TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA DU LỊCH
TIỂU LUẬN
Đề tài: PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÂM LINH TẠI THÀNH
PHỐ CHÍ LINH
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Trần Việt Anh
Sinh viên thực hiện:
Vũ Minh Đức
Lớp:
VHDL26B
Mã sinh viên: 59DDL26043
Hà Nội, tháng 07 - 202
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Đóng góp của tiểu luận văn
7. Bố cục tiểu luận
Chương I : Khái quát về du lịch tâm linh tại thành phố chí linh - hải dương
1.1. Một số khái niệm cơ bản .
1.1.1. Khái niệm Du lịch
1.1.2. Khái niệm Tâm linh
1.1.3. Khái niệm Du lịch tâm linh
1.2. Khái quát về Thành phố Chí Linh - Hải Dương
1.2.1. Điều kiện tự nhiên (Gạch đầu dịng: Vị trí địa lý, điều kiện khí hậu, thủy
văn, đất đai, v.v...)
1.2.2. Điều kiện văn hóa - xã hội
1.2.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển
1.2.2.2. Điều kiện dân cư và kinh tế
1.2.2.2. Hệ thống di tích lịch sử, văn hóa và danh thắng (Chú ý nêu bật các di
tích mang tính tâm linh)
1.2.2.3. Lễ hội - Phong tục tập quán
1.2.2.4. Các điều kiện khác (Ẩm thực, loại hình nghệ thuật truyền thống, v.v...)
Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LICH TÂM LINH TẠI
THÀNH PHỐ CHÍ LINH
2.1. Thực trạng về số lượng khách du lịch
2.2. Thực trạng về doanh thu
2.3. Cơ sở vật chất - hạ tầng kỹ thuật phục vụ du lịch
2.4. Công tác quảng bá du lịch tâm linh tại địa phương
2.5. Thực trạng về nhân lực phục vụ du lịch
2.6. Thực trạng về công tác quản lý du lịch
2.7. Thực trạng về đầu tư, phát triển du lịch
2.8. Một số chương trình du lịch tâm linh đã được thực hiện
Chương III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÂM LINH TẠI THÀNH
PHỐ CHÍ LINH
3.1. Chính sách phát triển du lịch tại thành phố Chí Linh (Các văn bản về phát
triển du lịch do UBND và các cơ quan chức năng của TP. Chí Linh ban hành
trong thời gian qua, chú ý trích dẫn những văn bản có nêu về phát triển loại hình
du lịch tâm linh)
3.2. Các giải pháp phát triển du lịch tâm linh tại thành phố Chí Linh
3.2.1 . Xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng
2
3.2.2 Đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng bá cho các điểm du lịch
3.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao ý thức người dân trong phục vụ phát
triển du lịch tâm linh
3.2.5 .Giải pháp về vốn đầu tư du lịch
3.2.6. Khai thác tài nguyên du lịch tâm linh hướng tới phát triển du lịch bền
vững
3.2.7. Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các tuyến du lịch trong và ngoài thành
phố Chí Linh
3
Phần Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài
Du lịch tâm linh ngày càng trở thành xu hướng phổ biến trên thế giới, đặc biệt là
Việt Nam. Trong những năm gần đây, ngành du lịch Việt Nam đã phát triển
mạnh mẽ, trong đó du lịch tâm linh có đóng góp rất lớn và bền vững vào sự tăng
trưởng ấy. Lợi ích của du lịch tâm linh không chỉ là kinh tế, mà còn phản ánh
giá trị tinh thần của đời sống xã hội hơn bao giờ hết. Song tìm hiểu các di tích,
lễ hội văn hóa truyền thống của dân tộc cũng đang là một trong những xu hướng
khơi dậy sự quan tâm của nhiều người. Chính vì vậy mà chúng ta cần có những
sự hiểu biết và xây dựng phát triển du lịch tâm linh ngày càng văn minh và hấp
dẫn hơn nữa. Trên bình diện du lịch tâm linh nói chung của cả nước, Hải Dương
là vùng đất giàu truyền thống nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc bộ hiện nay.
Trong đó tiêu biểu nhất là vùng đất Chí Linh nơi là quê hương của những anh
hùng hào kiệt, danh nhân lỗi lạc, nhiều thế kỉ trôi qua, các giá trị tiêu biểu đó
được gìn giữ và bảo lưu qua hệ thống văn hóa vật thể, phi vật thể đặc sắc như di
tích lịch sử, lễ hội, phong tục tập qn có nhiều di tích nổi tiếng, trong số đó có
9 di tích được cơng nhận là Di tích Quốc gia, 2 di tích Cơn Sơn và Kiếp bạc
được xếp hạng di tích đặc biệt quan trọng của quốc gia và nhiều di tích được
xếp hạng cấp tỉnh. Cùng với thời gian và dòng chảy của sự phát triển kinh tế xã
hội của đất nước, hệ thống di tích của tỉnh đã được tu bổ, khôi phục và tôn tạo
xứng đáng với tầm vóc của các danh nhân đất nước và các giá trị lịch sử, văn
hóa và du lịch vốn có. Điển hình là khu di tích Cơng Sơn, Kiếp Bạc, đền thờ
thầy giáo Chu Văn An, đền Cao An Lạc.... Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Chí
Linh, nhận thức về giá trị của các di tích và lễ hội q hương giàu bản sắc văn
hóa, lưu truyền nhiều nét đẹp ngàn xưa kèm theo đó lag những tinh túy tích lũy
từ bao đời được lưu truyền lại, từ đó tơi chọn đề tài: “PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TÂM LINH TẠI THÀNH PHỐ CHÍ LINH ” là nội dung nghiên cứu của tiểu
luận.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài.
