Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt Nam (1945 - 1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 26 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LỊCH SỬ
*****

Tiểu luận học phần: Lịch sử Việt Nam cận hiện đại II

BỘ ĐỘI HẢI NGOẠI
TRONG
GIAI ĐOẠN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP TÁI XÂM
LƯỢC VIỆT NAM
(1945-1954)

TP. H ồ Chí Minh, tháng 03 năm 2019


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam
(1945-1954)

MỤC LỤC
1.Bối cảnh Lịch sử................................................................................................
2. Quá trình hình thành và hoạt động của bộ đội

4
hải 5

ngoại..................................
2.1. Phong trào yêu nước của Việt kiều................................................................
2.2.Các đơn vị bộ đội hải ngoại về nước hoạt động.............................................


2.2.1. Đơn vị Bộ đội Độc lập số 1.........................................................................
2.2.2. Đơn vị Bộ đội Quang Trung.......................................................................
2.2.3. Chi đội Trần Phú.........................................................................................
2.2.4. Tiểu đoàn Hải ngoại Cửu Long II...............................................................
2.2.5. Đơn vị Cao Miên Việt kiều cứu quốc quân................................................
3.Kết luận.............................................................................................................
Tài liệu tham khảo................................................................................................
Phụ lục..................................................................................................................

2|Page

5
8
8
10
12
14
16
17
21
22


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam
(1945-1954)

DẪN NHẬP
Có một đặc điểm chung lớn nhất trong lịch sử hình thành và phát tri ển
của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đó là ra đ ời từ phong trào cách

mạng của quần chúng nhân dân, vì nhân dân, vì Tổ quốc Vi ệt Nam mà chi ến
đấu. Từ các đội tự vệ trong phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh, đến du kích Nam Kỳ,
du kích Ba Tơ, du kích Bắc Sơn, đội Việt Nam tuyên truy ền gi ải phóng quân, các
đội Cứu quốc quân… được sự chăm lo của Đảng và Chủ tịch H ồ Chí Minh, được
sự giúp đỡ của nhân dân, đã phát tri ển thành các đơn vị chủ lực l ớn mạnh sau
này… Tất cả đều ra đời trong đấu tranh cách mạng của nhân dân và tr ưởng
thành trong chiến tranh nhân dân. Đặc bi ệt, chiến đ ấu dưới lá c ờ “Quân kỳ
quyết thắng” quang vinh cịn có một số đơn vị vũ trang ra đời trong phong trào
cách mạng của Việt kiều ở nước ngồi - đó là các đơn vị bộ đội hải ngoại từ Thái
Lan, Lào và Campuchia về nước tham gia kháng chiến. Đây là m ột nét đ ộc đáo
trong lịch sử xây dựng và phát triển của quân đội ta.

3|Page


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam
(1945-1954)

1.

Bối cảnh Lịch sử
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam và từng

bước thiết lập bộ máy thống trị, biến Việt Nam từ một quốc gia phong ki ến
thành thuộc địa nửa phong kiến. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các
phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp di ễn ra liên tục và sôi
nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Cách mạng Vi ệt Nam dần chìm trong
cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước. Sau hơn 30 năm bôn ba nước
ngồi tìm đường cứu dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã tr ở về nước, thành lập nên

Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930. Từ đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng l ợi cơ bản mà đỉnh cao là Xô
Viết - Nghệ Tĩnh, cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ (1936-1939) và cao
trào giải phóng dân tộc dẫn tới Cách mạng Tháng Tám 1945 .
Để chuẩn bị trực tiếp cho Cách mạng tháng Tám 1945, ngày 22/12/1944,
theo Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam Tuyên truyền Gi ải phóng
quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam - được thành l ập t ại khu r ừng
Trần Hưng Đạo (châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng). Vừa mới ra đời, Đ ội Vi ệt
Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã giành thắng l ợi trong hai tr ận đánh đ ồn
Phai Khắt (ngày 25/12/1944) và Nà Ngần (ngày 26/12/1944), gây ti ếng vang
lớn, mở đầu cho những trang sử hào hùng của quân đội ta. Tháng 5/1945, Việt
Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Cứu quốc quân cùng các tổ ch ức vũ trang
cách mạng khác hợp nhất thành Việt Nam Gi ải phóng quân. Tháng Tám năm
1945, thời cơ xuất hiện, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng cùng tinh th ần
đoàn kết của cả dân tộc, quân dân Việt Nam đã ti ến hành cu ộc tổng kh ởi nghĩa
“long trời, lở đất” giành chính quyền trên phạm vi tồn quốc, chấm dứt sự thống
trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật xâm lược, xóa bỏ ch ế đ ộ th ực dân, phong
kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên m ới đ ộc l ập,
tự do cho dân tộc.

4|Page


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam
(1945-1954)
Nhưng không lâu sau ngày tuyên bố độc lập ấy, thực dân Pháp tr ở l ại xâm
lược nước ta. Với chính sách bảo thủ phản động, thực dân Pháp huy đ ộng lực
lượng và vũ khí trang bị cùng phương tiện chiến tranh hi ện đại nhằm m ục tiêu
nhanh chóng phát huy sức mạnh, đè bẹp mọi sự kháng cự của cách mạng Vi ệt

Nam, tiêu diệt quân đội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa non trẻ, nhanh chóng
kết thúc chiến tranh, thiết lập lại nền cai trị thuộc địa hà khắc, tàn bạo trước
đây. Được sự giúp đỡ của quân đội Anh, ngày 23/9/1945, thực dân Pháp ti ến
cơng Sài Gịn mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Ti ếp đó, từ
tháng 10/1945 - 01/1946, quân Pháp tiếp tục đánh chi ếm nhi ều đ ịa bàn quan
trọng ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, từng bước thi ết l ập h ệ th ống kìm k ẹp t ại c ơ
sở.
Trước âm mưu, hành động xâm lược của kẻ thù, nhân dân Vi ệt Nam
khơng có con đường nào khác là cùng nhau đoàn kết, cầm súng chi ến đ ấu đ ể
bảo vệ độc lập, tự do. Trước vận mệnh đất nước lâm nguy, kiều bào Việt Nam
đã có nhiều hoạt động sơi nổi, tích cực và thiết thực ủng hộ, chi vi ện cho cu ộc
chiến đấu ở trong nước. Đặc biệt, các đơn vị bộ đội hải ngoại từ Thái Lan, Lào
và Campuchia - mang theo mối tình quốc tế cao cả - về Tổ qu ốc tham gia kháng
chiến.

