Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG HÌNH THÁI KIẾN TRÚC CÔNG CỘNG PHỤC VỤ DU LỊCH TRỤC CẢNH QUAN BỜ SÔNG HƯƠNG THÀNH PHỐ HUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.19 MB, 51 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA KIẾN TRÚC
-----o0o-----

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ
(TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC)
NĂM 2020

Tên đề tài:

PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG HÌNH THÁI KIẾN TRÚC
CƠNG CỘNG PHỤC VỤ DU LỊCH TRỤC CẢNH QUAN BỜ
SÔNG HƯƠNG THÀNH PHỐ HUẾ

Chủ nhiệm đề tài

: Nguyễn Phong Cảnh

Thành viên tham gia: Nguyễn Văn Thái
Nguyễn Thị Minh Xuân

Thừa Thiên Huế, ngày 28 tháng 5 năm 2021


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
I. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI..................................................................... 1
II. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI............................................................................. 2
III. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI................................................................................................ 3


VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU........................................................................... 3
V. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU........................................................... 4
VI. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.................................................................................... 4
B. NỘI DUNG.............................................................................................................. 5
CHƯƠNG1: TỔNG QUAN KTCC TRỤC CẢNH QUAN BỜ SƠNG HƯƠNG
THÀNH PHỐ HUẾ....................................................................................................... 5
1.1. Lịch sử dịng sơng Hương và sự hình thành trục cảnh quan hai bờ sơng Hương....5
1.2. Các thể loại cơng trình KTCC tiêu biểu trục cảnh quan hai bờ sông Hương..........9
1.2.1. Kinh thành, Hoàng thành và Tử cấm thành.......................................................... 9
1.2.2. Kỳ Đài, Phu Văn Lâu, Nghênh Lương Đình, Đình Thương Bạc.........................9
1.2.3. Chùa, đền thờ, miếu thờ..................................................................................... 12
1.2.4. Hệ thống các Lăng Vua...................................................................................... 14
1.2.5. Nhà vườn Huế................................................................................................... 15
1.2.6. Đường đi bộ, công viên, quảng trường, đài tưởng niệm.................................... 16
1.2.7. Cầu bắt qua sông Hương................................................................................... 17
1.2.8. Trường học, bệnh viện, chợ, cơ quan hành chính.............................................. 19
1.2.9. Nhà Ga Huế, nhà máy xi măng Long Thọ, nhà máy nước Vạn Niên.................20
1.2.10. Cơng trình kiến trúc thuộc địa Pháp dọc bờ Nam sông Hương........................21
CHƯƠNG 2: ĐẶC TRƯNG KHÔNG GIAN KTCC DỌC HAI BỜ SÔNG HƯƠNG
25
2.1. Sự phân chia không gian KTCC dọc hai bờ sông Hương thành phố Huế:............25
2.2. Sự thay đổi địa hình, thay đổi thiên nhiên tạo nên sự khác biệt về kiến trúc........27
2.2. Sự chuyển tiếp và giao thoa các lớp không gian KTCC dọc hai bờ sông Hương .. 28

2.3. Sự tập trung các cơng trình KTCC (CT KTCC) có giá trị dọc hai bờ sông Hương
30
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG HÌNH
THÁI KTCC PHỤC VỤ DU LỊCH BỜ SÔNG HƯƠNG........................................... 37



3.1. Thực trạng phát triển không gian KTCC hai bờ sơng Hương...............................37
3.2. Đề xuất 4 tiêu chí cho phát triển bền vững hình thái KTCC hai bờ sơng Hương .. 40

3.3. Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển bền vững không gian KTCC hai bờ sông
Hương.......................................................................................................................... 40
C. KẾT LUẬN........................................................................................................... 42
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 43


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Biểu đồ sử dụng đất hai bờ sông Hương trong 3 khu vực nghiên cứu....25
Biểu đồ 2.2. Thống kê, phân loại cơng trình KTCC tiêu biểu dọc bờ sông Hương khu
vực chảy qua thành phố Huế (đơn vị: cơng trình)........................................................ 30
Biểu đồ 2.3. Đánh giá giá trị quỹ KTCC dọc bờ sông Hương..................................... 33
Biểu đồ 3.1. Khảo sát thăm dò ý kiến phát triển không gian KTCC 2 bờ sông Hương,
đối tượng khảo sát là 100 người ngẫu nhiên bao gồm 40 người (15 - 40 tuổi); 40 người
(40 – 70 tuổi)............................................................................................................... 39


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Phân bố các CT KTCC có giá trị 2 bờ sơng Hương (đơn vị: cơng trình)....32
Bảng 2.2. Đánh giá giá trị cơng trình KTCC tiêu biểu dọc sơng Hương theo 3 tiêu chí
với thang điểm từ 1 – 4 (cầu Tuần đến cầu Dã Viên)................................................... 34
Bảng 2.3. Đánh giá giá trị cơng trình KTCC tiêu biểu dọc sơng Hương theo 3 tiêu chí
với thang điểm từ 1 – 4 (cầu Dã Viên đến cầu Chợ Dinh)........................................... 35
Bảng 2.4. Phân loại theo thang giá trị các công trình KTCC dọc bờ Bắc sơng Hương 36

Bảng 2.5. Phân loại theo thang giá trị các cơng trình KTCC dọc bờ Nam sông Hương
36



DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Sự phát triển đơ thị dọc sơng Hương qua các thời kỳ.................................... 6
Hình 1.2. Sự phát triển đô thị dọc bờ Nam sông Hương qua các thời kỳ......................8
Hình 1.3. Cơng trình KTCC dọc bờ sơng Hương năm 1930....................................... 22
Hình 1.4. Một số cơng trình KTCC theo phong cách thuộc địa Pháp nằm dọc bờ sông
Hương hiện nay........................................................................................................... 23
Hình 1.5. Cơng trình KTCC dọc bờ sơng Hương thời Pháp thuộc
24
Hình 2.1. Phạm vi nghiên cứu chia làm 3 khu vực (KV1, KV2, KV3).......................25
25
Hình 2.2. So sánh đơ thị sông Hương và các đô thị ven sông khác trên thế giới (từ trái
sang phải: sông Nile – Cairo, sông Seine – Paris, sông Hương – Huế, sông Hàn –
Seoul).......................................................................................................................... 28
Hình 2.3. Sơ đồ sự giao thoa và chuyển tiếp đa dạng các lớp không gian KTCC dọc
sông Hương................................................................................................................. 29
Hình 3.1. Đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong ảnh nguyên gốc và sau khi tu bổ, từ trái
sáng phải chụp năm 1930, 1965, 2017......................................................................... 37
Hình 3.2. Một số tồn tại cần được xử lý trong các KTCC hai bờ sông Hương...........38


DANH MỤC VIẾT TẮT
AAVH

: Association des Amis du Vieux Huế
Hội Đô thành Hiếu Cổ

BAVH

: Bulletin des Amis du Vieux Huế

Tạp chí “Những người bạn Cố Đơ Huế”

