MỤC LỤC
MỜ ĐẦU...............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................1
Câu 1: Phân tích các nguyên tắc trong quy định đạo đức của người làm báo hiện
nay. Lấy ví dụ minh họa........................................................................................1
1. Nguyên tắc 1: Trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; vì lợi ích của đất
nước, vì hạnh phúc của nhân dân; góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam
trên trường quốc tế................................................................................................3
2. Nguyên tắc thứ 2: Nghiêm chỉnh thực hiện Hiến pháp, Luật Báo chí, Luật bản
quyền và các quy định của pháp luật. Thực hiện đúng tơn chỉ, mục đích; nội quy,
quy chế của cơ quan báo chí nơi cơng tác.............................................................4
3. Ngun tắc thứ 3: Hành nghề trung thực, khách quan, công tâm, không vụ
lợi. Bảo vệ công lý và lẽ phải. Không làm sai lệch, xuyên tạc, che giấu sự thật,
gây chia rẽ, kích động xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc và tình
đồn kết, hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc......................................................4
4. Nguyên tắc thứ 4: Nêu cao tinh thần nhân văn, tôn trọng quyền con người.
Không xâm phạm đời tư, làm tổn hại danh dự, nhân phẩm, lợi ích hợp pháp của
tổ chức và cá nhân.................................................................................................5
5. Nguyên tắc thứ 5: Chuẩn mực và trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội và
các phương tiện truyền thông khác.......................................................................6
6. Nguyên tắc thứ 6: Bảo vệ bí mật quốc gia, bí mật nguồn tin theo quy định của
pháp luật................................................................................................................7
7. Nguyên tắc thứ 7: Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp............................................7
8. Nguyên tắc thứ 8: Tích cực học tập, nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ,
ngoại ngữ, phấn đấu vì một nền báo chí dân chủ, chuyên nghiệp và hiện đại......8
9. Nguyên tắc thứ 9: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt; Bảo vệ và phát huy
các giá trị văn hóa Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại........................8
0
10. Nguyên tắc thứ 10: Những người làm báo Việt Nam cam kết thực hiện
những quy định trên, đó là bổn phận và nguyên tắc hành nghề, là lương tâm và
trách nhiệm của người làm báo”...........................................................................9
Câu 2. Phân tích điều luật trong Luật báo chí mà em tâm đắc nhất......................9
1. Phân tích Điều 25 Luật báo chí 2016................................................................9
KẾT LUẬN……………………………………………………………………13
Bài kiểm tra làm lại: Tình huống xảy ra trên thực tế mơ tả lại, phân tích sự vi
phạm đạo đức của nhà báo?................................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỜ ĐẦU
Trong quá trình đổi mới, báo chí Việt Nam có sự vươn lên và phát triển
vượt bậc, góp phần quan trọng vào những thành tựu chung của đất nước. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân, trong đó có tác động từ mặt trái của cơ chế thị
trường, báo chí nước Việt Nam cũng đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, nhược
điểm. Một trong những hạn chế, nhược điểm đó là tình trạng xuống cấp về mặt
đạo đức nghề nghiệp của một số nhà báo. Trong bối cảnh báo chí nước ta đang
phát triển mạnh mẽ nhưng kèm theo đó, đạo đức nghề báo lại đang có những
biểu hiện xuống cấp đáng lo ngại, vấn đề đặt ra hiện nay là những người làm
báo, các cơ quan lãnh đạo và quản lý báo chí cần nắm vững và thực hiện tốt
những nguyên tắc cơ bản của báo chí cách mạng Việt Nam và Quy định về đạo
đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam. Bài viết dưới đây của em xin
được: “Phân tích các nguyên tắc trong quy định đạo đức của người làm báo
hiện nay”.
1
NỘI DUNG
Câu 1: Phân tích các nguyên tắc trong quy định đạo đức của người
làm báo hiện nay. Lấy ví dụ minh họa.
Kể từ khi công cuộc đổi mới được khởi xướng đội ngũ các nhà báo Việt
Nam đã phát huy truyền thống và phẩm chất chính trị của nền báo chí cách
mạng Việt Nam. Bản lĩnh chính trị và trình độ nghề nghiệp của đội ngũ các nhà
báo ngày càng được khẳng định. Với năng lực, phẩm chất nghề nghiệp sắc bén,
họ đã góp phần tổng kết thực tế vận động của cuộc sống, từng bước điều chỉnh
chính sách và pháp luật của Nhà nước cho phù hợp với thời kỳ đổi mới; tích cực
và dũng cảm đấu tranh chống âm mưu diễn biến hồ bình, chống tham nhũng,
tiêu cực, góp phần làm lành mạnh các quan hệ xã hội.
Trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, bản lĩnh chính trị và
đạo đức nghề nghiệp đã giúp cho người phóng viên phát hiện và kịp thời lên
tiếng chỉ mặt, vạch tên những cái xấu, bênh vực lẽ phải. Lòng trung thực, tinh
thần dũng cảm, vững vàng trước mọi cám dỗ, thử thách trở thành điểm tựa chắc
chắn cho người làm báo khi đối mặt với những thế lực xấu. Nhiều tên tuổi nhà
báo - nhất là những nhà báo tham gia đấu tranh chống tiêu cực trong những năm
vừa qua đã in dấu ấn sâu đậm trong lòng đông đảo công chúng. Nhiều nhà báo
đã thể hiện một bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp, trở thành tấm gương
đối với đồng nghiệp.
Tuy nhiên, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường và cơ chế thị trường,
vấn đề đạo đức nghề nghiệp của người làm báo đang trở thành một trong những
vấn đề bức xúc của nền báo chí nước ta. Ở nước ta, báo chí là cơng cụ để tuyền
truyền chủ trương chính sách của Đảng. Mục tiêu của hoạt động báo chí là để
phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Báo chí khơng chỉ là tiếng nói
của Đảng, của các tổ chức, đồn thể xã hội mà cịn là diễn đàn để nhân dân thể
hiện ý chí, nguyện vọng chính đáng của mình.
