Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

ứng dụng hợp chất hữu cơ trong y dược học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.01 MB, 47 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
VIỆN SƯ PHẠM TỰ NHIÊN

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MƠN HỐ HỮU CƠ 2

Đề tài:

HỢP CHẤT HỮU CƠ TRONG NGÀNH TRONG Y
DƯỢC HỌC

Người hướng dẫn: Nguyễn Thị Chung – Đậu Xuân Đức
Người thực hiện: Bùi Văn Thành
Lớp: 60A – SP Hoá học
Viện SPTN

Nghệ An, tháng năm 2021


2

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 2
Exordium ............................................................................................................. 4
Chương 1: THUỐC THUỘC DÃY ANKAN NO ............................................. 5
1.1. Ankylhalogen với tác dụng gây mê .................................................................. 6
1.2. Aldehit và axit. Các Vitamin F và B15 ............................................................ 6
1.3. Aminoaxit ....................................................................................................... 11
1.3.1. Dẫn xuất của α-aminoaxit ............................................................................ 11
1.3.2. Những dẫn xuất β-aminoaxit. Vitamin B3 .................................................. 16
Chương 2: THUỐC THUỘC DÃY HYDROCACBON VÒNG NO ............. 18


2.1. Các dẫn xuất của xiclohexan. Vitamin A ....................................................... 18
2.2. Tổng hợp vitamin D ........................................................................................ 21
Chương 3: TỔNG HỢP CÁC DẪN XUẤT THƠM ....................................... 22
3.1. Thuốc sát trùng và hoạt chất kiềm chế adrenalin của dãy đồng đẳng phenol.22
3.2. Dẫn xuất của axit o-hydroxybenzoic. Aspirin ................................................ 24
3.3. Các dẫn xuất xeton của naphthalen. Vitamin K1. Oxolin .............................. 26
Chương 4: CÁC LOẠI THUỐC CĨ CHỨA NHÂN DỊ VỊNG ................... 29
4.1. Các loại dược phẩm trên cơ sở dị vòng năm cạnh .......................................... 29
4.2. Tổng hợp các loại thuốc hóa dược với dị vịng sáu cạnh ............................... 31
4.2.1. Những dẫn xuất của pyran với vitamin (vitamin E), hoạt tính chống tăng
huyết áp và những hoạt tính sinh học khác ............................................................... 31
4.2.2. Dẫn xuất quinolin với tác dụng chống sốt rét và kháng khuẩn ................... 36
4.2.3. Isoquinolin trong vai trò là chất chống đau co thắt và diệt ký sinh trùng ... 42
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 44
CONCLUDE .................................................................................................... 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 47

MỞ ĐẦU


3

Trong gần hai thế kỷ, hóa học hữu cơ đã tổng hợp được hơn mười triệu hợp
chất riêng biệt. Các hợp chất hữu cơ mới ngày càng có giá trị, chủ yếu để giải các
bài toán trong lĩnh vực này. nghiên cứu cơ bản, ví dụ dự đốn mối quan hệ giữa cấu
trúc hóa học của các hợp chất và khả năng phản ứng hóa học của chúng. Sự phát
triển nhanh chóng của hóa học hữu cơ cịn có những ý nghĩa khác không kém phần
quan trọng. Một phần quan trọng là đảm bảo hầu hết các nhu cầu thiết thực của
công ty. Một trong những nhu cầu thiết thực là tạo ra và phát triển một kho tàng tài
nguyên chung, phổ biến, đáng tin cậy và hiệu quả. thuốc trong phòng và điều trị

bệnh. Nhiệm vụ thiết thực này được thực hiện bởi một đội ngũ đông đảo các nhà
hóa học hữu cơ, những người làm việc chặt chẽ với các chuyên gia trong lĩnh vực
hóa dược, hóa sinh, dược lý, y học và các chuyên gia công nghệ hóa học.
Thuốc là những đơn chất hoặc hợp chất có hoạt tính sinh học, được pháp luật
cho phép sử dụng trong chẩn đốn, phịng và chữa các bệnh của con người hoặc
sinh vật.Khái niệm “hoạt tính sinh học” phản ánh sự tương tác qua lại của thuốc với
cơ thể và kích thích những phản ứng đáp lại của cơ thể, ví dụ như tác dụng an thần,
hạ nhiệt, giảm đau … Cho tới nay các nhà khoa học đã tạo ra một khối lượng lớn
dược phẩm có nguồn gốc tự nhiên cũng như tổng hợp.Trong cuốn sách tra cứu
Vidal – Dược điển LB Nga (“Справочник Видаль.Лекарственные препараты в
России” năm 1997) có liệt kê gần 4000 loại dược phẩm khác nhau.Sự đa dạng và
phong phú về chủng loại thuốc, sự tăng trưởng ổn định hàng năm về số loại thuốc
(hằng năm có từ 30 – 40 loại thuốc mới về cấu trúc), sự phức tạp về cấu tạo của các
loại dược phẩm mới, quá trình tổng hợp đa giai đoạn của các loại thuốc – tất cả
những yếu tố đó tạo thành một khối lượng khổng lồ những thông tin tri thức khoa
học về hóa học của các loại dược phẩm, và tất nhiên, chúng tơi khơng có tham vọng
phản ánh đầy đủ tấtcả các vấn đề trên trong cuốn sách nhỏ này.Ở đây chỉ đề cập đến
các đặc điểm về cấu tạo và những phương pháp tổng hợp các loại thuốc hóa dược,
những hợp chất được chia thành các nhóm theo tính chất dược lý, được ứng dụng
rộng rãi trong y học và được sản xuất trong công nghiệp với một khối lượng
lớn.Song song với việc đó, cuốn sách cũng giới thiệu những hướng phát triển chính
của ngành hóa dược ngành chiết xuất và tổng hợp các hợp chất hữu cơ – có tiềm
năng lớn về hoạt tính sinh học.Nghiên cứu và xem xét đường hướng phát triển của
hóa học các loại thuốc, những vấn đề vướng mắc về mặt hóa học trong q trình
tổng hợp các nhóm dược phẩm chính và những xu thế mới cũng như triển vọng tìm
kiếm những biệt dược mới của thế kỷ 21.Hóa học các hợp chất làm thuốc có liên
quan đến nhiều ngành khoa học khác, vì trong quá trình thu hái, bào chế mỗi loại
thuốc cần kết hợp các kết quả của các ngành khoa học khác nhau như: hóa hữu cơ,
cơ học, hóa dược; hóa sinh và hóa hữu cơ; hóa vơ cơ, cơng nghệ dược, cơng nghệ
hóa học, cơng nghệ sinh học ...