THPT

: Trung học Phổ thông

TP

: Thành phố

TT Huế

: Thừa Thiên Huế

UBND

: Ủy ban Nhân dân

CT

: Cơng trình

KTCC

: Kiến trúc cơng cộng


A. MỞ ĐẦU

I. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Hình thái kiến trúc công cộng (sau đây xin được gọi là KTCC) dọc sơng Hương
là sự tổng hịa và giao thoa các lớp không gian kiến trúc xét trong mối quan hệ tác
động lẫn nhau giữa ba yếu tố: tự nhiên - khơng gian cơng cộng - cơng trình cơng cộng.
Hình thái KTCC dọc sông Hương mang đặc thù riêng với nhiều yếu tố đặc trưng khác
biệt của một đô thị di sản Cố đô ven sông. Đây cũng là một trong những nhân tố cốt lõi
hình thành nên hình thái kiến trúc đô thị Huế. Bài viết dựa trên việc nghiên cứu tổng
quan các không gian KTCC dọc hai bờ sơng Hương phạm vi thành phố Huế, phân tích
thực trạng, khảo sát lấy ý kiến người dân và khách du lịch, trên cơ sở đó đề xuất các
giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển bền vững giá trị KTCC dọc sông Hương làm cơ
sở cho việc phát triển du lịch di sản, du lịch sinh thái tại Thành phố Huế. Thực tế cho
thấy việc quản lý xây dựng và phát triển các cơng trình KTCC dọc sơng Hương đang
thiếu sự đồng bộ, thường tập trung vào các dự án được cấp vốn đầu tư, chưa có khảo
sát phân loại mức độ bảo tồn và phát triển trên toàn tuyến. Trong “Một số nét đặc
trưng trong quy hoạch xây dựng Khu phố Tây ở Huế thời kỳ Pháp thuộc” của TS. kts.
Nguyễn Vũ Minh đã nêu ra được lịch sử và đặc điểm hình thành, phát triển mở rộng
các khu phố dọc bờ Nam sông Hương, các đặc trưng chủ yếu trong quy hoạch kiến
trúc cảnh quan khu phố Tây ở Huế lấy sông Hương làm trục bố cục của quy hoạch và
phát triển đô thị [3]. Báo cáo quy hoạch chi tiết hai bờ sông Hương và dự án thí điểm
do tổ chức KOICA Hàn Quốc thực hiện đã đưa ra những phân tích khá chi tiết và cụ
thể về thực trạng và giải pháp phát triển cho không gian KTCC hai bờ sông Hương [5].
Tuy nhiên giải pháp đưa ra chưa xét trong bối cảnh phát triển du lịch và nhu cầu du
lịch sinh thái, du lịch văn hóa đang tăng cao tại thành phố Huế. Báo cáo vẫn cịn mang
tính chủ quan, chưa chú trọng việc lấy ý kiến và khảo sát đối tượng là khách du lịch,
chưa đánh giá hết yếu tố lịch sử cũng nhưng đặc điểm kiến trúc các điểm di tích dọc
sơng Hương. Trong nghiên cứu này tác giả xét đến yếu tố tổng thể không gian KTCC,
phân loại, đánh giá tổng quát đặc trưng cũng như giá trị quỹ KTCC hai bờ sông Hương
làm cơ sở đề xuất giải pháp bảo tồn, phát triển bền vững.
1



Một số nét đặc trưng trong quy hoạch xây dựng Khu phố Tây ở Huế thời kỳ
Pháp thuộc của TS. kts Nguyễn Vũ Minh đã nêu ra được lịch sử và đặc điểm hình
thành và phát triển mở rộng các khu phố dọc bờ Nam sông Hương, các đặc trưng chủ
yếu trong quy hoạch kiến trúc cảnh quan khu phố Tây ở Huế lấy sông Hương làm trục
bố cục của quy hoạch và phát triển đô thị. Tuy nhiên nghiên cứu vẫn chưa đi sâu vào
các đặc trưng KTCC dọc sông Hương trong quá khứ và hiện nay.
Luận án Tiến sĩ, Chuyên ngành Kiến trúc, Đại học Kiến trúc Hà Nội của kts Dư
Tơn Hồng Long (2020) về “Sự hịa nhập của kiến trúc thuộc địa Pháp với các thuộc
tính đô thị Huế” đã khảo sát và đánh giá khá cụ thể về mức độ hịa nhập của các cơng
trình kiến trúc thuộc địa Pháp trên địa bàn thành phố Huế. Phần lớn các cơng trình này
nằm rải rác ở bờ Nam sông Hương. Tuy nhiên luận án chưa nghiên cứu về các thể lại
KTCC khác ngồi cơng trình Pháp thuộc dọc sông Hương.
Báo cáo quy hoạch chi tiết hai bờ sơng Hương và dự án thí điểm do tổ chức
KOICA Hàn Quốc thực hiện đã đưa ra những phân tích khá chi tiết và cụ thể về thực
trạng và giải pháp cho không gian kiến trúc hai bờ sông Hương. Tuy nhiên giải pháp
đưa ra chưa xét trong bối cảnh phát triển du lịch và nhu cầu du lịch sinh thái, du lịch
văn hóa đang tăng cao tại thành phố Huế. Báo cáo vẫn cịn mang tính chủ quan, chưa
chú trọng việc lấy ý kiến và khảo sát đối tượng là khách du lịch, chưa đánh giá hết yếu
tố lịch sử cũng nhưng đặc điểm kiến trúc các điểm di tích dọc sơng Hương.
II. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Kiến trúc và du lịch tại thành phố Huế có một mối liên hệ hết sức mật thiết.
Hình thái KTCC trục cảnh quan dọc sông Hương là một trong những nhân tố quan
trọng trong sự phát triển du lịch Huế.
Hiện nay các cơng trình cơng cộng trục cảnh quan dọc sơng Hương đang phát
triển mạnh đặc biệt các cơng trình công cộng phục vụ du lịch. Các kiến trúc này được
biết như bến thuyền, đường đi bộ, cầu đi bộ, chịi nghỉ, nhà vệ sinh cơng cộng, bãi đỗ
xe, nhà hàng,…
Tuy nhiên hiện nay chưa có một nghiên cứu cụ thể định hướng cho sự phát triển
này do đó hiện trạng phát triển đang tự phát, cục bộ, không mang tính tổng thể, khơng
có gắn kết dẫn đến việc đi ngược lại với phát triển du lịch bền vững.

2


Vấn đề nghiên cứu đặt ra là rất cấp thiết nhằm chứng minh sự bất cập và so
sách với các mơ hình phát triển bền vững phục vụ du lịch sơng nước. Từ đó đưa ra
được những định hướng và giải pháp tối ưu nhất nhằm phát triển bền vững hình thái
KTCC dọc hai bờ sơng Hương phục vụ du lịch thành phố Huế.
III. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI
Tìm ra đặc trưng khác biệt tạo nên hình thái KTCC hai bờ sông Hương thành
phố Huế nhằm phục vụ việc bảo tồn và phát triển. Phân loại giá trị và khoanh vùng
mức độ can thiệp bảo tồn phát triển không gian KTCC hai bờ sông Hương. Đề xuất
giải pháp tổng quát và cụ thể nhằm phát triển bền vững không gian KTCC hai bờ sơng
Hương dựa trên các tiêu chí phát triển bền vững.
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đạt dược những mục tiêu đã đề ra như trên, đề tài đã sử dụng những phương
pháp nghiên cứu như sau:
Phương pháp phân tích và tổng hợp các thơng tin thứ cấp có sẵn: Thu thập các
tài liệu, nghiên cứu có liên quan trước đây như bài báo, tạp chí, đề tài nghiên cứu, hình
ảnh, bản đồ, bản vẽ,… Qua đó, tổng hợp chung về tổng quan những nghiên cứu hình
thái KTCC phục vụ du lịch hai bờ sông Hương phạm vi Thành phố Huế.
Phương pháp khảo sát thực địa: Số liệu sơ cấp của đề tài chủ yếu dựa vào khảo
sát thực địa qua quan sát, chụp ảnh hiện trạng, đo vẽ kiến trúc.
Phương pháp điều tra xã hội học: Nhóm tác giả đề tài tiến hành phỏng vấn, lấy
ý kiến người dân địa phương, khách du lịch, chuyên gia, các nhà nghiên cứu Huế, các
kiến trúc sư và nhà chuyên môn.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Các yếu tố kiến trúc khảo sát được định vị vị
trí trên nền bản đồ Google maps. Các số liệu thu thập từ khảo sát thực địa được số hóa
2D bằng phần mềm AutoCad. Các dữ liệu cũng được tổng hợp, phân tích thành các
bảng biểu, bảng thống kê bằng phần mềm Excel. Cuối cùng, đưa ra đề xuất giải pháp
nhằm phát triển bền vững hình thái KTCC phục vụ du lịch trục cảnh quan bờ sông

Hương thành phố Huế.

