MỤC LỤC
Phần I: MỞ ĐẦU………………………………………………….................Trang 1
Phần II: NỘI DUNG……………………………………………………..…..Trang 2
I. Cơ sở lý luận nguyên tắc tự phê bình và phê bình......……………......…Trang 2
1. Khái niệm nguyên tắc tự phê bình và phê bình………….….………..…...Trang 2
2. Vai trị của ngun tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng…………......Trang 2
3. Tính chất của tự phê bình và phê bình trong Đảng…………... ..………..Trang 3
4. Nội dung, hình thức, phương pháp tự phê bình và phê bình trong
Đảng…………................................................................................ ..………...Trang 4
II.
Những vấn đề đặt ra trong nguyên tắc tự phê bình và phê bình đối với Đảng ta
hiện nay …………………………………………..……………….……….Trang 6
III.
Liên hệ thực tiễn tại Chi bộ Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau…...………………..………….….......... Trang 8 IV.
Trách nhiệm bản thân trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng đối với thực hiện nguyên tắc
tự phê bình và phê bình…...…………………......................... Trang 12
Phần III: KẾT LUẬN…………………………………………………..…. Trang 13
Chủ đề: Trên cơ sở những nội dung đã được giới thiệu về nguyên tắc tự phê bình và
phê bình trong môn học Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí hãy chỉ rõ
những vấn đề đang đặt ra từ nguyên tắc ấy đối với Đảng ta hiện nay. Liên hệ thực trạng
ở tổ chức cơ sở đảng đồng chí công tác và đề ra những giải pháp cụ thể để nâng cao
chất lượng, hiệu quả việc thực hiện nguyên tắc tự
phê bình và phê bình trong chi bộ của mình.
BÀI LÀM
Phần I
MỞ ĐẦU
Lênin từng khẳng định rằng: "Tất cả những Đảng cách mạng đã bị tiêu vong
cho tới nay, đều bị tiêu vong vì tự cao, tự đại, vì khơng biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức
mạnh của mình, và vì sợ sệt khơng dám nói lên những nhược điểm của mình”. Có lẽ vì
vậy mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến tự phê bình và phê bình. Trong
bài giảng đầu tiên cho lớp cách mạng ở Quảng Châu, Trung Quốc từ năm 1927 với tiêu
đề "Tư cách một người cách mệnh", lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người đích thân soạn
bài và đứng lớp. Trong bài giảng này, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nêu ra 23 tư cách của
một người cách mạng, trong đó có nội dung là yêu cầu mỗi người cách mạng phải “cả
quyết sửa lỗi mình”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết cuốn “Sửa đổi lối làm việc”, ngay
trong mục đầu tiên của cuốn sách, Người đã bàn về vấn đề phê bình và sửa chữa.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng để bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững
mạnh, giữ vững vai trị lãnh đạo. Người căn dặn: “Muốn đồn kết chặt chẽ trong Đảng,
ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng tự phê bình và phê bình”; “Trong Đảng thực hành
dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt
nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”. Với tầm quan trọng
đó, em xin phép chọn chủ đề “Trên cơ sở những nội dung đã được giới thiệu về nguyên
tắc tự phê bình và phê bình trong môn học Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng
chí hãy chỉ rõ những vấn đề đang đặt ra từ nguyên tắc ấy đối với Đảng ta hiện nay. Liên
hệ thực trạng ở tổ chức cơ sở đảng đồng chí cơng tác và đề ra những giải pháp cụ thể
để nâng cao chất lượng, hiệu quả việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình
trong chi bộ của mình” làm bài thu hoạch hết mơn học Xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Phần II
NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận nguyên tắc tự phê bình và phê bình
1. Khái niệm nguyên tắc tự phê bình và phê bình
Từ tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự phê bình, phê bình và thực tiễn cho
thấy: Tự phê bình và phê bình trong Đảng là hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên
chủ động chỉ ra ưu đỉểm để phát huy và vạch rõ khuyết điểm để khẳc phục, nhằm làm
cho đảng viên và tổ chức đảng luôn giữ vững vai trò người chiến sĩ tiên phong, người
lãnh đạo.
Khi thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng chúng ta cần chú
ý một số nội dung:
Thứ nhất, chủ thể và đối tượng của tự phê bình và phê bình trong Đảng là các tổ
chức đảng và đảng viên.
1
Thứ hai, tự phê bình và phê bình diễn ra trong phạm vi sinh hoạt đảng. Chỉ trong
sinh hoạt đảng thì đảng viên mới được lấy tư cách là đảng viên để phê bình đồng chí
của mình và phê bình các tổ chức của Đảng. Ngoài phạm vi sinh hoạt đảng thì khơng
được nhân danh đảng viên để phê bình đồng chí và tổ chức đảng của mình.