4

Exordium
In the span of nearly two centuries, organic chemistry has synthesized more than
ten million separate compounds. The new set of organic compounds is of
increasing value, first of all to solve basic research problems, such as predicting
the relationship between chemical structures of compounds with their chemical
reactivity. The rapid development of organic chemistry also carries another
equally important meaning, which is to meet almost all the practical needs of
society. One of the practical needs is to establish and develop a treasure trove of
common, popular, reliable and effective medicines in the prevention and
treatment of diseases. This practical task has been tackled by a large team of
organic chemists, working in close cooperation with experts in the fields of
pharmaceutical chemistry, biochemistry, pharmacology, and medicine. as well
as experts in chemical engineering.
Drugs are biologically active substances or compounds that are permitted by law
to be used in the diagnosis, prevention and treatment of diseases of humans or
organisms. The concept of “biological activity” reflects the interaction. The
drug's interaction with the body and stimulates the body's response responses,
such as sedative, hypothermia, pain relief ... Up to now, scientists have created a
large amount of pharmaceutical products that can Natural as well as synthetic
origin. In the lookup book Vidal - Pharmacopoeia of the Russian Federation
("Справочник Видаль.Лекарственные препараты в России" in 1997) has
listed nearly 4000 different types of pharmaceuticals. Diversity and richness in
terms of drug types, the annual steady growth in the number of drugs (every
year, there are 30-40 new drugs in terms of structure),the structural complexity
of new drugs, the multistep synthesis of drugs – all these factors constitute a
huge amount of scientific knowledge about the chemistry of drugs.

pharmaceuticals, and of course, we do not intend to cover all of the above in this
pamphlet. Only structural features and methods of synthesizing drugs are
discussed here. Medicinal chemistry, compounds that are grouped according to
their pharmacological properties, are widely used in medicine and are produced
industrially in large quantities. In parallel, the book also introduces the The
main development direction of the pharmaceutical chemistry industry, the
extraction and synthesis of organic compounds - has great potential for
biological activities. Research and review the development direction of drug
chemistry, problems and obstacles. chemical problems in the synthesis of major
pharmaceutical groups and new trends and prospects for finding differences.
new medicine of the 21st century.Chemistry of medicinal compounds is related
to many other sciences, because in the process of collecting and preparing each
drug, it is necessary to combine the results of different sciences such as: org anic


5

chemistry, mechanics, pharmaceutical; biochemistry and organic chemistry;
inorganic chemistry, pharmaceutical technology, chemical technology,
biotechnology...

Chương 1: THUỐC THUỘC DÃY ANKAN NO


6

1.1. Ankylhalogen với tác dụng gây mê
Các ankyl halogenua như etyl clorua , triclometan
(cloroform)


1-clo-1
brom-2,2,2-trifloetan
(phthorothanum hoặc halothane), đã tìm thấy những
ứng dụng trong q trình gây mê theo đường hơ hấp.
Đã xác định được rằng, nếu tăng số lượng các nguyên
tử halogen, cũng như thay thế các halogen, chuyển từ I
thành Br và tiếp theo là Cl thì tác dụng gây mê của
ankyl halogenua sẽ tăng dần lên. Etyl clorua và
cloroform được điều chế trong cơng nghiệp bằng q
trình clo hóa êtan và metan ở nhiệt độ cao:

Cloroform cũng được tổng hợp bằng phản ứng của hypoclorua với rượu etanol,
etanal hay propanon (với sự có mặt của hypoiodua sẽ tạo thành iodoform), được sử
dụng trong y học như là chất diệt khuẩn.

Phương pháp sản xuất công nghiệp fluothane dựa trên sự brom hóa hoặc clo hóa
freon tương ứng theo cơ chế gốc tự do ở điều kiện nhiệt độ cao:

1.2. Aldehit và axit. Các Vitamin F và B15
Aldehitđơn giản nhất – methanal – được sử dụng như là chất diệt khuẩn dưới
dạng dung dịch lỗng tiệt trùng ngồi da và các dụng cụ y tế. Trong cơng nghiệp nó
được sản xuất bằng phương pháp oxy hóa metanol (3500C, chất xúc tác – oxit
Fe/Mo) hoặc oxy hóa metan (6000C, xúc tác – dioxitnitrơ):

Tác dụng diệt khuẩn của hexametylentetramin (urotropin) đã được sử dụng
trong y tế từ năm 1895, có lẽ dựa trên sự phân hủy từng bước thành formaldehit, tốc
độ phân hủy tăng nhanh trong mơi trường axit. Do đó, urotropin được coi là tiền


7


thuốc. Tetraazaadamantan dễ dàng thu được bằng phương pháp ngưng tụ metanal
với dung dịch amoniac, thông qua việc tạo thành hợp chất trung gian
hexahydrotriazin :

Đối với thuốc mê dạng dung dịch người ta sử dụng γ-hydroxybutyrat natri (4).
Dược phẩm này được tổng hợp thông qua bốn giai đoạn. Trùng ngưng axetilen
với formaldehit thu được 1,4-butyldiol, rồi thủy phân thành butandiol; tiếp tục nung
nóng ở 3000C với xúc tác Cu, diol này sẽ bị khử hóa đóng vịng thành γ
butyrolacton ; và tiếp tục bị thủy phân bởi dung dịch kiềm tạo thành hydroxybutirat :

Urat của axit α-bromisovaleric được sử dụng trong y học dưới tên gọi
bromural (bromisoval), dược phẩm được dùng để điều trị an thần và là thuốc ngủ
nhẹ. Nó được điều chế từ 3-metylbutanol-1 bằng phương pháp oxy hóa bởi KMnO4
và tạo thành axit isovalerinoic, axit này phản ứng với POCl3 chuyển hóa thành
cloanhydrit; sau đó tiếp tục tiến hành brom hóa ở vị trí alpha và cuối cùng phản ứng
với ure chúng ta có bromural:

Cùng dãy những dẫn xuất aliphatic axit cịn có hai Vitamin – F và B15. Nhóm
những hợp chất tự nhiên, bắt đầu từ năm 1912 được mang tên “Vitamin”, là nhóm
chất chuyển hóa được tạo thành chủ yếu từ thực vật và vi sinh vật, chúng cùng tạo
thành phức với protein và tham gia vào rất nhiều phản ứng sinh hóa quan trọng với
vai trị chất xúc tác sinh hóa hoặc vật chất trung chuyển những nhóm chức năng.
Cần nhấn mạnh rằng, cơ thể con người và động vật không thể tự tổng hợp được


8

những vitamin này, mặc dù chúng là chất tối quan trọng và rất cần thiết cho cơ thể
(bioregulator - những chất có tác dụng điều hịa các cơ chế sinh hóa trong cơ thể).