3


V. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Hình thái KTCC phục vụ du lịch bao gồm: Các cơng trình KTCC, hạ tầng cơng
cộng, đường giao thơng công cộng, cây xanh, mặt nước, các trang thiết bị KTCC.
2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu khoảng không gian 100m tính từ mép nước vào sâu trong phần đất
dọc hai bờ sông Hương đoạn chảy qua thành phố Huế. Dựa vào các đặc điểm văn hóa
xã hội, quy hoạch và kiến trúc có thể chia ra làm 3 khu vực nghiên cứu:
Khu vực 1 – KV1 (thượng nguồn) – từ cầu Tuần đến cầu Dã Viên thuộc địa bàn
phường Kim Long, xã Hương Long, xã Hương Hồ, phường Phường Đúc, phường
Thủy Biều, xã Thủy Bằng.
Khu vực 2 – KV2 (trung tâm thành phố) – từ cầu Dã Viên đến Đập Đá thuộc địa
bàn phường Phú Thuận, phường Phú Hòa, phường Vĩnh Ninh, phường Phú Nhuận,
phường Phú Hội.
Khu vực 3 – KV3 – từ Đập Đá đến cầu Chợ Dinh thuộc địa bàn phường Phú
Cát, phường Phú Hiệp, phường Phú Hậu, phường Vĩ Dạ, xã Phú Thượng.
VI. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Phân tích đặc trưng hình thái KTCC dọc sơng Hương và sự khác biệt của nó.
Lập danh mục đánh giá các cơng trình KTCC theo thang giá trị, khảo sát, phân
tích tổng hợp nhằm khoanh vùng bảo tồn và phát triển. Từ đó có giải pháp phát triển
phù hợp.
Đánh giá hiện trạng tổng quát, đề xuất tiêu chí phát triển bền vững trong bối
cảnh nghiên cứu.
Lấy ý kiến khảo sát nhằm đề xuất những giải pháp định hướng phát triển bền
vững hình thái KTCC dọc bờ sơng Hương khu vực thành phố Huế hiện nay và trong

tương lai hướng đến phục vụ tốt du lịch di sản, du lịch sinh thái.

4


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG1: TỔNG QUAN KTCC
TRỤC CẢNH QUAN BỜ SÔNG HƯƠNG THÀNH PHỐ HUẾ
1.1. Lịch sử dịng sơng Hương và sự hình thành trục cảnh quan hai bờ sơng Hương

Theo như các tài liệu lịch sử, bắt đầu từ thời kỳ Huế bị vương quốc Chămpa
thống trị thì lưu vực sơng Hương đã là một khu vực trung tâm có vị trí quan trọng ở
miền Bắc vương quốc Chămpa. Vào khoảng thế kỷ thứ 7, người Chămpa đã xây dựng
tường thành quy mơ lớn để phịng ngự ở Thượng lưu sông Thành Lồi (hiện tại là
Phường Đúc của TP Huế), và ở khu vực hợp lưu ở hạ lưu cũng đã xây dựng tường
thành lớn để phòng ngự. Là tiền thân của đô thị Huế sau này.
Sông Hương hoang vắng xưa kia thuộc châu Lý, được Chế Mân, vua Chămpa
trao cho nhà Trần như một phần tặng phẩm để cưới công chúa Huyền Trân năm 1306,
nhưng sau cái chết của Chế Mân, quan hệ Việt Nam – Chămpa trở nên căng thẳng.
Mảnh đất mới ở biên cương phía nam với “tồ thành Hố Châu nằm khố chặt lấy cửa
sơng” Linh Giang, tên gọi thuở đó của sơng Hương, là nơi diễn ra những trận thuỷ
chiến ác liệt, cả với quân Chămpa và quân Minh. [5]
Nửa sau thế kỷ XVI, khi Nguyễn Hồng đến phía nam dãy Hồnh Sơn mưu đồ
“dung thân vạn đời” thì cư dân hai bên bờ sơng Hương đã hình thành. Năm 1636 khi
Nguyễn Phúc Lan (chúa Thượng) dời phủ chúa từ Phước Yên (Quảng Điền) vào Kim
Long, sau đó Nguyễn Phúc Thại (chúa Nghĩa) dựng phủ mới ở Phú Xuân, Nguyễn
Phúc Khoát (Võ Vương) xây dựng Chính Dinh và Đơ Ấp, bộ mặt hai bên bờ sông
Hương trù phú hẳn. Năm 1776, Lê Quý Đôn vào Phú Xn đã mơ tả “Chính Dinh …
trơng xuống bến sông, đằng trước là quần sơn chầu về la liệt, vật lực thịnh giàu”. Ông
đã liệt kê trên hai chục cơng trình kiến trúc phủ, điện, đài, gác, tạ, đình, hiên, am, cơng

đường… “mái ngói nguy nga, đài cao rực rỡ, tường bao quanh, cửa bốn bề khắc chạm,
vẽ vời, khéo đẹp cùng cực… Nhà vườn của các công hầu quyền q thì chia bày ở hai
bờ phía thượng lưu sông Phú Xuân, cùng hai bờ sông con bên phải ở Phủ Cam. Ở
thượng lưu, hạ lưu phía trước Chính Dinh thì phố chợ liền nhau, đều là mái ngói. Cây
to bóng mát, tả hữu thành hàng. Thuyền bn bán, đò dọc ngang, đi lại như mắc cửi”.

5


Sông Hương trở thành mạch máu kinh tế của Phú Xn, thuyền bn trong và
ngồi nước, theo sơng Hương cập bến cảng Thanh Hà là nơi đô hội nổi tiếng. Khi
những gị nổi trước bến sơng bị bồi đắp thành cồn, buôn bán không thuận lợi, thuyền
buôn lại cập bến phố Lở, Bao Vinh, đem đến cả tơ lụa, đồ sứ, trái cây ướp muối,
đường, đồ chơi trẻ em… của Trung Quốc, Nhật Bản và mua đi trầm hương, ngà voi,
mật ong, cau khô, hồ tiêu và các đặc sản địa phương. Dọc theo sơng dần dần hình
thành những chợ lớn như chợ Phú Xuân, chợ Dinh với những chuyến đò ngang Phú
Xuân thượng – Phú Xuân hạ, chợ Dinh – Cồn Hến, Cồn Hến – Vĩ Dạ, đò dọc khứ hồi
Phú Xuân – Tư Hiền, chợ Dinh – Ai Tử, chợ Sãi, Cam Lộ, Phả Lại, ngược xuôi trên
sông. [5]
Khi họ Nguyễn bị quân Lê – Trịnh đánh đổ (1775), sông Hương bớt náo nhiệt.
Nhưng 11 năm sau (1786) những chiến thuyền dũng mãnh của Nguyễn Huệ đã theo
sông Hương, thừa dịp nước dâng sát chân thành, kết hợp với bộ binh vây đánh thành
Phú Xuân, quân Trịnh tan tát. Và cũng chính bên bờ sơng này, quy tụ quanh Quang
Trung- Nguyễn Huệ, những danh sĩ đương thời như Trần Văn Kỷ, Ngơ Thời Nhậm,
Phan Huy Ích, cơng chúa Ngọc Hân, Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng…
đã sống một phần đời đầy sôi nổi, sáng tạo và cống hiến.
Năm 1801 Nguyễn Anh đưa thuỷ binh trở lại đánh chiếm Phú Xuân, xây dựng
cơ nghiệp lâu dài của triều Nguyễn. Kinh thành Thuận Hoá được Gia Long cho khởi
công, lấy núi Ngự làm “tiền án”, lấy hai gị nổi giữa sơng Hương làm thế “tả phị hữu
bật”, “tả thanh long hữu bạch hổ”. Sông Hương bị nắn dịng đổ nước bao lấy kinh

thành, các nhánh sơng Kim Long, Bạch Yến được điều chỉnh, sông Đông Ba, sông An
Hồ, sơng Kẻ Vạn, Ngự Hà được đào mới, tạo thế sơng bảo vệ kinh thành.

