Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

NGUYÊN TẮC DẠY CHÍNH TẢ TRONG TIẾNG VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.32 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC – MẦM NON

TÊN ĐỀ TÀI
NGUYÊN TẮC DẠY CHÍNH TẢ TRONG TIẾNG VIỆT

THÁNG 8 NĂM 2021


MỤC LỤC
Trang

A. PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………………
- Nêu tổng quan về mơn học………………………………………….
- Giới thiệu tóm tắt nội dung ………………………………………... ..
B. PHẦN NỘI DUNG………………………………………………….
Nội dung 1………………………………………………………………
1.1. Nguyên tắc dạy chính tả theo khu vực………………………………..
1.2..Ngun tắc dạy chính tả có ý thức và khơng có ý thức. …………….
1.2.1.Qui tắc viết hoa cơ bản…………………………………………………

2
2
3
4
4
5
5

1.2.2. Qui tắc viết chính tả do một âm có nhiều cách viết …………......


6

1.2.3. Qui tắc sử dụng âm đầu l/n; ch/tr; s/x; r/d/gi; c/k/q:……….
1.3. Nguyên tắc phối hợp giữa phương pháp tích cực với phương pháp
tìêu cực (xây dựng cái đúng, loại bỏ cái sai)………………………………
Nội dung 2 …………………………………………………………..

6

2.1. Xây dựng bài tập chữa lỗi chính tả: … ………………………

10

2.2. Kế hoạch bài dạy……................................................................ …..

11

9

2.2.1 Các phương pháp được sử dụng để dạy bài chính tả:
“Người mẹ”…………………………………………………..

15

2.2.2 Biện pháp dạy học chính tả được thể hiện qua bài

“Người mẹ”…………………………………………………..

16


C. PHẦN KẾT LUẬN…………………………………………………
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………..….
PHỤ LỤC……………………………………………………………….

18
20
21

1


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tổng quan về môn học:
Cũng như ngôn ngữ, chữ viết ra đời theo yêu cầu của xã hội lồi người, hình thành
trên cơ sở những thành quả lao động chân tay và trí óc. Tiền thân gần gũi của nó chính là
những hình vẽ mang ý nghĩa thực thể hoặc tượng trưng. Những hình vẽ được tìm thấy
trên vách núi, trong hang động, thạp đồng của người xưa có thể đảm nhận được chức
năng thơng tm, giúp ngơn ngữ nói khắc phục được phần nào những hạn chế về mặt không
gian, thời gian và sự khác biệt nhau về ngơn ngữ. Chúng chính là tiền thân của chữ viết.
Biết đọc, biết viết thì cả một thế giới mở rộng lớn mênh mông; sẽ mở ra trước mắt các
em. Học chữ là công việc đầu tiên của các em đến trường và được tiến hành thường xuyên
trong suốt cả mười hai năm học phổ thơng. Vì vậy, dạy chữ chính là dạy người.
Ở bậc Tiểu học, phân mơn Chính tả càng có vị trí quan trọng. Bởi vì, giai đoạn tiểu
học là giai đoạn then chốt trong q trình hình thành kĩ năng chính tả cho học sinh.
Khơng phải ngẫu nhiên mà ở Tiêu học, chính tả được bố trí thành một phân mơn độc lập
(thuộc mơn Tiếng Việt), có tiết dạy riêng. Trong khi đó, ở Trung học cơ sở và Trung học
phơ thơng, Chính tả chỉ được dạy xen kẽ trong các tiết thực hành ở phân môn Tập làm
vàn, chứ không tồn tại với tư cách là một phân môn độc lập như ở Tiểu học.Tầm quan
trọng của phân mơn Chính tả cịn thê’ hiện ở nhiệm vụ nặng nề hiện nay - khắc phục tình
trạng viết sai chính tả q phơ’ biến ở học sinh.

Phân mơn Chính tả trong nhà trưởng có nhiệm vụ giúp học sinh nắm vững các quy
tắc chính tả và hình thành kĩ năng chính tả; nói cách khác, giúp học sinh hinh thành năng
lực và thói quen viết đúng chính tả.
- Ngồi ra, phân mơn Chính tả cịn rèn cho học sinh một số phẩm chất như tính cẩn
thận, óc thẩm mĩ, bồi dưỡng cho các em lịng u q tiếng Việt và chữ viết của tiếng
Việt.
Chính vì lí do trên, nên chúng tơi muốn góp thêm một giải pháp cụ thể nhằm khắc
phục tình trạng non yếu trên nên chọn chủ đề “Một số nguyên tắc dạy chính tả trong
Tiếng Việt”
2. Giới thiệu tóm tắc nội dung :
Nội dung dạy học Chính tả là các kiến thức và kĩ năng chính tả được thể hiện qua
sự phân bố chương trình, sách giáo khoa, qua cấu trúc chung của các bài học chính tả và
các dạng bài học. Đặc biệt, trong chương trình tiểu học khơng có tiết dạy riêng về lí
thuyết chính tả, các kĩ năng chính tả đều được hình thành qua việc thực hiện những nhiệm
vụ cụ thể. Vì vậy, các bài tập chính tả (bài tập chính tả âm, vần) giữ một vị trí quan trọng
2


trong việc hình thành và củng cố kĩ năng chính tả cho học sinh.
Chương trình phân mơn Chính tả được phân bố ở cả 5 lớp của bậc Tiểu học. ở lớp
1, nội dung dạy học chính tả chủ yếu là làm quen, gắn liền với nhiệm vụ tập viết. Có thể
chia nội dung dạy học chính tả ở lớp 2, 3, 4, 5làm hai giai đoạn: giai đoạn 1 (lớp 2, 3) và
giai đoạn 2 (lớp 4, 5). Trong chương trình hiện hành có 3 dạng bài chính tả (đoạn - bài):
tập chép, nghe - viết và nhớ - viết (khơng cịn dạng bài chính tả so sánh như ở chương
trình Cải cách giáo dục).
Các bài tập chính tả ở Tiểu học rất phong phú về số lượng và kiểu loại. Hệ thống
bài tập chính tả âm, vần gồm hai nhóm: nhóm bài tập chung cho tất cả các học sinh tiểu
học thuộc nhiều vùng miền khác nhau, và nhóm bài tập chính tả dành cho học sinh từng
vùng phương ngữ nhằm khắc phục những lỗi chính tả đặc thù do ảnh hưởng của lối phát
âm địa phương. Tùy vào những căn cứ nhất định, có thể phân chia bài tập chính tả thành

nhiều loại khác nhau.