Sự thiếu hụt vitamin trong khẩu phẩn ăn hàng ngày được cho là nguyên nhân chính
dẫn đến sự tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong của con người. Vì nguyên nhân này, tại
rất nhiều quốc gia trên thế giới đã đưa ra những chương trình “Vitamin hóa những
sản phẩm dinh dưỡng” với quy mơ rất lớn, trước tiên là bánh mỳ và những sản
phẩm ngũ cốc, điều này làm giảm đáng kể những chi phí cho thuốc men và điều trị
các loại bệnh do thiếu hụt vitamin. Cơ thể người được cung cấp vitamin từ thực
phẩm hàng ngày, chủ yếu từ các sản phẩm có nguồn gốc thực vật. Đó là điều thú vị
của cuộc sống, nó cho thấy mối liên kết của tất cả các sinh vật sống trên Trái Đất
này, và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng. Người ta quy định một cách tương đối
rằng vitamin được ký hiệu bởi chữ cái Latinh, có thể kèm theo với chỉ số nếu như
chữ cái đó được dùng đặc trưng cho một nhóm vitamin (cũng có khi chỉ số được ký
hiệu cho những cấu trúc gần giống với nhau, nhưng được phát hiện vào những thời
gian khác nhau). Bắt đầu từ năm 1906 – thời điểm phát hiện ra vitamin đầu tiên (B1,
Thiamin) - và trong vịng 50 năm sau đó đã phát minh ra tất cả các loại vitamin
đang sử dụng ngày nay (gần 20 loại), đã nghiên cứu cấu tạo và các phương pháp
tổng hợp chúng (ngoại trừ vitamin B12, được tổng hợp muộn hơn vào năm 1972).
Rất nhiều loại vitamin sẽ mất tác dụng đặc biệt của mình nếu như tiến hành biến đổi
cấu trúc hóa học (có khi, phân tử bị biến đổi cịn thể hiện hoạt tính kháng vitamin).
Nhưng trong một vài trường hợp, đối với một số dẫn xuất của vitamin cũng quan sát
thấy được sự tăng hoạt tính sinh học so với vitamin gốc hoặc xuất hiện những dược
tính mới, được áp dụng để chữa trị những bệnh lý khác nhau.

Vitamin F là hỗn hợp của ba đơn axit khơng no mạch thẳng, trong đó tất cả
những nối đơi của chúng có dạng đồng phân cis:


9

Axit linoleic và axit linolenic có 18 nguyên tử cacbon. Chúng được tìm thấy
trong dầu thực vật cũng như trong mỡ động vật. Axit đầu tiên trong số đó (axit

9,12-octadecadienoic) có chứa 2 nối đơi khơng liên hợp, cịn axit thứ hai (axit
9,12,15- octadecatrienoic) – có 3 nối đơi. Thành phần thứ 3 của vitamin F là axit
arachidonic , chỉ có trong thành phần của mỡ động vật. Axit này có chứa 20 ngun
tử cacbon và 4 liên kết đơi khơng liên hợp tại các vị trí 5,8,11 và 14 (axit all-cis8,11,14,17- eicosatetraenoic).Axit linoleic trong q trình chuyển hóa sẽ biến đổi
thành axit arachidonic, và axit này đến lượt nó lại chuyển thành các bioregulator, ví
dụ như prostaglandin và các thromboxan , có chứa khung nguyên tử cơ sở axit
prostanoic và phân biệt chúng dựa trên cấu tạo khác nhau của vòng năm cạnh:

Những hợp chất này là các hoormon điều hịavà được sử dụng để kích thích sinh
sản hoặc ngừng thai nghén. Trong thành phần của dầu thực vật có những axit khơng
no tồn tại dưới dạng hỗn hợp glyxerit cùng với các axit no bền. Những axit không
no, trong q trình bảo quản vì khơng bền nên sẽ bị oxy hóa tại vị trí liên kết bội và
bị phân hủy thành các aldehit và axit với mạch cacbon ngắn hơn (ví dụ như, hexanal
và axit butyric), tạo ra mùi vị đắng khó chịu của dầu. Trong cơng nghiệp, dầu thực
vật lỏng được hydro hóa có xúc tác ở nhiệt độ cao sẽ cho chúng ta sản phẩm rắn đó
là – margarin, có thể bảo quản lâu dài mà khơng bị đắng. Nhưng sự can thiệp hóa
học này có hai nhược điểm. Nhược điểm thứ nhất là khi hydro hóa sẽ làm giảm
đáng kể lượng axit khơng no dạng cis (linolenoic), hợp chất có chức năng ngăn
ngừa xơ vữa động mạch – nguyên nhân cơ bản làm tăng tỷ lệ tử vong ở người lớn


10

tuổi. Nhược điểm thứ hai, là một phần đồng phân tự nhiên dạng cis của axit khơng
no có thể bị đồng phân hóa trong q trình hóa học đó và chuyển thành dạng đồng
phân trans – đồng phân này gây ra các bệnh về tim mạch, làm tăng nguy cơ tiểu
đường, làm giảm sự suy yếu của hệ miễn dịch, làm thay đổi prostaglandin và các
chỉ số khác. Liên quan tới những dữ liệu này, đã xuất hiện những công trình nghiên
cứu theo hướng thay thế q trình hydro hóa dầu thực vật bằng phương pháp este
hóa axit no, để không làm giảm hàm lượng axit linolenoic và loại trừ q trình

isomer hóa cis - trans của axit đó:

Vitamin B15 có cấu tạo là dẫn xuất pentahydroxyl của axit hexanoic,trong đó
nhóm OH tại vị trí C6 được este hóa bằng axit N,N-dimetylaminoaxetic. Vitamin
này được sử dụng trong y học lâm sàng dưới dạng muối canxi dùng trong điều trị
nội khoa và phòng các bệnh xơ vữa động mạch, hepatit, xơ gan và sự nhiễm độc
rượu. Được điều chế bằng phương pháp oxi hóa D-glucose dưới tác dụng của
MnO2 thành axit D-gluconic, và sau đó este hóa nhóm OH bậc nhất này bằng
N,Ndimetylglyxin và este tạo thành được chuyển thành dạng muối canxi khi tác
dụng với Ca(OH)2.


