Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Lý luận và thực tiễn truyền thông báo CHÍ và TRUYỀN THÔNG đại CHÚNG với các LĨNH vực đời SỐNG, xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.23 KB, 20 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN BÁO CHÍ TRUYỀN THƠNG
ĐƯƠNG ĐẠI

BÁO CHÍ VÀ TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG VỚI
CÁC LĨNH VỰC ĐỜI SỐNG, XÃ HỘI


LỜI MỞ ĐẦU
Sự phát triển các dịch vụ thông tin trên nền internet thời gian qua đã
đem lại cho người dân trên thế giới những lợi ích khơng thể phủ nhận. Đây là
xu thế phát triển chung của thời đại khoa học - công nghệ. Nhân loại trở nên
gần nhau hơn, người dân có thể dễ dàng tiếp cận với những kho dữ liệu khổng
lồ, phong phú và đa dạng được cập nhật hằng ngày, hằng giờ từ khắp nơi trên
thế giới.
Internet tăng cường khả năng giao lưu, trao đổi thông tin giữa mọi
người với nhau, thúc đẩy xã hội phát triển. Theo số liệu của Bộ Thông tin và
Truyền thông, đến hết năm 2014, Việt Nam là một trong những quốc gia phát
triển internet nhanh trên thế giới với hơn 32 triệu người sử dụng internet,
tương đương tỷ lệ 35% số dân. Cùng với đó, thơng tin điện tử trên mạng
internet, bao gồm báo chí điện tử và truyền thơng xã hội cũng có sự phát triển
rất nhanh chóng. Tính đến cuối năm 2014, nước ta có 90 báo, tạp chí điện tử,
215 trang tin điện tử tổng hợp của các báo, tạp chí, đài phát thanh - truyền
hình. Về truyền thơng xã hội, có hàng nghìn trang tin điện tử, hơn 300 mạng
xã hội đã đăng ký hoạt động. Bên cạnh đó, một số lượng rất lớn các blog cá
nhân cũng góp phần đáng kể phát triển truyền thông xã hội. Kết quả nghiên
cứu của một công ty chuyên về điều tra xã hội học trong lĩnh vực internet cho
thấy, hơn 95% số người truy cập internet để đọc thông tin, chủ yếu thông qua
các website tổng hợp và các mạng xã hội (MXH); và một tỷ lệ tương tự sử
dụng cơng cụ tìm kiếm thơng tin khi sử dụng internet.
Theo đó, nhu cầu tìm kiếm và sử dụng thông tin là nhu cầu chủ đạo của


người dùng internet. Điều đó cho thấy, internet đã trở thành phương tiện
truyền thơng rất quan trọng, và thậm chí đang từng bước lấn át các phương
tiện truyền thống, nhất là đối với báo, tạp chí in. Hơn nữa, những số liệu
thống kê khơng chính thức cũng cho thấy các website truyền thông xã hội
chiếm đến 80% số lượng người sử dụng thường xuyên trong số 10 website
2


lớn nhất ở Việt Nam. Như vậy, chúng ta đang chứng kiến sự phát triển mạnh
mẽ của các loại hình thơng tin trên mạng internet; trong đó, truyền thơng xã
hội đang ngày càng trở nên quen thuộc và trở thành kênh tìm kiếm thơng tin
ngày càng phổ biến đối với cộng đồng.
Nhìn ở một góc độ khác, báo chí cũng đã tạo ra ảnh hưởng to lớn về
văn hóa, lối sống xã hội. Nhiều hình ảnh, kiểu mốt, ngơn từ và cách hành xử
thể hiện trong các chương trình truyền hình, các trang báo đã nhanh chóng
xâm nhập vào cuộc sống. Các phương tiện truyền thông mới là một trong
những thành tựu quan trọng nhất mà loài người đạt được trong vòng 2 thập kỷ
trở lại đây và đang nhận được sự quan tâm của cả các nhà nghiên cứu, các nhà
quản lý xã hội và người dân nói chung. Khi một cơng nghệ mới ra nhập xã
hội, nó ln va chạm tới hàng loạt các chuẩn mực văn hoá. Sự ra đời của bất
kỳ một công nghệ nào cũng có những ảnh hưởng nhất định đối với văn hóa xã hội, tuy nhiên, sự xuất hiện của các phương tiện truyền thông mới trong
thời gian vừa qua đã tạo nên những thay đổi văn hóa - xã hội sâu sắc. Những
thay đổi ấy không chỉ dừng lại ở những biểu hiện bên ngồi xã hội hay con
người, mà nó còn thấm sâu, làm thay đổi bản chất của xã hội cũng như chính
đời sống tâm lý, thói quen của mỗi con người. Nó khiến cho xã hội chuyển
động với một tốc độ nhanh hơn và các khoảng cách xã hội được thu hẹp hơn
rất nhiều. Những giá trị xã hội cũng đang trong quá trình biến đổi
Vì vậy, trong bài tiểu luận nà, em chọn đề tài “Báo chí và truyền thông
đại chúng với các lĩnh vực đời sống, xã hội”