2. Quá trình hình thành và hoạt động của bộ đội hải ngoại
2.1 Phong trào yêu nước của Việt kiều
Do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, trong cộng đồng người Việt Nam sinh s ống
ở nước ngoài, Việt kiều ở Thái Lan, Campuchia và Lào đã s ớm có tổ chức phong
trào yêu nước. Những hoạt động của phong trào đã có ảnh h ưởng tr ực ti ếp đ ến
cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta, nhất là trên mặt tr ận qu ốc t ế ngoại giao.
Trước Cách mạng tháng 8, Tổng hội Việt kiều Lào - Thái đã tập h ợp
những thanh niên ưu tú thành lực lượng vũ trang của Việt ki ều l ấy tên là “Vi ệt
Nam độc lập quán” tại chiến khu Sakon – Nakhon vào ngày 28/3/1945. Khi
chiến khu mới thành lập được đặt dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Hữu Bình và có
5|Page


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam

(1945-1954)
20 – 30 thanh niên làm nhiệm vụ sản xuất vũ khí, hỗ tr ợ cho cách m ạng Vi ệt
Nam1.Khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa mới ra đời chưa được các nước khác
cơng nhận và bị cơ lập thì tại Bangkok, Thái Lan một cơ quan đại di ện của Chính
phủ Việt Nam đã được thành lập vào tháng 8/1946, gọi là Phái viên quán, tr ụ s ở
tại số 222 đường Sathon. Từ ngày 14/4/1947, cơ quan này chính thức đi vào
hoạt động do Nguyễn Đức Quỳ phụ trách. Đồng th ời, m ột phịng Thơng tin Vi ệt
Nam (Việt Nam Thơng tấn xã) cũng được thành lập do Lê Hy đứng đ ầu. Trung
ương và Chính phủ cử Trần Văn Giàu, Dương Quang Đông (từ Nam B ộ sang
Bangkok) thành lập Ban sưu tầm vũ khí cùng với Tổng ủy Việt kiều cứu quốc, do
Ban cán sự Đảng bộ Việt kiều lãnh đạo.2
Thủ đô Bangkok thời kỳ này trở thành địa bàn lý tưởng cho các ho ạt đ ộng
đối ngoại và tuyên truyền quốc tế của chính phủ Việt Nam Dân chủ C ộng hịa.
Thơng qua phịng Thơng tin Việt Nam mà Liên Xô và Việt Nam đã liên l ạc đ ược
với nhau. Một nhà ngoại giao Liên Xô làm vi ệc trong Phái đoàn đ ặc bi ệt của Liên
Xơ tại Bangkok lúc đó đã viết: “Cơ quan thơng tin của Vi ệt Nam Dân chủ C ộng
hịa ở Bangkok là cơ quan đối thoại duy nhất của nước Việt Nam Dân ch ủ C ộng
hòa nằm gần lãnh thổ Việt Nam, nó có th ể giữ liên lạc các vùng gi ải phóng trong
nước, nhận thơng tin từ đó, rồi phổ biến ở Thái Lan đ ể gửi sang Pháp, n ơi có
nhiều người Việt Nam yêu nước sinh sống”.3
Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp của Vi ệt Nam, ở
Thái Lan, chính phủ dân tộc tiến bộ do Pridi Phnomdong đứng đầu. Theo chỉ
đạo của Trung ương, đồng chí Phạm Văn Xơ giao 25kg vàng - quyên góp đ ược từ
nhân dân sau Tuần lễ vàng cứu nước - cho đồng chí Dương Quang Đông lên
đường sang Thái Lan với 3 nhiệm vụ:
1. Dựa vào Việt kiều, vận động nhân dân và Chính phủ Thái Lan ủng h ộ
cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc của ta;
1. Cristopher. E. Goscha (1999), Thailand and the Southeast Asia Networks of the Vietnamese

Revolution, 1885 – 1954, Cuzon Press, p146-147.

2 Trần Huy Lưu (2004), Việt kiều Lào - Thái với quê hương, nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, trang
139.
3 Phan Ngọc Liên (Chủ biên) (1994), Hồ Chí Minh - Những hoạt động quốc tế, nxb Quân đội
Nhân dân, Hà Nội, trang 209.
6|Page


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam
(1945-1954)
2. Mở đường biển rồi sau đó mở đường bộ từ Thái Lan tới Nam B ộ ngang
qua Campuchia để đưa vũ khí về;
3. Mở mặt trận thứ hai đánh Pháp trên đất bạn.
Sang Thái Lan, Dương Quang Đông gặp Trần Văn Giàu. Hai người h ọp bàn
và phân cơng nhiệm vụ. Vì là bạn học chung tại Pháp, Tr ần Văn Giàu lo vi ệc ti ếp
xúc với Thủ tướng Pridi Phanomyon, tranh thủ sự ủng hộ của chính quyền Thái
Lan. Dương Quang Đơng lo thực hiện những nhiệm vụ của Xứ ủy Nam Bộ giao
phó. Hai nhóm gặp nhau, hợp lực cùng vận động Vi ệt ki ều ủng h ộ Nam B ộ
kháng chiến. Thủ tướng Thái Lan Pridi Phanomyon vốn có cảm tình với nhân
dân Việt Nam và đặc biệt ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Chính vì
thế, khi tiếp xúc với Trần Văn Giàu, người bạn học thời sinh viên bên Pháp, Pridi
Phanomyon đã hết lòng ủng hộ và tạo mọi điều kiện như cho phép l ập m ột s ố
cơ sở huấn luyện quân sự và sản xuất, sửa chữa vũ khí để hỗ trợ cho cu ộc
kháng chiến ở Nam Bộ. Đặc biệt Thủ tướng Thái Lan Pridi Phanomyon tặng l ực
lượng kháng chiến Việt Nam 50 tấn súng đạn và hóa chất.
Bên cạnh đó, Việt kiều sinh sống ở Thakek, Vientiane, Savanakhet (Lào)
cũng đã thành lập “Ủy ban ủng hộ Nam bộ”, quyên góp ti ền mua s ắm vũ khí g ửi
theo các đồn qn tình nguyện mang về nước. Sau đó, để tránh địn tiến cơng ác
liệt của Pháp, tranh thủ sự ủng hộ của Chính phủ Thái Lan, từ cu ối tháng
4/1946, hơn 4 vạn Việt kiều ở Lào, lần lượt tản cư sang các t ỉnh d ọc sông

Mekong -Thái Lan, hình thành cộng đồng người Vi ệt l ớn nhất tại đơng b ắc Thái
Lan.Vốn có truyền thống u nước đại bộ phận Việt kiều đã hi sinh nhà c ửa,
ruộng vườn, nhiều tài sản lớn, để tỏ thái độ bất hợp tác, vườn ko nhà tr ống, tìm
con đường kháng chiến cứu nước phù hợp, chuẩn bị mọi điều ki ện đ ể tr ở lại
hoạt động ở Lào khi thuận lợi.
Trong đầu năm 1946, để đáp ứng nhiệm vụ mới của cách mạng và dân
tộc, các tổ chức Việt kiều đã hợp nhất thành Tổng hội Vi ệt ki ều. Tổng h ội Vi ệt
kiều thành lập nên các chiến khu dọc theo vùng rừng núi đông b ắc Thái Lan và
biên giới Thái Lan - Campuchia. Ngoài việc ủng hộ vật chất, kiều bào Việt Nam ở
7|Page


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam
(1945-1954)
Thái Lan, Lào và Campuchia còn thành lập các đơn vị vũ trang v ới trang b ị khá
nhiều và tốt về nước trực tiếp tham gia chiến đấu cùng quân và dân các đ ịa
phương ở chiến trường Nam bộ. Bộ đội Việt kiều giải phóng được triệu tập lại,
thanh niên trong cộng đồng người Việt khắp Thái Lan nô n ức lên đ ường v ề t ập
trung tại các chiến khu. “Tất cả có 13 chiến khu v ới 2000 cán b ộ chi ến sĩ, t ủng
bình mỗi chiến khu có khoảng 70 – 150 người. Lớn nh ất là chi ến khu Umke
Noonghoi có đến 420 người”.4
Sau 6 -7 tháng học tập (huấn luyện quân sự tại Thái Lan, cùng v ới thanh
niên miền Bắc nô nức “Nam tiến”) từ tháng 8/1946 đến tháng 12/1946, b ốn
đơn vị Việt kiều được thành lập: “Bộ đội Độc lập số 1”, “Bộ đội Quang Trung”, “
Chi đội Trần Phú”, “Tiểu đoàn hải ngoại Cửu Long II” lặng lẽ bí m ật v ượt qua
Campuchia, Lào băng rừng vượt núi lần lượt lên đường về mi ền Nam chi ến đ ấu
theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc. 5