Báo chí Việt Nam với tư cách là cơng cụ của dư luận xã hội, đã trở thành
phương tiện hữu hiệu để nhân dân trực tiếp tham gia quản lý Nhà nước. Giám
2
sát xã hội bằng dư luận báo chí, thực chất là q trình giám sát của nhân dân đối
với cơng tác của Đảng và Nhà nước. Muốn thực hiện được chức năng quản lý
giám sát đó, đội ngũ những người làm báo phải nâng cao phẩm chất nghề nghiệp
nói chung và nâng cao phẩm chất đạo đức nghề nghiệp nói riêng. Có như vậy,
báo chí mới có thể hồn thành nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước, và nhân
dân giao phó.
Nhận thức rõ cơng tác chống tham nhũng, tiêu cực là một trong những
nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc đổi mới, đội ngũ những người làm báo
Việt Nam đã đã phát huy phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của mình khi tác
nghiệp để đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực một cách hiệu quả. Trong thời
gian qua, công tác đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực đã đạt được những kết
quả tích cực, đa số nhà báo khi viết về đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực đều
phát huy được lương tâm, trách nhiệm của mình trong mỗi bài viết. Song bên
cạnh đó cũng có một số nhà báo đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp một cách
nghiêm trọng khi viết về tham nhũng, tiêu cực.
Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo khi viết về đấu tranh chống tham
nhũng, chống tiêu cực có vai trị rất quan trọng, liên quan trực tiếp đến tính chất
và hiệu quả của cuộc đấu tranh này. Khi viết về tham nhũng tiêu cực, nếu khơng
vững vàng và kiên định thì nhà báo rất dễ bị mua chuộc, bị lơi kéo vào vịng
xốy của đồng tiền. Đã có một số tin, bài trên báo chí thể hiện sự xuống cấp
nghiêm trọng của đạo đức nghề nghiệp. Một số ít nhà báo trong quá trình điều
tra, viết bài đấu tranh chống tiêu cực đã có những biểu hiện tiêu cực, thơng tin
sai sự thật, lợi dụng danh nghĩa nhà báo để vụ lợi, thậm chí gây sức ép, hoặc dọa
nạt, hoặc tống tiền cơ quan, đơn vị kinh tế đã có sai phạm trong quản lý kinh
doanh...
Trong đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, việc thơng tin chân thật
chính xác càng có tầm quan trọng đặc biệt, nó thể hiện phẩm chất, đạo đức của
người làm báo. Thơng tin thiếu chính xác hoặc thơng tin bị bóp méo có thể biến
một người từ chỗ có tội thành khơng có tội và ngược lại; có thể khiến cho bản
3
chất sự việc bị đánh tráo, trắng đen lẫn lộn; thiện, ác bị xóa nhịa; phải trái
khơng phân minh... dẫn đến những hậu quả rất nghiêm trọng.
Mục đích của đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực không phải chỉ để
phê phán, để xử lý kỷ luật người vi phạm mà điều quan trọng hơn là thông qua
phát hiện, phê phán, xử lý tham nhũng, tiêu cực để xây dựng bộ máy Nhà nước
trong sạch, vững mạnh, để tăng cường sức mạnh của Đảng, của chế độ ta. Do
đó, trong quá trình tham gia đấu tranh chống tiêu cực, một nhà báo có đạo đức
nghề nghiệp sẽ ln quan tâm đến sự nghiệp chung, lợi ích chung của đất nước;
góp phần tăng cường khối đoàn kết trong Đảng, sự đoàn kết của toàn dân, tránh
để cho các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc...
Sự vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động báo chí cịn xuất phát từ
sự thiếu hiểu biết về pháp luật và chính trị. Đã có những bài báo nêu ra những
vấn đề có tính chất nội bộ của tổ chức Đảng, chính quyền, cơ quan Nhà nước; để
lộ bí mật quốc gia, bí mật nghiệp vụ cơng tác. Chính vì thế, trong Đại hội lần thứ
VI, Hội Nhà báo Việt Nam (tháng 3/1995), các đại biểu đã thông qua “Quy ước
đạo đức nghề nghiệp báo chí” gồm 10 điều.
Luật Báo chí (sửa đổi) 2016 đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khố XIII thơng qua ngày 5/4/2016 và Chủ tịch nước cơng bố
Luật ngày 29/4/2016, có hiệu lực từ ngày 1/1/2017, quy định 10 nguyên tắc đạo
đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam:
1. Nguyên tắc 1: Trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; vì
lợi ích của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân; góp phần nâng cao uy tín,
vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Trung thành với lợi ích quốc gia dân tộc và mục tiêu, lý tưởng của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Nội dung này phản ánh, thể hiện phẩm chất chính trị của
người làm báo Việt Nam. Làm báo cũng là làm chính trị. Do đó, đạo đức báo chí
trước hết phải bắt nguồn từ phẩm chất chính trị của nhà báo. Vì phẩm chất chính
trị là điều kiện tiên quyết để khẳng định vị trí, vai trò xã hội của nhà báo, đồng
4
thời là yếu tố hàng đầu để góp phần xây dựng tư tưởng, lập trường, bản lĩnh
chính trị của nhà báo…
Ví dụ: Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập và tự do của dân tộc Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân tinh hoa của văn hố dân tộc và nhân
loại. Người đã để lại cho Đảng và dân tộc ta tài sản tinh thần to lớn – Tư tưởng
Hồ Chí Minh. Trong q trình giáo dục, rèn luyện Đảng ta và lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, nhất là từ khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền, mỗi lời nói,
mỗi việc làm của Người đều tác động mạnh mẽ đến cán bộ, đảng viên và nhân
dân. Đó là sự thể hiện những phẩm chất đạo đức cơ bản của đạo đức cách
mạng: “tuyệt đối trung thành với Đảng; tận tụy, kính trọng và lễ phép với nhân
dân, yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tinh thần
quốc tế trong sáng”.