Thứ ba, tự phê bình và phê bình nhằm giáo dục, rèn luyện đảng viên, làm cho
bản thân và đồng chí của mình khơng ngừng tiến bộ; phê bình khơng phải để nói xấu;
đả kích, hạ uy tín của đồng chí mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Mục đích phê
bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ”. Tự phê bình và phê bình làm cho
nội bộ tổ chức đảng mạnh lên, đoàn kết thống nhất được củng cố, chống chia rẽ, bè
phái.
2. Vai trò của nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng
Trong thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng cần thực hiện
đúng bốn vai trò sau đây:
Một là, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng Cộng sản: Trong
quá trình xây dựng Đảng và lãnh đạo cách mạng, Đảng ln coi trọng tự phê bình và
phê bình. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự
kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong
Đảng sẽ khơng có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khỏe vô cùng”. Đảng Cộng sản Việt Nam
yêu cầu: “Phải làm cho vũ khí tự phê bình và phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên,
thật sự trở thành vũ khí sắc bén của tồn Đảng, làm cho tự phê bình và phê bình thật sự
là một quy luật phát triển của Đảng”.
Hai là, tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để giáo dục, rèn luyện cán bộ,
đảng viên: Thông qua tự phê bình và phê bình mới có thể chỉ ra những nguyên nhân
dẫn tới sai lầm, khuyết điểm và đề ra biện pháp khắc phục, qua đó, giáo dục, rèn luyện
nâng cao phẩm chất, năng lực công tác của cán bộ, đảng viên để họ trở thành những
cán bộ, đảng viên tốt, đồng thời giúp cho những cán bộ, đảng viên khác tránh những sai
lầm, khuyết điểm tương tự. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong cơng tác, trong tranh
đấu, trong huấn luyện, các đảng viên, các cán bộ, cần phải ln ln tự hỏi mình, tự
kiểm điểm mình và đồng chí mình. Ln ln dùng và khéo dùng cách phê bình và tự
phê bình, thì khuyết điểm nhất định hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên và Đảng ta
nhất định thắng lợi”.
2
Ba là, tự phê bình và phê bình là biện pháp tích cực để củng cố và tăng cường
đồn kết thống nhất trong Đảng: Nhờ tự phê bình và phê bình nghiêm túc, đúng đắn mà
những mâu thuẫn, bất đồng, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân được giải quyết có
lý, có tình, khơng để tích tụ lại từ nhỏ thành lớn, phá hoại khối đoàn kết thống nhất của
Đảng, khơng để những người thiếu thiện chí với Đảng lợi dụng những bất đồng, những
mâu thuẫn đó gây chia rẽ Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong Đảng thực
hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách
tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất của Đảng”.
Bốn là, tự phê bình và phê bình là tiêu chí đánh giá một chính đảng, một tổ chức
đảng, một cán bộ, đảng viên: Trong quá trình hoạt động của Đảng, nhờ thực hiện
nghiêm túc tự phê bình và phê bình, Đảng ta đã sửa chữa kịp thời nhiều sai lầm, khuyết
điểm, làm cho Đảng ngày càng lớn mạnh, vượt qua những thử thách quyết liệt, đưa
cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tự phê bình và phê bình
được thực hiện ở tất cả các tổ chức đảng và mỗi đảng viên phải có trách nhiệm trong
đấu tranh phê bình và nghiêm túc thực hiện tự phê bình. Vì vậy, trong các quy định của
Đảng, tự phê bình ln là một trong những nội dung quan trọng trong hoạt động của tổ
chức đảng và là một trong những tiêu chí để đánh giá, xếp loại tổ chức đảng, đảng viên.
3. Tính chất của tự phê bình và phê bình trong Đảng
Tự phê bình và phê bình trong Đảng có bốn tính chất, được thể hiện:
Một là, tính đảng: Tính đảng của tự phê bình và phê bình là trên cơ sở chủ
nghĩa Mác-Lênin, Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, trên cơ sở
các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng để tự phê bình và phê bình; phải đấu tranh
không khoan nhượng với những tư tưởng và hành động sai trái; khơng chấp nhận tính
thụ động, bàng quan với những sai lầm, khuyết điểm của bản thân và của đồng chí
mình. Tính đảng của tự phê bình và phê bình cịn thể hiện ở việc tự phê bình và phê
bình ngay khi thấy có những biểu hiện lệch lạc; phải đối chiếu với yêu cầu tư cách, tiêu
chuẩn đảng viên, cán bộ và những quy định của Đảng để tự phê bình và phê bình,
khơng đợi đến khi sai lầm, khuyết điểm đã rõ ràng, có bằng chứng pháp lý mới tiến
hành tự phê bình và phê bình.