3


NỘI DUNG
I. Báo chí và truyền thơng đại chúng
1.Báo chí và vai trò trong đời sống xã hội
1.1 Khái niệm
Báo, hay gọi đầy đủ là báo chí (xuất phát từ 2 từ "báo" - thơng báo - và
"chí" - giấy), hay cịn có tên gọi cũ là tân văn (như trong Phụ nữ tân văn, Lục
Tỉnh tân văn), nói một cách khái quát là những xuất bản phẩm định kỳ nhằm
báo cáo về các sự vật, hiện tượng hay con người nổi bật trong ngày mà xã hội
cần quan tâm.
Tuy phương tiện truyền tải báo chí thay đổi theo thời gian, các nghiệp
vụ báo chí vẫn bao gồm: tìm hiểu thơng tin, phân tích thơng tin và phổ biến
thơng tin đến độc giả. Mở rộng ra, khái niệm báo chí cũng được sử dụng cho
các phương pháp tìm kiếm tin tức, lối viết văn trên báo chí, và các hoạt động
(chun nghiệp hay khơng chun nghiệp) của báo chí.
Theo thời gian, phương tiện truyền tải của thông tin đi từ nhật báo, tạp
chí (trên giấy) tới đài phát thanh, đài truyền hình (trên loa đài) tới các ấn bản
điện tử trên web (báo điện tử).
Trong xã hội hiện đại, báo chí là người cung cấp thơng tin chính và
phản hồi ý kiến về các vấn đề của công chúng. Tuy nhiên báo chí khơng phải
lúc nào cũng chỉ giới hạn ở tìm kiếm và truyền tải thơng tin. Truyền thơng báo
chí có thể mở rộng sang các hình thức khác như văn học và điện ảnh. Ở một
số quốc gia, báo chí bị chính phủ kiểm sốt và khơng phải là một cơ quan
hoàn toàn độc lập.
Tuy nhiên, trong một xã hội dân chủ, việc tiếp cận với thông tin miễn
phí đóng một vai trị chính trong việc tạo ra một hệ thống kiểm tra và cân
bằng, cũng như phân bổ quyền lực cân đối giữa chính phủ, các doanh nghiệp,
cá nhân và các tổ chức xã hội khác. Việc tiếp cận thơng tin có thể kiểm chứng

được do báo chí thu thập bởi các nguồn phương tiện truyền thơng độc lập,
4


tn thủ các tiêu chuẩn báo chí, có thể khiến các cơng dân bình thường có khả
năng tham gia vào các hoạt động chính trị.
1.2 Vai trị báo chí đối với đời sống xã hội
Báo chí đang ngày càng phát triển và hồn thiện hơn những nhân tố
tích cực và nhiều điển hình tiên tiến trong sản xuất và chiến đấu, góp phần
đưa kinh tế đất nước phát triển cùng với sự phát triển chung của thế giới. Báo
chí là cầu nối quan trọng giữa doanh nghiệp và nhà quản lý, hoạch định chính
sách giúp Nhà nước điều chỉnh những chủ trương, đường lối cho phù hợp với
thực tiễn. Báo chí cịn tham gia một cách đồng cảm trên mặt trận đấu tranh
tham những, chống tiêu cực và tệ nạn xã hội. Với số lượng báo ngày càng
tăng và chất lượng ngày càng tốt đã tạo niềm tin và tạo thành một nhu cầu cần
thiết cho nhân dân.
Sứ mạng của báo chí trước hết là để thỏa mãn nhu cầu thông tin của xã
hội. Xã hội càng hiện đại, việc phổ biến thông tin trên quy mô đại chúng càng
trở nên quan trọng và vì vậy, sự phụ thuộc, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các
phương tiện thông tin đại chúng và xã hội càng trở nên chặt chẽ. Trong thời
đại bùng nổ thơng tin ngày nay, vai trị tích cực của cộng đồng truyền thơng
đã thúc đẩy q trình xã hội hóa các hoạt động giám sát và phản biện xã hội.
Tính chân thật, khách quan là đặc trưng, đặc điểm, là yêu cầu tồn tại
của bản thân báo chí và là nguyên tắc đầu tiên để báo chí thực hiện vai trị
quản lý xã hội thơng qua hoạt động phản biện và giám sát xã hội. V.I.Lê-nin
đã nhấn mạnh: Sự thật là sức mạnh của báo chí. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thường căn dặn các nhà báo phải ln trung thực, coi đó là một trong
những tiêu chuẩn đạo đức số một của người làm báo cách mạng. Với tinh thần
“nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đảng yêu cầu
báo chí phản ánh mọi mặt hoạt động của đời sống xã hội một cách chân thật,

khách quan, đúng bản chất. Nhìn thẳng vào sự thật để giám sát và phản biện
xã hội có nghĩa là báo chí phải đưa tin cả về những thành cơng cũng như
những hạn chế, khó khăn, thất bại. Đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật đòi
5