2.2 Các đơn vị bộ đội hải ngoại về nước hoạt động

2.2.1 Đơn vị Bộ đội Độc lập số 1
Ngày 10/8/1946, đồng chí Trần Văn Giàu nguyên Bí thư Xứ ủy kiêm chủ
tịch Ủy ban hành chánh kháng chiến Nam bộ và là đ ặc phái viên B ộ T ư l ệnh
Quân đội Nhân dân Việt Nam thay mặt Bộ Tư lệnh Ủy ban kháng chi ến Hành
chánh Nam bộ công bố quyết định thành lập Bộ đội Độc lập s ố 1 tại chi ến khu 4
ở Tà Om, biên giới tỉnh Battambang nước Xiêm (nay là Thái Lan) và l ệnh đ ơn v ị
chuyển về nước tham gia cuộc kháng chiến Nam bộ. Đơn vị có 105 cán bộ chiến
sỹ - đại đa số là con em Việt kiều ở Battambang, do đồng chí Huỳnh Văn Vàng
(tức là Dương Tấn) làm chỉ huy trưởng, đồng chí Ngơ Th ất S ơn làm ch ỉ huy phó,

4 Trần Huy Lưu (2004), Việt kiều Lào - Thái với quê hương, nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, trang

142.
5 Trần Huy Lưu (2004), Việt kiều Lào - Thái với quê hương , nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, trang

143.

8|Page


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam
(1945-1954)
đồng chí Đặng Văn Duyệt làm chính trị viên kiêm Bí thư chi bộ. 6Cùng ngày, đơn
vị xuất phát hướng về Tổ quốc.
Dọc đường đi, một bộ phận được chia ra từ đơn vị mang danh nghĩa b ộ
đội Issarắk do Ngô Thất Sơn chỉ huy. Vượt sông Mekong giữa mùa nước lũ lên
cao, nước chảy xiết, ghe chở đơn vị lạc nhau. Tới ngày 20/9/1946, một bộ phận
khoảng 20 người do Huỳnh Văn Vàng và Ngô Thất Sơn chỉ huy về được đ ến căn
cứ Tân Biên, bộ phận còn lại về vùng Lộc Ninh - Hớn Qu ản nhưng khơng móc

nối được với cơ sở, bị lộ và bị quân Pháp tập kích nhiều l ần, nên ph ải v ượt sông
Bé về vùng bắc Đồng Xoài. Ngày 13/10/1946, bộ phận này mới bắt được liên lạc
với trinh sát Chi đội 10. Tới ngày 20/10/1946, hai bộ phận m ới gặp nhau tại căn
cứ Cây Cầy (xã Hòa Hội, Châu Thành, Tây Ninh) và đổi tên thành b ộ đ ội hải
ngoại số 1 Nam bộ khu 7.7
Sau khi đơn vị về nước, Quân khu 7 đã rút Huỳnh Văn Vàng về Sài Gòn Gia Định và chỉ định Ngô Thất Sơn làm chỉ huy trưởng, b ố trí đơn vị ho ạt đ ộng ở
Tây Ninh. Theo đề nghị của Ban lãnh đạo Tây Ninh, Quân khu 7 cho B ộ đ ội H ải
ngoại số 1 lập căn cứ đứng chân tại Tây Ninh đ ể giúp và ph ối h ợp v ới Quân đ ội
Tây Ninh để bảo vệ vùng biên giới từ Tây Ninh đến khu Đông Thành và b ảo vệ
nội địa Tây Ninh. Đồng chí Dương Minh Châu, chủ tịch U ỷ ban Hành chánh kháng
chiến Tây Ninh, cùng các đồng chí Thuần phó chủ tịch U ỷ ban Hành chánh kháng
chiến Tây Ninh và đồng chí Ngô Thất Sơn đi khảo sát địa bàn và th ống nhất ch ọn
khu rừng Cây Cầy (nay thuộc ấp Lưu Văn Vẳng, xã Hòa H ội, huy ện Châu Thành)
làm căn cứ cho Bộ đội Hải ngoại số 1 từ tháng 10/1946 đ ến đ ầu năm 1951. T ại
đây, đơn vị tiến hành các hoạt động quấy rối địch, diệt tề trừ gian, bảo v ệ phong
trào địa phương, vận động thanh niên tòng quân và kêu gọi đồng bào ủng h ộ v ật
chất cho kháng chiến. Một bộ phận của đơn vị đã phối hợp v ới Chi đ ội 11 ti ến
6 Nguyễn Phi Sang, “Căn cứ bộ đội Hải ngoại s ố 1”, Trường THCS Bưng Bàng,Tây Ninh, đăng

ngày 20/06/2013, lúc 20:23.
[truy cập ngày
10/03/2019, lúc 15:43]
7 Phan Sỹ Phúc, “Bộ đội Hải ngoại của quân đ ội ta”, Báo tin tức, đăng ngày 20/12/2012, lúc
08:23.
/>cập ngày 10/03/2019, lúc 15:38]
9|Page


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam

(1945-1954)
hành các hoạt động công đồn, chống càn, bảo vệ căn cứ, đối phó v ới l ực l ượng
Cao Đài phản động trên địa bàn tỉnh.
Đầu năm 1947, Bộ đội hải ngoại số 1 được chuyển thành Trung đoàn 305.
Cuối tháng 10/1948, Quân khu 7 quyết định thành lập B ộ đội Sivotha, do đ ồng
chí Ngơ Thất Sơn làm chỉ huy trưởng, đồng chí Trần Văn Đẩu làm ch ỉ huy phó và
đồng chí Trịnh Xuân Đức làm chính trị viên kiêm Bí th ư Qu ận ủy Đông b ắc
Campuchia. Bộ đội Sivotha gồm các lực lượng Khmer Issarắk hi ện có và tăng
cường một bộ phận lớn của Trung đoàn 305 và một đại đội của Trung đoàn 311.
Đây là đơn vị qn tình nguyện Việt Nam có nhiệm vụ hoạt động trên địa bàn
các tỉnh đông bắc Campuchia nhưSvây Riêng, Preyveng, Congpong Chàm, Kratíe.
Bộ đội Sivotha ra đời thay thế và kế tục nhiệm vụ của bộ đội hải ngoại số
1. Từ đây, bộ đội hải ngoại số 1 coi như hồn thành nhiệm vụ l ịch sử và hịa
nhập vào lực lượng qn tình nguyện Việt Nam ở miền đơng Campuchia. Ngày
2/9/1949, Pháp mở cuộc càn vào căn cứ, đồng chí Ngơ Thất S ơn đang h ọp v ới
Tỉnh ủy Tây Ninh tại căn cứ Khăn Xiêng ở Tà Éc thì Pháp đ ổ quân nhi ều m ặt (c ả
trên bộ và dưới sông) đánh vào căn cứ Tà Nịn - Băng Dung. Đ ồng chí S ơn xin
phép về chỉ huy chống càn, đồng chí cùng với người thư ký (người Campuchia)
và hai bảo vệ vượt sông về gần tới căn cứ, chẳng may đồng chí l ọt vào vịng vây
của địch. Chúng đưa đồng chí đi nhiều nhà tù, tìm m ọi cách cám d ỗ, mua chu ộc
nhưng không được, chúng lén thủ tiêu đồng chí ở giữa cánh đ ồng Đ ức Hịa, t ỉnh
Long An, cùng với đồng chí Huỳnh Bá Nhung nguyên Trưởng ty Y tế Gia Định. Sau
khi đồng chí Ngơ Thất Sơn bị bắt, tháng 9/1949 trên chỉ định đ ồng chí Huỳnh
Văn Vàng trở lại làm Chỉ huy trưởng Bộ đội Sivotha khu Đông Bắc Campuchia.
Năm 1951, thực hiện chủ trương hợp nhất khu Đông Bắc và Đông Nam thành
miền Đông Campuchia, các lực lượng của Bộ đội Sivotha được chọn và điều
động để sắp xếp bộ máy của các tỉnh Kompongcham, Svay-Riêng, Pray-Veng và
bộ máy cơ quan miền Đơng thành những đơn vị mới của tình nguy ện quân Vi ệt
Nam miền Đông Campuchia.8 Đến tháng 4/1951 việc sắp xếp theo tổ chức đã
8 Nguyễn Phi Sang, “Căn cứ bộ đội Hải ngoại số 1”, Trường THCS Bưng Bàng,Tây Ninh, đăng