2. Nguyên tắc thứ 2: Nghiêm chỉnh thực hiện Hiến pháp, Luật Báo
chí, Luật bản quyền và các quy định của pháp luật. Thực hiện đúng tơn chỉ,
mục đích; nội quy, quy chế của cơ quan báo chí nơi cơng tác.
Đối với người làm báo, việc hiểu biết và chấp hành pháp luật Nhà nước
cũng rất quan trọng. Đây chính là tiền đề, cơ sở quan trọng để người làm báo
hành nghề đúng khuôn khổ, mang đến cho công chúng những tác phẩm, sản
phẩm báo chí phù hợp với Hiến pháp, pháp luật Nhà nước. Tơn chỉ mục đích của
từng cơ quan báo chí đã được ghi rõ trong giấy phép hoạt động, do vậy cơ quan
báo chí phải hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ đã được ghi và không
được vi phạm.
Ví dụ: nhà báo cần phải thực hiện đúng nội quy, quy chế của cơ quan báo
chí nơi mình đang làm việc.
5
3. Nguyên tắc thứ 3: Hành nghề trung thực, khách quan, công tâm,
không vụ lợi. Bảo vệ công lý và lẽ phải. Không làm sai lệch, xuyên tạc, che
giấu sự thật, gây chia rẽ, kích động xã hội, phá hoại khối đại đồn kết tồn
dân tộc và tình đồn kết, hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc.
Thông tin trung thực, tôn trọng công chúng, bảo vệ nguồn tin. Nội dung
này phản ánh phẩm chất nghề nghiệp và thể hiện tính chất đạo đức đặc thù của
người làm báo Việt Nam. Thơng tin trung thực bao hàm thơng tin chính xác,
khách quan- vốn là yêu cầu hàng đầu của đạo đức báo chí, đồng thời cũng là
nguyên tắc căn bản, cốt lõi trong hoạt động báo chí của người làm báo.
Đối với đại bộ phận công chúng, việc đọc báo chính là tìm hiểu thơng tin
và nội dung chân thực của tin tức, chứ khơng phải là tìm hiểu nội dung giả tạo
hoặc phóng đại của tin tức. Vì vậy, trong q trình phát triển của ngành báo chí
truyền thơng, tính trung thực, khách quan, tơn trọng sự thật là cái gốc cho sự
phát triển, là điều kiện cơ bản nhất để ngành báo chí tồn tại, vậy nên người làm
báo phải đặt tính trung thực, khách quan, tơn trọng sự thật lên hàng đầu, tích cực
trau dồi lý luận, đem “tính chân thực” vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn,
nhằm đưa đến công chúng những tin tức trung thực và chính xác; khơng đưa tin
sai sự thật, phóng đại, khơng nhìn nhận và giải thích sai tin tức; dẫn dắt cơng
chúng với việc bình luận phân tích sự kiện tin tức theo hướng đúng.
Yêu cầu “không vụ lợi” cũng là một đòi hỏi cấp bách hiện nay để người
làm báo giữ được đạo đức cơng vụ của mình trong hoạt động nghề nghiệp, từ đó
tự mình phịng ngừa những cám dỗ, “cạm bẫy” đầy rẫy trong xã hội.
Ví dụ: gần đây cho việc thông tin thiếu trung thực, khách quan và tôn
trọng sự thật là việc xảy ra hiện tượng thông tin về chất lượng nước mắm.
Những thông tin này được đăng tải một cách thiếu kiểm chứng khách quan gây
hậu quả vô cùng nặng nề đến người tiêu dùng và các nhà sản xuất. Đặc biệt,
những thông tin này lại được đăng ở nhiều báo lớn nên độ lan tỏa thông tin rất
nhanh gây thiệt hại cả về vật chất lẫn tinh thần cho xã hội.
6
4. Nguyên tắc thứ 4: Nêu cao tinh thần nhân văn, tôn trọng quyền con
người. Không xâm phạm đời tư, làm tổn hại danh dự, nhân phẩm, lợi ích
hợp pháp của tổ chức và cá nhân.
Báo chí với vai trị là người đưa thơng tin bằng ngơn từ thì việc sử dụng
cần phải cẩn trọng. Vì thế, báo chí cần đi đầu trong chuẩn hóa ngơn ngữ, giữ gìn
sự trong sáng của tiếng Việt, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Ngơn từ báo chí
cần những tiêu chí chuẩn mực (khơng thể phóng khống, bay bổng như văn
chương, khơng thể suồng sã như văn nói). Người viết báo cần ý thức được việc
rèn luyện ngơn ngữ, nói đúng, viết đúng, đúng nghĩa, đúng chuẩn.
Tôn trọng công chúng là thể hiện ý thức, bổn phận của người làm báo
trong việc tiếp nhận thông tin của công chúng, truyền đạt thông tin của cơng
chúng trên báo chí- tất nhiên đó phải là những thơng tin lành mạnh, nhân văn, vì
lợi ích của cơng chúng. Có nghĩa là sẵn sàng tiếp thu những ý kiến đóng góp xác
đáng của cơng chúng, phản hồi thơng tin theo u cầu chính đáng của cơng
chúng, kịp thời cải chính những thơng tin sai sót trên báo chí để mang lại niềm
tin cho cơng chúng.