11

1.3. Aminoaxit
1.3.1. Dẫn xuất của α-aminoaxit
Ngày nay, tổng khối lượng α-aminoaxit được sản xuất trên toàn thế giới vào
khoảng nửa triệu tấn/năm. Người ta sản xuất một khối lượng lớn như vậy là vì
chúng có ứng dụng rộng rãi trong y học, cũng như trong nông nghiệp (là các chất
phụ gia kích thích tăng trưởng) và trong cơng nghiệp thực phẩm (là chất tạo mùi vị
và chất bảo quản). Nói về giá trị thực tiễn của từng loại aminoaxit, người ta đề cập
đến quy mô sản xuất chúng bằng phương pháp hóa học và sinh học: tryptophan
được sản xuất với lượng từ 0,2 đến 03, nghìn tấn/năm; glyxin – 7-10 nghìn tấn/năm;
lysin – khoảng 50 nghìn tấn/năm; methionin – 150 – 200 nghìn tấn/năm và axit
glutamic – hơn 200 nghìn tấn năm.
Methionin (axit 2-amino-4-metylthiobutanoic) được sử dụng trong y học để
điều trị và phòng nhiễm độc gan, cũng như chữa trị bệnh đái tháo đường. Hợp chất
này thu được bằng phương pháp tổng hợp từ các chất ban đầu là acrolein và
thiometanol. Phản ứng cộng hợp thiometanol với acrolein tại vị trí liên kết đơi C=C
cho chúng ta metylthiopropanal . Sau đó bằng phương pháp Strecker dễ dàng xyan

hóa tại nhóm cacbonyl tạo thành xyanohydrin, và nhóm OH của chất tạo thành sau
đó bị thế bởi amoniac theo cơ chế nucleophil. Tại giai đoạn tiếp theo, heminal
aminonitril tạo thành được xử lý bằng phương pháp thủy phân trong môi trường
kiềm cho ra hỗn hợp đồng phân triệt quang methionin. Đồng methionin có hoạt tính
sinh học, được tách bằng phương pháp kết tinh nhờ kết hợp với các hợp chất quang
hoạt hoặc phân lập bằng phương pháp sử dụng enzym:

Metylmethioninsulfonium clorua có nguồn gốc tự nhiên được gọi là vitamin U.
Vitamin này có nhiều trong bắp cải, cà chua và rau mùi tây. Vitamin U được
khuyên dùng trong điều trị bệnh đau lt dạ dày. Vitamin này đóng vai trị là chất
cho nhóm metyl trong các q trình sinh học. Trong cơng nghiệp, nó được điều chế
bằng cách clometyl hóa L-methyonin :

Tryptophan (aminoaxit có nhóm thế dị vịng thơm – nhóm thế indol) được sử
dụng trong điều trị những bệnh về đường tiêu hóa. Tại giai đoạn đầu tiên của quá


12

trình tổng hợp, các nhà hóa học tiến hành aminometyl hóa indol theo phương pháp
Mannich. Sản phẩm thu được trong q trình đó là 3-aminometylindol được trùng
ngưng với este của axit nitroaxetic. Trong q trình phản ứng, nhóm metylen của
este sẽ tách 1 proton (giống như CH-axit) tạo thành carbaninon và nhóm
dimetylamin của indol dễ dàng bị thay thế, điều đó dẫn đến sự tạo thành metylat
của axit 3-44 indolylnitropropanoic . Tiếp theo, tiến hành khử nhóm nitro thành
amin và sau khi thủy phân hóa bằng kiềm, người ta thu được tryptophan hoặc muối
natri của hoạt chất này:

Axit glutamic (axit 2-amino-1,5-pentandionoic) được ứng dụng trong việc
chữa trị những bệnh liên quan đến hệ thần kinh trung ương (động kinh, loạn thần

kinh; ở trẻ em – bệnh bại liệt và sự chậm phát triển thần kinh). Muối natri của axit
này được sử dụng như chất phụ gia thực phẩm (tạo mùi vị) và chất bảo quản trong
thực phẩm. Axit glutamic được tổng hợp trên cở sở hydrocacbonyl hóa acrilonitrin
với sự có mặt của chất xúc tác (triarylphosphincacbonyl coban hoặc reni) thành
nitrilaldehit . Chất này được chuyển hóa tiếp theo phương pháp Strecker thành
amidonitril của axit glutaric ; sau đó tiếp tục rửa bằng dung dịch kiềm ở 1000C thu
được D,Ldinatriglutamat. Phân lập hỗn hợp đồng phân triệt quang thành các đồng
phân đối quang riêng biệt được thực hiện bằng phương pháp kết tinh từ dung dịch
của chúng với sự có mặt của axit L-glutamic (dạng đồng phân L của muối này sẽ
tách ra dưới dạng kết tủa):

Vào năm 1999 đã phát hiện ra hoạt chất truyền xung động thần kinh bất
thường – D-serin, HOCH2CH(NH2)COOH. Thực nghiệm cho thấy, đồng phân D
của α- aminoaxit này được tạo ra trong cơ thể người từ đồng phân dạng L. Và một


13

điều bất ngờ nữa, đó là sự tổng hợp sinh học D-serin – được tiến hành khơng phải ở
chính những tế bào thần kinh (neuron), mà là ở những tế bào hình sao, bao phủ
neuron. Từ những tế bào hình sao, chất truyền xung động thần kinh này khuếch tán
vào các tế bào thần kinh và tương tác với những thụ thể đăc biệt. Đã bắt đầu nghiên
cứu những loại dược phẩm có chức năng điều khiển hoạt tính của các enzym nhằm
kiểm sốt q trình tổng hợp D-serin . Những dược phẩm này, như mong đợi, có thể
tỏ ra hữu ích trong q trình chữa đột quỵ, những cơn tăng huyết áp, và giúp bảo vệ
neuron chống lại những sự tổn thương không phục hồi.
Một loạt những oligomer của các α-aminoaxit có vai trị rất lớn trong hoạt
động sống của cơ thể và một vài trong số đó đã được ứng dụng trong thực tiễn y
học. Ví dụ như, metyl ête của dipeptit L-asparagin-L-phenylalanin (aspartat,
aspartame) được sử dụng trong điều trị bệnh tiểu đường, là chất ít calo thay thế