Hình 1.1. Sự phát triển đô thị dọc sông Hương qua các thời kỳ (nguồn: KOICA)
6


Năm 1836 Minh Mạng tuyển chọn 153 cảnh vật tiêu biểu, từ tinh tú, núi sông,
chim thú, cây cỏ, thành luỹ, vũ khí, xe thuyền,… để khắc chạm vào Cửu Đỉnh, đặt uy
nghi trước Thế Miếu, tượng trưng cho thế bền vững của nhà Nguyễn. Sông Hương và
núi Ngự được Minh Mạng dành riêng, đưa lên Nhân đỉnh, chiếc đỉnh tượng trưng cho
triều đại của chính Minh Mạng. Thiệu Trị làm hai mươi bài vịnh “Thần kinh nhị thập
cảnh”, cho khắc vào bia đá dựng ở hai mươi điểm có cảnh đẹp, mong ước sông Hương
sẽ là nguồn nước sâu thẳm bảo vệ đế thành cho nhà Nguyễn (nhất phiến uyên nguyên
hộ đế thành).
Năm 1873 sau thất bại mất thành Hà Nội và một số tỉnh phía bắc, nhà Nguyễn
phải ký hiệp ước hồ bình và liên minh 15-3-1874. Con sông “nhất phiến uyên nguyên
hộ đế thành” mà Thiệu Trị mơ tưởng trở thành “nhất giang lưỡng quốc” (một sông hai
nước). Bên bờ nam là bộ máy xâm lược của thực dân, bên kia là chiếc ngai vàng bốn
tháng ba vua đang lung lay.
Đêm 22 tháng năm Ất Dậu (4-7-1885) cuộc tiến công của Tôn Thất Thuyết vào
kinh thành Huế thất bại để lại bên bờ sông Hương một Kinh thành tàn lụi, lần lượt đón
các hồng thân, quốc thích, quan lại thoả hiệp trở về, lập lại bộ máy thống trị bù nhìn
dưới bóng thực dân. Hình ảnh những chiếc thuyền rồng rực rỡ màu vàng son, rộn ràng
ca nhạc do các đội lệ thuyền kéo trên sông Hương dần dần nhường chỗ cho cảnh sinh
hoạt ăn chơi. [5]
Phải đợi đến cao trào cách mạng tháng Tám 1945, sông Hương mới sống dậy,
náo nức với hàng vạn 21 bước chân rầm rập qua cầu Trường Tiền, hàng trăm chuyến
đò cập bến Đập Đá, Thừa Phủ, đưa người dân đổ về sân vận động dự mitting “ra mắt”
Uỷ ban khởi nghĩa Thuận Hoá ngày 23-8-1945. Hàng vạn đồng bào Thừa Thiên Huế,

thay mặt cả nước, tận mắt nhìn Bảo Đại giao ấn kiếm cho đại diện của Chính phủ Cách
mạng lâm thời trong khí thế đổi đời của cách mạng; nhìn cờ đỏ sao vàng bay trên đỉnh
cao của Kỳ đài Huế, in màu đỏ lồng lộng giữa trời xanh, dội bóng xuống dịng sơng
Hương.
Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ (1946-1954), trên vùng đầu nguồn sông
Hương, lớp lớp gái trai, già trẻ lại vạch rừng mở chiến khu Dương Hoà; luồn sâu vào
khe Bún để lập xưởng in, trạm xá, xưởng dệt vải xi-ta kháng chiến. Thuyền của một số
người dân lại ngược dịng sơng Hương, lên chiến khu lập vạn đò Độc Lập.
7


Trong kháng chiến chống Mỹ (1955-1975), chiến khu đầu nguồn sông Hương
một lần nữa lại tiếp thêm sức sống, chỉ đạo, động viên nhân dân Huế đi vào cuộc chiến
đấu mới, liên tục làm bùng nổ phong trào kháng chiến mới. Dọc hai bờ sơng Hương
những cuộc mitting, biểu tình, chiếm đài phát thanh, đốt Nhà Thơng tin, Tồ Lãnh sự,
… diễn ra sôi nổi. Sông Hương cũng như những dịng sơng anh hùng trên đất nước đã
vùng lên, nhận chìm nhiều đội qn xâm lược. [5]
Sơng Hương, một dịng sơng đẹp, dịng sơng lịch sử, sơi nổi với những ghềnh
thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một giải lụa; hài hoà tuyệt diệu với
thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng
trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải; với những mảnh vườn và
con người xứ Huế là nguồn cảm hứng vô tận của những nghệ sĩ, là sự thu hút say mê
với khách phương xa.

Hình 1.2. Sự phát triển đơ thị dọc bờ Nam sông Hương qua các thời kỳ
(nguồn: Dư Tôn Hoàng Long)

8



1.2. Các thể loại cơng trình KTCC tiêu biểu trục cảnh quan hai bờ sơng Hương
1.2.1. Kinh thành, Hồng thành và Tử cấm thành
Đại diện cho nguồn tài nguyên du lịch Huế và được cơng nhận là cơng trình di
sản văn hóa UNESCO (Complex of Hue Monuments) vào năm 1993, và vẫn đang
được bảo tồn quản lý với tư cách là một khu vực trọng tâm về bảo tồn di tích văn hóa.
Hiện tại, căn cứ theo như Quy hoạch vùng Tỉnh Thừa Thiên Huế 2030 (năm 2012) đã
hình thành nên quy hoạch năng động hóa và bảo tồn nguồn tài nguyên văn hóa lịch sử
thành phố Huế.
Hiện tại đối với Kinh thành cũng như khu vực Đại Nội (Imperial City and
Forbidden Purple City) được định hướng là khu vực trọng tâm phát triển du lịch, và
các dự án phục hồi cũng như bảo tồn của UNESCO vẫn đang được thực hiện một cách
liên tục, đều đặn. Căn cứ theo nhu cầu, đã mở rộng các cơng trình cơ sở du lịch (như là
cơng trình tiện ích, cơng tình nghỉ dưỡng, hệ thống giao thông du lịch nội bộ). [2]
1.2.2. Kỳ Đài, Phu Văn Lâu, Nghênh Lương Đình, Đình Thương Bạc
Kỳ đài: được xây dựng vào năm Gia Long thứ 6 (1807) cùng thời gian xây
dựng kinh thành. Đến thời Minh Mạng, Kỳ Ðài được tu sửa vào các năm 1829, 1831
và 1840. Kỳ đài gồm hai phần: đài cờ và cột cờ. Đài cờ gồm ba tầng hình chóp cụt chữ
nhật chồng lên nhau. Tầng thứ nhất cao hơn 5,5 m, tầng giữa cao khoảng 6 m, tầng
trên cùng cao hơn 6 m. Tổng cộng của ba tầng đài cao khoảng 17,5 m. Từ mặt đất lên
tầng dưới bằng một lối đi nhỏ ở phía trái Kỳ Ðài, tầng dưới thơng với tầng giữa bằng
một cửa vịm rộng 4 m, tầng giữa thông với tầng trên cùng cũng bằng một cửa vịm
rộng 2 m. Ðỉnh mỗi tầng có xây một hệ thống lan can cao 1 m được trang trí bằng gạch
hoa đúc rỗng. Nền ba tầng lát gạch vng và gạch vồ, có hệ thống thốt nước mưa
xuống dưới. Trước đây cịn có hai chịi canh và tám khẩu đại bác. Cột cờ nguyên xưa
làm bằng gỗ, gồm hai tầng, cao gần 30 m. Năm Thiệu Trị thứ sáu (1846), cột cờ được
thay bằng một cây cột gỗ dài hơn 32 m. Đến năm Thành Thái thứ mười sáu (1904), cột
cờ này bị một cơn bão lớn quật gãy, nên sau phải đổi làm bằng ống gang. Năm 1947,
khi quân Pháp tái chiếm Huế, cột cờ lại bị pháo bắn gãy một lần nữa. Năm 1948, cột
cờ bằng bê tông cốt sắt với tổng chiều cao 37 m hiện nay mới được xây dựng. Thời
Nguyễn, trong tất cả các dịp lễ tiết, chầu mừng, tuần du cho đến việc cấp báo đều có