3


B. PHẦN NỘI DUNG
NỘI DUNG 1:
Dù là một cộng đồng người Việt Nam nhưng mỗi người một cách phát âm theo
phương ngữ khác nhau. Chữ viết Tiếng Việt lại là chữ viết ghi âm tương đối hợp lý. Bởi
môn học chính tả là mơn học cơng cụ, là nơi bắt nguồn cho giao tiếp cũng như tiếp thu tri
thức trên con đường học tập của trẻ. Khi trẻ đến trường tham gia học tập là lúc trẻ bắt đầu
học tập ngơn ngữ nói và viết. Đồng thời sử dụng nó để tiếp thu tri thức. Chính vì thế, việc
mắc lỗi chính tả khơng được khắc phục kịp thời sẽ làm cho trẻ gặp khó khăn lớn trong
giao tiếp, cũng như trong học tập. Được phân ra 3 Nguyên tắc chính như sau:
1.1 Nguyên tắc dạy chính tả theo khu vực
Dạy chính tả theo khu vực nghĩa là nội dung giảng dạy về chính tả phải sát hợp với
phương ngữ. Nói cách khác, phải xuất phát từ tình hình thực tế mắc lỗi chính tả của học
sinh ở từng khu vực, từng miền để hình thành nội dung giảng dạy, phải xác định được
trọng điểm chính tả cần dạy cho học sinh ở từng khu vực, từng địa phương. Vì như ta biết
các phát âm địa phương có ảnh hưởng trực tiếp đên chính tả. Đối chiếu với âm, ta thấy
cách phát âm của ba vùng phương ngữ chính dều cịn có những chỗ chưa chuẩn xác, cịn
sai lệch. Cụ thể:
+ Phương ngữ Bắc Bộ: Chưa phát âm phân biệt rõ các căp phụ âm đầu: tr/ch; s/x;
r/d , gi và một số cặp khuôn vần như: ưu / iu; ươi / iêu...
+ Phương ngữ Bắc Bộ: chưa phân biệt rõ hai thanh điệu: thanh hỏi và thanh ngã.
+ Phương ngữ Nam Bộ: Có hiện tượng đồng nhất hố hai phụ âm đầu / v / và /z/
khi phát âm. Cũng tương tự, đồng nhất hoá hai cặp phụ âm cuối / n / , /? / và / 1/, /k /. (Ví
dụ: ln ln phát âm thành lng lng, tuốt tuột phát âm thành tuốc tuộc...) Hoăc biến
âm chính / ă / trong âm tiết tay thành /a :/, cho nên không phân biệt tay và tai khi phát
âm... Như vậv, mỗi địa phướng có một số trọng điểm chính tả riêng. Vì vậv, giáo viên cần

chú ý vận dụng nguyên tắc dạv chính tả theo địa phương, theo khu vực.
Nguyên tắc này yêu cầu giáo viên trước khi dạy, cần tiên hành điều tra cơ bản để
nắm lỗi chính tả phổ biến của học sinh, từ đó lựa chọn nội dung giảng dạv thích lợp (nhất
là đối với loại hình chính tả so sánh) . Ngun tắc nàỳ cũng lưu ý giáo viên cần tăng
cường tính linh hoạt, sáng tạo trong giảng dạy, cụ thê trong việc xây dưng nội dung bài
sao cho sát hợp với đối tượng học sinh lớp mình dạy. Ở một chừng mực nào đó, có thể
lược bớt nhĩmg nội dung giảng dạy trong sách giáo khoa xét thấy không phù hợp với học
sinh lớp mình dạy, đồng thời bổ sung những nội dung dạy cần thiết mà sách giáo khoa
chưa dề cập đến.

4


1.2.Ngun tắc dạy chính tả có ý thức và khơng có ý thức.
HS Tiểu học thường hiếu động, chóng nhớ, chóng qn, do đó GV cần hình thành
cho các em kĩ xảo chính tả một cách tự động hóa, khơng cần phải nhờ đến những quy tắc
chính tả, khơng cần sự tham gia của ý chí. Để đạt điều này có thể tiến hành theo hai cách:
Có ý thức và khơng có ý thức, với cách khơng có ý thức thường tốn thời gian, công sức,
GV phải luyện cho HS thường xun qua đó củng cố trí nhớ máy móc ở mức độ nhất
định.
Với cách có ý thức, GV cần cho HS bắt đầu từ việc nhận thức các quy tắc, các “mẹo” luật
chính tả. Nội dung kiến thức phải bắt đầu từ dễ đến khó, tránh nhàm chán mà phải học mà
chơi chơi mà học. Thông qua luyện tập dần dần hình thành những kỹ xảo chính tả bằng
con đường có ý thức, đó là con đường ngắn nhất, có hiệu quả cao. Cần vận dụng cả hai
phương pháp để rèn luyện chính tả cho HS tiểu học. Trong đó cách khơng có ý thức
thường được sử dụng đối với các lớp đầu cấp, cách có ý thức thường sử dụng ở các lớp
cuốicấp.
HS tiểu học không phải bao giờ cũng viết đúng, đọc đúng. Do những yếu tố ảnh hưởng
đến khả năng viết đúng chính tả ( TMĐ, yếu tố sinh lí, yếu tố xã hội ) nên hầu như các em
đều viết chính tả theo cảm tính, mặt khác do kĩ năng viết chính tả cịn ít, hạn chế nên việc