đường (vào khoảng 150 lần ngọt hơn glucose). Nó được sản xuất bằng các quá trình
tổng hợp hữu cơ hoặc bằng phương pháp vi sinh khi ngưng tụ asparagin với metylat
phenylalanin:

Chất kháng sinh có nguồn gốc tự nhiên gramicidin S là sản phẩm của bào tử
trùng dạng que (Bacillus brevis) có cấu tạo là một vịng decapeptit: -[-ValOrnLeu(D)-Phe-Pro]-[gramicidin S (diệt khuẩn)]. Hợp chất này thể hiện khả năng
tiêu diệt và kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn và được ứng dụng trong điều trị vết
thương, vết bỏng, các bệnh viêm nhiễm khác, cũng như với vai trò là thuốc phịng
tránh thai. Peptit diệt khuẩn này có đặc điểm thú vị là trong thành phần của của nó
cũng có phenylalanin ở dạng đồng phân D. Trong thời gian gần đây, đã tách ra được
một vài peptit tự nhiên có phân tử lượng lớn (từ da nhái bén, nọc độc nhện …) có
chứa một hoặc hai phân tử D-aminoaxit. Và cũng đã xác định được rằng đoạn đồng
phân D-aminoaxit của các peptit loại này làm tăng một cách đáng kể độ bền của
chúng dưới tác dụng thủy phân của các enzym exo- và endoprotease. Kết quả này
cũng được tính đến trong q trình tổng hợp các loại thuốc dạng olygopeptit có khả
năng tác dụng sinh học lâu dài.
Trong vòng 25 năm gần đây, đã tách được và xác định rõ đặc điểm của nhiều
dạng peptit nội sinh của cơ thể người: peptit gây ngủ, neuropeptide và các
hoormonpeptide. Như vậy, giấc ngủ được tạo ra bởi nanopeptit Trp-Ala-Gly-GlyAsp-Ala-Ser-Gly-Glu. Những peptit loại này tỏ rất khơng ổn định và tạm thời cũng
rất khó khăn để sử dụng như một loại thuốc ngủ. Các hợp chất encephalin và
endorphin cũng là những peptit gây nghiện có nguồn gốc tự nhiên, có tác dụng đồng
vận rất mãnh liệt lên các thụ thể opiat (neuropeptide):


14

Một số peptit có tác dụng như hoormon. Những hoormon này được tổng hợp
trong những cơ quan, bộ phận khác nhau – vùng hypothalamus của não, vùng não
thùy, tuyến tụy, huyết tương của máu. Những hoormonpeptit cũng giống như tất cả
các peptit đều thực hiện nhiệm vụ điều khiển hoạt động của các cơ quan và các tế

bào; về cơ bản là thay đổi tốc độ quá trình tổng hợp các enzym, quá trình xúc tác
sinh học và độ thẩm thấu của các màng sinh học. Chúng được tổng hợp bởi các
tuyến nội tiết và đi vào trong máu dưới sự kiểm soát của hệ thần kinh. Insulin là
một dimer, trong đó uneicosapeptit liên kết với tricosapeptit bằng hai cầu nối
disulfit. Insulin được tạo ra trong tuyến tụy của cơ thể người và có tác dụng điều
chỉnh nồng độ của glucose trong máu.

Hình 4. Sơ đồ sự tạo thành những angiotensin và tín hiệu thứ cấp nội tế bào (xicloAMF). Chỉ ra những vị trí có khả năng chịu tác dụng của những loại thuốc chống
tăng huyết áp. Ký hiệu: ATG – angiotensinogen; AT-I – angiotensin I; AT-II –
angiotensin II; ATF – adenosinetriphotphat; xiclo-AMF – adenosin-3’,5’xiclomonophotphat.
Insulin được ứng dụng để điều trị bệnh đái tháo đường. Một dược phẩm vô
cùng quan trọng điều hòa huyết áp là hoormon octa- và decapeptit, có tên gọi là
angiotensin II và I (chúng có tác dụng làm tăng huyết áp):


15

Ngồi ra cịn có các nanopeptit như bradyquinin (có tác dụng hạ huyết áp) và
vasopressin (có tác dụng tăng huyết áp và tác dụng điều trị tiểu đường). Thận cũng
có các chức năng nội tiết và đưa vào trong máu enzym phân giải protein renine,
enzym này có tác dụng làm chuyển hóa một trong những protein của huyết tương
(angiotensinogen) thành decapeptit angiotensin I (hình 4). Và chất này 48 dưới tác
dụng của enzym tiếp tục loại bỏ dipeptit ở vị trí cuối cùng để tạo thành angiotensin
II có hoạt tính mạnh hơn.
Bởi vì hoormon peptit khơng thẩm thấu được vào tế bào, nên chúng truyền
những tín hiệu thơng tin quan trọng vào trong tế bào một cách gián tiếp thông qua
mối liên hệ với những thụ thể (thụ thể hóa học (chemoreceptor) hoặc là kênh ion),
đó là một tập hợp những phân tử protein hoặc không protein. Trong trường hợp này,
angiotensin II kết hợp với thụ thể hóa học (R-protein) thành một phức, phức này có
tác dụng kích hoạt enzym adenilatcyclase (thông qua protein nội tế bào đặc biệt Gprotein). Enzym này sau đó làm tăng q trình tổng hợp nội tế bào của tín hiệu thứ

cấp – adenosin-3’,5’-xiclomonophotphat (xiclo-AMF) từ adenosinetriphotphat
(ATF):

Nucleotit dạng vòng này được phát hiện vào những năm 1950, đưa đến việc hình
thành khái niệm về tín hiệu thứ cấp truyền tải thông tin nội tế bào (khác với tín hiệu
chính, ngoại tế bào như: các hoormon và các neurotransmitter). Nó là vật chất trung
gian phổ biến truyền tín hiệu của hoormon trong tế bào và kích hoạt những enzym
nội tế bào (proteinkinase), những enzym tham gia vào quá trình tổng hợp các
protein và những enzym khác. Ngồi vịng AMF, những vật chất chung gian thứ
yếu cịn bao gồm guanosinxiclomonophotphat (xiclo-GMF), , cation Ca(II), NO …
v.v:


16

Các loại thuốc, có tác dụng giảm huyết áp động mạch (propranolol hay
anaprilin) và captopril – xem phần 4.3 và 5.3.2), sẽ kìm hãm các enzym có nhiệm
vụ thúc đẩy sự chuyển hóa angiotensin I thành II. Trong thời gian gần đây đã tổng
hợp được những dược phẩm, được dùng để kìm hãm (các chất này được gọi là
kháng chất - antagonist) những thụ thểt của angiotensin II, những antagonist này tự
mình kết hợp với các thụ thể và loại bỏ ra khỏi thụ thể những hoormon bẩm sinh.
1.3.2. Những dẫn xuất β-aminoaxit. Vitamin B3

Vitamin B3 (axit pantotenoic) có chứa mảnh β-alanin (axit 3-aminopropionic).
Vitamin này có trong thành phần của coenzym A – vật chất chuyển tải nhóm
axyl trong các phản ứng sinh hóa. Với mục đích chữa bệnh, nó được sử dụng để
điều trị các chứng bệnh viêm đa dây thần kinh, viêm da, viêm phế quản, trướng ruột,
loét dạ dày và bỏng. Được điều chế trong công nghiệp dưới dạng muối canxi của
pantotenat bằng cách thực hiện phản ứng trùng ngưng β-alanin với axit 2,4dihydroxy3,3- dimetylbutanoic trong sự có mặt của CaO và dimetylamin. Axit
được tổng hợp bằng phương pháp oxy hóa isobutanol thành aldehit 2metylpropanal , aldehit này sau đó bị hydroxymetyl hóa bởi formaldehit tại vị trí

nhóm metyl hoạt động với sự có mặt của carbonat potassium. Sản phẩm thu được
trong quá trình này là aldehydoalcohol tiếp tục tác dụng với kali xyanua thành


17

xyanhydrin , chất này khi đun nóng trong dung dịch CaCl2 dễ dàng đóng vịng
thành sản phẩm pantolacton bền . Thủy phân trong môi trường axit, lacton sẽ cho
chúng ta axit . β-Alanin thu được bằng cách amoni hóa acrylnonitril, và tiếp theo là
thủy phân sản phẩm trung gian aminopropionitril:


18

Chương 2: THUỐC THUỘC DÃY HYDROCACBON VÒNG NO
Trong số các dẫn xuất mạch vòng nhỏ, y học chỉ sử dụng xiclopropan. Đây là
chất gây mê ít độc, được sử dụng trong quá trình gây mê (gây mê trong hỗn hợp với
oxy). Trong công nghiệp xiclopropan tổng hợp được từ allylclorua bằng sự kết hợp
với HBr tạo thành 1-brom-3-clopropan và cuối cùng là quá trình loại halogen dưới
tác dụng của kẽm:

2.1. Các dẫn xuất của xiclohexan. Vitamin A
Menthol (2-hydroxy-1-isopropyl-4-metylhexan với tất cả các nhóm thế đều
nằm ở vị trí equatorial) được sử dụng làm thuốc giảm đau bơi ngồi da và làm
thuốc sát trùng trong điều trị viêm nhiễm đường hô hấp trên. Ngồi ra, menthol cịn
được sử dụng chống đau co thắt khi điều trị chứng đau thắt ngực (với tên gọi là
validol, đó là hỗn hợp bao gồm 25% menthol với 75% este của menthol với axit
isovaleric). Menthol có mùi bạc hà, có thể được sử dụng làm chất tạo mùi hương
trong thực phẩm và trong kem đánh răng. Chất này có trong các tinh dầu tự nhiên
(tinh dầu bạc hà và thiên trúc quỳ). Trong công nghiệp, menthol thu được ở dưới

dạng hỗn hợp raxemic bằng phản ứng ankyl hóa m-crezol bởi 2-clopropan với sự có
mặt của axit Luis theo cơ chế electrophil. Nhóm isopropyl thay thế nguyên tử hydro
ở vị trí orto so với nhóm OH. Sản phẩm này sau đó bị hydro hố dưới áp suất, nhiệt
độ cao và với xúc tác Ni cho chúng ta menthol.

Vitamin A thuộc nhóm dẫn xuất tetraen của xiclohexen với bốn nhóm isopren.
Đã biết được một vài dạng vitamin A: retinol, retinal, axit retinoic … Retinol
có chứa nhóm hydroxymetyl ở cuối mạch thẳng (chất này quan trọng cho sự phát
triển chiều cao, cho chức năng hoạt động bình thường của da và các mơ xương,
cũng như đối với sự kích thích tạo thành tinh dịch). Retinal có chứa nhóm aldehit
(rất quan trọng đối57 với chức năng thị giác), và axit aretinoic - chứa nhóm
cacboxyl (chức năng sinh học tương tự với retinol):


19

Tất cả các liên kết đơi ở phía ngồi vịng đều có dạng trans, ngoại trừ retinal có
1 liên kết đôi ở dạng cis (cis –retinal), và dễ dàng chuyển hố thành đồng phân có
cấu hình dạng trans khi hấp thụ lượng tử ánh sáng. Q trình đồng phân hố này là
cơ sở của sự hấp thụ ánh sáng bởi sắc tố thị giác rhodopsin, trong thành phần của
rhodopsin có retinal, và là cơ sở của sự chuyển hoá các xung động ánh sáng trong
não. Mỡ trong gan cá có chứa rất nhiều vitamin A. Các loại thực vật rất giầu
provitamin A, một trong những chất quan trọng đó là β-caroten (có trong càrơt,
salat, hành lá, gấc). Caroten trong cơ thể bị phân huỷ dưới tác dụng của các enzym
và tạo thành retinal, sau đó bị khử thành retinol, và cuối cùng dưới dạng sản phẩm
este với axit béo sẽ được tích tụ lại trong gan:

Vitamin A được ứng dụng trong điều trị các bệnh về mắt, da, một số các bệnh
truyền nhiễm và cảm lạnh.