ngày 20/06/2013, lúc 20:23.
10 | P a g e


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam
(1945-1954)
được ổn định, Bộ đội Sivotha Đơng Bắc Campuchia khơng cịn nữa đã hồn thành
sứ mệnh lịch sử của mình. Đến cuối năm 1954 tập kết ra mi ền B ắc, các đ ơn v ị
tình nguyện quân ở Campuchia lại hòa hợp với các sư đoàn của Nam bộ.
Suốt 5 năm (cuối năm1946 đến năm 1951) Bộ đội Sivotha đều đứng chân
ở rừng Cây Cầy, đây là địa bàn do lãnh đạo tỉnh Tây Ninh giao cho B ộ đ ội H ải
ngoại số 1 phụ trách hoạt động xây dựng cơ sở. Nơi đây không ch ỉ là hậu c ứ c ủa
Ban chỉ huy đơn vị mà còn là nơi học tập, huấn luyện của các đ ội võ trang công
tác độc lập. Đơn vị xây dựng được nhiều căn cứ kháng chiến liên hoàn d ọc theo
biên giới tạo thành lá chắn an tồn phía sau lưng các căn c ứ chi ến l ược c ủa Tây
Ninh và Trung ương Cục miền Nam, đã góp phần cơng sức đáng k ể cho Tây Ninh
và miền Đông Nam bộ trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp và cịn ảnh
hưởng rất tích cực trong cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này.

2.2.2. Đơn vị Bộ đội Quang Trung
Bộ đội hải ngoại số 3 (Quang Trung) được thành l ập vào tháng 11/1946,
tại Batdambang tại chiến khu Phnum Tippaday. Phạm Xuân Thu ận là ch ỉ huy
trưởng kiêm chính trị viên trưởng, Hồng Xn Bình là phụ trách quân sự, Võ
Hoàng và Hoàng Ngọc Cừ làm chính trị viên phó. 9 Chiều 15/11/1946, đơn vị làm
lễ xuất phát về Tổ quốc.
Sau một hành trình đầy khó khăn, gian khổ, vượt rừng núi trong sự truy
lùng của quân Pháp, ngày 05/01/1946, đơn vị tới bờ kênh Vĩnh Tế, v ề đ ến T ổ
quốc trong sự chào đón nồng nhiệt của nhân dân. Khi về nước, đơn vị đóng qn

ở xã Vĩnh Hịa, quận Tân Châu (Châu Đốc - An Giang). Sau đó, Bộ Tư l ệnh Khu 9
đã phân tán bộ đội Quang Trung về nhiều cơ quan đơn v ị của Khu, trong đó
phần lớn về trong thành phần Chi đội 22.

2.2.3. Chi đội Trần Phú
[truy cập ngày
10/03/2019, lúc 15:43]
9 Phan Sỹ Phúc, “Bộ đội Hải ngoại của quân đội ta”, Báo tin tức, đăng ngày 20/12/2012, lúc
08:23.
/>[truy cập ngày 10/03/2019, lúc 15:38]
11 | P a g e


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam
(1945-1954)
Chi đội Trần Phú (Chi đội Hải ngoại 4) được thành lập vào đầu tháng
8/1946 tại Chiến khu Um Kè - Nong Hỏi (Thái Lan). Lúc thành l ập, chi đ ội có h ơn
400 người mà nòng cốt là liên quân Việt - Lào đã từng chi ến đấu trên m ặt tr ận
Lào từ đầu năm 1946. Ngày 10/12/1946, sau 4 tháng học lập và lao động, đơn vị
nhận lệnh về Nam bộ chiến đấu. Ngày 20/12/1946, toàn lực lượng hành quân
từ Thát Phanon (Trung bộ Thái Lan) về tập kết ở khu rừng M ường Đ ệt (đông
nam Thái Lan). Tại khu rừng Mường Đệt vào chiều 26/12/1946, chi đội Trần
Phú làm lễ xuất phát, ban chỉ huy chi đội g ồm: Nguy ễn Chánh - chi đ ội tr ưởng,
Lê Quốc Sản và Đỗ Huy Rừa - chi đội phó, Trần Văn Sáu - chính tr ị viên, Lê Quán
Trung và Dương Cự Tẩm; Sơn Ngọc Thành - cố vấn. Đơn vị cũng được tăng
cường thêm ba cán bộ là Sơn Ngọc Minh - cán bộ cách m ạng Campuchia, Tr ần
Văn Sáu, Lê Quốc Trung và bốn chiến sỹ nữa. Chi đ ội được t ổ ch ức thành ba đ ại
đội chiến đấu, một phân đội trinh sát, một phân đội v ận tải. 10 Vũ khí trang bị
của đơn vị phần lớn là các loại súng liên thanh mới và khá nhi ều đ ạn. Quân ph ục

thống nhất dép da, ba lô, thắt lưng, mũ sắt. Cán bộ chi ến sỹ đ ơn v ị đ ều ph ải
mang vác khá nặng. Cuộc hành quân của Chi đội v ề đất nước ch ỉ b ằng đôi chân,
vai mang nặng vượt qua hàng trăm cây s ố đường trong đi ều ki ện đ ịch luôn truy
đuổi, địa hình khơng thơng thạo… nên gặp rất nhiều khó khăn. Trên đường đi,
Chi đội phải chiến đấu với địch ở Roviêng, Kratíe.
Ngày 27/2/1947, đơn vị về đến Tây Ninh. Hai ngày sau đó, chi đ ội di
chuyển về căn cứ Trà Vông cùng đơn vị Bộ đội độc lập số 1 của Ngô Thất Sơn
cũng vừa từ Thái Lan về. Về đến Tổ quốc, đơn vị đã tham gia chi ến đ ấu ngay
cùng quân và dân miền Đông Nam bộ. Đầu tiên là tr ận đánh đ ịch nh ảy dù ở
Giồng Dinh và Giồng Thổ Địa. Đơn vị phối hợp cùng các đơn vị của Chi đội 11, B ộ
đội hải ngoại 1, Bộ đội Hoàng Thọ… chiến đấu ở Trảng Bàng và Gò Dầu (Tây
Ninh).