9


hiệu cờ. Trên đỉnh cột cờ còn đặt một trạm quan sát gọi là Vọng Đẩu. Thỉnh thoảng,
lính canh phải trèo lên Vọng Đẩu dùng kính Thiên lý quan sát ngồi bờ biển. Ngày
23/8/1945, sau khi Bảo Đại thối vị, lá cờ đỏ sao vàng của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa đã thay thế cho lá cờ hình quẻ ly của triều đình Nguyễn. Trong Sự kiện Tết
Mậu Thân năm 1968, 8 giờ sáng ngày 31/1/1968, Quân Giải phóng miền Nam chiếm
được Kỳ đài và lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được kéo
lên trong 26 ngày đêm. Đến ngày 24/2/1968, Đại đội Hắc Báo, thuộc Sư đoàn bộ binh
1 - Quân lực Việt Nam Cộng hòa chiếm lại Kỳ đài và hạ lá cờ này xuống. Ngày
26/3/1975, sau khi giành thắng lợi trong Chiến dịch Huế - Đà Nẵng, lá cờ dài 12 m,
rộng 8 m của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lại được kéo lên Kỳ
đài. [15]
Phu Văn Lâu: Đây là ngôi nhà hai tầng, quay mặt về hướng nam. Dưới thời vua
Minh Mạng, triều đình cho dựng ở hai bên hai tấm bia đá khắc 4 chữ "khuynh cái hạ
mã", nghĩa là ai đi qua đều phải cởi mũ và xuống ngựa. Từ năm 1821, sau khi truyền
lô, danh sách các khoa danh tiến sĩ được đem niêm yết tại đây. Vì tính cách long trọng
như vậy nên hai bên lầu có hai bia đá "khuynh cái hạ mã" nhắc nhở tất cả mọi người đi
ngang qua Phu Văn lâu phải "nghiêng nón xuống ngựa" để tỏ lịng kính cẩn. Hai bên
mặt trước Phu Văn lâu có đặt hai khẩu súng thần cơng nhỏ bằng đồng hướng vào nhau.
Phía trước mặt Phu Văn lâu là một tiểu đình nằm kề bên sơng Hương gọi là Nghinh
Lương Ðình. Ðây là nơi dùng để các vua tắm sơng, hóng gió, ngắm cảnh. Phu Văn lâu
tuy đã được tu bổ nhiều lần nhưng vẫn giữ nguyên cốt cách đặc trưng của kiến trúc
thời Nguyễn. Vào đầu thời Gia Long (1802-1819), đây chỉ là một tồ nhà nhỏ có tên
Bảng đình, dùng làm nơi cơng bố các chiếu thư, chỉ dụ của nhà vua hoặc các bảng thi
Hội, thi Đình cho dân chúng. Năm 1819, Bảng đình được thay thế bằng một một to
kiến trúc hai tầng mái với 16 cây cột, xung quanh khơng có vách, tạo nét thanh tú và
độc đáo với tên gọi là Phu Văn lâu. Phu Văn lâu còn là nơi ban phát lịch hoặc các sinh
hoạt vui chơi dành cho dân chúng do triều đình tổ chức...Thời Minh Mạng, nhà vua

quy định sau khi các chiếu thư được tuyên đọc ở Ngọ Môn hoặc điện Thái Hồ sẽ
được đặt trên long đình, có che lọng và quân lính theo hầu hai bên để đưa ra niêm yết
tại Phu Văn lâu. Các quan hàng tỉnh và hương lão phải đến quỳ lạy trước chiếu thư.
Năm 1829 đã từng có một cuộc đấu giữa voi và cọp trước lầu để cho vua Minh Mạng
10


ra xem. Vào các dịp tứ tuần, ngũ tuần của Minh Mạng có nhiều cuộc vui khác được tổ
chức ở đây. Về sau các vua Thiệu Trị, Tự Ðức cũng giữ cái lệ ấy nhân những ngày
khánh thọ của mình. Vua Thiệu Trị xem sông Hương và lầu Phu Văn là một trong 20
cảnh đẹp ở chốn Thần Kinh. Năm 1843, Thiệu Trị cho dựng một nhà bia bên phải của
lầu để khắc bài thơ Hương Giang Hiểu Phiếm (Buổi sớm bơi thuyền trên sơng Hương).
Bão năm Giáp Thìn (1904) đã thổi bay lầu Phu Văn, vua Thành Thái đã hạ lệnh xây
dựng lại, giống y như cũ. Năm 1916, Trần Cao Vân, Thái Phiên đã giả vờ ngồi câu cá
ở bến Phu Văn lâu để bí mật gặp vua Duy Tân bàn việc khởi nghĩa. Chẳng may việc
bất thành, vua Duy Tân bị quân Pháp bắt và đày ra đảo Réunion. [15]
Nghênh Lương đình hay Nghênh Lương tạ là một cơng trình nằm trên trục dọc
từ Kỳ đài ra đến Phu Văn Lâu được xây dựng dưới thời Nguyễn dùng làm nơi nghỉ
chân của nhà vua trước khi đi xuống bến sông để lên thuyền rồng hoặc làm nơi hóng
mát. Đây là một di tích trong quần thể di tích cố đơ Huế. Nghênh Lương tạ được xây
dựng dưới triều vua Tự Đức thứ 5 (1852), năm Thành Thái thứ 15 (1903) được trùng
tu cẩn thận và đến năm Khải Định thứ 3 (1918) lại được tôn tạo thêm một lần nữa để
phục vụ vua thường xuyên đến nghỉ mát, từ thời Khải Định về sau gọi là Nghênh
Lương đình - chữ Nghênh Lương tạ có nghĩa là nhà Thủy tạ để hóng mát. Trước đây,
triều đình cho ngăn con đường đi từ cửa Thể Nhơn (tức Cửa Ngăn) ra Nghênh Lương
đình, khơng cho ai qua lại hoặc thấy mặt vua. Nghênh Lương tạ có kết cấu kiến trúc
kiểu phương đình 1 gian 4 chái, phía trước và phía sau đều có nhà vỏ cua nối dài ra.
Bộ khung gỗ ở phần trên, nhất là các vì vỏ cua cùng hệ thống liên ba được chạm trổ
công phu. Mái nhà chính lợp ngói ống lưu ly vàng, hai nhà vỏ cua lợp ngói liệt men
vàng. Nền Nghênh Lương tạ cao 90 cm, bó vỉa bằng gạch vồ và đá thanh, phía bờ sơng

có 13 bậc cấp dẫn xuống một hành lang xây sát mặt nước sông Hương. Cảnh quan
xung quanh nhà tạ thống đãng và rất trữ tình. Xét về cấu trúc không gian ở trục trước
mặt Kinh thành, Nghênh Lương tạ là điểm nối kết giữa Kỳ Đài - Phu Văn Lâu - Hương
Giang - Ngự Bình. Và đây cũng là vị trí đẹp để ngắm nhìn, cảm nhận vẻ đẹp lãng mạn
của sơng Hương vào lúc bình minh, khi hồng hơn hay trong đêm trăng sáng. Ngun
xưa Nghênh Lương tạ là một phần của hành cung Hương Giang dựng từ năm Tự Đức
thứ 5 ở bờ bắc sơng Hương, trước mặt tồ Phu Văn Lâu. Ngồi hành cung này, tại khu
vực Huế, các vua Nguyễn cịn có nhiều hành cung khác như hành
11