Hai là, tính giáo dục: Tự phê bình và phê bình của Đảng được thực hiện đúng
đắn, nghiêm túc, tự bản thân nó đã chứa đựng tính giáo dục sâu sắc. Tự phê bình và phê
bình của Đảng nhằm mục đích chính là củng cố Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và
3
sức chiến đấu của Đảng, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, rèn luyện phẩm
chất, đạo đức, phong cách cơng tác, phát triển trí tuệ, nâng cao năng lực của cán bộ,
đảng viên... Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: tự phê bình và phê bình “một mặt là để sửa
chữa cho nhau. Một mặt là để khuyến khích nhau, bắt chước nhau”; “để dạy dỗ đảng
viên, dạy dỗ quần chúng”.
Ba là, tính khách quan, trung thực, chân thành và cơng khai: Theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh, khi phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà,
không nể nang, không thêm bớt; phải vạch rõ cả ưu và khuyết điểm, phải tôn trọng thực
tế khách quan, không vội vàng quy kết cho đồng chí mình. Tự phê binh và phê bình
cơng khai có nghĩa là cơng khai nói rõ những ưu điểm, khuyết điểm của mình và của
đồng chí mình, phân tích, xem xét, đánh giá mọi công việc của tổ chức đảng trước mặt
cán bộ, đảng viên và tiến hành trong tổ chức đảng. Khơng phê bình trước mặt mà nói
sau lưng, đó là việc làm khơng trong sáng.
Bốn là, tính cụ thể, thiết thực và kịp thời: Tự phê bình và phê bình cụ thể, thiết
thực là phải có nội dung, có địa chỉ, phải chỉ ra được đúng, sai, nguyên nhân và cách
khắc phục, phải gắn với điều kiện cụ thể của từng tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng
viên, gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, với chức trách, nhiệm vụ của từng cán
bộ, đảng viên. Tính kịp thời của tự phê bình và phê bình tức là phải tự phê bình và phê
bình ngay những sai lầm, khuyết điểm của cán bộ, đang viên và của tổ chức đảng,
khơng để chúng tích tụ lại, trầm trọng thêm, ngăn chặn không để chúng tái diễn ở cán
bộ, đảng viên và tổ chức đảng khác.
4. Nội dung, hình thức, phương pháp tự phê bình và phê bình trong Đảng
*
Về nội dung: Đối với tổ chức đảng, cần tập trung tự phê bình và phê bình 3 vấn đề:
nhận thức về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
việc chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng liên quan đến chỉ đạo tiến hành
các mặt công tác của đảng bộ và địa phương; việc quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ
cán bộ, đảng viên của đảng bộ, chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực.
Đối với đảng viên, cần tập trung tự phê bình và phê bình trên các nội dung chủ
yếu về tư tưởng chính trị và việc chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; rèn luyện
phẩm chất đạo đức, lối sống, chống quan liêu tham nhũng, tiêu cực; giữ gìn đồn kết
4
thống nhất trong tập thể tổ chức đảng, giữa Đảng với nhân dân và thái độ phục vụ nhân
dân; vận động gia đình gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của cơ quan, địa phương và đơn vị.
*
Về hình thức: Gồm tự phê bình và phê bình của cấp trên đối với cấp dưới, cấp dưới phê
bình cấp trên; cán bộ, đảng viên phê bình cán bộ lãnh đạo, quản lý trong tổ chức đảng,
cơ quan, đơn vị và phê bình cùng cấp, ... Đảng yêu cầu: “Các tổ chức của Đảng từ
trung ương đến cơ sở và mọi đảng viên phải nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, cấp
trên phải tự phê bình trước cấp dưới và tổ chức tốt việc phê bình từ dưới lên. Tự phê
bình và phê bình phải thành thật, thẳng thắn và nhằm mục đích hồn thành nhiệm vụ,
xây dựng tổ chức, giúp đỡ nhau tiến bộ. Đảng nghiêm cấm những hành động trấn áp
phê bình, trù dập cá nhân và có thái độ nghiêm khắc đối với bất cứ cán bộ, đảng viên
và tổ chức nào phạm các khuyết điểm ấy”. Tự phê bình và phê bình được thực hiện
bằng lời nói hoặc văn bản trong: hội nghị chi bộ, đảng bộ, đại hội đảng các cấp; các đợt
sinh hoạt chính trị tập trung; các báo cáo; qua các phương tiện thông tin đại chúng.
*
Về phương pháp: phương pháp tự phê bình và phê bình phải cứng rắn về nguyên tắc,
mềm dẻo và khéo léo về cách thức tiến hành, phải thể hiện rõ những đặc tính cơ bản
của tự phê bình và phê bình của Đảng. Việc khéo léo sử dụng tự phê bình và phê bình
sẽ làm tăng chất lượng của nó. Phê bình người nào, khi nào, nói những gì, bằng cách
nào, nói đến mức độ nào... phải biết xử thế một cách rất tế nhị, không được làm cho họ
khó chịu và nản lịng thì họ mới dễ tiếp thu và sửa chữa khuyết điểm nhanh chóng.