10 Phan Sỹ Phúc, “Bộ đội Hải ngoại của quân đội ta”, Báo tin tức, đăng ngày 20/12/2012, lúc

08:23.
/>[truy cập ngày 10/03/2019, lúc 15:38]
12 | P a g e


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam
(1945-1954)
Đầu tháng 4/1947, Chi đội về hoạt động ở hữu ngạn sông Ti ền gồm các
huyện Châu Thành, Lai Vung, Lấp Vò và thị xã Sa Đéc, dưới s ự ch ỉ đ ạo c ủa Khu 8.
Lúc này, chi đội được Khu tăng cường thêm Đại đội Xung phong, nâng s ố đ ơn v ị
thuộc chi đội lên bốn đại đội. Khi về tới Sa Đéc, Chi đội Trần Phú được đổi tên là
Bộ đội Hải ngoại 4. Các chiến sĩ trong Bộ đội Hải ngoại 4 v ề sau d ần d ần đ ược
điều động đi các trung đoàn, trở thành cán bộ nòng cốt của nhi ều đ ơn v ị. Ph ần
lớn quân số được giữ lại xây dựng nên Tiểu đoàn 307 do Đỗ Huy Rừa làm ch ỉ

huy. Trên chiến trường Sa Đéc, đơn vị đã tham gia chiến đấu nhi ều tr ận l ớn nh ỏ,
giành nhiều thắng lợi, góp phần đưa phong trào chiến tranh ở địa phương phát
triển mạnh. Tháng 5/1947, trong khí thế thi đua lập công mừng sinh nhật l ần
thứ 57 của Bác Hồ (19/5/1947), Chi đội bí mật ti ếp cận, b ất ng ờ n ổ súng, đánh
cho địch tê liệt ngay từ đầu, làm chủ địa bàn Sa Đéc, đẩy mạnh việc trừ gian diệt
ác, được người dân đồng tình ủng hộ. Ngày 19/5/1947, Chi đội tấn cơng vào kho
xăng của địch. Hỏa lực, lựu đạn từ các mũi tấn công của ta n ổ d ồn d ập vào các
đồn Cảnh sát, bót canh của địch khắp thị xã. Chỉ trong nửa giờ đồng hồ, quân ta
đã làm chủ thành phố, làm thiệt hại hơn 10.000 lít xăng của địch, bắt s ống 10
tên, thu 10 súng, giáo dục và và thả tù binh tại ch ỗ hàng trăm tên. Các đ ội tr ừ
gian tỏa đi khắp các đường phố. Đội tuyên truyền chia nhau đi dán truy ền đ ơn,
khẩu hiệu…. Tiếng loa vang lên trong đêm loan tin chi ến th ắng, dõng d ạc đ ọc l ại
lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Bác Hồ. Những hoạt động c ủa “Chi đ ội
hải ngoại” ở Sa Đéc và vùng phụ cận đã góp phần làm chuyển bi ến tình hình c ủa
tỉnh Sa Đéc và trong khu vực11. Những trận có ảnh hưởng lớn trong vùng như:
trận đột nhập thị xã Sa Đéc đêm 18/5/1947; trận Rạch Chân Đùng huy ện Ch ợ
Mới; trận phục kích trên sơng Cái Tầu Thượng, trận phục kích đồn xe ch ở qn
Pháp trên đường Sa Đéc đi Vĩnh Long tháng 12/1947... đã đưa quân đ ội ta từ thế
chịu sự o ép của địch chuyển sang thế bao vây đồn bót, từng bước ch ủ đ ộng t ấn
công địch, xây dựng nhiều đội vũ trang tuyên truyền.
11 Trương Thanh Liêm, “Về Sa Đéc nhớ Chi đ ội Tr ần Phú”, Trian.vn, đăng ngày 11/01/2017, lúc

09:35.
/>CateID=3574&ArticleID=156443 [truy cập ngày 11/3/2019, lúc 11:05]
13 | P a g e


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam
(1945-1954)

Những chiến công của Bộ đội Hải ngoại 4 từng được đồng chí Lê Du ẩn
đánh giá “là liều Filatov - một liều nhỏ cấy vào c ơ th ể gây kích thích l ớn”. 12 Từng
đơn vị nhỏ lẻ hoạt động sâu vào vùng đồng bào có đạo ở ven sơng H ậu và cù lao
sông Tiền làm tiêu hao, tiêu diệt nhiều tên địch, làm th ất b ại b ước đ ầu âm m ưu
của thực dân Pháp và tay sai phản động. Chính quyền và cơ sở cách m ạng đ ược
giữ vững, củng cố thêm. Chiến tranh du kích phát tri ển m ạnh, các khu căn c ứ
của ta được mở rộng.
Song song với chiến đấu, Chi đội đã ti ến hành vũ trang tuyên truy ền, xây
dựng cơ sở cách mạng ở những nơi giặc Pháp chiếm đóng và có b ọn ph ản đ ộng
Hịa Hảo. Chi đội còn phối hợp cùng với địa phương tổ chức đường giao liên
quân sự, bảo đảm cho các cơ quan Xứ ủy, Ủy ban kháng chi ến hành chính Nam
bộ di chuyển từ Đồng Tháp Mười xuống miền Tây Nam bộ an tồn. Đơn v ị đã
góp phần bảo đảm cho việc vận chuyển lương thực từ mi ền Tây lên mi ền Đơng
an tồn và kịp thời khi miền Đơng gặp khó khăn về lương thực.
Q trình hoạt động, đơn vị được mang các phiên hi ệu Chi đ ội Tr ần Phú,
Chi đội Hải ngoại 4, Trung đoàn 109. Khoảng gi ữa năm 1949, Trung đoàn 109
cùng với Trung đoàn 111 tổ chức thành Liên đoàn 109 - 111 hoạt đ ộng ở ba t ỉnh
Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà Vinh (gọi tắt là Vĩnh - Sa - Trà). Theo ch ỉ th ị c ủa Khu 8,
trước khi cùng với Trung đoàn 111 tổ chức thành Liên trung đồn, Trung đồn
109 để lại một số đồng chí tổ chức thành Tiểu đồn 325, do đồng chí Nguyễn
Như Văn làm Tiểu đoàn trưởng, tiếp tục hoạt động ở các huyện Châu Thành, Lai
Vung, Lấp Vò và thị xã Sa Đéc. Đơn vị còn đưa một s ố cán bộ đại đội về huy ện
đội, trung đội, tiểu đội về làm xã đội và ti ểu đội du kích xã.

2.2.4. Đơn vị Tiểu đoàn hải ngoại Cửu Long 2
Sau khi các đơn vị bộ đội Độc lập 1, Quang Trung, Tr ần Phú l ần l ượt hành
quân về Nam Bộ, Thủ tướng Thái Lan Pridi Phanômyông cho phép mở một chi ến
khu huấn luyện tân binh nữa tại vùng Aran Yaprathet. Ti ểu đoàn h ải ngo ại C ửu
12 Duy Tường, “Kỳ 3: Những đoàn quân hải ngoại trở về”, Báo An ninh Thế giới, đăng ngày