viết đúng, chính xác cịn khó khăn. Vì vậy cần giúp các e nắm rõ một số qui tắc chính tả
sau:
1.2.1. Qui tắc viết hoa cơ bản
- Đầu câu, danh từ riêng.
Ví dụ: Bác Hồ, Tổ quốc, Mặt Trời,…
- Viết hoa khi dẫn lời nói trực tiếp.
Ví dụ: Thanh gọi mẹ ríu rít: - Mẹ ơi !
- Sau dấu hai chấm mà kiểu câu liệt kê thì khơng viết hoa.
Ví dụ: Xồi có nhiều loại: xồi tượng, xoài cát, xoài thanh ca,…
- Viết hoa tên người, tên địa danh nước ngoài: phiên âm, dịch ra tiếng Việt.
+ Trường hợp phiên âm qua âm Hán Việt: Viết theo quy tắc viết tên người, tên địa lí Việt
Nam.
Ví dụ: Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành, Khổng Tử, Đức, Nhật Bản, Bồ Đào Nha, Triều
Tiên …
+ Trường hợp phiên âm không qua âm Hán Việt (phiên âm trực tiếp, viết sát theo cách
đọc): Đối với mỗi bộ phận tạo thành tên riêng, viết hoa chữ cái đầu và có gạch nối giữa
các âm tiết.
Ví dụ: Phơ-ri-đơ-rích Ăng-ghen, Vơ-la-đi-mia I-lích Lê-nin, Mát-xcơ-va, I-ta-li-a, Angiê-ri, …
1.2.2. Qui tắc chính tả do một âm có nhiều cách viết (Trường hợp i/y)
5


- Có 3 trường hợp viết y:
+ Bắt buộc viết y đứng sau âm đệm như: huy, tuy, thúy,…
+ Đứng sau nguyên âm ngắn a như ây
+ Đứng trước ê khi chữ đó khơng có âm đầu như: u, yết, yếm
- Trường hợp bắt buộc viết i:
+ Sau các nguyên âm dài, trong đó các vần kết thúc bằng phụ âm mà khơng có âm đệm.
Ví dụ : kim tim, tin, …
+ Trước a khi chữ đó khơng có âm đệm như: lía, kia, chia,…

- Trường hợp viết i/y đều đúng trong trường hợp có âm tiết mở (Khuyến khích học sinh
viết i: Châu Mĩ/Châu Mỹ, Địa lí/Địa lý, Bác sĩ/Bác sỹ,…)
- Phải viết i hoặc y bắt buộc do phân biệt nghĩa.
Ví dụ: bàn tay - lỗ tai; ngày mai - may mắn; khối chí - cái khốy âm dương.
1.2.3. Qui tắc sử dụng âm đầu l/n; ch/tr; s/x; r/d/gi; c/k/q:
* Trường hợp l/n
- Chữ n không đứng đầu các tiếng có vần có âm đệm (oa, oe, uâ, uy) trừ hai âm tiết Hán
Việt: nỗn, noa. Do đó nếu gặp các tiếng dạng này thì ta chọn l để viết, khơng chọn n.
Ví dụ: chói lồ, lố mắt, loảng xoảng, loà xoà, loạng choạng, loan báo, loăng quăng,
loằng ngoằng, loắt choắt, quần loe, lập loè, loá sáng, luân lí, kỉ luật, luẩn quẩn, lưu luyến,
luyên thuyên, tuý luý, ...
- Trong cấu tạo từ láy:
+ Láy âm: Cả l và n đều có từ láy âm. Do đó nếu gặp từ láy âm thì ta có thể chọn cả hai
tiếng cùng có âm l hoặc n.
Ví dụ: no nê, nợ nần, nao núng, nôn nao, nảy nở, nung nấu,... lo lắng, lầm lì, lanh lảnh,
lung linh, long lanh, len lỏi, lâm li,...
+ Láy vần: trong các từ láy vần có tiếng có n hoặc l thì tiếng thứ nhất bao giờ cũng có âm
đầu l, tiếng thứ hai có âm đầu n khi tiếng thứ nhất có âm đầu gi hoặc khuyết âm đầu và
tiếng thứ hai có âm đầu l khi tiếng thứ nhất có âm đầu khác gi. Do đó nếu gặp từ láy vần
thì tiếng thứ nhất ta phải chọn âm đầu l còn nếu tiếng thứ nhầt có âm đầu gi hoặc khuyết
âm đầu thì tiếng thứ hai ta chọn n, tiếng thứ nhất có âm đầu khác gi thì tiếng thứ hai ta
chọn l. (Trừ hai trường hợp đặc biệt: khúm núm, khệ nệ).
Ví dụ: la cà, lờ đờ, lò dò, lù đù, lơ mơ, lan man, lõm bõm, lạch bạch, ... gian nan, gieo
neo, giãy nảy, áy náy, ảo não, ăn năn, ... cheo leo, chói lọi, lơng bơng, khét nẹt, khốc
lác, ...
- Một số từ có thể thay thế âm đầu nh bằng âm đầu l.
Ví dụ: nhời - lời, nhẽ - lẽ, nhỡ - lỡ, nhát - lát, nhăm nhe - lăm le, nhấp nhánh - lấp lánh,
nhố nhăng - lố lăng, ...
- Một số từ có thể thay âm đầu đ, c bằng âm đầu n.
Ví dụ: đấy - nấy, cạo - nạo, kích – ních, cạy - nạy, ...