Ví dụ: một thực tế khơng ít trường hợp những thơng tin về các em đã bị
lợi dụng để giật gân câu khách và tăng lượng phát hành của một số cơ quan
báo chí. Thậm chí, khi viết về trẻ em bị xâm hại, bị lạm dụng tình dục, có khi
quyền lợi của các em không những không được bảo vệ mà cịn bị xâm hại. Xu
hướng này đang có chiều hướng gia tăng. Đạo đức nghề nghiệp không cho phép
nhà báo đăng rõ ảnh và địa chỉ của cháu bé như trong câu chuyện về bé gái 8
tháng tuổi ở Bắc Giang năm 2000 bị xâm hại tình dục đã được một số tờ báo
đăng khá tỉ mỉ, chi tiết, có báo còn đăng cả ảnh cháu bé, địa chỉ gia đình, địa
chỉ tên tội phạm. Hành động trên đã bị lên án là nhẫn tâm, vô cảm, không hiểu
được nỗi đau mà em bé và gia đình đang phải gánh chịu lại bắt em và gia đình
phải chịu thêm nỗi đau này trong suốt cuộc đời.
7
5. Nguyên tắc thứ 5: Chuẩn mực và trách nhiệm khi tham gia mạng
xã hội và các phương tiện truyền thơng khác.
Về tiêu chí chuẩn mực trên mạng xã hội thì "rõ ràng cái gì trong xã hội tất
cả đều thừa nhận là đúng hoặc khơng đúng thì những người làm báo cũng phải
nhận thức rõ được điều đó để khơng những bản thân mình nhận thức mà cịn
định hướng dư luận xã hội.
Đối với những điều mà đa số trong xã hội thừa nhận mà nhà báo đưa
ngược lại là khơng được. Nhà báo khơng nói được trên mặt báo mà lên mạng xã
hội nói, thậm chí nói bậy bạ là khơng thể được. Cho nên địi hỏi nhà báo phải
nhất ngôn ở trên mặt báo, trên mạng xã hội, rồi ở cơ quan cũng như ở ngoài xã
hội, ở nơi sinh hoạt, phải là một người, là người làm báo. Ở đây địi hỏi sự nhất
qn.
Ví dụ: Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, trong 5 năm (2011 - 2015), đã
có: 242 lượt cơ quan báo chí bị xử lý vi phạm, phạt tiền 231 lượt cơ quan báo
chí hơn 4,6 tỷ đồng; thu hồi 121 thẻ nhà báo (trong đó có 95 thẻ thu hồi do cơ
quan báo chí dừng hoạt động và 26 trường hợp bị thu thẻ do có vi phạm). Năm
2015, Bộ Thơng tin và Truyền thơng đã xử lý hành vi hành chính 37 trường hợp
cơ quan báo chí vi phạm, phạt tiền 33 lượt cơ quan báo chí hơn 1,5 tỷ đồng,
phạt cảnh cáo bốn trường hợp, phạt tiền gần 800 triệu đồng đối với 18 tổ chức,
cá nhân vi phạm trong quản lý, cung cấp, sử dụng thông tin trên mạng internet
(in-tơ-nét).
6. Nguyên tắc thứ 6: Bảo vệ bí mật quốc gia, bí mật nguồn tin theo
quy định của pháp luật.
Bảo vệ nguồn tin là một trong những khía cạnh cơ bản, quan trọng trong
đạo đức của người làm báo nhằm góp phần giữ gìn, bảo vệ tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của các đối tượng (cá nhân, tổ chức) cung cấp thơng tin cho
báo chí.
8
Bảo vệ bí mật nhà nước là một nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước nói
chung và của nhà báo nói riêng, liên quan đến sự ổn định và phát triển bền vững
của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bảo vệ bí mật nhà nước có mối quan hệ mật thiết với bảo đảm các quyền con
người, quyền công dân, trong đó có quyền tiếp cận thơng tin. Do đó, việc xác
định đúng phạm vi bí mật nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc vừa
bảo đảm bảo vệ bí mật nhà nước vừa bảo đảm quyền tiếp cận thơng tin.
Ví dụ: Báo ln tơn trọng quyền tự quyết về thông tin và đảm bảo bảo vệ
dữ liệu biên tập.
7. Nguyên tắc thứ 7: Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp.
Mỗi tác phẩm và sản phẩm báo chí là sự kết tinh của trí tuệ, văn hóa của
người làm báo. Do đó, biết ứng xử nhân văn với con người, với cuộc sống, với
xã hội sẽ giúp nhà báo thông tin, phản ánh mọi vấn đề, sự kiện dưới góc nhìn
thân thiện, vì sự phát triển lành mạnh của xã hội; kể cả khi thông tin các vấn đề
tiêu cực cũng được soi chiếu qua cách nhìn nhận, đánh giá mang tính xây dựng
của nhà báo. Nghề làm báo là một hành trình sáng tạo khơng điểm dừng. Do đó,
có ý thức cầu thị, tự giác rèn luyện, học tập, vươn lên làm chủ kiến thức văn
hóa, tinh thơng nghiệp vụ là động lực và “bảo bối” giúp người làm báo thực hiện
tốt sứ mệnh cao cả của mình…
Ví dụ: như vụ PV Báo Lao động bị hành hung, ngồi việc ngay lập tức
gửi cơng văn đề nghị các cơ quan chức năng thẩm tra làm rõ sự việc, lãnh đạo
Hội Nhà báo Việt Nam còn chủ động gọi điện phối hợp với lãnh đạo TP Hà Nội
trao đổi thông tin, thúc đẩy điều tra;Trực tiếp đến Báo Lao động động viên,
thăm hỏi phóng viên bị hành hung. Hội đã nhận được công văn phúc đáp của
Công an TP Hà Nội về tiến trình điều tra vụ việc.