29/10/2015, lúc 09:45.
/>cập ngày 10/03/2019, lúc 16:01]
14 | P a g e


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam
(1945-1954)
Long 2 được thành lập ngày 16/5/1947 tại Chiến khu 1 Prak Pông tỉnh Pranchin
Bouri (Thái Lan), là đơn vị về Nam bộ sau cùng. Ti ểu đồn có 300 ng ười. Ban ch ỉ
huy gồm: Dung Văn Phúc (tức Dương Quang Đông) - Ti ểu đồn trưởng, Trương
Văn Kỉnh - Chính trị viên và Bơng Văn Dĩa - Ti ểu đồn phó. Qn số tiểu đồn có
gần 300 cán bộ, chiến sĩ, đa số là con em Việt kiều và những chi ến sĩ, du kích
quân đến từ các nước Campuchia, Lào, Thái Lan, Malaysia, Nhật. Ban đầu rất
khó khăn, bởi một đơn vị chiến đấu mà nói rất nhi ều th ứ ti ếng, ti ếng Thái, Lào,
Campuchia rồi cả tiếng Mã Lai, Nhật, Hoa...Nhưng tất cả đều có cùng một mục
tiêu, một lý tưởng giải phóng dân tộc… 13 Đây là một đơn vị bộ đội được huấn
luyện bài bản và được trang bị như quân chính quy nhờ Chính phủ Thái tặng
một số vũ khí hiện đại như tiểu liên tơm - xơng, carbin và nón sắt Nhật.
Có một sự việc rất đáng nhớ trong thời gian Cửu Long 2 chiến đấu tại
Campuchia. Một người dân địa phương tên là Hên đến bộ chỉ huy đơn vị báo cho
biết có hai lính Nhật đang bị kẹt ở núi Tà Lơn xin tình nguyện theo b ộ đ ội Vi ệt
Nam chiến đấu chống Pháp. Dương Quang Đông bàn bạc với ban ch ỉ huy và
quyết định nhận cả ba người. Hai lính Nhật được Dương Quang Đông đặt tên
Việt Nam là Công và Bộ. Khi đứng vào hàng ngũ của Cửu Long 2, hai ng ười r ất
hăng say chiến đấu lập công. Rất tiếc là vài tháng sau Công hy sinh. Khi m ất đi
người bạn thân, cũng là người đồng hương duy nhất, Bộ càng chi ến đ ấu hăng
say để trả thù. Thấy tinh thần chiến đấu cao của B ộ, chi b ộ quy ết đ ịnh k ết n ạp
anh vào Đảng, sau đó cưới vợ cho anh. Hai vợ chồng theo kháng chi ến đ ến năm
1954, Bộ tập kết ra Bắc được ta giúp đỡ qua Hồng Kơng, sau đó từ H ồng Kơng đi

về Nhật. Về quê hương, bộ gia nhập Đảng Cộng sản Nhật. Chính thuy ền tr ưởng
Lê Văn Một là người được phân cơng đưa Bộ về nước.14
13 Nhữ Đình Ngoạn, “Tìm về miền ký ức”, Đại học Khoa học Tự nhiên Thành phố Hồ Chí Minh ,

đăng ngày 26/12/2017.
[truy cập ngày
10/03/2019, lúc 16:52]
14 Duy Tường, “Kỳ 3: Những đoàn quân hải ngoại trở về”, Báo An ninh Thế giới, đăng ngày
29/10/2015, lúc 09:45.
[truy
cập ngày 10/03/2019, lúc 16:01]
15 | P a g e


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam
(1945-1954)
Sau một năm hoạt động trên chiến trường Campuchia, ngày 10/7/1947,
bộ đội Cửu Long 2 về nước theo lệnh của Xứ ủy Nam B ộ. V ề đ ến kinh Vĩnh T ế,
Dương Quang Đông gặp chủ tịch xã hỏi thăm tình hình và được bi ết địa đi ểm
này đã bị lộ bèn bố trí mai phục. Trời mờ sáng, đội tàu chiến của Pháp t ừ Châu
Đốc lên nã đại bác vào các xóm nhà hai bên kinh Vĩnh T ế. B ộ đ ội C ửu Long 2 nã
súng cối xuống tàu. Hai chiếc tàu bị bốc cháy. Tối hơm đó nhân dân t ập trung
thuyền ghe đưa bộ đội qua kinh Vĩnh Tế, sau đó thuận đường đưa qua cả kinh
Ranh Hạt giáp Châu Đốc - Hà Tiên. Bất ngờ Pháp cho máy bay lên qu ần đ ảo và
bắn phá. Để đảm bảo an tồn, Dương Quang Đơng chỉ huy Cửu Long 2 rút sâu
vào trong xóm ấp nhưng chúng vẫn bám theo thả quân và bắn phá mấy ngày liên
tiếp. Khơng thể để địch tung hồnh, ta quyết định đánh trả. Giặc Pháp th ất th ế
bỏ chạy về Cà Mau, bỏ lại khoảng 50 xác nằm ngổn ngang trên đồng ru ộng. G ặp
địch là đánh, đã đánh là thắng, tiếng tăm Bộ đội Cửu Long 2 vang danh kh ắp n ơi,

là nỗi ám ảnh của quân Pháp mỗi khi nghe nhắc đến.
Sáng 07/11/1947, đơn vị làm lễ xuất quân về nước. Sau 25 ngày đêm
hành quân vượt khó khăn gian khổ, đơn vị về đến địa phận tỉnh Hà Tiên và đóng
tại căn cứ Tà Teng. Ngày 08/12/1947, ti ểu đoàn về Huyện Sử, xã Th ới Bình t ỉnh
Bạc Liêu nay là xã Trí Phải, Thới Bình (Cà Mau). Tới đây, ti ểu đồn tr ở thành đ ơn
vị thuộc Bộ chỉ huy Khu 9, về tác chiến trực thuộc sự chỉ huy của Ti ểu đoàn 125
Bạc Liêu. Tại đây, tiểu đoàn tiếp tục được bổ sung khoảng 60 - 70 anh em, đa s ố
là người Cà Mau, Bạc Liêu.15Tiểu đoàn đã tiến hành một số trận đánh như bao
vây đột nhập đồn Tắc Vân (3/1948), bao vây tiến công đồng ruộng muối Êvráck
(4/1948), trận Tân Lộc - Tân Lợi thuộc huyện Thới Bình (5/1948), tr ận Ngã ba
Thầy Cẩm (7/1948)… Đầu năm 1949, đơn vị cùng với Bộ đội 251 tổ ch ức thành
Trung đồn 131 qn tình nguyện Việt Nam chi ến đấu ở chi ến tr ường
Campuchia. Tháng 10/1954, hoàn thành nhiệm vụ quốc tế, đơn v ị chuy ển quân

15 Phan Sỹ Phúc, “Bộ đội Hải ngoại của quân đội ta”, Báo tin tức, đăng ngày 20/12/2012, lúc

08:23.
/>[truy cập ngày 10/03/2019, lúc 15:38]
16 | P a g e


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam
(1945-1954)
về Cà Mau và tập kết ra Bắc, phân chia lực lượng cho các đ ơn v ị khác, m ột s ố
nhận công tác khác.

2.2.5. Đơn vị Cao Miên Việt kiều cứu quốc quân
Bên cạnh các đơn vị được thành lập từ nước ngoài, được trang bị khá đ ầy
đủ và hành quân về nước tham gia kháng chiến, cịn có một đ ơn v ị dù đ ược