20

Trong cơng nghiệp, vitamin A (trong phân tử có chứa tới 20 nguyên tử cacbon)
được điều chế bằng cách nối dài thêm mạch cacbon khi sử dụng các chất ban đầu
đơn giản như: axetilen, axeton, dixeten, axit cloroaxetic và metylvinylxeton. Các
phản ứng kết hợp theo cùng một cơ chế nucleophil giữa axetilen với axeton (giai
đoạn đầu tiên) và với dẫn xuất axyl (giai đoạn thứ 5) được sử dụng để tổng hợp
rượu bậc ba và . Các liên kết bậc ba trong rượu và ( được khử bằng hydro thành liên
kết đôi trên xúc tác palladium – thu được sản phẩm . Phản ứng axyl hóa rượu thành
este và đồng thời biến đổi vị trí nhóm axetonyl của các este đó dưới tác dụng nhiệt,
kèm theo sự loại nhóm COO diễn ra hai lần trong tồn bộ q trình. Xetotrien
(pseudo-ionon) đóng vịng trong mơi trường axit sulfuric thành -ionon . Với sự có
mặt của các tác nhân kiềm β-ionon kết hợp với este của axit cloaxetic thành
clohydrin , chất này sau đó thực hiện phản ứng loại HCl và chúng ta thu được
oxiran . Khi nung nóng trong mơi trường kiềm oxiran bị thuỷ phân kèm theo sự
loại bỏ CO2, mở vịng oxiran và tạo thành aldehit có chứa 14 nguyên tử C. Giai
đoạn cuối cùng bao gồm quá trình tổng hợp rượu có chứa 20 nguyên tử cacbon, là
sự tương tác giữa aldehit và dẫn xuất hữu cơ của dimagiebromua của rượu
vinylaxetilen (quá trình tổng hợp chất này sẽ được nói đến ở phần cuối). Dẫn xuất
của axetilen sau đó được hydro hố thành tetraendiol (14), tiếp theo qua hai bước
cuối cùng là axyl hóa bằng anhydrit của axit axetic (chỉ axyl hóa có rượu bậc một)
và xử lý bằng iot để loại nước chúng ta thu được một hệ liên hợp trans với các liên
kết đôi của phân tử vitamin A ở dạng O-axetat :


21

Rượu thu được qua các giai đoạn từ chất ban đầu là axetilen và
metylvinylxeton thông qua rượu bậc hai, chất này đến lượt nó dưới tác dụng của

axit sulfuric lại chuyển hoặc thành rượu không no bậc 1:

Cũng tồn tại phương pháp khác sử dụng công nghệ sinh học để tổng hợp retiol
từ-caroten sử dụng enzym carotenedehydrogenase.
2.2. Tổng hợp vitamin D

Vitamin nhóm D điều chỉnh q trình trao đổi canxi và photpho, đặc biệt là đối
với giai đoạn phát triển ở trẻ nhỏ. Chúng được dùng trong điều trị các bệnh còi
xương, bệnh osteoporosis, bệnh lao xương v.v. Cholecalciferol (vitamin D3) được
tổng hợp từ cholesterin bằng phản ứng brom hóa nhóm allyl ở vị trí C-8 bởi Nbromsucxinimit, tiếp theo thực hiện phản ứng dehydrobrom hóa hợp chất bằng
bazơ hữu cơ chúng ta thu được dien liên hợp . Tiến hành phản ứng quang hóa mở
vịng (tại vịng B) của hợp chất sẽ thu được vitamin D3 :


22

Chương 3: TỔNG HỢP CÁC DẪN XUẤT THƠM
3.1. Thuốc sát trùng và hoạt chất kiềm chế adrenalin của dãy đồng đẳng
phenol.

Phenol được sử dụng như thuốc sát trùng khi thực hiện phẫu thuật lần đầu tiên
cách đây 130 năm (vào năm 1867). Vì độc tính của nó mà phenol thường được sử
dụng để khử trùng các dụng cụ, quần áo, đồ vải … ở dưới dạng dung dịch loãng (35%). Phenol thu được từ q trình cốc hố than, tách ra từ nhựa than đá bằng cách
xử lý với kiềm và axit. Nó cũng có thể được điều chế bằng phưong pháp nấu nóng
chảy axit benzenesulfonic với kiềm và sau đó tiếp tục xử lý natri phenolat thu được
bằng axit. Nhưng phương pháp cơ bản sử dụng trong công nghiệp để sản xuất
phenol với lượng lớn là oxy hóa pha lỏng isopropylbenzen thành hydroperoxit, hợp
chất này sau đó chuyển hố tiếp dưới tác dụng của axit sulfuric. Chúng ta sẽ thu
được đồng thời hai sản phẩm quan trọng là: phenol và axeton:


Thymol [2-isopropyl-5-metylphenol, ở dạng tinh dầu trong thảo mộc trabresa
(timian, Thymus vulgaris L.)] có độc tính thấp, vì vậy nó khơng chỉ được sử dụng
bên ngồi như khi súc miệng và họng mà còn được sử dụng bên trong như chất sát
trùng khi điều trị các bệnh ở bộ máy tiêu hoá (tiêu chảy, đầy hơi), cũng như chất tẩy
giun.
Tổng hợp thymol từ p-cymol bằng phản ứng sunfo hóa thành axit sulfonoic và
axit này sau đó được nấu chảy cùng với kiềm. Trong một phương pháp khác mcresol được sử dụng như là chất ban đầu, bị axyl hoá rồi sau đó trùng ngưng với
axeton ở nhiệt độ khoảng 3000C. Khi đó sẽ thu được dẫn xuất của stirene , và khi
khử dẫn xuất này chúng ta có thymol :


23

Resorcinol (1,3-dihydroxybenzen) - là chất diệt khuẩn được sử dụng ngoài da để
điều trị bệnh chàm, xeborei, các bệnh nấm da. Hoạt chất này cũng có trong thành
phần của dầu gội đầu. Nó được sản xuất bằng phương pháp xà phịng hóa
mbenzenedisulfonoic.
Phenolphtalein
[purgenum,
1,1-di-(4oxyphenyl)benzodihydrofuran-3-on] – là chất sát trùng nhẹ, nhưng nó lại có tác
dụng nhuận tràng mạnh (thuốc xổ), từ năm 1871 đã được sử dụng khi điều trị bệnh
bí đại tiện mãn tính. Hoạt chất này điều chế bằng phương pháp oxy hóa pha khí
naphtalen trên xúc tác vanadi oxit ở nhiệt độ 450 – 5000C. Naphtalen trong điều
kiện này chuyển hóa thành anhydrit của axit phtalic. Anhydrit này sau đó trùng
ngưng với phenol ở nhiệt độ 1100C trong sự có mặt của axit sulfuric, chúng ta thu
được phenolphtalein :