hỏi người viết phải có phương hướng và năng lực tư duy để có thể trình bày
một cách chân thực và đi đến bản chất của thông tin sự việc. Có thể nói, nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật là sự cụ thể hóa chức năng giám sát
và phản biện xã hội của báo chí.
Tính cơng khai, công cộng là một xu thế tất yếu, là biểu hiện quan
trọng của nền dân chủ, trong đó có quyền được thông tin và tự do ngôn luận
được khẳng định rất rõ tại Lời mở đầu của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Báo chí (năm 1999). Ý kiến trên báo chí có thể được nhiều người
thảo luận, bàn cãi từ nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, vì báo chí có tác
động trực tiếp và mạnh mẽ, rộng lớn và nhanh chóng trong việc hình thành
dư luận xã hội, nên tính cơng khai cần được lưu ý trên 2 khía cạnh: một là,
nói rõ sự thật sau khi đã đánh giá đúng bản chất; hai là, nói rõ sự thật để
góp phần xây dựng dư luận xã hội lành mạnh. Báo chí khơng được cơng
khai dẫn tới lộ bí mật quốc gia, tạo nên mối hồi nghi cho công chúng, hay
tạo kẽ hở cho các thế lực thù địch lợi dụng. Nhưng cũng không thể chấp
nhận việc vin vào lý do “muốn dư luận xã hội lành mạnh, n ổn” để hạn
chế tính cơng khai của báo chí.
Tính đại chúng của báo chí được thể hiện ở việc, thơng tin báo chí tác
động tới xã hội rộng rãi, bao gồm các tầng lớp, các nhóm xã hội khác nhau,
nhu cầu thông tin của công chúng được ưu tiên bảo đảm và là thước đo trình
độ, năng lực của hoạt động thơng tin báo chí. Đồng thời, báo chí cũng là diễn
đàn của nhân dân và phải phù hợp với trình độ của cơng chúng tiếp nhận.
Cơng chúng không chỉ muốn tiếp nhận thông tin từ báo chí một cách thụ
động, mà cịn tương tác, phản hồi thơng tin mạnh mẽ. Chức năng giáo dục của

báo chí ngày càng được đề cao, giáo dục để góp phần nâng cao dân trí; nâng
cao trình độ tương tác và tính chính xác của thơng tin phản hồi; từ đó, môi
trường của sự giám sát, phản biện xã hội trong báo chí và dư luận xã hội sẽ
trở nên lành mạnh và hiệu quả hơn.
Tính chiến đấu là một trong những nguyên tắc quan trọng của báo chí
6


Việt Nam. Tính chiến đấu của báo chí được thể hiện trên cả hai mặt: biểu
dương và phê bình. Báo chí ủng hộ chủ trương xóa bỏ quan liêu bao cấp, cải
cách hành chính, ủng hộ lối sống có lý tưởng lành mạnh, sáng tạo, năng động,
có ý thức xây dựng tập thể và đất nước đồng thời đấu tranh chống lại cách
làm thụ động, trì trệ, hình thức chủ nghĩa, hiệu quả thấp, đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng và các tệ nạn xã hội.
2. Truyền thông và vai trị truyền thơng đại chúng tới đời sống xã hội
2.1 Khái niệm truyền thông
Truyền thông là sự trao đổi thông điệp giữa các thành viên hay nhóm
người trong xã hội nhằm đạt những sự hiểu biết lẫn nhau.
Cùng với khái niệm truyền thong, người ta còn phân biệt hai dạng thức
truyền thông là truyền thông ngoại biến và truyền thông nội biến.
Khi phân tích các mối quan hệ trong hoạt động truyền thong của con
người có thể thấy đây là một quá trình diễn ra theo trình tự thời gian trong đó
bắt buộc phải có các yếu tố tham dự gồm: nguồn phát, thông điệp, kênh và đối
tượng tiếp nhận.
-

Nguồn phát là yếu tố mang thông tin tiềm năng và khởi xướng q trình
truyền thơng.
- Thơng điệp là nội dung thơng tin được trao đổi từ nguồn phát đến đói
tượng tiếp nhận

- Kênh truyền thông là sư thống nhất của phương tiện, con đường, cách
thức chuyển tải thông điệp từ nguồn phát đến đối tượng tiếp nhận.
- Đối tượng tiếp nhận là các cá thể hay tập thể người tiếp nhận thơng
điệp trong q trình truyền thơng.
2. 2 Truyền thơng đại chúng
Truyền thông đại chúng ( mass communication) là hoạt động giao tiếp
xã hội rộng rãi, thoogn qua các phương tiện thông tin đại chúng
Truyền thông đại chúng là một quá trình xã hội đặc thù bao gồm 3 yếu
tố cấu thành: hoạt động truyền thơng ( tìm tin, chụp hình, biên tập,….), những
7


người làm công tác truyền thông ( biên tập viên, phóng viên,….), và cơng
chúng ( các tần lớp khác nhau trong xã hội).
Phương tiện truyền thông ( mass media) là yếu tố rất quan trọng trong
truyền thơng đại chúng, đó là những công cụ hay những kênh ( công cụ kỹ
thuật) mà ta có thể thực hiện q trình truyền thơng. Do đó, q trình truyền
thơng là q trình xã hội – q trình truyền tải thơng tin ra cơng chúng thông
qua các phương tiện ấy.
2. 3 Đặc điểm truyền thông đại chúng
Những thông tin và phương tiện truyền tải thơng tin được coi là đại
chúng phải có những đặc điểm sau:
– Được sử dụng với quy mô đại chúng -> lớn về số lượng, phạm vi hoạt
động trên 1 qui mơ rộng lớn, phổ biến trong hộ gia đình và cá nhân.
– Được sử dụng với mục đích đại chúng -> có nghĩa là dành cho số
lượng người đơng đảo trong 1 quốc gia, khu vực chứ không dành cho 1 số ít
người.
– Được thu thập từ đại chúng để chuyển đến đại chúng những thơng tin
mang tính đại chúng.
– Thông tin được các phương tiện thông tin truyền đi một cách nhanh

chóng, chính xác, cơng khai, đều đặn, có tính định kì (chương trình thời sự
trên tivi lúc 7h)
– Mang tính tổng hợp cao, có độ tín cậy được xử lý bởi các bộ phận
chức năng. (Thông tin trền trên truyền hình được biên tập bởi ban ban tập
nhà đài).