thành lập trên đất Việt Nam song thành phần cơ bản l ại là các thanh niên Vi ệt
kiều yêu nước từ nước ngoài trở về tham gia sự nghiệp kháng chi ến cứu nước.
Đó chính là Cao Miên Việt kiều cứu quốc quân được thành l ập cu ối tháng
9/1945.
Do mối quan hệ mật thiết từ lâu đời giữa hai cộng đồng nên tại nước bạn
Campuchia có khá đơng Việt kiều sinh sống và làm vi ệc. Khi thông tin v ề phong
trào cách mạng sục sôi trong nước được truyền bá trong gi ới Việt ki ều ở
Campuchia, một làn sóng Việt kiều yêu nước trở về quê hương tham gia chi ến
đấu đã bùng lên mạnh mẽ. Thủ đô Phnompenh tr ở thành nơi ti ếp nhận Việt
kiều yêu nước từ các tỉnh đổ về để từ đó theo đường sơng Mekong về nước.
Châu Đốc chính là điểm hội tụ của trên 2.000 Việt kiều yêu nước gồm nhiều l ứa
tuổi, ngành nghề khác nhau: từ thợ lái xe, th ợ giày, lính cũ của Pháp, công ch ức,
nhưng đa phần là dân lao động. Tỉnh ủy Châu Đốc đã tổ chức đón rước chu đáo.
Sáu giờ sáng ngày 24/9/1945, trên 1.000 thanh niên, công chức Vi ệt ki ều
tập trung tại sân vận động Châu Đốc để tiến hành tuy ển chọn người thành l ập
một đơn vị chiến đấu. Sau buổi lễ chào cờ, một vị trong ban tuy ển quân công b ố
tiêu chuẩn: Đánh giặc cần người gan dạ, nếu ai ch ấp nhận b ỏ m ột c ục than
hồng lên lịng bàn tay cho đến khi nó cháy hết hoặc chịu ch ặt m ột ngón út bàn
tay trái thì được nhập ngũ (Kỳ thực đồng chí ấy chỉ dọa, để ch ọn ra những ng ười
thực sự can đảm).Hai trăm người giơ tay tình nguyện đầu tiên đã đ ược ch ọn đ ể
thành lập Đại đội Cao Miên Việt kiều cứu quốc quân. Số gi ơ tay sau thì được bổ
sung vào các đội cộng hịa vệ binh và dân quân trong tỉnh.16
16 Trần Hoàng Vũ, “Châu Đốc – Chuyện chưa kể về những ngày Cách mạng tháng 8”, Tạp chí

Văn hóa Lịch sử An Giang số 101, tháng 8-2013.
/>17 | P a g e


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam

(1945-1954)
Ngày 25/9/1945, Đại đội Cao Miên Việt kiều cứu quốc quân làm lễ ra
mắt. Đại đội gồm 3 trung đội, mỗi trung đội có 4 ti ểu đ ội, m ỗi ti ểu đ ội có 12
người và các bộ phận trinh sát, liên lạc, quân y cấp dưỡng. Ban chỉ huy đại đội
có Tơ Can, đại đội trưởng; Mộc, chánh trị viên. Biên chế có ba trung đ ội: Trung
đội 1 do Đại đội trưởng trực tiếp chỉ huy, Trung đội 2 do đồng chí Nguy ễn Văn
Lầu, Trung đội 3 do đồng chí Lạc chỉ huy. Theo tư liệu do dịng h ọ Tơ cung c ấp,
đồng chí Tơ Can (1910-1985) tên thật là Tô Văn C ương, th ường g ọi là Tô C ương
(Can là cách phát âm của người miền Nam), quê làng Xuân C ầu, xã Nghĩa Tr ụ,
huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Đến năm 1949, đ ồng chí Tơ C ương được Trung
tướng Nguyễn Bình ủy thác xây dựng ngành nhiếp ảnh và đi ện ảnh cách mạng
miền Nam. Từ đó cho đến khi qua đời, đồng chí Tơ Cương đã tồn tâm tồn ý
phục vụ cho nền điện ảnh cách mạng với nhiều thành tích. 17
Về trang bị vũ khí, bấy giờ mỗi trung đội Cao Miên Việt kiều cứu qu ốc
quân có 10 súng Mousqueton và súng 2 nịng. Mỗi ti ểu đ ội có 1 súng Musqueton
của Pháp, 9 viên đạn, 2 súng lửa bắn chim 2 nòng, còn lại là mã t ấu, l ựu đ ạn, phi
tiêu. Các chiến sĩ được phát mỗi người một mũ ca-lơ có gắn huy hi ệu n ền đ ỏ sao
vàng hình vng may bằng vải, một cái nóp bàng để thay chi ếu và mùng m ền,
quần áo thì ai có gì mặc nấy. Đại đội được cấp tốc huấn luyện và s ẵn sàng chi ến
đấu.
Cuối tháng 9/1945, đại đội lại tập trung ở sân vận động Châu Đ ốc. Phái
đoàn Tổng bộ Việt Minh do các đồng chí Hồng Quốc Việt, Cao H ồng Lãnh nói
chuyện động viên. Đồng chí Nguyễn Văn Tây – thanh tra chính tr ị mi ền Tây – ra
lệnh chia ba trung đội đi trấn giữ ba mặt trận: Tịnh Biên, Núi Sam, Nhà Bàn.
Dưới sự chỉ đạo của Quân khu IX, đại đội Cao Miên Việt ki ều cứu qu ốc quân đã
phối hợp tác chiến hoặc độc lập chiến đấu, đánh nhiều tr ận ph ục kích tàu đ ịch
ở Giang Thành, vàm kinh Vĩnh Tế, tập kích đồn Bố Thảo (Sóc Trăng) v.v… Sang
%2Fprint%2F&showPrintDialog=1 [truy cập ngày 10/03/2019, lúc 16:26]
17 Trần Hoàng Vũ, “Châu Đốc – Chuyện chưa kể về những ngày Cách mạng tháng 8”, Tạp chí
Văn hóa Lịch sử An Giang số 101, tháng 8-2013.

/>%2Fprint%2F&showPrintDialog=1 [truy cập ngày 10/03/2019, lúc 16:26]
18 | P a g e


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam
(1945-1954)
năm 1947, đơn vị được bố trí lại theo yêu cầu mới. Các chiến sĩ Cao Miên Vi ệt
kiều cứu quốc quân trở thành các cán bộ dày dạn kinh nghi ệm, bổ sung cho các
đơn vị khác.

3. Kêt luân
Cùng với cuộc đấu tranh của nhân dân trong nước, hoạt động yêu nước
của người Việt Nam ở Thái Lan, Lào, Campuchia trong n ửa đầu th ế k ỉ XX có m ột
vị trí đặc biệt trong cuộc đấu tranh trong cuộc đấu tranh giành đ ộc l ập dân tộc,
đã mang lại những đóng góp cụ th ể, thiết thực cho cách mạng Vi ệt Nam. N ếu
như trước 1930, đóng góp lớn nhất của những hoạt động yêu nước của người
Việt kiều là xây dựng cơ sở cách m ạng, tiếp nhận, đào tạo cán b ộ, góp ph ần vào
việc thúc đẩy quá trình ra đời của Đảng Cộng Sản Vi ệt Nam thì sau 1945, ho ạt
động của Việt kiều đã chuyển vũ khí về n ước chi viện nhân l ực cho quân đ ội và
đóng góp của cải cho nhà nướcViệt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời.
Các đơn vị vũ trang Hải ngoại đã đóng góp một s ố lượng khá l ớn quân s ố
và vũ khí trang bị vào biên chế lực lượng vũ trang Nam bộ lúc bấy gi ờ. Cụ th ể,
Cao Miên Việt kiều cứu quốc quân có 200 người. Bộ đội Độc l ập 1 có kho ảng
105 cán bộ chiến sỹ. Tiểu đoàn hải ngoại Cửu Long gần 300 người. Chi đ ội 3
Quang Trung có khoảng 50 người. Chi đội 4 Trần Phú có khoảng h ơn 400 ng ười.
Đây là sự bổ sung và phát triển thêm về quân số và trang bị cho các đ ơn v ị vũ
trang vốn cịn nhỏ bé và ít trang bị ở trong nước, góp phần quan tr ọng vào
những thắng lợi của quân và dân ta tại những chiến trường này. Tính riêng trong
thời kì chống pháp, Việt kiều Thái Lan đã đóng góp 1 vạn thanh niên tịng qn