- Những từ dùng chỉ vị trí hoặc chỉ sự ẩn nấp thường viết bằng n.
Ví dụ: này, nọ, ni, nớ, nào, nấp, náu, né, nép, ...
* Trường hợp ch/tr
6


- Chữ tr khơng đứng đầu các tiếng có vần âm đệm (oa, oă, oe, uê). Do đó nếu gặp
các dạng này ta chọn ch để viết, khơng chọn tr.
Ví dụ: sáng choang, áo chồng, chống váng, chập choạng, ... loắt choắt, chích ch, chí
chéo, chuệch choạc, chuếnh chống, ...
- Những từ Hán Việt có thanh nặng hoặc thanh huyền thường có âm đầu tr. Do đó
nếu gặp các dạng này ta chọn tr để viết, khơng chọn ch.
Ví dụ: trọng, trường, trạng, trình tự, trừ phi, giá trị, trào lưu, trù bị, ...
- Những từ chỉ đồ vật trong nhà, chỉ tên các loại quả, chỉ tên các món ăn, chỉ tên các
hoạt động, chỉ quan hệ giữa những người trong gia đình và những từ mang
ý nghĩa phủ định thường có âm đầu ch.
Ví dụ: chăn, chiếu, chai, chén, chổi, chum, chạn, chõng, chảo, ... chuối, chanh, chôm
chôm, cháo, chè, chả, chạy, chặt, chắn, chẻ, ... cha, chú, chị, chồng, cháu, chắt, chẳng,
chưa, chớ, chả, ...
- Một số từ có thể thay âm đầu tr bằng âm đầu gi.
Ví dụ: trồng - giồng, trầu - giầu, trời - giời, trăng - giăng, ...
- Trong cầu tạo từ láy:
+ Láy âm: Cả tr và ch đều có từ láy âm. Do đó nếu gặp láy âm đầu thì ta có thể chọn cả
hai tiếng cùng có âm đầu ch hoặc tr.
Ví dụ: chơng chênh, chen chúc, chăm chỉ, chân chất, chập chững, ... tròn trĩnh, trùng trục,
trăn trở, tròng trành, trơ tráo, trập trùng, ...
+ Láy vần: Trong các từ láy vần chỉ có tiếng có âm đầu ch (trừ một số trường hợp đặc
biệt: trét lẹt, trót lọt, trụi lủi)
Ví dụ: chơi vơi, lừng chừng, chàng màng, chênh vênh, chán ngán, chót vót...
* Trường hợp s/x

- Chữ s khơng đứng đầu các tiềng có âm đệm (oa, oă, oe, uê, uâ) ngoại trừ các
trường hợp: soát, soạt, soạng, soạn, suất. Do đó nếu gặp các tiềng dạng này thì ta
chọn x để viết khơng chọn s.
Ví dụ: xuề xoà, xoay xở, xoành xoạch, xuềnh xoàng, xoăn, xoe, xuân, ...
- Trong cấu tạo từ láy:
+ Láy âm: Cả s và x đều có từ láy âm. Do đó nếu gặp từ láy âm đầu thì có thể chọn cả
hai tiếng cùng có âm đầu s hoặc x.
Ví dụ: sắc sảo, suy suyển, sờ soạng, sục sạo, sung sướng, sỗ sành, ... xao xuyến, xơn xao,
xàm xỡ, xì xào, xí xố, xấp xỉ, xn xoẹt, ...
+ Láy vần: Tiếng có x thường láy với tiềng có l, trừ một số trường hợp: lụp sụp, đồ sộ,
sáng láng. Do đó nếu gặp láy vần thì ta chọn tiếng chứa âm đầu x.
Ví dụ: liểng xiểng, loăn xoăn, lồ xồ, lộn xộn, lao xao, xoi mói, xích mích, xa lạ, ...
- Một số từ ghép có một tiếng có âm đầu s và có một số tiếng có âm đầu x:
Ví dụ: xứ sở, sản xuất, xuất sắc, xác suất, xổ số, soi xét, ...
* Trường hợp r/d/gi
- Chữ r và gi khơng đứng đầu các tiềng có vần có âm đệm (oa, oe, uê, uy). Do đó
gặp các tiếng dạng này thì ta chọn d để viết, khơng chọn r hoặc gi.
7


Ví dụ: kinh doanh, doạ nạt, dỗng ra, hậu duệ, duy nhất, duyệt binh, ...
- Trong các từ Hán Việt:
+ Các tiếng có thanh ngã hoặc thanh nặng thường viết với âm đầu d.
Ví dụ: diễn viên, hấp dẫn, bình dị, mậu dịch, kì diệu, ...
+ Các tiếng có thanh sắc hoặc thanh hỏi thường viết gi.
Ví dụ: giải thích, giảng giải, giá cả, giám sát, giới thiệu, tam giác, ...
+ Các tiếng có thanh huyền hoặc thanh ngang thường viết với âm đầu gi khi vần có âm
đầu a và viết với âm đầu d khi vần có âm đầu khác a.
Ví dụ: gian xảo, giao chiến, giai nhân, tăng gia, gia nhân, du dương, do thám, dương liễu,
dư dật, ung dung, ...

- Trong cấu tạo từ láy:
+ Láy âm: Cả gi, r, d đều có từ láy âm. Nếu gặp từ láy âm thì có thể chọn cả hai tiếng
cùng có âm đầu gi, r hoặc d.
Ví dụ: giành giật, giãy giụa, giục giã, già giặn, giấm giúi, ... dai dẳng, dào dạt, dằng dặc,
dập dìu, dãi dầu, ... ríu rít, ra rả, rì rào, réo rắt, run rẩy, rung ring, rưng rức, rùng rợn, rón
rén, rừng rực, rạng rỡ, rực rỡ, ...
+ Láy vần: Tiếng có d thường láy với tiếng có l, tiếng có r thường láy với tiếng
có b hoặc c, tiếng có gi thường láy với tiếng có n.
Ví dụ: lim dim, lị dị, lai dai, ... bứt rứt, cập rập, bịn rịn, co ro, cò rò, bủn rủn, ... gian nan,
gieo neo, giãy nảy.
- Một số từ láy có các biến thể khác nhau: rào rạt - dào dạt, rập rờn - giập giờn, dân
dấn - rân rấn, dun dủi - giun giủi, dấm dứt - rấm rứt, dở dói - giở giói, gióng giả - dóng dả,
réo rắt - giéo giắt. rậm rật - giậm giật, ...
- Trong cấu tạo từ ghép giữa r, d, và gi. Chỉ có từ ghép có tiếng âm đầu gi và tiếng
có âm đầu d, khơng có từ ghép có tiếng âm đầu r và âm đầu d hay âm đầu r và âm đầu gi.
Ví dụ: già dặn, giáo dục, giao dịch, giả dối, giản dị, giao du, giảng dạy, giận dữ, gian dối,
giận dỗi, giao duyên, ...
* Trường hợp c/k/q
- Giúp cho học sinh nắm được các qui luật:
+ q luôn bao giờ cũng đi với âm đệm u để thành qu
+ c luôn đứng trước các nguyên âm: a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư.
+ k luôn đứng trước các nguyên âm: i, e, ê.
1.3. Nguyên tắc phối hợp giữa phương pháp tích cực với phương pháp tìêu
cực (xây dựng cái đúng, loại bỏ cái sai)
Bên cạnh phương pháp tích cực (cung câp cho học sinh các quy tắc chính tả,
hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập nhằm hình thành các kĩ xảo chính tả), cần phối
hợp áp dụng phương pháp tiêu cực (tức là đưa ra những trường hợp viết sai chính tả,
hướng dẫn học sinh phát hiện sửa chữa, rồi từ đó hướng học sinh đi đến cái đúng). Nói
cách khác, việc hướng dần học sinh viết đúng chính tả cần tiến hành đồng thời với việc
hướng tiẫn học sinh loại bỏ các lỗi chính tả trong các bài viết.