Ngược lại, sử dụng khơng khéo tự phê bình và phê bình thì hiệu quả thu được thấp,
thậm chí cịn gây tác hại. Nếu né tránh lựa chiều khi tự phê bình và phê bình tác hại sẽ
lớn hơn. Đối với tự phê bình và phê bình lạị càng khơng nên dùng phương pháp hành
chính, mệnh lệnh. Nếu cứ dùng phương pháp đó thì tự phê bình và phê bình thường
đem lại hiệu quả thấp, nhiều khi còn phản tác dụng.
II. Những vấn đề đặt ra trong nguyên tắc tự phê bình và phê bình đối với Đảng
ta hiện nay
Trãi qua 91 năm xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam ln khẳng
định vị trí tiên phong trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua những
khó khăn, gian khổ và thách thức để giành được độc lập, chủ quyền thống nhất toàn
vẹn lãnh thổ đất nước, tự do, ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân ta, nổi bật đạt được qua
những ưu điểm: Đảng ta luôn thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình, khi có sai
5
lầm Đảng đều công khai thừa nhận và đề ra biện pháp sửa chữa; từ sau Đại hội VI đến
nay, việc tự phê bình và phê bình hàng năm được Đảng ta coi trọng, duy trì đều đặn,
thu được những kết quả quan trọng, kết hợp với việc phân loại tổ chức cơ sở đảng và
đảng viên, tổng kết cuối năm và xây dựng mục tiêu, phương hướng hoạt động thời gian
tới; Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các Đảng bộ tỉnh, thành phố, các tổ chức cơ sở đảng đã
gương mẫu, nghiêm túc thực hiện kiểm điểm, tự phê bình và phê bình theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII; nhiều chi bộ đã đưa việc tự phê bình và phê
bình , học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào nội dung
sinh hoạt hàng tháng,…..đã góp phần đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả tình trạng suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người
đứng đầu các tổ chức, cơ quan, đơn vị; xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị
vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trách nhiệm và động cơ đúng đắn, tiên
phong, gương mẫu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao,v.v.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả, ưu điểm đạt được; trong thực hiện nguyên
tắc tự phê bình và phê bình của Đảng ta thời gian qua còn những hạn chế, khuyết điểm
cơ bản như: Việc tự phê bình và phê bình trong Đảng vẫn cịn yếu; “Trong tự phê bình
và phê bình, tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm vẫn còn khá phổ biến, một số
cán bộ, đảng viên chưa tự giác nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của
mình trong công việc được giao phụ trách. Trên một số vấn đề, qua kiểm điểm của cấp
ủy, tổ chức đảng các cấp từ Trung ương đến cơ sở vẫn chưa làm rõ thực chất, mức độ
nghiêm trọng của tình hình, xảy ra ở đâu, ai chịu trách nhiệm, như tình trạng suy thối
tư tưởng chính trị, đạo đức, lơi sống; tình trạng chạy chức, chạy tội, tham nhũng, lợi ích
nhóm,...”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bên cạnh việc ghi nhận
những tiến bộ trong thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình, vẫn đánh giá: “Việc
đấu tranh với các biểu hiện lệch lạc về đạo đức, lối sống chưa mạnh mẽ. Tự phê bình và
phê bình ở khơng ít nơi cịn hình thức; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm cịn
diễn ra ở nhiều nơi; một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và
trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ được giao”.
Trên cơ sở những ưu điểm và hạn chế nêu trên, bản thân nhận thấy những vấn đề
đặt ra từ nguyên tắc tự phê bình và phê bình đối với Đảng ta hiện nay, cụ
thể:
6
Thứ nhất, thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng là khâu mấu chốt nhất
nhưng cũng có nhiều khó khăn nhất. Bởi vì, nó địi hỏi mỗi người phải tự phân tích, mổ
xẻ những ưu, khuyết điểm của chính bản thân mình; phải nhận xét, đánh giá về người
khác. Nếu không thật tự giác, chân thành, công tâm thì rất dễ chủ quan, thường chỉ thấy
ưu điểm, mặt mạnh của mình nhiều hơn người khác; trong khi chỉ thấy khuyết điểm,
mặt yếu của người khác nhiều hơn mình. Nếu khơng hết lịng vì sự nghiệp chung,
khơng có dũng khí, khơng thật sự cầu thị thì khơng dám nói hết khuyết điểm của mình
và khơng dám phê bình người khác, nhất là phê bình cấp trên. Thái độ nể nang, hữu
khuynh “im lặng là vàng”, hoặc thái độ cực đoan, muốn lợi dụng phê bình để đả kích
người khác, gây rối nội bộ, đều là không đúng. Tự phê bình và phê bình địi hỏi mỗi
người phải có tinh thần tự giác rất cao, có tình thương u đồng chí thật sự và phải có
dũng khí đấu tranh thẳng thắn, chân tình”.