đánh giặc cứu nước về ti ền của, chỉ tính t ừ năm 1946 đ ến hiệp định Gi ơ-ne-v ơ
được kí kết (1954), trung bình mỗi năm kiều bào đóng góp 12 tri ệu đồng ti ền
Đơng Dương.
Kèm theo những giá trị v ề con ng ười và vũ khí mà bộ đ ội Hải ngoại đã
đóng góp cịn là những giá trị tinh th ần to lớn. Trong cuộc kháng chi ến chống
Pháp, bằng các đội quân được tăng cường từ h ải ngoại, các đội quân đã tr ở v ề
chiến trường Nam bộ tham gia các tr ận đánh, góp phần chia lửa cho các chiến
19 | P a g e


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam
(1945-1954)
trường khác. Quá trình hình thành, ra đời chiến đấu và trưởng thành Bộ đ ội H ải
ngoại thể hiện rõ tinh thần đoàn kết, dân tộc mạnh mẽ trong cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài, dù ở bất cứ nơi nào cũng hướng về tổ quốc mình. Cán
bộ, chiến sĩ các đơn vị vũ trang Việt kiều đã hịa mình vào cu ộc kháng chi ến
trường kỳ của đất nước. Nhiều cán bộ, chiến sĩ trong các đơn v ị này v ề sau tr ở
thành những tướng lĩnh, cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và quân đ ội ta và
được phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân,
như đồng chí Dương Quang Đơng.
Bên cạnh đó, Bộ đội Hải ngoại đã thực sự kề vai sát cánh v ới nhân dân
Lào, Campuchia, Thái Lan với một quan điểm đoàn kết quốc tế đúng đ ắn, trong
sáng và giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai dân tộc, xây dựng một vùng biên gi ới
Việt Nam với các nước láng giềng thành một biên gi ới hữu ngh ị đoàn k ết, xây
dựng phong trào cách mạng lớn mạnh ở Đông Dương. Với công tác võ trang
tuyên truyền Bộ đội Hải ngoại đóng góp đáng kể vào thành quả cách m ạng
trong những ngày đầu kháng chiến, biết dựa vào dân, biết phối kết h ợp, vận
động, giáo dục, thuyết phục bằng nhiều biện pháp, với mạnh dạng mưu trí, sáng
tạo và bất ngờ trong chiến đấu đã thu hút đông đảo quấn chúng, xây dựng đ ội

ngũ cán bộ cốt cán, xây dựng cơ sở cách mạng sâu r ộng ở vùng biên gi ới và trên
đất bạn trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp.
Khi nghe tổ quốc lâm nguy, Việt kiều ta đã quyên góp ti ền, vàng mua s ắm,
trang bị vũ khí, tổ chức huấn luyện con em của mình đưa về n ước tham gia c ứu
quốc. Đây là nguồn bổ sung dồi dào về nhân l ực, tài lực, v ật l ực cho b ộ đ ội ta
trong suốt chín năm kháng chiến chống Pháp. Các đ ơn vị vũ trang cũng ra đời
trong phong trào cách mạng của Việt kiều ở nước ngoài - các đơn v ị b ộ đ ội h ải
ngoại từ Thái Lan, Lào và Campuchia về nước tham gia kháng chi ến - là m ột nét
độc đáo trong lịch sử xây dựng và phát triển của quân đội ta. Sự thành l ập và tr ở
về nước tham gia chiến đấu chống thực dân Pháp của các đ ơn v ị B ộ đội Hải
ngoại đã góp phần khơi dậy tinh thần chiến đấu trong mỗi con người Việt Nam,
một yếu tố quan tr ọng làm nên chiến thắng của quân nhân Vi ệt Nam. Trong bối
20 | P a g e


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam
(1945-1954)
cảnh cuộc chiến đầu chống thực dân Pháp xâm lược những năm đầu cực kỳ cam
go, gian khổ, thiếu thốn mọi bề, sự xuất hiện của các đơn v ị vũ trang Vi ệt ki ều
tại các chiến trường Nam bộ đã là nguồn động viên, cổ vũ rất l ớn v ới Nam b ộ
nói riêng sau ngày Nam bộ kháng chiến, cũng như v ới quân và dân c ả n ước sau
ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946).

21 | P a g e


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam
(1945-1954)


TÀI LIỆU THAM KHẢO
*Tiêng Việt:
*Sách:
1.Phan Ngọc Liên (Chủ biên) (1994), Hồ Chí Minh - Những hoạt động quốc tế,
nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, trang 209.
2. Trần Huy Lưu (2004), Việt kiều Lào - Thái với quê hương , nxb Chính trị Quốc
gia Hà Nội, trang 143
*Báo và tạp chí:
3.Trương Thanh Liêm, “Về Sa Đéc nhớ Chi đội Trần Phú”, Trian.vn, đăng ngày
11/01/2017, lúc 09:35.
[truy cập ngày 11/3/2019, lúc 11:05]
4. Nhữ Đình Ngoạn, “Tìm về miền ký ức”, Đại học Khoa học Tự nhiên Thành phố
Hồ Chí Minh, đăng ngày 26/12/2017.
[truy cập ngày 10/03/2019, lúc 16:52]
5. Phan Sỹ Phúc, “Bộ đội Hải ngoại của quân đội ta”, Báo tin tức, đăng ngày
20/12/2012, lúc 08:23.
[truy cập ngày 10/03/2019, lúc 15:38]
6. Nguyễn Phi Sang, “Căn cứ bộ đội Hải ngoại số 1”, Trường THCS Bưng Bàng,Tây
Ninh,đăng ngày 20/06/2013, lúc 20:23.
/>[truy cập ngày 10/03/2019, lúc 15:43]
7. Duy Tường, “Kỳ 3: Những đoàn quân hải ngoại tr ở về”, Báo An ninh Thế giới,
đăng ngày 29/10/2015, lúc 09:45.
[truy cập ngày 10/03/2019, lúc 16:01]
22 | P a g e


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam
(1945-1954)

8. Trần Hoàng Vũ, “Châu Đốc – Chuyện chưa kể về những ngày Cách mạng tháng
8”, Tạp chí Văn hóa Lịch sử An Giang số 101, tháng 8-2013
/>%2Ftemplates%2Fprint%2F&showPrintDialog=1 [truy cập ngày 10/03/2019,
lúc 16:26]
*Tiêng Anh:
9. Cristopher. E. Goscha (1999), Thailand and the Southeast Asia Networks of the
Vietnamese Revolution, 1885 – 1954, Cuzon Press, p146-147.

23 | P a g e


Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam
(1945-1954)

PHỤ LỤC

Căn cứ Bộ đội Hải ngoại số 1 – Sivotha, tọa lạc tại ấp Lưu Văn V ẳng, xã Hòa H ội,
huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, được cơng nhận Di tích l ịch sử - văn hóa c ấp
tỉnh, tại Quyết định số: 138/QĐ- CT, ngày 29/9/1999 của Chủ tịch UBND t ỉnh
Tây

Ninh.

Nguồn

/>
24 | P a g e

ảnh:



Bộ đội hải ngoại trong giai đoạn chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt
Nam
(1945-1954)

Dòng chữ
trên văn biên khu tưởng niệm Chi đội Trần Phú tại Thành phố Sa Đéc, t ỉnh Đ ồng
Tháp.
Nguồn ảnh: />
Bia tưởng niệm Tiểu đoàn hải ngoại Cửu Long II của Quân đội nhân dân Vi ệt
Nam

25 | P a g e


×