9
8. Nguyên tắc thứ 8: Tích cực học tập, nâng cao trình độ chính trị,
nghiệp vụ, ngoại ngữ, phấn đấu vì một nền báo chí dân chủ, chun nghiệp
và hiện đại.
Những người làm báo phải ln bảo đảm tính trung thực, khách quan
trong quá trình tác nghiệp. Song cùng với sự phát triển của xã hội, sự cạnh tranh
trong ngành báo chí truyền thơng ngày càng gay gắt, một số nhà báo chỉ vì lợi
nhuận mà bóp méo sự thật hoặc đăng tin sai sự thật, hiện tượng này đã làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến phẩm chất chung của đội ngũ hành nghề báo chí.
Ví dụ: lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam làm tư tưởng chỉ đạo trong công tác xây dựng đạo
đức tư tưởng. Tăng cường khả năng xét đoán, nhận định giá trị đạo đức tốt và
xấu của mỗi nhà báo, để sau khi trang bị kỹ về kiến thức nghiệp vụ cơ bản,
người làm báo có thể căn cứ vào tình hình thực tế mà đưa ra những phán đoán
đúng đắn, đồng thời kiên quyết loại bỏ những tin bài báo chí khơng có tính
trung thực, từ đó nâng cao phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của những người
làm cơng tác báo chí nói chung.
9. Nguyên tắc thứ 9: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt; Bảo vệ và
phát huy các giá trị văn hóa Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là cơng việc lâu dài, phải kiên trì,
làm từng bước với tất cả ý thức trách nhiệm của mỗi người chúng ta, với lịng tự
hào về tiếng nói của dân tộc. Các cơ quan báo chí và các nhà báo phải coi trọng
việc sử dụng tiếng Việt, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên các loại hình,
phương tiện truyền thơng của cơ quan báo chí mình. Mỗi cơ quan báo chí nên có
một bộ phận thường xun chăm lo trau dồi ngơn ngữ, giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt trên các ấn phẩm, chương trình, kênh sóng, trang báo của mình. Tổ
chức các cuộc hội thảo, tọa đàm, trao đổi, sinh hoạt nghiệp vụ về vấn đề này.
Ví dụ: Các cơ quan báo chí, bên cạnh cơng truyền bá, sáng tạo phát triển
của tiếng Việt thì có những khuyết điểm như nhiều khi vẫn chạy theo sự thiếu
chọn lọc trong ngơn ngữ của xã hội. Trên báo chí đầy rẫy lỗi lệch chuẩn tiếng
10
Việt. Sự lệch chuẩn tiếng Việt trên truyền thông đã đến mức báo động. Cuộc hội
thảo nhân dịp kỷ niệm 50 năm Thủ tướng Phạm Văn Đồng phát động phong
trào “Giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt” (1966-2016).
10. Nguyên tắc thứ 10: Những người làm báo Việt Nam cam kết thực
hiện những quy định trên, đó là bổn phận và nguyên tắc hành nghề, là
lương tâm và trách nhiệm của người làm báo”.
Đạo đức nghề nghiệp là một trong những yếu tố quan trọng để thơng qua
đó, nhà báo thể hiện lương tâm, trách nhiệm của mình trước nhân dân, đất nước.
Trong thời đại bùng nổ thông tin, một trong những yêu cầu nóng bỏng đang đặt
ra đối với người phóng viên báo chí nước ta là phải có vốn tri thức phong phú.
Có thể coi đây là một trong những yêu cầu khách quan, đòi hỏi sự nỗ lực của
mỗi phóng viên nếu họ muốn vươn lên trong xu thế khu vực hố và tồn cầu hố
mạnh mẽ như hiện nay.
Từ khi đổi mới, nhà báo phải tự trang bị mình cho các phương tiện nghiệp
vụ hiện đại và nhất là phương pháp hoạt động thực tiễn ngày càng tích cực và
hiệu quả hơn để thích ứng được với sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt đó. Điều
đó cho thấy năng lực hoạt động thực tiễn của người phóng viên ngày càng trở
thành một trong những yêu cầu quan trọng trong phẩm chất nghề nghiệp của họ.
Những tác động của cơ chế thị trường vào báo chí tạo ra những tiền để
khách quan cho việc phát triển năng lực nghề nghiệp của người phóng viên báo
chí trong bối cảnh của đời sống báo chí hiện đại.
Ví dụ: những phát hiện của nhà báo về tham nhũng tiêu cực trong xã hội
không chỉ tạo nên dư luận xã hội mà cịn cung cấp cho nhiều thơng tin các cơ
quan chức năng để phát hiện ra những sơ hở, những điều chưa hợp lý trong cơ
chế chính sách, giúp cho Đảng và Nhà nước kịp thời điều chỉnh.
11
Câu 2. Phân tích điều luật trong Luật báo chí mà em tâm đắc nhất.
1. Phân tích Điều 25 Luật báo chí 2016.
Một trong những điểm mới, nổi bật được đề cập tại Luật Báo chí năm
2016 là việc khẳng định và đưa ra quy định luật pháp để công dân thực hiện
quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí.
Điều 25 Luật Báo chí 2016 quy định: “Cơng dân có quyền tự do ngơn
luận, tự do báo chí, tiếp cận thơng tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện
các quyền này do pháp luật quy định”.
