thế hơn. Ngày nay, để sản xuất giá trị thặng dư (m) nhà tư bản vẫn sử dụng kết
hợp cả hai phương pháp nói trên.
Ý nghĩa vận dụng:
– Hai phương pháp này có ý nghĩa đối với việc sản xuất ra của cải vật chất,
cụ thể:
+ Trong điều kiện cơ sở vật chất còn nghèo nàn lạc hậu, việc kéo dài thời
gian lao động và tăng cường độ lao động có ý nghĩa giải quyết được khó khăn về
đời sống hoặc hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra.
+ Cải tiến kĩ thuật, ứng dụng thành tựu khoa học mới, tăng năng suất lao
động, gia tăng của cải vật chất có ý nghĩa lâu bền.
+ Việc chạy đua giành giá trị thặng dư siêu ngạch có tác dụng thúc đẩy các
nhà tư bản ra sức cải tiến kỹ thuật, ứng dụng thành tựu khoa học cơng nghệ mới,
điều đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
+ Nếu gạt bỏ tính chất tư bản chủ nghĩa, thì hai phương pháp này có ý nghĩa
tích cực trong việc đem lại của cải vật chất cho xã hội, góp phần gia tăng phúc lợi

xã hội, tái sản xuất mở rộng ở nước ta.


+ Giá trị thặng dư là mức độ dôi ra khi lấy mức thu của một đầu vào nhân tố
trừ đi phần giá cung của nó. Ví dụ về việc nộp tô cho chủ đất sở hữu những miếng
đất màu mỡ
+ Mác đã nghiên cứu giá trị thặng dư dưới giác độ hao phí lao động, trong
đó cơng nhân sản xuất ra nhiều giá trị hơn chi phí trả cho họ, yếu tố bị quy định
bơi mức tiền lương tối thiểu chỉ đủ để đảm bảo cho họ tồn tại với tư các người lao
động. Theo Mác, sự bóc lột cơng nhân chỉ có thể được loại trừ nếu nhà tư bản trả
cho họ toàn bộ giá trị mới được tạo ra
+ Xét về bản chất, thì tất cả các khoản thu nhập nhân tố cao hơn chi phí
nhân tố đều là bán tô trong ngắn hạn. Cho nên khi khơng có các cơ hội khác để
một nhân tố sản xuất lựa chọn, thì tồn bộ phần thường dành cho nó đều là giá trị
thặng dư./.



×