cung Thần Phù, hành cung Thuận Trực, hành cung Thuận An, hành cung Thúy Vân...
Tất cả các hành cung này đều có dựng nhà tạ để phục vụ nhà vua, tuy nhiên, đến nay
duy chỉ có Nghênh Lương tạ của hành cung Hương Giang là cịn tồn tại. [15]
Đình Thương Bạc: Năm 1870, vua Tự Đức đã cho xây mới một tòa nhà đặt tên
là Thương Bạc (tại địa điểm Nhà văn hóa thành phố hiện nay) để làm nơi tiếp các sứ
đồn. Và trước tịa nhà có xây một ngơi Đình gần bờ sơng để tiếp các thương nhân.
Năm Ất Dậu (1885) Tòa Thương Bạc được làm phủ của Nguyễn Văn Tường, rồi thành
trường Hậu Bổ, trường Uyên Bác, Cổ Học viện, hiện nay tịa nhà này đã khơng cịn
dấu tích và thay vào đó là Nhà Văn hóa thành phố. Ngơi Đình Thương Bạc ở gần bờ
sơng, năm 1921, vua Khải Định cho xây lại thành một ngôi lầu hình bát giác bằng các
vật liệu mới (xi măng, cốt thép). Tồn bộ cơng trình được dựng trên một nền vng
cao 1,3m, xung quanh có lan can, mặt trước và mặt sau đều có gắn chữ Thương Bạc
đúc bằng xi măng. Phần trên là một lầu hình vng khơng cao lắm. Phía trong là sân
rộng, xây hai hồ bằng xi măng có đắp giả sơn, đứng chầu hai bên hồ cân đối với tòa
nhà là 4 con rồng đá chạm trổ tinh vi; hướng ra ngoài phố là 4 trụ biểu hình vng cao
lớn, trên đỉnh đều gắn bơng sen, trên mỗi trụ biểu còn gắn câu đối bằng sành sứ ghi lại
cảnh đẹp trù phú của Kinh đô Huế. [15]
1.2.3. Chùa, đền thờ, miếu thờ
Chùa Thiên Mụ: Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời

chúa Tiên - Nguyễn Hoàng. Dưới thời chúa Quốc -Nguyễn Phúc Chu (1691-1725)
theo đà phát triển và hưng thịnh của Phật giáo xứ Đàng Trong, chùa được xây dựng lại
quy mô hơn. Năm 1710, chúa Quốc cho đúc một chiếc chuông lớn,nặng tới trên hai
tấn, gọi là Đại Hồng Chung, có khắc một bài minh trên đó. Đến năm 1714, chúa Quốc
lại cho đại trùng tu chùa với hàng chục cơng trình kiến trúc hết sức quy mơ như điện
Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phịng Tăng, nhà
Thiền... mà nhiều cơng trình trong số đó ngày nay khơng cịn nữa. Chúa Quốc cịn đích
thân viết bài văn,khắc vào bia lớn (cao 2m60,rộng 1m2) nói về việc xây dựng các cơng
trình kiến trúc ở đây,việc cho người sang Trung Quốc mua hơn 1000 bộ kinh Phật đưa
về đặt tại lầu Tàng Kinh, ca tụng triết lý của đạo Phật, ghi rõ sự tích Hịa thượng Thạch
Liêm - người có cơng lớn trong việc giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật giáo ở Đàng
Trong. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá rất lớn, trang trí đơn sơ nhưng
12


tuyệt đẹp. Với cảnh đẹp tự nhiên và quy mô được mở rộng ngay từ thời đó, chùa Thiên
Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Trải qua bao biến cố lịch sử, chùa
Thiên Mụ đã từng được dùng làm đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi
được trùng tu tái thiết nhiều lần dưới triều các vua nhà Nguyễn. Năm 1844, nhân dịp
mừng lễ "bát thọ" của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua
Thiệu Trị), vua Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn: xây thêm một ngôi
tháp bát giác gọi là Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên), đình Hương Nguyện và dựng 2
tấm bia ghi lại việc dựng tháp, đình và các bài thơ văn của nhà vua. [4]

Điện Hòn Chén: Ðiện Hòn Chén là nơi ngày xưa người Chàm thờ nữ thần
PoNagar, sau đó người Việt theo Thiên Tiên Thánh Giáo tiếp tục thờ bà với danh xưng
là Thánh Mẫu Thiên Y A Na. Điện Hòn Chén nguyên là ngôi đền thờ nữ thần PoNagar
(Nữ Thần Mẹ xứ sở) của người Chăm. Theo truyền thuyết dân gian Chăm, nữ thần
PoNagar là con của Ngọc hoàng Thượng đế được sai xuống trần gian, bà có cơng lao
tạo ra trái đất và các loại gỗ trầm, lúa gạo. Hương mộc và kỳ nam là thứ gỗ tượng

trưng cho sự linh hiển của Nữ thần. Bà còn làm tỏa hương gạo ngọt ngào, cổ vũ dân
trồng cây bồ đề. Tiếp nhận từ người Chăm một di tích tơn giáo độc đáo như điện Hòn
Chén, người Việt dễ dàng dung hợp được cả một tín ngưỡng thần linh mang sắc thái
riêng của người Chăm. Có lẽ vị Nữ thần của dân tộc Chăm xét trên bình diện tâm linh
có nét tương đồng với các Nữ thần của người Việt. Đây được xem là sự hịa nhập về
tơn giáo hay cịn gọi là bản địa hóa . Để ký âm cho danh từ PoNagar bằng Hán văn,
các Nho sĩ ngày xưa đã phải tạo ra một âm hưởng hao hao và mang một ý nghĩa tương
đương nhất định bằng bốn chữ Hán: Thiên Y A Na. Tên gọi Thiên Y A Na là tên gọi
của người Việt hay còn gọi là mẹ Xứ Sở theo tín ngưỡng của các vùng khác như Nha
Trang - Khánh Hịa, v..v.. Từ năm 1954, Liễu Hạnh Cơng Chúa, tức là Vân Hương
Thánh Mẫu cũng được đưa vào thờ ở đây. Ngồi ra, tại điện Hịn Chén, người ta cịn
thờ Phật, thờ Thánh Quan Cơng và hơn 100 vị thần thánh khác thuộc vào hàng đồ đệ
của các thánh thần nói trên. Vua Ðồng Khánh cũng là một trong những đồ đệ ấy. Điện
Hòn Chén được vua Minh Mạng cho tu sửa và mở rộng vào tháng 3/1832. Sau đó hai
năm, đền lại được trùng tu. Như vậy, xét về mặt tín ngưỡng, điện Hịn Chén bố cục thờ
khơng theo nguyên tắc, mà phối thờ nhiều tín ngưỡng khác nhau. Từ năm 1883 đến
năm 1885, vì gặp một giai đoạn éo le của lịch sử triều Nguyễn, vua Ðồng Khánh chờ
đợi mãi vẫn chưa được lên nối ngôi cha ni là vua Tự Ðức. Ơng nhờ mẹ là bà Kiên
13


Thái Vương lên đền Ngọc Trản cầu đảo và hỏi Thánh Mẫu Thiên Y A Na xem mình có
làm vua được không. Mẫu cho biết ông sẽ toại nguyện. Bởi vậy, sau khi tức vị, năm
1886, vua Ðồng Khánh liền cho xây lại đền này một cách khang trang, làm thêm nhiều
đồ tự khí để thờ, và đổi tên ngơi đền là Huệ Nam Ðiện để tỏ lòng biết ơn Thánh Mẫu.
Huệ Nam nghĩa là ban ân huệ cho nước Nam, vua Nam. Có một điều kỳ lạ, chính vua
Ðồng Khánh đưa cuộc lễ hằng năm tại đây vào hàng quốc lễ và tự nhận mình là đồ đệ
của Thánh Mẫu, mặc dù nhà vua chỉ gọi thánh mẫu bằng "Chị". Theo nguyên tắc xưa,
ông vua nào cũng đứng trên các thánh thần trong cả nước, nhưng ở đây vua Ðồng
Khánh lại hạ mình xuống làm "em" của Mẫu. Hiện nay trong đền vẫn còn thờ vài bức

tranh ảnh của chính nhà vua được treo ở đây. [15]
Văn Thánh (Văn Miếu): được xây dựng ngồi việc thờ Khổng Tử cịn thờ Tứ
Phối: Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư và Mạnh Tử, cùng Thập Nhị Triết. Nơi đây được xây
dựng vào năm 1808 trong khoảng thời gian mà vua Gia Long trị vì, sau đó được tiếp tục