8


Về các loại lỗi chính tả của học sinh, trên đại thể có ba loại lỗi cơ bản sau:
+ Lỗi chính tả do khơng nắm vững chính tự. Loại lỗi này thường gặp khi viết các
phụ âm đầu: d/gi, tr/ch, ng/ngh, s/x...
Để sửa loại lỗi này, học sinh cần nắm vững các quy tắc chính tả, nhớ kĩ mặt chữ
trong các từ có phụ âm đầu dễ lẫn lộn...
+ Lỗi chính tả do khơng, nắm vững cấu trúc âm tiết tiếng Việt.Vì khơng hiểu cấu
trúc nội bộ của âm tiết tiêng Việt, nên học sinh viết thừa, viết sai (Ví dụ: quét sạch,
quoanh co, khúc khuỷ, ngoằn ngèo...) Để sửa loại lỗi này, học sinh cần hiểu âm tiết tiếng
Việt được cấu thành bởi mấy thành phần, là những thành phần nào, vị trí của từng thành
phần trong âm tiết...
+ Lỗi chính tả do viết theo lỗi phát âm địa phương hoặc do khơng nắm vững chính
âm. Loại lỗi nàv mỗi địa phướng sai một khác. Có v ù n g viết íi thành r, có vùng viết r
thành d, có vùng viết l thành n ... Để sửa loại lỗi này, học sinh cần nắm vĩmg chính âm
trong Tiếng Việt, cần tập phát âm đúng chuẩn, tập viết nhiều lần những lỗi mà địa phương
mình thường mắc. Giáo viên có thể xây dựng các “mẹo” để giúp học sinh viết đúng.
Để học sinh sửa các loại lỗi chính tả theo hướng loại bỏ cái sai, xây dựng cái đúng,
đi từ cái sai đến cái đúng, giáo viên có thể nêu ra những đoạn văn, đoạn thơ trong đó có
nliiều từ viết sai chính tả để học sinh tự mình phát hiện lỗi, tìm hiểu nguyên nhân sai và
chữa lại cho đúng.
Phướng pháp tiêu cực giúp học sinh phát hiện óc phân tích, xét đốn, đồng thời
kiểm tra, củng cố được kiến thức về chính tả của học sinh. Phương pháp tiêu cực chỉ nên
coi là thứ yếu, có tính chất bổ trợ cho phương pháp tích cực. Trong quá trình giảng dạy
chính tả, giáo viên cần phối hợp một cách hợp lí, hài hồ và có hiệu quả hai phương pháp
này.
Ví dụ:
-Mẹo phân biệt ch với tr
- tr khơng đứng trước những chữ bắt đầu bằng âm đệm nhưng ch thì có.

Như: Ơm chồng, bị chống, choang choang,
- tr không bao giờ láy với ch và ngược lại. Do đó chỉ có những từ láy cùng âm tr
hoặc ch và ngược lại.
Chẳng hạn: chăm chỉ, trâng tráo, trân trân,…
- Với những từ chỉ đồ dùng trong gia đình thì thường viết là ch.
Như: chuyên, chổi, chõng, chén,…
Mẹo phân biệt s với x
- Các từ chỉ thức ăn hoặc đồ dùng liên quan đến thức ăn hoặc đồ dùng liên quan
đến thức ăn thì viết là x.
9


Như: xôi, xào, xong,…
- Những từ chỉ thiên nhiên hoặc chỉ tên cây cối, các loại quả thì viết là s.
Như: ngôi sao, cây sen, cây súng, cây si,...
NỘI DUNG 2:
2.1. Xây dựng bài tập chữa lỗi chính tả:
Hiện nay, thực trạng học sinh cịn viết sai chính tả là do nhiều nguyên nhân. Một số
HS viết chữ rõ ràng, sạch đẹp nhưng vẫn sai chính tả ở những từ đơn giản...
Ví dụ: Con mắt viết thành con mắc; mặt trời viết thành mặt chời; ngôi sao viết thành ngôi
sau; cái bàn viết thành cái bàng... Ngoài ra, các em cịn viết sai rất nhiều các từ có dấu
hỏi, ngã: bão bùng viết thành bảo bùng; nhảm nhí viết thành nhãm nhí; vĩ đại viết thành vỉ
đại; nhẫn nại viết thành nhẩn nại.
Để HS viết đúng chính tả là một quá trình giảng dạy và rèn luyện các em xuyên
suốt lâu dài, giáo viên cần kiên nhẫn và bản thân tơi đã thực hiện những biện pháp sau:
- Dạy chính tả cho HS bằng “ngữ nghĩa”: Các em hiểu nghĩa từ để viết đúng chính tả.
Ví dụ: Đất cát thì âm T ở cuối tiếng CÁT. Các bạn thì âm C ở cuối tiếng CÁC. Đây là
điểm rất quan trọng. Trước đây, giáo viên miền Nam vẫn phát âm giọng Nam bộ, khơng
chuẩn nhưng HS vẫn viết đúng chính tả.
- Rèn chính tả cho HS trong tất cả các mơn học: Ở môn tập đọc hoặc các môn khác, khi