Với Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999, quyền tự do báo chí, quyền
tự do ngơn luận trên báo chí là một trong các cơ sở, một trong các yếu tố bảo
đảm xây dựng “quy định chế độ báo chí”. Với Luật Báo chí năm 2016 (có hiệu
lực từ ngày 1-1-2017), việc khẳng định quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn
luận trên báo chí đã được xây dựng thành điều luật cụ thể, đó là: “Điều 1. Phạm
vi Điều chỉnh: Luật này quy định về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận
trên báo chí của cơng dân; tổ chức và hoạt động báo chí; quyền và nghĩa vụ của
cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia và có liên quan đến hoạt động báo chí; quản
lý nhà nước về báo chí”. Đây là một điểm mới, một bước tiến quan trọng để luật
hóa quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí; từ đó xác lập các
nội dung luật pháp tương ứng nhằm vừa tạo điều kiện, vừa bảo đảm để quyền tự
do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí được tổ chức, quản lý một cách
dân chủ, công bằng, văn minh, phù hợp với yêu cầu của tiến trình xây dựng,
phát triển đất nước.
Điểm mới và bước tiến trên đây chính là cụ thể hóa một nội dung quan
trọng của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam đã được Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam khóa XIII thơng qua ngày 28-11-2013 tại Kỳ họp thứ 6,
được khẳng định tại Điều 25. Với tính cách “luật cơ bản” của quốc gia, Hiến
pháp là cơ sở để xây dựng, ban hành các luật, pháp lệnh, nghị quyết, các văn bản
thuộc hệ thống pháp luật Nhà nước. Như vậy, sự ra đời Luật Báo chí năm 2016
(cũng như các Luật Báo chí ban hành trước đó) đều dựa trên một nội dung quan
12
trọng của Hiến pháp. Nội dung này hoàn toàn tương thích với các điều ước quốc
tế mà Nhà nước Việt Nam tham gia ký kết. Như: Điều 19 Tuyên ngôn quốc tế
nhân quyền Liên hợp quốc (Tuyên ngôn) khẳng định: “Mọi người đều có quyền
tự do ngơn luận và bày tỏ ý kiến. Quyền này bao gồm sự tự do giữ quan điểm
khơng có sự can thiệp và sự tự do tìm kiếm, tiếp nhận, chia sẻ những ý tưởng và
thông tin bằng bất kỳ phương tiện truyền thông nào và khơng có biên giới”,
đồng thời khoản 2 Điều 29 Tuyên ngôn cũng khẳng định: “Trong khi thực hiện
các quyền và quyền tự do cho cá nhân mọi người chỉ phải tuân thủ các hạn chế
do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận, tơn trọng đối
với các quyền và quyền tự do của những người khác, đáp ứng được những địi
hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng, phúc lợi chung trong một xã hội
dân chủ”; hoặc khoản 2 Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị của Liên hợp quốc (Công ước) khẳng định: “Mọi người đều có quyền
tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận,
và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới
hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể
biên giới quốc gia”, đồng thời khoản 3 Điều 19 Công ước cũng khẳng định:
“Việc hành xử quyền tự do phát biểu quan điểm (ghi ở khoản 2 nói trên) địi hỏi
đương sự phải có các bổn phận, trách nhiệm đặc biệt. Quyền này chỉ có thể bị
giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu: a. Tơn trọng các quyền tự do và thanh danh
của người khác; b. Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công
cộng hay đạo lý”.
Như vậy, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam cùng Tuyên ngôn, Công
ước đều khẳng định quyền tự do ngôn luận của công dân, đồng thời thống nhất
nguyên tắc coi thực hiện quyền tự do ngôn luận của công dân phải do “pháp luật
quy định”, “phải tuân thủ những hạn chế do luật định”, “có thể bị giới hạn bởi
pháp luật”. Vì thế tự do ngơn luận là một quyền hiến định, do Hiến pháp đặt ra
và không thể thay đổi. Trong lĩnh vực báo chí, khẳng định quyền tự do báo chí
và quyền tự do ngơn luận trên báo chí là một mặt của vấn đề, mặt khác là phải
xây dựng, ban hành các điều luật bảo đảm những quyền này được thực hiện một
13
cách dân chủ, phù hợp với yêu cầu ổn định và phát triển xã hội, có tác động tích
cực đến sự phát triển của con người. Chương II Luật Báo chí năm 2016 đưa ra
những quy định cụ thể. Nếu Điều 10 quy định cơng dân có quyền tự do báo chí,
với nội dung chủ yếu: sáng tạo tác phẩm báo chí; cung cấp thơng tin cho báo
chí; phản hồi thơng tin trên báo chí; tiếp cận thơng tin báo chí; liên kết với cơ
quan báo chí thực hiện sản phẩm báo chí; in, phát hành báo in, thì Điều 11 quy
định cơng dân có quyền tự do ngơn luận trên báo chí, thể hiện qua nội dung chủ
yếu: phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng
và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các
tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ
chức, cá nhân khác. Và Điều 12 đề cập trách nhiệm của cơ quan báo chí, với nội
dung chủ yếu: đăng, phát kiến nghị, phê bình, tin, bài, ảnh, tác phẩm báo chí
khác của cơng dân phù hợp với tơn chỉ, mục đích...; trường hợp khơng đăng,
phát phải trả lời, nêu rõ lý do khi có yêu cầu; trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người
có thẩm quyền trả lời bằng văn bản hoặc trả lời trên báo chí về kiến nghị, khiếu
nại, tố cáo của cơng dân gửi đến. Đồng thời Điều 13 quy định trách nhiệm của
Nhà nước với quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí của cơng
dân qua nội dung chủ yếu: Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực
hiện các quyền này và để báo chí phát huy đúng vai trị của mình; báo chí, nhà
báo hoạt động trong khn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không ai
được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí để xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cơng dân;
báo chí khơng bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng.