chỉnh trang bởi vua Minh Mạng và vua Thiệu Trị.Trong khoảng từ năm 1822 đến năm
1919 đã xây dựng 32 tấm bia đá trên đó có khắc tên của 293 vị học giả nổi tiếng. [2]
Võ Thánh (Võ Miếu): được lập ra để tôn vinh những cơng thần đã đóng góp
nhiều cơng lao cho triều đại, mục đích động viên những người theo địi võ nghiệp
mong lập được chiến tích để lưu danh mn thuở Triều Nguyễn lập ra Võ Miếu để
khuyến khích nhân tài, tỏ sự công bằng giữa văn và võ. [2]
1.2.4. Hệ thống các Lăng Vua
Được bắt đầu xây dựng vào năm 1814 trong khoảng thời gian trị vì của vua Gia
Long và hồn thành vào năm 1820.Vị trí lăng nằm ở phía Nam núi Thiên Thọ khu vực
thượng lưu sơng Hương, cách hoàng thành Huế khoảng 16km về hướng Tây Nam và
phía trước lăng là hồ bán nguyệt.
Lăng Minh Mạng là lăng của vị vua thứ 2, được khởi công xây dựng vào năm
1840 và hoàn thành vào năm 1843. Lăng quay mặt về hướng đơng phía bờ Bắc sơng
Hương và cách hồng thành Huế khoảng 12km về phía Tây Nam. Các hồ sen xung
quanh lăng kết nối với sông Hương nhờ vào hệ thống thành hào. [5]
Lăng của vị vua thứ 3 vua Thiệu Trị, được người con trai là vị vua thứ 4 vua Tự
Đức thiết kế xây dựng vào năm 1847. Lăng quay mặt về hướng Tây Bắc, nằm ở phía
14


Đơng sơng Hương và cách hồng thành Huế khoảng 6km về hướng Tây Nam. Xung
quanh được bao bọc bởi núi và các cánh đồng lúa, vườn cây xanh rờn.
Lăng của vị vua thứ 4 vua Tự Đức, lăng được vua Tự Đức trực tiếp thiết kế xây
dựng trong khoảng thời gian ơng trị vì, bắt đầu xây dựng vào năm 1864 và hồn thành
vào năm 1867, và có một khoảng thời gian thi công bị gián đoạn. Lăng quay mặt về

hướng Đơng, nằm ở phía đơng sơng Hương cách hồng thành Huế khoảng 4km về
phía Tây Nam. Lăng Tự Đức cùng với lăng Minh Mạng được xem là một trong số
những lăng tẩm đẹp nhất của các vị vua ở Huế. [5]
Lăng của vị vua thứ 5 của triều đại nhà Nguyễn - vua Dục Đức, sau khi vua lên
ngôi vào năm 1883 thì ít lâu sau ơng mất, tuy nhiên vào khoảng 6 năm sau sau khi con
của ông là vua Thành Thái lên ngơi thì mộ vua Dục Đức mới được xây dựng đàng
hoàng, và vào năm 1945 thì mộ của vua Thành Thái và con của ơng là vua thứ 11 vua
Duy Tân được xây dựng bổ sung vào khu vực lăng mộ của vua Dục Đức. Khu vực
lăng mộ này nằm khá gần hoàng thành và có vị trí trung tâm nên rất dễ dàng tiếp cận.
Lăng của vua Đồng Khánh vị vua thứ 9 của triều Nguyễn, lăng được xây sau
khi vua Đông Khánh qua đời, và về sau vua Thành Thái và vua Khải Định đã cho xây
dựng thêm.
Lăng Khải Định- lăng của vị vua thứ 12 triều Nguyễn, lăng được xây dựng
trong khoảng thời gian ơng trị vì, khởi cơng vào năm 1920 và hoàn thành vào năm
1931. Đây là lăng mộ chịu sự ảnh hưởng của kiến trúc Pháp, vì vậy đây là khu lăng mộ
có hình thức kiến trúc kết hợp giữa kiến trúc truyền thống và kiến trúc của phương
Tây. Đồng thời đây cũng là lăng mộ cuối cùng của triều Nguyễn, mang cấu trúc không
gian lăng mộ Việt Nam và trang trí bên trong rất tráng lệ. [5]
1.2.5. Nhà vườn Huế
Dọc bờ sông Hương đặc biệt khu vực Kim Long, Vĩ Dạ xuất hiện nhiều nhà
vườn là hình thức kiến trúc nhà ở đặc trưng. Nhà vườn Huế chủ yếu được xem là nơi
sinh sống của giới quý tộc thượng lưu hoặc dịng dõi gia tộc hồng gia vào thời nhà
Nguyễn. Được xây theo luật “dịch lý” và “phong thủy”, nhà vườn Huế là tập hợp của
một hệ thống kiến trúc sắp xếp theo chiều Bắc-Nam. Tuy rộng hẹp khác nhau, nhưng
nhà nào cũng có kiến trúc tổng thể giống nhau, bao gồm: cổng, ngõ, bình phong, hịn
15


non bộ, bể cạn, sân, nhà. Cổng thường xuyên xây bằng gạch, lối vào ngõ thường được
trồng những hàng râm bụt hoặc chè tàu cắt xén cẩn thận. Bình phong cũng thường xây

bằng gạch. Sau bình phong là bể cạn có hịn non bộ, một mảnh sân rộng rồi mới đến
nhà. Xung quanh nhà trồng rất nhiều cây, hoa quanh năm tươi tốt. Trong khu nhà vườn
ấy, không thể không nói tới ngơi nhà rường cổ. Nhà rường thường được làm bằng gỗ,
chúng được cầu kỳ hóa bằng nhiều nét văn hoa chạm trổ, trong liên kết của kết cấu
nhà, thay cho đóng đinh là kỹ thuật mộng tinh xảo. Nhà rường có nhiều dạng: một gian
hai chái, ba gian hai chái, năm gian hai chái, nhà rường lầu… rường là cách nói ngắn
gọn của rường cột, nhà có hệ thống cột kèo gỗ được dựng lên theo những quy cách
nhất định. Dù lớn đến đâu, nhà rường cũng được kết cấu hồn tồn bằng chốt, mộng
gỗ để có thể lắp ráp và tháo dỡ dễ dàng. Trong nhà bày sập gụ, tủ chè, treo hoành phi,
câu đối, đồ đạc được bài trí hài hịa hợp lý, tạo cho nhà rường cái thần thái riêng biệt.
Nhìn cảnh quan một nhà vườn Huế, người ta dễ dàng nhận ra được tâm hồn và phong
cách sống của chủ nhân. Nhà vườn Huế thể hiện sự hòa hợp giữa đời sống con người
và cây cỏ, giữa nếp sống tinh thần và vật chất, tất cả đều bổ sung cho nhau, để tạo nên
sự cân bằng trong cuộc sống. Một số nhà vườn hiện nay còn nguyên vẹn, tiêu biểu như
nhà vườn An Hiên, nhà vườn công chúa Ngọc Sơn, Lạc Tịnh, nhà vườn Ý Thảo… [16]
1.2.6. Đường đi bộ, công viên, quảng trường, đài tưởng niệm
Đường Nguyễn Đình Chiểu nằm trên địa bàn hai phường Phú Nhuận và Vĩnh
Ninh, sát bờ Nam sông Hương, khởi đầu từ đường Lê Lợi (sát chân cầu Trường Tiền),
chạy men theo sông Hương qua ngã ba đường Phạm Hồng Thái đến đường Bà Huyện
Thanh Quan, dài 560m. Đường này ô tô chỉ được lưu thông một chiều, cấm xe tải xe
ca hạng lớn. Đường hình thành từ đầu thế kỷ 20, cùng thời với việc người Pháp xây
dựng khách sạn Morin. Từ năm 1955 trở về trước, đường này thường được gọi là Bờ
sông Pát-tơ (Quai Pasteur). Sau năm 1956, đặt tên là đường Nguyễn Đình Chiểu cho
đến ngày nay. Đường này trước năm 1990 chỉ dài hơn 300m, đoạn còn lại được mở
tiếp từ năm sau năm 1991 đến năm 2002 mới hoàn chỉnh. Là con đường chỉ một mặt
phố có nhà ở quay ra sơng Hương. [15]
Đường đi bộ trên sông Hương: Là nỗ lực của tình hữu nghị Việt Nam – Hàn
Quốc, cơng trình được khởi công từ năm 2018 nằm trong Dự án Quy hoạch chi tiết hai
bờ sông Hương. Với cổng bằng pháp lam, một bên là công viên với nhiều cây xanh,
16