yêu cầu HS đọc, giáo viên cần chú ý HS cách phát âm. Phát âm đúng để viết đúng, nhất là
các tiếng có âm, vần: CH-TR, S-X , ƠI–UI… HS khi viết bài, làm bài bất kì mơn nào,
giáo viên cần phải nhắc nhở các em tập thói quen viết câu nào đọc lại câu đó và đánh vần
các từ khó. Sau đó, giáo viên sửa lỗi chính tả cho HS ở bài làm tất cả các môn.
- Giáo viên cần chú trọng hơn phần LUYỆN TẬP chính tả: Đây chính là thời gian để
giáo viên cung cấp cho HS các mẹo, luật chính tả cũng như phân tích ngữ nghĩa các từ
ngữ mà các em dễ nhầm khi viết.
- Dạy HS khi sửa lỗi chính tả cần viết cả từ để nhớ nghĩa: (khơng nên chỉ sửa tiếng
sai). Ví du: Viết sai là Ngôi SAU phải sửa là Ngôi SAO. Khuyến khích HS lập “sổ tay
chính tả”: Mỗi HS có một sổ nhỏ để ghi vào đó những từ mình hay viết sai chính tả để
thường xun ơn luyện.
- Dạy HS các mẹo luật chính ta: Luật bổng - trầm trong từ láy. Do đó, giáo viên phải
10


nhắc nhở các em ghi nhớ câu: “Em HUYỀN mang NẶNG NGÃ đau. Anh NGANG
SẮC thuốc HỎI đau chỗ nào?”. Nghĩa là trong từ láy thì thường xuất hiện các tiếng
trong từ láy thường có dấu huyền - ngã, nặng - ngã, không dấu - hỏi, sắc - hỏi đi chung
với nhau.
Ví dụ: Bão bùng, bầu bĩnh, chặt chẽ, mạnh mẽ, gãy gọn…
Ngoài ra HS cũng cần nhớ 17 trường hợp ngoại lệ: Bền bỉ, hoài hủy, hồ hởi, niềm
nở, nài nỉ, phỉnh phờ, vẻn vẹn, hẳn hòi, chèo bẻo, nhỏ nhặt, khe khẽ, ngoan ngỗn, se sẽ,
nơng nỗi, ve vãn, luồn lỏi, xài xể. Luật phân biệt hỏi - ngã trong từ Hán - Việt: HS ghi
nhớ câu: “Mình nên nhớ viết là dấu ngã”. Nghĩa là trong từ Hán - Việt, các phụ âm đầu là
M, N, NH, V, L, D, NG, NGH thường viết là dấu ngã. Ví dụ: Mỹ nhân, nữ nhi, vĩ đại, võ
sư, hùng vĩ, lãnh đạo, ngôn ngữ, nhẫn nại, vĩnh viễn, mãn khóa... Song song đó, các em
HS cũng cần biết các trường hợp ngoại lệ đối với từ Hán - Việt:HS chỉ cần nhớ những
trường hợp ngoại lệ thường gặp: như kĩ thuật, kỹ nghệ, hữu nghị, bạn hữu, tĩnh mịch,
phẫu thuật, tiễn biệt, hỏa tiễn, tích trữ, hỗ trợ, hỗn hợp, thủ quỹ, hen suyễn, bác sĩ, sĩ số,
xã hội, linh cữu, tích trữ, vây hãm, đãng trí, trì hỗn, miễn cưỡng, hiếu đễ, tuẫn tiết, ấu

trĩ… Giáo viên cần lưu ý HS 2 từ: Viển vông là từ láy, viễn vọng là từ Hán - Việt.
Kể từ khi thực hiện thay sách đến nay, tôi đã thực hiện việc dạy chính tả như trên
và nhận thấy rằng HS các lớp tơi giảng dạy đều có tiến bộ rõ rệt qua từng giai đoạn của
năm học. Có những HS viết sai chính tả nhiều ngay cả khi chép bài từ sách, thế nhưng
qua thời gian học với cách dạy trên các em đã giảm hẳn các lỗi chính tả.
2.2 Kế hoạch bài dạy: Chính tả: Nghe – viết : Người mẹ (Lớp 3- Tuần 4)
I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU:
- Nghe- viết lại chính xác đoạn văn, tóm tắt nội dung chuyện: “Người mẹ”(62 tiếng)
- Biết viết hoa các chữ đầu câu và các tên riêng; viết đúng các dấu câu; dấu chấm, dấu
phẩy; dấu hai chấm.
- Làm đúng BT2 a, hoặc BT3 a (phân biệt, các âm đầu và vần dễ lẫn: d/gi/r hoặc ân/ âng).
II. Chuẩn bị:
- Giáo án, sách giáo khoa, sách giáo viên
- Phiếu học tập
- GDHS ý thức luyện viết và giữ gìn vở sạch chữ đẹp.
11


II. ĐỒ DÙNG DẠY – HỌC:
- Bảng phụ viết sẳn BT 2 hoặc BT 3.
- 4 tờ giấy to và bút dạ.
III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY – HỌC:
Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

1. Ổn định lớp: Hát vui.
2. Kiểm tra bài cũ:
- Gọi 3 HS lên bảng, nghe GV đọc HS viết:
trung thành, chúc tụng, ngắc ngứ, ngoặc kép.

- GV nhận xét, chữa bài.
3. Bài mới:
a. Giới thiệu bài: Nêu mục tiêu, yêu cầu của
tiết học.
b. Hướng dẫn nghe viết:
- HS nghe viết lại chính xác đoạn văn tóm tắt
nội dung chuyện người mẹ.
- GV đọc mẫu đoạn văn Người mẹ.
- Yêu cầu 2 HS đọc lại.
- Hướng dẫn HS tìm hiểu nội dung đoạn viết.
+ Bà mẹ đã làm gì để giành lại đứa con?