Đặc điểm truyền thông đại chúng tác động tới chủ thể
Mối liên hệ giữa truyền thông với công chúng phản ánh tính tập thể của
kiểu giao tiếp đại chúng. Khi chuyển thông điệp đến công chúng, người hoạt
động truyền thông không chỉ nhân danh cá nhân anh ta mà phải nhân danh
nhóm mà anh ta là đại diện. Năng lực nghề nghiệp của nhà truyền thông dựa

8


trên các phẩm chất cá thể của người đó. Năng lực này cũng phản ánh sự tuân
thủ các giá trị, các chuẩn mực xã hội và sự kiểm soát xã hội của thiết chế
truyền thông đối với hoạt động nghề nghiệp của nhà truyền thông. Mặt khác,
hoạt động truyền thông đại chúng được hình thành bởi lao động tập thể trong
mối liên hệ giữa các bộ phận tạo nên hệ thống này. Vì vậy, bản chất của hoạt
động truyền thơng đại chúng là lao động tập thể.
Như trên đã nói, các phương tiện truyền thông đại chúng thu hút công
chúng vào dịng truyền thơng để thực hiện hoạt động giao tiếp đại chúng.
Cơng chúng báo chí là một tập hợp xã hội rộng lớn, thậm chí ở họ có thể
khơng có mối liên hệ nào, nhưng đặc tính giao tiếp của số đơng cho thấy tính
chất tập thể của kiểu giao tiếp đại chúng. Tính chất ấy trong kiểu giao tiếp này
tạo nên các tương tác xã hội giữa nguồn phát và người nhận. Do đó, M.Weber
đã chỉ ra rằng: truyền thông như là phương tiện của tương tác xã hội làm sáng
tỏ các ý nghĩa mang tính chủ quan của một bên là hành động xã hội và bên

kia, là định hướng xã hội.
Truyền thơng cũng có tính 2 mặt của nó nếu thơng tin, hình ảnh truyền
đi mang tính tiêu cực, thì tác động của truyền thơng cũng tạo ra những ảnh
hưởng tiêu cực cho các đối tượng công chúng trong xã hội. Nhất là những đối
tượng thanh thiếu niên, những đối tượng có trình độ nhận thức cịn thấp,
khơng có khả năng chắt lọc thơng tin, nếu thơng tin từ truyền thơng tiêu cực
thì dễ bị lơi kéo và có những tác động tiêu cực cho bản thân và cho cộng đồng
xã hội.
2.4 Vai trị truyền thơng đại chúng trong xã hội
Truyền thơng có ảnh hưởng rất lớn đến mọi vấn đề của xã hội. Truyền
thông tác động đến nhận thức của công chúng, từ nhận thức sẽ tác động đến
hành động và ứng xử của công chúng. Khi mà một ứng xử của công chúng
được lặp đi lặp lại sẽ thành nề nếp, tập quán cuối cùng trở thành những chuẩn

9


mực của xã hội. Nhờ đến truyền thông mà những vấn đề này được xã hội chấp
nhận và lan truyền nhanh trong cơng chúng.
Truyền thơng có ảnh hưởng rất lớn đến mọi vấn đề của xã hội. Truyền
thông tác động đến nhận thức của công chúng, từ nhận thức sẽ tác động đến
hành động và ứng xử của công chúng. Khi mà một ứng xử của công chúng
được lặp đi lặp lại sẽ thành nề nếp, tập quán cuối cùng trở thành những chuẩn
mực của xã hội. Nhờ đến truyền thông mà những vấn đề này được xã hội chấp
nhận và lan truyền nhanh trong cơng chúng.
Nhờ có truyền thơng mà doanh nghiệp có thể quảng bá sản phẩm và
dịch vụ, giúp cho người mua nhận biết và sử dụng sản phẩm và dịch vụ.
Truyền thông cũng tạo ra nhu cầu tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ, giúp các
công ty tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người, giúp kinh tế phát triển. Hơn
90% ngân sách marketing của doanh nghiệp là sử dụng các phương tiện

truyền thông để quảng cáo sản phẩm và dịch vụ để thu hút người tiêu dùng
nhận biết và sử dụng sản phẩm và dịch vụ của họ.
Bản thân truyền thông cũng là một ngành kinh tế quan trọng của một
quốc gia, giải quyết công ăn việc làm và tạo ra giá trị cho nền kinh tế.
Truyền thông cũng là công cụ giúp cho người tiêu dùng phản ánh về
chất lượng sản phẩm và dịch vụ của các nhà sản xuất.
Giúp các cơ quan nhà nước đưa thông tin đến người dân về các chính
sách kinh tế, văn hóa xã hội, luật pháp đến với dân chúng, thuyết phục công
chúng thay đổi về nhận thức và hành xử đúng pháp luật. Ngồi ra chính phủ
cũng nhờ truyền thơng để thăm dị lấy ý kiến của dư luận trước khi ban hành
các văn bản pháp lý. Nhờ truyền thơng mà nhà nước điều chính các chính
sách quản lý của mình và tạo ra sự đồng thuận cao trong dân chúng.
Truyền thơng làm cho chính phủ, những người thừa hành pháp luật
được trong sạch và minh bạch hơn, thông qua thông tin phản biện của các đối
tượng dân chúng trong xã hội.
Truyền thông đại chúng là nơi khơi nguồn dư luận xã hội, nó đã phản
10