Cùng với việc mở rộng đối tượng được phép thành lập cơ quan báo chí,
đưa ra quy định mới về liên kết trong hoạt động báo chí, với các quy định về
quyền tự do báo chí và quyền tự do ngơn luận trên báo chí của cơng dân, Luật
Báo chí năm 2016 thật sự là bước tiến rất quan trọng của Nhà nước Việt Nam
trong khi vừa bảo đảm quyền tự do ngôn luận trong xã hội, vừa hoàn thiện hệ
14
thống luật pháp để bảo đảm các quyền này. Tuy nhiên, quyền tự do ngơn luận
nói chung, quyền tự do báo chí và quyền tự do ngơn luận trên báo chí nói riêng,
khơng phải là các quyền khơng có giới hạn, mà như đã trình bày ở phần trên,
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam và các văn bản liên quan của Liên hợp
quốc đều đặt các quyền này trong khuôn khổ pháp luật, và bị giới hạn trong các
nguyên tắc không được gây hại, không được xúc phạm, không được xung đột
với các quyền khác của Nhà nước, của công dân,... Thí dụ, trong khi thực hiện
quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí nói riêng, công dân phải
tuân thủ Điều 15 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, trong đó khoản 2 khẳng
định: “Mọi người có nghĩa vụ tơn trọng quyền của người khác” và khoản 4
khẳng định: “Việc thực hiện quyền con người, quyền cơng dân khơng được xâm
phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Và
đó là cơ sở để Điều 9 Luật Báo chí năm 2016 có quy định cụ thể về các hành vi
bị nghiêm cấm trong hoạt động báo chí để hạn chế các hành vi lạm quyền của
báo chí, sử dụng báo chí đăng tải nội dung xấu độc, tiêu cực, làm phương hại
đến Nhà nước, nhân dân, tổ chức xã hội, lịch sử dân tộc, chủ quyền của đất
nước, quan hệ quốc tế, tín ngưỡng - tơn giáo, quyền trẻ em, danh dự và uy tín
của cơng dân,...
Từ các nội dung trên, có thể nói Luật Báo chí năm 2016 đã tạo khung
pháp lý rộng nhưng nghiêm khắc, bảo hộ mạnh mẽ bằng các định chế cần và đủ
để công dân thực hiện quyền tự do báo chí và quyền tự do ngơn luận trên báo
chí; để các cơ quan báo chí và nhà báo có thể tự do tác nghiệp trong khuôn khổ
luật định... Đây là một phương diện quan trọng thể hiện tính chất dân chủ, cơng
bằng, văn minh trong tổ chức, quản lý xã hội của Nhà nước Việt Nam, đồng thời
cũng là một bằng chứng chứng minh hệ thống pháp luật ở Việt Nam đã và đang
ngày càng hoàn thiện, phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, phù hợp với trình độ phát triển của thế giới hiện đại. Đồng thời đây
cũng là cơ sở để bác bỏ luận điệu mà các thế lực thù địch và một số tổ chức, cá
nhân thiếu thiện chí vẫn thường sử dụng để vu cáo, vu khống, bịa đặt về vấn đề
tự do báo chí ở Việt Nam.
15
Tự do báo chí, tự do ngơn luận trên báo chí thuộc các quyền cơ bản của
con người trong một xã hội phát triển. Song thực hiện quyền tự do báo chí,
quyền tự do ngơn luận trên báo chí như thế nào lại là vấn đề cần đề cập một cách
cụ thể, căn cứ vào sự lựa chọn con đường phát triển của mỗi quốc gia và hệ
thống luật pháp của quốc gia ấy, cùng với các tiêu chí của nền văn hóa mà trực
tiếp là đạo đức. Nên dù thực hiện các quyền này, trong khuôn khổ pháp luật, để
phù hợp với truyền thống văn hóa, phục vụ lợi ích của đất nước, của dân tộc, của
cộng đồng, báo chí khơng thể lợi dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn
luận trên báo chí được quan niệm một cách cực đoan mà xâm phạm tới quyền và
lợi ích của mọi tổ chức, cá nhân, của đất nước. Đó là những vấn đề tất yếu mà
chỉ từ nhận thức đầy đủ, nghiêm túc thì mỗi cơng dân, mỗi cơ quan báo chí, mỗi
người làm báo mới có thể sử dụng quyền tự do báo chí và quyền tự do ngơn luận
trên báo chí một cách thiết thực, hiệu quả, có ý nghĩa tích cực với xã hội và con
người, qua đó thể hiện tinh thần “Sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật”.
KẾT LUẬN
Một nền báo chí phát triển lành mạnh, trung thực, có uy tín, ln nhận
được sự tin cậy của bạn đọc là mục tiêu hướng tới của bất kỳ nền báo chí nào.
Và nếu lãnh đạo cơ quan chủ quản báo chí cần nêu cao trách nhiệm trong tổ
chức, quản lý để bảo đảm tờ báo, trang tin hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích và
chịu trách nhiệm trước sai phạm, thì mỗi người làm báo cũng cần xác định rõ
trách nhiệm của mình. Hiệu quả của cơng việc và uy tín của mỗi người làm báo
luôn luôn phụ thuộc vào sự kết hợp hài hịa giữa trình độ nghề nghiệp, đạo đức
nghề nghiệp, sự say mê nghề nghiệp và khả năng thâm nhập cuộc sống. Để sự
thật luôn được lên tiếng, để đem những điều tốt đẹp đến với bạn đọc,… thì sự tự
nhận thức, lòng khát khao hướng đến những giá trị nghề nghiệp đích thực, và
cống hiến những gì tốt đẹp nhất mình có được,… ln phải là nhu cầu tự thân
của người làm báo, và vì thế, việc tu dưỡng, rèn luyện theo 10 điều quy định đạo
đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam là hết sức quan trọng. Hy vọng
trong thời gian tới, 10 điều quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo
16
Việt Nam sẽ sớm trở thành yếu tố cấu thành nên phẩm cách của mọi hội viên
Hội Nhà báo Việt Nam.
Bài kiểm tra làm lại: Tình huống xảy ra trên thực tế mơ tả lại, phân
tích sự vi phạm đạo đức của nhà báo?