Thứ hai, từ kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, để tự phê bình và phê bình thực chất
và hiệu quả, điều rất quyết định chính là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là cán
bộ chủ chốt phải gương mẫu, đi đầu trong thực hiện nguyên tắc này. Chỉ khi đội ngũ
cán bộ, những người đứng đầu nhận thức đúng và dũng cảm nêu gương trong tự phê
bình và phê bình thì tổ chức ấy, tập thể ấy mới có khơng khí dân chủ, biết và dám tự
phê bình và phê bình. Trong sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy phải có thái độ nghiêm
túc kiểm điểm, đánh giá đúng ưu, nhược điểm của các cấp ủy viên, các đảng viên, nhất
là các đồng chí lãnh đạo chủ chốt để kịp thời sửa chữa sai sót, yếu kém, đồng thời là
“nói phải đi đơi với làm”, nghĩa là nghiêm túc sửa chữa ngay sau khi tự phê bình và
phê bình.
Thứ ba, việc thực hiện các nội dung, quy trình tự phê bình và phê bình ở một số
tổ chức đảng chưa thực sự nghiêm túc, ảnh hưởng đến chất lượng tự phê bình và phê
bình. Một số cấp ủy, trước hết là đồng chí bí thư, thường trực cấp ủy chưa coi trọng và
thiếu kiên quyết trong chỉ đạo thực hiện tự phê bình và phê bình; chưa nhìn nhận đúng
mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình trước những hạn chế, khuyết điểm của tập
thể. Cịn có những “vùng cấm”, “vùng tránh” trong đấu tranh phê bình hoặc lợi dụng
đấu tranh phê bình để “hạ bệ”, “thanh trừng” lẫn nhau, gây chia rẽ, bè phái, mất đồn
kết. Có tình trạng, tổ chức đảng, người có nhiều ưu điểm chưa được động viên khen
thưởng thỏa đáng; trái lại, người nhiều khuyết điểm nhưng vẫn được đánh giá là hoàn
7
thành xuất sắc nhiệm vụ, được khen thưởng, đưa vào quy hoạch cấp ủy, các chức danh
lãnh đạo, quản lý, được bổ nhiệm, luân chuyển hay giới thiệu ứng cử chức vụ cao hơn.
Thứ tư, tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn cịn tình
trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận
khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong cơng việc được giao”. Nhận diện những
biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị, nghị quyết cũng nêu: “Trong tự phê bình cịn
giấu giếm, khơng dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn,
khơng tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy
đúng khơng bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lịng
nhau hoặc vu khống, bơi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân
khơng trong sáng
Thứ năm, tình trạng lợi dụng phê bình, biến phê bình thành những cuộc tranh
cãi, nặng lời với nhau, vi phạm nhân phẩm và thành cuộc trả thù cá nhân.
Thứ sáu, nhiều trường hợp, phê bình khơng chỉ rõ địa chỉ của những sai lầm
khuyết điểm, không tập trung vào những vấn đề chủ yếu thuộc chức trách, nhiệm vụ,
phẩm chất, đạo đức, lối sống, phong cách làm việc mà thường tập trung vào những
điểm thứ yếu về cá tính, thói quen.
III. Liên hệ thực tiễn tại Chi bộ Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau
Chi bộ Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện Đầm Dơi,
tỉnh Cà Mau (sau đây gọi tắt là Chi bộ Văn phòng) là Chi bộ cơ sở thuộc sự quản lý của
Huyện ủy Đầm Dơi; chi bộ có 29 đảng viên (02 đảng viên dự bị), trong đó có 10 đảng
viên là nữ; đặc thù của Chi bộ Văn phịng là có sự tham gia sinh hoạt của đồng chí Bí
thư Huyện ủy - Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, 02 đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ
Huyện ủy (01 đồng chí Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện, 01 đồng chí Phó Chủ
tịch Thường trực Ủy ban nhân dân huyện) và 02 đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành
Đảng bộ huyện (Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện); Chi ủy gồm 05 đồng chí (01 Bí
thư, 01 Phó Bí thư và 03 Chi ủy viên); Đảng viên Chi bộ có 26/29 đồng chí có trình độ
từ Đại học trở lên; 10 đồng chí có trình độ Cao cấp lý luận chính trị, 01 đồng chí đang
học chương trình Cao cấp lý luận chính trị, 06 đồng chí trình độ Trung cấp lý luận
chính trị; có 02 đảng viên là dân tộc Khmer (01 cán bộ lãnh đạo); đảng viên cao tuổi
nhất là 55 tuổi, nhỏ nhất là 29 tuổi. Nhìn chung, các đảng viên Chi bộ đều có năng lực
8
trình độ, phẩm chất đạo đức tốt để đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của
Chi bộ Văn phịng và nhiệm vụ chun mơn Thường trực Hội đồng nhân dân, Thường
trực Ủy ban nhân dân, Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện.