- Hát tập thể.

+ Thần Chết ngạc nhiên về điều gì?
- HD HS trình bày.
- Đoạn văn có mấy câu ?
- Trong đoạn văn có những từ nào phải viết
hoa? Vì sao?
- Trong đoạn văn có những dấu câu nào được
sử dụng ?
- Hướng dẫn HS viết từ khó vào bảng con.

+ Bà vượt qua bao nhiêu khó khăn
và hy sinh dành lại đứa con đã mất.
+ Thần chết ngạc nhiên vì người mẹ
có thể làm tất cả vì con.
- Đoạn văn có 4 câu.
- Các từ: Thần chết, thần đêm tối
phải viết hoa vì là tên riêng: Một,

Nhớ, Thấy, Thần.
-Trong đoạn văn có dấu chấm phẩy,
dấu hai chấm được sử dụng.
- HS nêu: Chỉ đường, hy sinh, giành
lại.
- 3 HS lên bảng viết.

- GV theo dõi và chỉnh sửa cho HS.
- GV đọc cho HS viết đúng yêu cầu.
- GV đọc lại cho HS soát lỗi.
- Thu 7 – 10 vở nhận xét.

- HS viết bảng.

- HS lắng nghe đọc tên bài.

- HS lắng nghe.
- 2 HS đọc lại cả lớp theo dõi.

12


c. Hướng dẫn làm bài tập:
Bài 2a: Điền vào chỗ trống d hay r ? Giải câu
đố.
- Gọi HS đọc yêu cầu của bài.
- Yêu cầu HS làm việc nhóm.
- Gọi các nhóm trình bày.
- u cầu HS nhận xét bài trên bảng.
- GV nhận xét.

Bài 3: Tìm các từ: chứa tiếng bắt đầu bằng d,
gi hoặc r:
- HS đọc yêu cầu.
- Chia lớp thành 3 nhóm và phát giấy, bút cho
HS.
- Yêu cầu nhóm tự làm bài, GV giúp đỡ nhóm
gặp khó khăn.
- Các nhóm trình bày kết quả.
- GV nhận xét, đánh giá.
4. Củng cố - dặn dò:
- GV nhận xét tiết học.
- Viết lại các từ viết sai, Chuẩn bị tiết sau viết
bài: Ông ngoại.

- HS viết.
- HS đổi vở cho nhau và dùng viết
chì để sốt lỗi cho nhau.
- 1 HS đọc yêu cầu của bài.
- HS thảo luận nhóm hồn thành bài
tập.
Bài làm: ra, da -> cục gạch
- HS tham gia nhận xét.

- Đọc yêu cầu đề bài.
- HS nhận đồ dùng học tập.
- HS làm bài trong nhóm.
+ Hát nhẹ và êm cho trẻ ngủ: ru
+ Có cử chỉ, lời nói êm ái: dịu dàng
+ Phần thưởng trong cuộc thi: giải
thưởng

- Các nhóm trình bày, các nhóm cịn
lại nhận xét.

- Lắng nghe và thực hiện.
2.2.1 Các phương pháp được sử dụng để dạy bài chính tả: “Người mẹ”
* Phương pháp phân tích ngơn ngữ
Phương pháp phân tích ngơn ngữ bao gồm các thao tác phân tích và tổng hợp. Ở
bài này, thao tác phân tích thể hiện ở việc phân tích cấu tạo của chữ (ghi tiếng), cách đọc
các âm, vần khó hay dễ lẫn; giải thích nghĩa của tiếng/ từ… tạo điều kiện cho việc viết
đúng chính tả.

13


Ví dụ: GV hướng dẫn HS đọc một số từ khó đọc, dễ viết sai do cấu tạo hoặc do ảnh
hưởng của phương ngữ: Chỉ đường, hy sinh, giành lại.
- GV yêu cầu HS viết nháp một số chữ dễ viết sai.
- HS luyện đọc, viết từ khó vào nháp
* Phương pháp vấn đáp
Phương pháp vấn đáp được thể hiện ở việc giáo viên tổ chức tiết học bằng cách
giao nhiệm vụ học tập sao cho học sinh tích cực, chủ động tham gia vào hoạt động vấn
đáp một cách hiệu quả. Hình thức vấn đáp trong dạy học chính tả bài này bao gồm cả đọc,
nghe, nói, viết.
+ Thao tác nghe trong phân mơn Chính tả vừa là nghe đọc bài chính tả, vừa là nghe
giáo viên hoặc các bạn nói về hiện tượng chính tả, quy tắc chính tả.
Ví dụ:
-

GV đọc đoạn chính tả trong đoạn văn “Người mẹ” ( 62 tiếng).


-

HS lắng nghe, đọc thầm theo.

+ Thao tác nói được sử dụng khi các em trả lời các câu hỏi về nội dung bài viết, về
nghĩa từ hay phân biệt cách viết các chữ…
Ví dụ:
-

GV yêu cầu HS trả lời câu hỏi:
- Đoạn văn có mấy câu ?
- Trong đoạn văn có những từ nào phải viết hoa? Vì sao?
- Trong đoạn văn có những dấu câu nào được sử dụng ?
+ Trong giờ chính tả, thao tác viết được sử dụng thường xuyên nhất, từ bước kiểm
tra bài cũ đến bước viết chính tả đoạn

* Phương pháp hoạt động nhóm: Được thể hiện ở bài 3 Tìm các từ: chứa tiếng bắt đầu
bằng d, gi hoặc r:
- HS đọc yêu cầu.
14