Cuối tháng 3.2017, Công an Quận Hồng Bàng, TP Hải Phịng đã tạm giữ
hình sự 3 cán bộ, phóng viên của Văn phịng đại diện Báo Kinh doanh và Pháp
luật tại Hải Phòng là Phan Văn Thương (44 tuổi, trưởng văn phòng); Phan
Thành Long (26 tuổi, nhân viên); Phạm Văn Tân (27 tuổi, phóng viên) để điều
tra về hành vi cưỡng đoạt tài sản.
Trước đó, Phan Thành Long bị bắt quả tang đang nhận tiền của bà Đào
Thị Đài (ở Phường Máy Tơ, Quận Ngô Quyền, TP Hải Phịng) sau khi đe dọa bà
Đài nếu khơng nộp tiền sẽ đăng báo việc gia đình bà này vi phạm nguyên tắc
xây dựng. Mở rộng điều tra, Công an Quận Hồng Bàng tiếp tục bắt Phan Văn
Thương, Phạm Văn Tân. Khám xét nơi ở, nơi làm việc của các đối tượng, công
an thu giữ nhiều tài liệu, bằng chứng liên quan.
Theo thông tin ban đầu từ cơ quan công an, Phan Văn Thương với chức
danh Trưởng văn phòng đại diện Báo Kinh doanh và Pháp luật tại Hải Phòng đã
tổ chức cho phóng viên, cộng tác viên theo dõi các sai phạm của người dân, tổ
chức trong các lĩnh vực xây dựng nhà ở, dạy thêm học thêm... và yêu cầu “hỗ
trợ” khoảng 10 triệu đồng mỗi vụ, nếu không sẽ đăng báo. Các hoạt động này đã
diễn ra trong thời gian dài, với mật độ cao.
Cũng trong thời gian này, TAND Quận Liên Chiểu (TP Đà Nẵng) đã tuyên
phạt bị cáo Nguyễn Mạnh Hùng (phóng viên thuộc cơ quan đại diện tại miền
Trung của tờ Thời báo Làng Nghề Việt, trụ sở tại Quận Liên Chiểu, Đà Nẵng) 15
tháng tù về tội cưỡng đoạt tài sản. Theo cáo trạng, đầu tháng 8.2016, Hùng phát
hiện ngôi nhà trên đường Thích Quảng Đức, phường Hịa Minh, Quận Liên
Chiểu, xây dựng không đúng theo giấy phép.
17
Hùng đã liên hệ với chị Đặng Thị Hồng Hải (chủ nhà), nói rằng đã viết
một bài về sai phạm của chị Hải và chuẩn bị cho đăng trên trang web Thời báo
Làng Nghề Việt. Hùng đề nghị chị Hải chung 10 triệu đồng thì sẽ khơng đăng
bài, nhưng chị Hải từ chối. Sau đó, nhà chị Hải bị UBND Quận Liên Chiểu lập
biên bản, xử phạt 7,5 triệu đồng do xây dựng sai nội dung giấy phép. Vào ngày
11.8.2016, Hùng đăng bài và gọi điện cho chị Hải, nói sẽ tiếp tục đăng bài tiếp
theo, để cơ quan chức năng phá dỡ và xử lý cơng trình. Hùng nói nếu muốn
dừng việc đăng báo thì chị Hải phải đưa cho Hùng 20 triệu đồng. Lo sợ bị ảnh
hưởng, chị Hải hẹn giao 20 triệu cho Hùng tại một quán cà phê. Lúc Hùng nhận
tiền thì bị cơng an ập vào bắt quả tang.
Sự vi phạm đạo đức:
- Những nhà báo trên đã có những bài viết mang nội dung thơng tin thiếu
trung thực, thiếu chính xác, phản ánh một chiều về mặt trái của xã hội; phản ánh
quá nhiều những vụ việc tiêu cực, tệ nạn xã hội, gây dư luận xã hội bất an; chưa
quan tâm phát hiện, biểu dương nhân tố tích cực, điển hình tiên tiến trong các
phong trào thi đua u nước.
- Khơng chịu khó đi thực tế mà thường ngồi bàn giấy, dựa vào mạng
Internet để kiếm thông tin, để viết bài, đưa tin, tùy tiện, bịa đặt, hư cấu. Thậm
chí, nhiều tin đồn từ mạng xã hội không được kiểm chứng được nhiều phóng
viên khai thác, biến thành tin, bài đăng chính thức.
- Đưa nhiều tin, bài không phù hợp với thuần phong mỹ tục, văn hóa Việt
Nam, thơng tin thiên về bạo lực, tình dục, vụ án, đời tư người nổi tiếng, mê tín
dị đoan... để câu khách một cách rẻ tiền.
Năm 2016, Bộ Thông tin và Truyền thông đã quyết định đình bản tạm thời
3 tháng đối với 4 cơ quan báo chí có sai phạm; thu hồi Thẻ nhà báo đối với 13
nhà báo có sai phạm; xử lý hành chính 139 trường hợp cơ quan báo chí vi phạm,
phạt tiền hơn 3,6 tỉ đồng. Những con số trên là lời cảnh tỉnh về vấn đề đạo đức
nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam hiện nay.
18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật báo chí 2016.
2. Diễn đàn ' Đạo đức người làm báo Việt Nam': 5 chuẩn mực trong Quy
định đạo đức người làm báo Việt Nam. – Nhà báo Nguyễn Văn Hải, Phó trưởng
Phịng Biên tập Văn hóa- Thể thao, Ủy viên Ban chấp hành LCH Nhà báo, Báo
Quân đội Nhân dân.
3. Đạo đức nghề nghiệp và uy tín của người làm báo – Báo nhân dân ngày
10/1/2017.
4. Một số điều trao đổi về đạo đức nghề báo.
19