ánh và truyền dẫn dư luận xã hội; định hướng dư luận, có nghĩ là định hướng
nhận thức; điều hịa dư luận, điều hịa tậm trạng, tâm lý xã hội.
Chính từ dư luận xã hội với tính chất “đánh giá” để xác định hành vi
ứng xử của con người trứơc một sự kiện, hiện tựơng đó được xem như hiện
tượng tâm lý xã hội, là cầu nối giữa ý thức xã hội và hành động xã hội
Tư tưởng của Mác về vai trò của ý thức trong đời sống xã hội và mối
liên hệ giữa truyền thông đại chúng và dư luận xã hội được lấy làm cơ sở cho
việc nghiên cứu sự tác động của truyền thông đại chúng và dư luận xã hội. C.
Mác chỉ ra rằng lý luận có thể trở thành lực lượng vật chất khi nó thâm nhập
vào quần chúng. Chính C .Mác cũng nói: sản phẩm của truyền thông đại
chúng là dư luận xã hội.

Truyền thông đại chúng thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình
bằng việc cung cấp thơng tin cho xã hội, hình thành và định hướng dư luận xã
hội theo mục đích nhất định của chế độ, của giai cấp. Ở nước ta, đó là kênh
thơng tin đăng tải, phổ biến, giải thích đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước; góp phần vào xây dựng và hồn thiện đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước. Nói cách khác, Đảng ta coi các phương tiện truyền
thông đại chúng là kênh giám sát cán bộ, đảng viên và tòan xã hội qua dư luận
xã hội. Dư luận xã hội sẽ giúp Đảng, Nhà nước hiểu được “tâm trạng” của xã
hội, từ đó có những chính sách, hành động hợp lý, kịp thời.
Dư luận xã hội được hình thành dưới tác động của các phương tiện
truyền thông đại chúng thông qua các kênh thuộc hệ thống này và bằng con
đường giao tiếp, bằng họat động thảo luận, trao đổi nội dung các thông tin mà
công chúng tiếp thu được để hình thành nên dư luận xã hội. Các phương tiện
truyền thơng đại chúng hướng đến việc hình thành dư luận xã hội về các vấn
đề trong đời sống xã hội. Đồng thời hệ thống này cũng là những kênh để thể
hiện dư luận xã hội. Để làm được điều này, các phương tiện truềyn thông đại
chúng đã nổ lực khơng ngừng để giúp cho việc hình thành và thể hiện dư luận
hiệu quả nhất.
11


Nhờ sự phát triển ngày một hiện đại hơn, mạnh và rộng rãi hơn của các
phương tiện truyền thông đại chúng mà doanh nghiệp có thể quảng bá thương
hiệu của mình đến với người tiêu dùng nhanh hơn, cũng như có thể tiếp cận
với ngươi tiêu dùng dễ dàng hơn, và ngược lại người tiêu dùng cũng có thể
đóng góp hoặc phản ánh những điều khơng hài lịng của họ đối với doanh
nghiệp
3. Tác động báo chí và truyền thơng đại chúng đến đời sống xã hội
hiện đại
3.1 Tích cực

Truyền thơng có ảnh hưởng rất lớn đến mọi vấn đề của xã hội. Truyền
thông tác động đến nhận thức của công chúng, từ nhận thức sẽ tác động đến
hành động và ứng xử của công chúng. Khi mà một ứng xử của công chúng
được lặp đi lặp lại sẽ thành nề nếp, tập quán cuối cùng trở thành những chuẩn
mực của xã hội. Nhờ đến truyền thông mà những vấn đề này được xã hội chấp
nhận và lan truyền nhanh trong cơng chúng.
Truyền thơng có tác động lớn đến các nhóm đối tượng lớn như sau:
Đối với chính quyền nhà nước:
-

Giúp các cơ quan nhà nước đưa thông tin đến người dân về các chính sách
kinh tế, văn hóa xã hội, luật pháp đến với dân chúng, thuyết phục công chúng
thay đổi về nhận thức và hành xử đúng pháp luật. Ngồi ra chính phủ cũng
nhờ truyền thơng để thăm dò lấy ý kiến của dư luận trước khi ban hành các
văn bản pháp lý. Nhờ truyền thông mà nhà nước điều chính các chính sách

-

quản lý của mình và tạo ra sự đồng thuận cao trong dân chúng.
Truyền thông làm cho chính phủ, những người thừa hành pháp luật được
trong sạch và minh bạch hơn, thông qua thông tin phản biện của các đối tượng
dân chúng trong xã hội.
Đối với công chúng:

-

Giúp cho người dân cập nhật thông tin kinh tế văn hóa xã hội, pháp luật trong
và ngồi nước. Giúp người dân giải trí và học tập về phong cách sống những

12



người xung quanh. Truyền thông ủng hộ cái đẹp và bài trừ cái xấu. Truyền
thơng đóng vai trị trong việc tạo ra các xu hướng về lối sống, văn hóa, thời
-

trang…
Ngồi ra truyền thơng cịn giúp cho người dân phản hồi, nói lên tiếng nói của
mình, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình.
Đối với nền kinh tế:

-

Nhờ có truyền thơng mà doanh nghiệp có thể quảng bá sản phẩm và dịch vụ,
giúp cho người mua nhận biết và sử dụng sản phẩm và dịch vụ. Truyền thông
cũng tạo ra nhu cầu tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ, giúp các công ty tạo ra
công ăn việc làm cho nhiều người, giúp kinh tế phát triển. Hơn 90% ngân
sách marketing của doanh nghiệp là sử dụng các phương tiện truyền thông để
quảng cáo sản phẩm và dịch vụ để thu hút người tiêu dùng nhận biết và sử

-

dụng sản phẩm và dịch vụ của họ.
Bản thân truyền thông cũng là một ngành kinh tế quan trọng của một quốc

-

gia, giải quyết công ăn việc làm và tạo ra giá trị cho nền kinh tế.
Truyền thông cũng là công cụ giúp cho người tiêu dùng phản ánh về chất




lượng sản phẩm và dịch vụ của các nhà sản xuất.
Tính 2 mặt của truyền thơng:
·

Truyền thơng cũng có tính 2 mặt của nó nếu thơng tin, hình ảnh

truyền đi mang tính tiêu cực, thì tác động của truyền thơng cũng tạo ra những
ảnh hưởng tiêu cực cho các đối tượng công chúng trong xã hội. Nhất là những
đối tượng thanh thiếu niên, những đối tượng có trình độ nhận thức cịn thấp,
khơng có khả năng chắt lọc thơng tin, nếu thơng tin từ truyền thơng tiêu cực
thì dễ bị lơi kéo và có những tác động tiêu cực cho bản thân và cho cộng đồng
xã hội.
·

Trong kinh tế, truyền thông tác động đến tiêu dùng của người dân

giúp người dân tiêu dùng nhiều hơn, giúp kinh tế phát triển. Tuy nhiên, truyền
thông cũng tác động đến việc con người ngày càng tiêu dùng nhiều hơn so với
nhu cầu cần thiết. Con người ngày càng làm việc nhiều hơn để phục vụ cho
các nhu cầu tiêu dùng. Các giá trị vật chất ngày càng được xã hội đánh giá

13


cao hơn các giá trị tinh thần. Sản xuất và tiêu dùng nhiều sẽ hủy diệt môi
trường và tác động xấu đến đời sống của người dân.
Một ưu thế khác của truyền thông đại chúng trong sự tương tác với
công chúng đó là tính tổ chức trong truyền thơng đại chúng. Khi công chúng

tiếp nhận thông tin, sự liên kết xã hội của người đọc, người nghe, người xem
cho thấy mối quan tâm chung của họ đối với các nội dung thơng điệp được
truyền tải và lợi ích xã hội chi phối rất sâu sắc mối quan tâm của họ. Khi các
thơng điệp tác động đến các nhóm cơng chúng lớn, cũng có nghĩa là các thơng
điệp đó thực hiện vai trị tổ chức xã hội thơng qua hoạt động truyền bá tập thể.
Việc công chúng bày tỏ thái độ bằng cách cung thông tin trên các kênh truyền
thông đại chúng hoặc sử dụng nguồn tài liệu từ báo chí tại các diễn đàn khác
của họ như những lời phát biểu trong các buổi họp, hoặc dưới dạng các kiến
nghị cho thấy rõ thêm khả năng tổ chức hành động xã hội của các phương tiện
truyền thông đại chúng.
Một trong những nguyên lý của truyền thông đại chúng là trong q
trình truyền thơng, tần suất tương tác giữa chủ thể và khách thể càng nhiều,
càng bình đẳng, càng nhiều người tham gia thì năng lực và hiệu quả truyền
thơng càng cao. Do đó mơ hình tổ chức và cơ chế vận hành của cơ quan
truyền thông đại chúng cần phải phù hợp để mọi đối tượng cơng chúng có nhu
cầu và điều kiện có thể tham gia. Một trong những phẩm chất của nhà truyền
thông giỏi là biết tổ chức và kích thích , động viên và hướng dẫn cho nhiều
người cùng tham gia.
Truyền thơng đại chúng cũng mang tính mục đích rõ rệt. Các kênh
truyền thơng ln tác động đến đông đảo công chúng nhằm làm thay đổi thái
độ, hành vi và nhận thức của họ theo một chiều hướng nào đó, liên quan đến
việc tranh thủ tập hợp lực lượng. Do đó tính mục đích ở đây trước hết là mục
đích chính trị. Mục đích chính trị ấy có thể biểu hiện trực tiếp thơng qua các
khẩu hiệu chính trị, quyết tâm chính trị, hoặc gián tiếp qua tầng nấc trung gian
và dưới nhiều dạng thức khác nhau. Điều này khác với giao tiếp liên cá nhân14


linh hoạt và uyển chuyển hơn con giao tiếp trên các phương tiện truyền thơng
đại chúng mang tính định hướng và xác định rõ ràng hơn. “Không phải ngẫu
nhiên, ở giai đoạn đầu trong lịch sử nghiên cứu truyền thông đại chúng,