Với vai trò, nhiệm vụ là Chi ủy viên Chi bộ, Phó Chánh Văn phịng Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau; bản thân nhận thấy việc
thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình tại Chi bộ Văn phịng trong thời gian qua
có những ưu điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, thực hiện nghiêm chỉ đạo của Huyện ủy, Chi bộ Văn phịng đã triển
khai việc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt chi bộ đảm bảo đúng quan điểm chỉ
đạo, quy trình, nguyên tắc. Chi bộ thường xuyên giáo dục cho đảng viên trong chi bộ
thấy rõ sự cần thiết phải tăng cường nâng cao tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê
bình trong sinh hoạt chi bộ để mọi người thống nhất tư tưởng và hành động, khắc phục
những biểu hiện coi nhẹ đấu tranh tự phê bình và phê bình.
Thứ hai, Chi bộ Văn phịng “tập trung làm rõ trách nhiệm cá nhân” trong tự phê
bình và phê bình. Việc làm rõ trách nhiệm cá nhân trong quá trình tự phê bình và phê
bình đã khắc phục khuyết điểm trên từng công việc và lĩnh vực mà mỗi đảng viên được
chi bộ, đảng bộ, cơ quan giao. Thực hiện “nêu gương tự phê bình và phê bình”, chi bộ
khơng phê bình chung chung, x xoa, chiếu lệ.
Thứ ba, Chi bộ Văn phòng đã tổ chức tự phê bình và phê bình trong mỗi kỳ
sinh hoạt, nội dung sinh hoạt có tính cụ thể, thiết thực hướng vào việc kiểm điểm, phân
tích, đánh giá, phê phán những vấn đề cấp bách trước mắt của chi bộ và cán bộ, đảng
viên, trước hết là hướng vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, việc thực hiện chức
trách, nhiệm vụ và việc tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất năng lực, phong cách làm việc
của cán bộ, đảng viên trong chi bộ. Sau khi kiểm điểm phê bình làm rõ trách nhiệm của
cá nhân, chi bộ đã giao nhiệm vụ khắc phục những hạn chế khuyết điểm đối với đảng
viên đồng thời phân công cán bộ, đảng viên theo dõi, giám sát việc khắc phục những
hạn chế của đảng viên báo cáo chi bộ vào các kỳ sinh hoạt chi bộ lần sau. Phê bình và
tự phê bình được tiến hành một cách kịp thời nên những hạn chế, khuyết điểm được
khắc phục không để tái diễn, kéo dài, do đó đã khích lệ các đảng viên trong chi bộ đã
phát huy được tính chủ động, mạnh dạn đóng góp ý kiến, phê bình sự lãnh đạo của chi
bộ, của Chi uỷ cũng như tự phê bình và phê bình lẫn nhau một cách rất thẳng thắn,
9
mang tính xây dựng, giúp nhau cùng tiến bộ trên cơ sở đó hồn thành các mục tiêu
nhiệm vụ chi bộ đã đề ra.
Thứ tư, trong sinh hoạt chi bộ, Bí thư chi bộ đã nghiêm túc, thẳng thắn chỉ ra
những ưu, khuyết điểm của từng đảng viên, đồng thời phát huy ý thức tự giác, dân chủ
để đảng viên tham gia đóng góp ý kiến. Qua kiểm điểm định kỳ, hàng năm, ý thức
trách nhiệm của từng cán bộ, đảng viên trong tự phê bình và phê bình được nâng lên.
Vì vậy, tính chiến đấu và bản lĩnh chính trị của mỗi đảng viên trong chi bộ được nâng
cao.
Tuy nhiên, cơng tác phê bình và tự phê bình trong thời gian qua ở Chi bộ Văn
phòng vẫn còn những tồn tại, hạn chế như: một số ít Đảng viên cịn nể nang ngại va
chạm, ít phát biểu ý kiến trong sinh hoạt chị bộ khá phổ biến (việc phát biếu ý kiến chỉ
tập trung vào đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, đảng viên lớn tuổi, cịn một số đảng viên trẻ
rất ít phát biểu trong các kỳ sinh hoạt chi bộ); qua đó cho thấy tinh thần đấu tranh phê
bình và tự phê bình của đảng viên cịn hạn chế, chưa nêu cao tính xây dựng, tính chiến
đấu của người đảng viên. Nguyên nhân của hạn chế nêu trên là do tư tưởng “ngại va
chạm”, tính chủ động, tinh thần trách nhiệm, tinh thần tự phê bình và phê bình của một
số đảng viên chưa cao.