hoa thơm cỏ lạ, một bên là dịng sơng Hương, cây cầu hiện là một địa điểm check in lý
tưởng, một không gian mới thú vị cho giới trẻ. Cầu có diện tích mặt sàn 2440m2 được
lát bằng gỗ lim Nam Phi đắt đỏ dày 5cm. Việc lựa chọn gỗ lim vừa cứng, bền, lại thân
thiện với môi trường đã tạo nên giá trị cho chiếc cầu. Cầu có chiều dài khoảng 450m,
rộng 4m cùng với hệ thống lan can 2 bên là 4100 thành đồng (nặng 7 tấn) nhập từ Hàn
Quốc. Ngồi ra, cầu cịn được đặt thêm nhiều bồn hoa, cây cảnh tạo không gian xanh
mát dọc hành lang. [16]
Đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong: Đài tưởng niệm những binh sĩ người Pháp
và người Việt đã bỏ mạng trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), tọa lạc
sát bờ nam sông Hương, trước mặt trường Quốc Học Huế. Đài được khởi cơng xây
dựng ngày 12/5/1920, hồn thành ngày 18/9/1920. Đồ án thiết kế đài tưởng niệm này
của ông Tôn Thất Sa, giáo viên hội họa trường Bá Cơng Huế. Đài được xây dựng dưới
hình thức một chiếc bình phong truyền thống có mái che giả ngói. Thân và bệ đài được
trang trí bằng các mơ típ rồng, lân, chữ thọ cách điệu, mai, lan, cúc, trúc hết sức linh
hoạt, và đạt hiệu quả cao. Phía trước đài, xây hai trụ biểu cao bằng gạch khiến đài càng
có vẻ uy nghiêm. Mặt trước thân đài trước đây có ghi tên 31 người Pháp và 78 người
Việt sau bị xóa. Đài tưởng niệm chiến sĩ Trân Vong tuy xây dựng theo đường lối mị
dân của thực dân Pháp nhưng lại bị một di tích có giá trị về kiến trúc, nghệ thuật. Di
tích này đặc biệt phù hợp với trường Quốc Học và cảnh quan cổ kính thơ mộng bên
dịng sơng Hương. [2]
1.2.7. Cầu bắt qua sơng Hương
Cầu Trường Tiền: nguyên cây cầu bằng sắt này do Hãng Schneider et Cie et
Letellier thiết kế, khởi công vào tháng 5 năm 1899 và khánh thành vào ngày 18 tháng
12 năm 1900. Cơ bản cầu có 6 vài, mỗi vài dài 66,66 mét. Mặt cầu rộng 4.5 m và có
hai lề đường hai bên, mỗi bên rộng 0,75m. Chí phí hồn thành là 732.456 Francs. Trận
lụt năm Thìn (11/9/1904) đã cuốn trôi 4 vài xuống sông. Hãng Daydéet Pillé được giao
cho việc sửa chữa hai vài cầu còn lại và làm 4 vài cầu mới khác theo kiểu cũ. Năm
1907, khi vua Thành Thái bị thực dân Pháp đày sang đảo Réunion, thì chính quyền

thực dân Pháp cho đổi tên là cầu Clémenceau, theo tên của Georges Clemenceau, một
Thủ tướng Pháp thời Thế chiến thứ nhất. Trong những năm 1905-1915, mặt cầu được
phủ lớp bê tông cốt sắt. Cầu bị xuống cấp do rỉ sét và lưu lượng qua lại ngày càng
17


nhiều nên chính phủ thời đó đã thương lượng với Hãng Eiffel (tên lúc đó là Cơng ty
Xây dựng Levallois Perret - La Société Constructions Levallois-Perret) tìm phương
pháp tu bổ cây cầu này. Theo đó, các nhà chun mơn đã quyết định: thay thế những
khung dần sắt bị hư hỏng, mặt cầu đúc xi măng cốt sắt, lòng đường rộng hơn, hai lề
đường cho người đi bộ rộng 1,95, làm ra phía ngồi và mỗi chỗ trụ cầu phải nới rộng
hơn để làm chỗ tránh. Toàn bộ cầu được sơn phủ nhiều lớp để trảnh rỉ sét. Chi phí nâng
cấp lần này là 435.000 $. Ngày 20 tháng 6 năm 1937, Hãng Eiffel - lúc đó mang tên
mới là Anciens Etablissements Eiffel - dưới sự chỉ huy của giám đốc - kỹ sư Martin
André đã tiến hành thi công mở rộng cầu. Vào tháng 11/1939, sau 29 tháng thi công,
cầu Tràng Tiền hồn thành. Năm 1945 chính phủ Trần Trọng Kim đổi tên là cầu
Nguyễn Hoàng. Năm 1946, trong chiến tranh Việt - Pháp, cầu bị Việt Minh đặt mìn,
giật sập hai nhịp phía tả ngạn. Hai năm sau cầu được tu sửa tạm để qua lại. Năm 1953,
cầu được sửa chữa hoàn chỉnh như cũ. Trong Sự kiện Tết Mậu Thân, trụ 3 và nhịp 4 bị
phá hủy, khi quân Mặt trận Giải phóng miền Nam cho giật sập để cắt đường phản công
của quân đội Việt Nam Cộng hịa. Sau đó, một chiếc cầu phao được dựng tạm lên bên
cạnh để nối đôi bờ; rồi cầu được tu sửa tạm thời. Sau khi kết thúc chiến tranh Việt
Nam cầu được đổi tên thành "Tràng Tiền"; mãi tới năm 1991 cầu mới được khôi phục
lại tên cũ là Trường Tiền, trùng tu lần nữa. Ở lần trùng tu này do Công ty Cầu 1 Thăng
Long đảm nhiệm, kéo dài trong 5 năm (1991-1995), có nhiều thay đổi quan trọng, đó
là việc dỡ bỏ các ban cơng ở hành lang hai bên tại vị trí các trụ cầu, lịng cầu (cả
đường chính và phụ) bị hẹp lại do phải nẹp thêm hai ống lan can, màu sơn ghi xám
thay cho màu nguyên bản từ xưa của cầu là màu nhũ bạc,... Từ Festival Huế năm 2002,
cầu Tràng Tiền được lắp đặt một hệ thống chiếu sáng đổi màu hiện đại... và đến năm
2004 cầu lại 1 lần nữa được đổi tên là Trường Tiền. [15]

Cầu Bạch Hổ: Trước khi có "cầu đường bộ Bạch Hổ" (tức cầu Dã Viên), thì nơi
đây đã có "cầu sắt Bạch Hổ" dùng cho tàu hỏa. Theo bài viết "Cồn Dã Viên - Bạch Hổ
của kinh thành Huế" đăng tải trên website Đài Tiếng nói Việt Nam, thì vào năm 1908,
tuyến đường sắt Huế – Quảng Trị được thiết lập, và hai cây cầu Bạch Hổ và Dã Viên
có kết cấu bằng thép giống nhau đã được xây dựng. [15]
Cầu Phú Xuân: Lúc mới xây xong (1971), cầu được đặt tên theo tên dịng sơng
mà nó bắc qua, cầu Sơng Hương. Sau năm 1975, nó được chính quyền đổi tên là cầu
18


×