khoảng những năm 30 của thế kỷ này (thế kỷ XX), các nhà xã hội học người
Đức thuộc trường phái Frankfurt lại phê phán gay gắt khả năng biến công
chúng thành “những khối đại chúng” và nguy cơ phá hủy các quan hệ sinh
động của đời sống cộng đồng bởi áp lực của các phương tiện truyền thông
công cộng, khi hệ thống này bị thao túng bởi lập trường chính trị tư sản.” [6]
Có thể thấy các kênh truyền thơng đại chúng cịn thể hiện rõ nhất tính
phong phú, đa dạng xét trên mọi khía cạnh. Một là đối tượng phản ánh bao
gồm các sự kiện và vấn đề trong mọi lĩnh vực khác nhau của đới sống , từ các
hiện tượng tự nhiên xã hội, trong sản xuất đời sống. Hai là đáp ứng mọi nhu
cầu phát triển của con người và xã hội từ tâm lý, tình cảm, nhận thức, hiểu
biết đến hành vi. Ba là hệ thống ký hiệu, các phương tiện và phương thức sản
xuất, chuyển tải thông điệp rất đa dạng nhằm thu hút các giác quan của người
tiếp nhận; bốn là hình thức và thể loại cũng rất phong phú linh hoạt. Trong xã
hội thông tin khi mô thức truyền thông chuyển đổi từ đơn nguồn- đa tiếp
nhận đến mô thức đa nguồn- đa tiếp nhận thì tính phong phú đa dạng ấy sẽ
nhân lên gấp bội. Do đó nếu biết khai thác các thế mạnh đặc trưng của kênh
truyền thông sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp đa năng trong việc thu hút công
chúng vào việc xây dựng và phát triển bền vững.
Như vậy truyền thông đại chúng ngày càng chi phối sâu sắc và toàn
diện đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trên bình diện vĩ mơ cũng như
trong việc hình thành nhân cách của cá nhân con người. Trong xã hội hiện đại
các thế lực chính trị, các nhà kinh doanh, các nhà hoạt động văn hóa-xã hội
đều quan tâm khai thác và sử dụng truyền thông đại chúng như một công cụ
không thế thiếu. Mặt khác công chúng cũng dựa vào truyền thông đại chúng
để bày tỏ ý kiến, để tham gia ý kiến về các vấn đề xã hội và thực hiện quyền
được thông tin, quyền tự do ngơn luận của mình.
15


Hoạt động truyền thông đại chúng ngày càng được tăng cường hơn

trong xu thế tồn cầu hóa. Tồn cầu hóa truyền thông đại chúng mở ra môi
trường thông tin rộng lớn, thuận tiện nhất, giúp cho các dân tộc, các quốc gia
và cư dân toàn thế giới tăng cường khả năng giao lưu, tăng cường hiểu biết,
xích lại gần nhau. Điều này cũng có nghĩa là, nó giúp cho nhân loại nhân lên
sức mạnh của mình trong việc thống nhất nhận thức, hành động, tạo ra áp lực
mạnh mẽ cho việc giải quyết các vấn đề mà cuộc sống đặt ra, từ mối quan hệ
giữa con người với thiên nhiên đến các vấn đề trong quan hệ giữa con người
với con người ở những quy mô, phạm vi khác nhau.
3.2 Tiêu cực
Cùng với những hệ quả tích cực kể trên, q trình truyền thơng đại
chúng cũng đồng thời mang lại những hạn chế trong sự tương tác với công
chúng.
Sự phát triển ồ ạt, quá nhanh và mạnh và chưa được kiểm chứng của
lượng thông tin trên phương tiện truyền thông mới như internet hay mạng xã
hội sẽ tạo điều kiện lưu hành những thơng tin xấu, bất lợi, có tính chất tiêu
cực đối với những giá trị văn hóa, giá trị nhân văn truyền thống cũng đang là
một nguy cơ của xã hội hiện đại. Cùng với dòng chảy những thơng tin có giá
trị tốt, tồn cầu hóa cũng đồng thời với việc mở rộng cánh cửa kiểm soát của
các quốc gia cho những thông tin tiêu cực, bất lợi, trái với những giá trị đích
thực và các truyền thống bản địa tốt đẹp. Đặc biệt, hệ quả phức tạp là sự đổ
bộ xơ bồ những thơng tin có tính chính trị nhưng khơng có định hướng nhận
thức rõ ràng, dẫn đến sự nhiễu loạn, làm mất phương hướng của dư luận xã
hội, thậm chí dẫn đến những tác động tư tưởng tiêu cực, bất lợi cho sự ổn
định chính trị – xã hội, một điều kiện không thể thiếu để bảo đảm cho sự phát
triển của cá nhân và cộng đồng.
Mặt khác các phương tiện truyền thông đại chúng là tác nhân cơ bản
tạo nên văn hóa đại chúng, được đặc trưng bởi khả năng sản xuất hàng loạt,
bởi độ bao phủ rộng lớn, bởi sự liên kết của các quan hệ chức năng tạo thành
16



hệ thống đa phương tiện. Những tác nhân này dẫn đến những ảnh hưởng tiêu
cực về văn hóa do dịng chảy các sản phẩm phi văn hóa và sự xâm lăng của
các giá trị văn hóa ngoại lai, phi truyền thống dẫn đến sự nhất thể hóa tiêu cực
về văn hóa, sự phá hoại và thậm chí, cịn dẫn đến nguy cơ phá vỡ các mối
quan hệ hệ văn hóa cộng đồng lâu đời.
Xuất hiện sự cạnh tranh lẫn nhau giữa các loại hình truyền thơng để
phục vụ cơng chúng như một đối tượng khách hàng nhằm nâng cao lợi nhuận
và giải quyết bài toán kinh tế cho mỗi cơ quan báo chí truyền thơng. Điều ấy
tất yếu dẫn đến những hiện tượng tiêu cực như thương mại hóa báo chí, ơ
nhiễm truyền thơng, xuất hiện ngày càng nhiều các loại báo chí hoạt động
theo hướng đăng tải thơng tin giật gân câu khách, khơng cịn giữ được chức
năng định hướng xã hội của truyền thông đại chúng.
3.3