Một dẫn xuất của hydrocacbon thơm, trong đó nhóm hydroxy được este hóa bởi
aminopropan-1,2-diol, thể hiện tính chất kìm hãm hoạt động của β-adrenalin, với
tác dụng chống cao huyết áp (antihypertensive) và điều trị chứng rối loạn nhịp tim

(antiarithmic). Từ giữa những năm 1960, trong y học đã sử dụng anaprilinum
(propranolol,) để điều trị chứng đau thắt ngực và chứng loạn nhịp. Hợp chất được
tổng hợp trên cơ sở phản ứng trùng ngưng 2-hydroxynaphtalen với 2clometyloxiran trong dung dịch kiềm. Trong cấu tạo của phân tử , vòng oxirane bị
phá vỡ tại liên kết O(1)-C(3) dưới tác dụng của isopropylamin, chất này kết hợp
theo cơ chế nucleophil ở nguyên tử C-3 tạo thành anaprilin:

Một loại dược phẩm khác, hiện đại hơn chống cao huyết áp là bufetolol
(adobiol, được tổng hợp từ pyrocatechin, bằng cách lần lượt O-ankyl hóa rượu


24

tetrahydrofuran thành monoete , và sau đó tương tác với epiclohydrin thành
diete . Chất này dưới tác dụng của tret-butylamin sẽ mở vịng oxiran, và với phản
ứng N-ankyl hóa, chúng ta thu được bufetolol:

Khi đưa một nhóm chức có dược tính tương tự (nhóm rượu aminoglycidylol)
vào nhân dị vịng thiadiazol chúng ta có hoạt chất – thymolol có hoạt tính sinh học
mạnh hơn gấp 10 lần propranolol . Vào những năm 90, thymolol (thimoptic) chiếm
vị trí dẫn đầu trong điều trị viêm mắt (và cả điều trị thiên đầu thống). Nó được điều
chế từ 3-hydroxythiazol bằng những phản ứng tương tự như điều chế bufetolol .
Sản phẩm trung gian được tổng hợp lần lượt bằng phản ứng thế nucleophil một
nguyên tử clo trong phân tử 3,4-diclothiadiazol bởi nhóm morpholin, và nguyên tử
clo thứ 2 - bởi nhóm hydroxyl, sau đó este hố nhóm hydroxyl này bằng
clometyloxiran:

3.2. Dẫn xuất của axit o-hydroxybenzoic. Aspirin
Axit o-hydroxybenzoic (salixilic) là hợp chất có nguồn gốc tự nhiên, tồn tại
dưới dạng este với axit axetic – axit o-axetylsalixilic ở trong hoa của thảo mộc loại
spirei (spiraea ulmaria). Este này đã được dùng trong y học để điều trị chứng đau

thấp khớp từ năm 1874, và là một dược phẩm tổng hợp được sản xuất với quy mô
công nghiệp từ cuối thế kỷ 19 dưới tên gọi aspirin (tiền tố «a» có nghĩa là dược
phẩm này khơng được chiết xuất trực tiếp từ thảo dược spirei, mà là được tổng hợp
bằng con đường hoá học).


25

Aspirin được gọi là biệt dược của thế kỷ 20 và ngày nay nó được sản xuất trên
thế giới với khối lượng hơn 100 nghìn tấn một năm. Chúng ta đã biết về các tính
chất kháng viêm, hạ sốt và giảm đau của hoạt chất này. Đồng thời cũng xác định
được, aspirin cản trở sự hình thành thromboxan (chất làm đơng vón tiểu cầu), nó tỏ
ra có tác dụng dãn thành mạch máu và bắt đầu được sử dụng để phịng, điều trị bệnh
đơng máu và đột quỵ. Các nhà khoa học cho rằng, khả năng chữa bệnh của dược
phẩm này vẫn còn chưa được tận dụng hết. Bên cạnh những hoạt tính đó, aspirin
cịn kích thích màng nhầy của bộ máy tiêu hố, và có thể dẫn đến sự xuất huyết (vì
vậy phải uống thuốc vào lúc no và khơng dùng cho những người có tiền sử lt dạ
dày, hồnh tá tràng). Nó cũng có thể gây ra các phản ứng dị ứng. Trong cơ thể,
aspirin gây ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp prostaglandin (chất này ở một mức độ
nào đó, kiểm sốt q trình tổng hợp thromboxan) và ảnh hưởng tới sự tổng hợp
hoormon histamin (có tác dụng làm dãn thành mạch và làm tăng số lượng tế bào
miễn dịch tới vị trí bị viêm nhiễm; ngồi ra, chất này cịn cản trở q trình sinh tổng
hợp các chất gâ viêm nhiễm).Sơ đồ tổng hợp aspirin dựa trên q trình carboxyl hóa
natri phenolat khi nung nóng dưới áp suất cao. Sản phẩm natri o-salixilat được
chuyển hoá tiếp dưới tác dụng của HCl tạo thành axit salixilic tự do , chất này tiếp
tục bị axetyl hóa bởi anhydrit của axit axetic hoặc keten cho chúng ta aspirin . Khi
tiến hành metyl hố axit bằng metanol chúng ta có este metyl salixilat (salol), một
hoạt chất đã được sử dụng trong điều trị tê thấp, viêm khớp và chứng viêm rễ thần
kinh. Khi xử lý salol trong dung dịch amoniac chúng ta thu được salicylamid – một
trong những dược phẩm có tính chất tương tự aspirin :


Ngày nay, các nhà hóa học đã và đang tiến hành tổng hợp các dẫn xuất khác có
chứa nhóm salixilat. Kết quả đã thu được dược phẩm phluphenizal , loại thuốc này
mạnh hơn aspirin đến 4 lần về tác dụng chống viêm nhưng có ảnh hưởng nhẹ hơn
đối với màng nhầy của bộ máy tiêu hóa. Nó được tổng hợp từ q trình flosulfo-hóa
(tác dụng với axit flosulfuric) dẫn xuất diphenyl thành hợp chất , và sau đó nhóm
SO2 bị loại bỏ khi có mặt của triphenylphosphinrothiflorua. Khi loại bỏ nhóm bảo
vệ benzyl của dẫn xuất flo bằng phương pháp thủy phân chúng ta thu được
phenolat, và tiếp tục cacboxyl hóa theo phương pháp Kolbe sẽ có arylsalixilat .


×