Những hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do nhận thức
của một số ít đảng viên chưa đầy đủ, tư tưởng “ngại va chạm”, tính chủ động, tinh thần
trách nhiệm, tinh thần tự phê bình và phê bình của một số ít đảng viên chưa cao; Chi bộ
đơi lúc thiếu kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện nguyên tắc phê bình và phê bình.
Để nâng cao tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt chi bộ
Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, với
vai trị, nhiệm vụ là Chi ủy viên - Phó Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân huyện, bản thân đề xuất Chi bộ Văn phòng nghiên cứu, cần làm tốt những nội
dung sau:
Một là, tiếp tục triển khai quán triệt và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung
ương 4 khoá XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về
10
đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo
Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị.
Hai là, chi bộ, chi uỷ cần quan tâm chỉ đạo các đồng chí đảng viên nghiên cứu,
học tập để hiểu đầy đủ, sâu sắc nội dung ý nghĩa của tinh thần đấu tranh tự phê bình và
phê bình trong Đảng, giúp đỡ đảng viên nâng cao bản lĩnh chính trị trong sinh hoạt
Đảng, trong đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, đồng thời tạo cho đảng viên trong
chi bộ có ý thức, nghiêm túc, tự giác trong tự phê bình và phê bình.
Ba là, đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt chi bộ; thực hiện nền nếp, duy trì
thường xuyên việc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt chi bộ. Trong đó Bí thư, Phó
Bí thư, các Chi ủy viên giữ vai trò tiêu biểu, gương mẫu trong thực hiện đấu tranh tự
phê bình và phê bình, các đảng viên chủ động tích cực trong tham gia phát biểu ý kiến
tại các buổi sinh hoạt. Cán bộ, đảng viên thuộc Chi bộ Văn phòng là bộ phận tham mưu
giúp Thường trực Hội đồng nhân dân, Thường trực Ủy ban nhân dân huyện trong công
tác chỉ đạo, điều phối, theo dõi, đôn đốc, tổng hợp hoạt động của các cơ quan, đơn vị
thuộc phạm vi quản lý theo quy chế làm việc, do vậy cần nâng cao ý thức, sự gương
mẫu trong việc duy trì nề nếp sinh hoạt, thời gian làm việc theo đúng nội quy, quy chế
làm việc làm gương cho các cơ quan, đơn vị khác học tập tránh tình trạng đi muộn, về
sớm vi phạm nội quy, quy chế làm việc đã đề ra.
Bốn là, đề ra những chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp xây dựng chi bộ trong
sạch, vững mạnh gắn với nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Chi bộ và đội
ngũ đảng viên. Với trách nhiệm tham mưu Thường trực Hội đồng nhân dân, Thường
trực Ủy ban nhân dân huyện, mỗi đảng viên thuộc chi bộ nêu cao vai trị đảng viên gắn
với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị; trong thực hiện nhiệm vụ, khi phát hiện những
sai sót của các đơn vị, kịp thời tham mưu cấp trên nhắc nhở và xử lý theo quy định;
gương mẫu, trung thực, tự giác trong kê khai tài sản thu nhập cá nhân; tuyên truyền đấu
tranh mạnh mẽ chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác,
định kỳ có báo cáo theo quy định.
Năm là, làm tốt công tác khen thưởng, kỷ luật đảng viên; gắn công tác khen
thưởng với việc đánh giá thực hiện nhiệm vụ chính trị hàng năm nhằm kịp thời khích lệ
đảng viên hồn thành tốt nhiệm vụ chính trị của đơn vị; đồng thời, xử lý nghiêm, kịp
thời những đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước làm gương cho
các đảng viên khác.
11
Sáu là, mỗi đảng viên phải khắc phục tâm lý tự ti, hoặc sợ bị trả thù, trù dập của
người mình phê bình, nhất là đối với lãnh đạo, cán bộ chủ chốt của đơn vị. Bản thân
phải chủ động tự phê bình, khơng được giấu giếm thiếu sót, khuyết điểm. Đồng thời, có
thái độ tiếp thu phê bình đúng đắn; trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao, do
những tác động chủ quan, khách quan có thể làm đảng viên chưa hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao, thậm chí mắc sai lầm, khuyết điểm, nhưng khi tiếp phê bình phải có thái
độ chân thành, cầu thị nhận và sửa chữa khuyết điểm.