Liên hệ thực tiễn Việt Nam
Thực tế cho thấy, mỗi ngày, trên các phương tiện truyền thông đại
chúng hầu như đều xuất hiện những bài viết, những chương trình nói về tham
nhũng. Sự việc tham nhũng ở địa phương này chưa giải quyết xong thì sự việc
khác ở địa phương khác bị “lơi ra ánh sáng”. Điều đáng nói hơn nữa, những vị
đảng viên, là quan chức nhà nước dính líu ngày càng nhiều vào tham nhũng.
Điều này đã gây cho khơng ít người dân hoang mang, làm giảm lòng tin, sức
mạnh vào con đừơng đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta, đó là sự thật mà
chúng ta phải nhìn thẳng vào.
Trong thời gian qua, các phương tiện truyền thông đại chúng đã là
nơi đáng tin cậy của ngừơi dân để phản ánh các vấn đề xã hội. Làm tăng
cường và phát triển dân chủ hóa trong các mặt của đời sống xã hội. Tổ chức
và động viên nhân dân tham gia các họat động quản lí xã hội. Hầu hết trên các
báo đều có các chuyên mục dành cho nhân dân, là diễn đàn thực sự cho nhân
dân, ví dụ: “Ý kiến bạn đọc” , “chúng tơi có ý kiến”, “Ý kiến bạn xem đài” đã

nhằm cung cấp những thông tin thiết thực chống tham nhũng.
Trên tạp chí pháp lý (phaply.net.vn) đã có hàng loạt các bài viết về vụ
17


việc “Những vụ thơn tính đất đai ở tỉnh Bình Phước”.
Báo chí đã nhận được sự phản ánh , đơn gửi của nhiều người dân trong
tỉnh, tố cáo cán bộ tham nhũng đất đai, nên mở một cuộc điều tra và đăng một
loạt bài phóng sự : Kỳ I: Lợi dụng danh nghĩa lực lượng vũ trang thu đất giao
cho tư nhân;kỳ II: Quan chức 'vô tư' giúp lập dự án ma, bán đất rừng ;Kỳ III:
Thủ đoạn thâm độc của chủ nhiệm HTX Dân Sinh và 'liên minh ma quỷ'!; Kỳ
IV: Vì sao nhiều quan chức nhiệt tình tiếp tay?

18


LỜI KẾT
Các phương tiện truyền thông đại chúng là một quyền lực thực sự trong
thế giới hôm nay. Chúng tạo ra dư luận, chi phối dư luận, kiểm soát cuộc
chuyện trị trao đổi cơng cộng. Điều đó cũng có nghĩa là một cách nào đó
chúng cũng chi phối cách suy nghĩ, chọn lựa và hành động của mỗi người
chúng ta.
Nhờ các phương tiện truyền thông ngày nay, đặc biệt nhất là Internet,
chúng ta có thể tiếp cận một khối lượng thông tin khổng lồ, hầu như vô tận
(thông tin ở đây hiểu theo nghĩa rộng) bao gồm hết mọi lãnh vực của tri thức
và đời sống, nhưng trong đó vàng thau, tốt xấu, đúng sai, thật ảo lẫn lộn. Nếu
không có những chọn lựa rõ ràng theo những định hướng hữu ích cho bản
thân, ta sẽ bị lạc lối và phung phí thời giờ vơ ích, –khơng phải chỉ vơ ích mà
cịn rất có hại nữa. Điều này địi hỏi một sự rèn luyện kỷ luật bản thân kiên
quyết và kiên trì ( việc sử dụng Internet) .

Truyền thơng phải góp phần định hướng dư luận xã hội. Khi đứng trước
một vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội, bên cạnh trách nhiệm thông tin kịp
thời, truyền thông đại chúng phải đặt trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã
hội lên trên; tức là trăn trở, tìm hiểu và lý giải vấn đề một cách thấu đáo với
cái nhìn sắc nét, biện chứng.
Cách đưa thông tin của phương tiện thông tin đại chúng phải làm sao
giúp độc giả nhìn vấn đề dưới một góc nhìn trọn vẹn nhất, từng câu, từng
chữ phải được cân nhắc sao cho khách quan, trung thực. Từ đó, giúp độc
giả có những suy nghĩ, tình cảm, hành động đúng để bảo vệ cái tốt, cái tiến
bộ, đấu tranh với cái xấu, cái ác. Đồng thời, cần tỏ rõ thái độ ủng hộ cái tốt,
cái tích cực và đấu tranh không khoan nhượng với những tiêu cực trong đời
sống xã hội.

19


MỤC LỤC

20



×