- Chia lớp thành 3 nhóm và phát giấy, bút cho HS.
- Yêu cầu nhóm tự làm bài, GV giúp đỡ nhóm gặp khó khăn.
- Các nhóm trình bày kết quả.
- GV nhận xét, đánh giá.
* Phương pháp rèn luyện theo mẫu
Phương pháp rèn luyện theo mẫu trong bài này có cách thể hiện riêng. Đó chính là
sự vận dụng các quy tắc hay mẹo chính tả đã biết vào trường hợp khác tương tự. Chính vì
vậy, giáo viên cần đặc biệt chú ý đến cách sử dụng từ ngữ, chữ viết và cách viết chữ của

mình để học sinh ln có những mẫu tốt để thực hiện theo.
2.2.2. Biện pháp dạy học chính tả được thể hiện qua bài “Người mẹ”
Khi dạy kiểu bài Chính tả nghe – viết, “Người mẹ” cần lưu ý đến một đặc điểm rất
quan trọng của chính tả tiếng Việt: chính tả ngữ âm. Trong tiếng Việt, cách đọc và
cách viết thống nhất với nhau: đọc / nghe thế nào, viết thế ấy. Muốn viết đúng học
sinh phải có năng lực chuyển bài viết ở dạng ngơn ngữ âm thanh mà mình nghe được
sang hình thức chữ viết. Muốn vậy, việc đọc mẫu của giáo viên phải chuẩn xác, phải
đúng với chính âm; giọng đọc phải thong thả, rõ ràng; ngắt hơi phải hợp lí; tốc độ đọc
phải phù hợp, tương ứng với tốc độ viết của học sinh. Sau mỗi cụm từ, mỗi câu, giáo
viên nên nhắc lại để học sinh dễ theo dõi.
Trước khi học sinh viết, giáo viên đọc thong thả và diễn cảm tồn bộ bài chính tả
nhằm giúp học sinh có cái nhìn bao qt, có ấn tượng chung về nội dung của bài viết, làm
cơ sở cho việc nghe - viết. Khi học sinh viết, giáo viên đọc từng câu (mỗi câu đọc khoảng
2 - 3 lần). Cả việc đọc của giáo viên và việc viết của học sinh đều không theo từng từ
riêng lẻ mà phải gắn với cả câu. Như vậy, học sinh viết chính tả trên cơ sở thông hiểu nội
dung văn bản và sẽ tránh được những lỗi chính tả bắt nguồn từ việc học sinh khơng hiểu
những điều mình viết. Sau khi học sinh viết xong, giáo viên cần đọc lại toàn bộ văn bài
lần cuối để các em rà soát lại bài viết của mình. Việc luyện viết các chữ khó cần được tiến
hành trước khi viết bài.

15


C. KẾT LUẬN
Giống như các phân môn khác trong tiếng việt tính chất nổi bật của phân mơn
chính tả là tính thực hành. Bởi lẽ, chỉ có thể hình thành kĩ năng kĩ xảo chính tả cho học
sinh thơng qua việc thực hành luyện tập. Do đó trong phân mơn này các quy tắc chính tả,
các đơn vị mang tính chất lí thuyết khơng được bố trí trong tiết dạy riêng mà dạy lồng vào
hệ thống bài tập chính tả, nội dung cấu trúc của bài chính tả trong sách giáo khoa Tiếng
Việt tiểu học ( phần chính tả) thể hiện rất rõ tính chất thực hành nói trên.

Phân mơn chính tả trong nhà trường có nhiệm vụ giúp học sinh nắm vững các qui tắc
chính tả và hình thành năng lực thói quen viết đúng chính tả, phân mơn chính tả cịn rèn
luyện cho học sinh một số phẩm chất như tính cẩn thận óc thẩm mỹ, bồi dưỡng cho học
sinh lòng yêu quý tiếng việt và chữ viết của tiếng việt.
Ngồi ra, các loại chính tả như: chính tả nhớ viết, chính tả tập chép trong đó, chính tả
nghe viết khơng kém phần quan trọng vì nó kiểm tra năng lực cũng như hình thành kĩ
năng nghe vừa nghe vừa tái hiện lại hình thức chữ viết của các từ và cụm từ rồi biết phân
tích, so sánh của học sinh với những trường hợp dễ lẫn do ảnh hưởng cái têu cực của cách
phát âm, để từ đó xác định được cách viết đúng.
Chính tả là phân mơn khoa học, góp phần nâng cao hiệu quả giao tiếp. Hơn nữa
việc dạy chính tả khơng chỉ liên quan đến các kĩ năng giao tiếp mà ở một khía cạnh nào
đó là vấn đề văn hóa. “Luyện nét chữ - rèn nét người” là vì vậy.
16


Thật sự phân mơn chính tả dạy cho học sinh tri thức và kĩ năng chính tả, phát triển năng
lực sử dụng ngôn ngữ ở dạng thức viết trong hoạt động giao tiếp.

Mẫu TL tham khảo

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê A. Chữ viết và dạy chữ viết ở Tiểu học. NXB Đại học Sư phạm, HN,2002.
2. Lê Phương Nga, Đỗ Xuân Thảo, Lê Hữu Tỉnh, Lê A, Đặng Thị Kim
Nga. Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt 1. NXB Đại học Sư
phạm, HN, 2002.
3.Bùi Mạnh Hùng (Tổng Chủ biên):
a. Tiếng Việt 1 (SGV). NXB Giáo dục. , 2020.
b. Tiếng Việt 1 (sách giáo khoa). NXB Giáo dục, 2020.
4. Nguyễn Thị Kha Ly (chủ biên)

a. Tiếng Việt 2 (SGV) NXB Giáo dục, 2021.
b. Tiếng Việt 2 (sách giáo khoa). NXB Giáo dục, 2021.
c. Hỏi và đáp về dạy học Tiếng Việt 2. NXB Giáo dục, 2003.
5. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên)
a. Tiếng Việt 3 (SGV). NXB Giáo dục, 2004.
b. Tiếng Việt 3 (SGV). NXB Giáo dục, 2004.
6. Nguyễn Trí. Dạy và học tiếng Việt ở Tiểu học theo chương trình mới.
17


NXB Giáo dục, 2020.
7. Nguyễn Trí (chủ biên). Hỏi và đáp về sách Tiếng Việt 1. NXB Giáo dục, 2020.

PHỤ LỤC

18


19


20


21



×