Bảy là, gắn tự phê bình và phê bình với cơng tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của
Đảng. Tự phê bình và phê bình cần kết hợp chặt chẽ với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ
luật của Đảng. Tự phê bình và phê bình là một khâu của công tác kiểm tra, giám sát, là
một trong những phương pháp cơ bản khi tiến hành kiểm tra, giám sát. Tự phê bình và
phê bình tốt sẽ góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả của cơng tác kiểm tra, giám sát.
Ngược lại, không làm tốt tự phê bình và phê bình thì cơng tác kiểm tra, giám sát sẽ
mang tính hình thức, khơng mang lại hiệu quả thiết thực.
IV. Trách nhiệm bản thân trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đối với
thực hiện ngun tắc tự phê bình và phê bình
Với vai trị, nhiệm vụ là Chi ủy viên - Phó Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, bản thân nhận thấy trách nhiệm của
mình trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đối với nguyên tắc tự phê bình và
phê bình với những nội dung cụ thể sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh;
thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI về “Một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021
của Bộ Chính trị, nhất là tư tưởng về tự phê bình và phê bình. Thực hiện tốt Nghị quyết
35-NQ/TW để tự soi rọi lại mình, nâng cao nhận thức trong nhận diện và đấu tranh,
ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Thứ hai, tích cực học tập, nghiên cứu, nâng cao năng lực, trình độ, phẩm chất
đạo đức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Chi bộ Văn
12
phịng; bản thân tự soi lại mình thường xun, tự mình nhận ra những sai lầm khuyết
điểm của mình để khắc phục, để tiến bộ không ngừn như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng nói, “người đời ai cũng có khuyết điểm, có làm thì có sai lầm”; vấn đề là khơng sợ
khuyết điểm, dám nhìn ra và thừa nhận khuyết điểm là dám khẳng định mình, là có thể
vượt qua khuyết điểm để tiến bộ không ngừng; bản thân luôn luôn cầu thị, trân trọng
lắng nghe và tiếp thu những ý kiến đóng góp, phê bình của các đảng viên Chi bộ để
ngày càng hoàn thiện bản thân; đối với các đồng chí đảng viên, khi bản thân có ý kiến
đóng góp, phê bình sẽ trên tinh thần phát biểu xây dựng, đúng thực chất nhằm giúp
đồng chí mình ngày càng tiến bộ.
Thứ ba, cùng với các đồng chí trong Chi ủy, bản thân ln nêu cao tính gương
mẫu, thể hiện trách nhiệm của người đi trước, tham gia vào việc giáo dục, rèn luyện,
bồi dưỡng, hướng dẫn, giúp đỡ đội ngũ đảng viên trẻ, để xứng đáng là những người kế
tục sự nghiệp của các thế hệ đảng viên đi trước, góp phần xây dựng Chi bộ Văn phòng
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau ngày càng trong
sạch, vững mạnh, tiêu biểu./.
Phần III
KẾT LUẬN
Đối với từng tổ chức cơ sở đảng, tự phê bình và phê bình có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
đảng, giữ gìn phẩm chất, tư cách đảng viên, nâng cao uy tín của Đảng. Tự phê bình và
phê bình là nguyên tắc quan trọng nhất để xây dựng, củng đoàn kết, thống nhất trong
Đảng. Do vậy trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay cơng tác tự phê bình và phê
bình là việc làm khơng thể thiếu nó bao trùm lên tất cả trong xây dựng và hoạt động
Của đảng.
Việc thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình sẽ giúp tổ chức cơ sở
đảng, giúp mỗi đảng viên nhận rõ ưu, khuyết điểm của mình và chỉ ra ưu khuyết điểm
của đồng chí mình, cùng nhau sửa đổi để tốt hơn. Mỗi đảng viên tốt sẽ xây dựng thành
chi bộ tốt, các chi bộ tốt sẽ giúp đảng bộ tốt, cứ như vậy thì Đảng sẽ trong sạch, vững
mạnh. Tự phê bình và phê bình là một trong 05 nguyên tắc trong công tác xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam. Nếu tất cả đảng viên học, hiểu và thực hành đúng như những
13
nội dung căn bản của nguyên tắc tự phê bình và phê bình sẽ góp phần quan trọng cho
việc xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
---------1.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Xây dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam (Dùng cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị), Nxb.Lý luận chính trị,
H.2021.
2.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII,
Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021.
3.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb.Chính trị
quốc gia Sự thật, H.2017.
4.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Tồn tập; Nxb.Chính trị quốc gia Sự
thật, H.2001.
5.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011
6.
Nhiều tác giả: 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam, Nxb.Chính trị quốc gia
Sự thật, H.2015.
6.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2012.
14
7.
Báo cáo Chính trị Chi bộ Văn phịng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
huyện nhiệm kỳ 2020 – 2025;
8.
Các bài viết trong Tạp chí Cộng sản Việt Nam và các hồ sơ, tài liệu, bài viết có
liên quan.
15