Đã có nhiều nghiên cứu về các di tích lễ hội ở Chí Linh nhưng tuy nhiên chưa
có những đề tài chuyên sâu nghiên cứu về du lịch tâm linh và phương hướng
phát triển. Vì vậy, trong khn khổ của tiểu luận này mục đích của tơi là cho
mọi người thấy được sự hấp dẫn, huyền bí đặc sắc của các di tích và nhận thấy
sự phong phú và đa dạng trong đời sống văn hố, tín ngưỡng cũng như sinh hoạt
cộng đồng của người dân nơi đây để góp cái nhìn đa chiều hơn về du lịch tâm
linh tại Chí Linh.
4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
- Nghiên cứu về những giá trị văn hóa lịch sử của di tích và lễ hội.
- Tìm hiểu mối quan hệ, sự tương tác giữa các di tích liên quan trong thành phố.
- Nghiên cứu về sự phát triển thay đổi của các di tích. Tìm ra phương hướng để
thúc đẩy sự phát triển du lịch tâm linh tạo ra nhiều điều hấp dẫn thu hút khách
du lịch.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu các di tích lịch sử thuộc Thành phố Chí Linh:
- Khu di tích Kiếp Bạc: Thuộc xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, cách Cơn Sơn 7
km, là nơi có Đền thờ Trần Hưng Đạo được xây dựng tại nơi trước đây là đại
bản doanh của Tướng quân trần Hưng Đạo, từ nơi đây 3 lần xuất qn và đại
thắng qn Ngun Mơng. Khu di tích Kiếp Bạc là một quần thể gồm nhiều di
tích như: Đền thờ Trần Hưng Đạo, Dược Sơn, dịng sơng lục đầu, Bến Bình
Than, Cồn Kiếm.
- Khu di tích Chùa Cơn Sơn : Chùa Cơn Sơn (hay cịn gọi là Thiên Tư Phúc tự
hay chùa Hun) là một ngôi chùa ở trên ngọn núi Cơn Sơn (hay cịn gọi là núi
Hun) ở phường Cộng Hồ, thị xã Chí Linh. Chùa này được Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch Việt Nam xếp hạng quốc gia đợt I năm 1962 và xếp hạng đặc
biệt quan trọng vào năm 1994.
- Đền Cao: thuộc xã An Lạc. Ở đây có bốn ngơi đền linh thiêng từ lâu đời, thờ
năm anh em nhà họ Vương đã có cơng giúp vua Lê Đại Hành đánh tan qn
Tống do Hầu Nhân Bảo và Tơn Tồn Hưng chỉ huy năm 981.
- Chùa Thanh Mai: thuộc xã Hoàng Hoa Thám. Chùa Thanh Mai là ngôi chùa
rất cổ, được xây dựng năm 1329 do Thiền sư Pháp Loa - Đệ nhị tổ của Thiền
phái Trúc Lâm Yên tử sáng lập. Chùa được cơng nhận di tích lịch sử quốc gia
năm 1992.
- Đền Sinh - Đền hóa: tọa lạc trên sườn núi Ngũ Nhạc thơn An Mơ xã Lê Lợi
huyện Chí Linh. Đền là một cơng trình kiến trúc cổ, tựa lưng vào núi Ngũ Nhạc
nhìn ra hướng Đơng Bắc giữa bạt ngàn cây rừng xen lẫn những đồi vải thiều
xum xuê. Đền Sinh thờ nơi sinh, đền Hóa thờ nơi hóa của tướng quân Chu Phúc
Uy – thiên thần thời tiền Lý ( 544).
- Đền Chu Văn An: nằm trên núi Phượng Hồng, thuộc xã Văn An; cách khu di
tích Cơn Sơn khoảng 4 km. Đây là một điểm di tích văn hố và danh thắng mà
q khách có thể đến thăm, với cảnh rừng thơng đẹp trùng điệp, có đền thờ cũ
và mới xây xong năm 2007. Lăng mộ Chu Văn An nằm trong khu di tích này.
Lễ hội vào tháng tám và tháng một, trọng hội vào ngày 25-8 và 26-11. Khu di
tích được xếp hạng năm 1998.
- Đền bà Chúa Sao sa: đền thờ Nguyễn Thị Duê ̣ được xây dựng trên cơ sở của
ngôi đền cũ trên đỉnh đồi Mâm Xôi. mă ̣t hướng theo phía tây nam. Theo thuyết
phong thuỷ thế đất của đền như viên ngọc được bao bọc bởi dãy núi Phượng
5
Hoàng. Phía trước là mô ̣t đâ ̣p nước rô ̣ng mênh mang chấp chới những cánh cò,
cánh vạc vào những buổi hồng hơn đã khẳng định nơi đây quả thật đất lành.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Tiểu luận sử dụng chủ yếu phương pháp tổng hợp, phân tích, đồng thời sử
dụng phương pháp quan sát và phỏng vấn để xác nhận, mở rộng các thông tin
thu thập được từ nguồn tài liệu.
- Về phần tài liệu đã tiếp cận các nguồn tài liệu và các bài viết trong các tài liệu
nghiên cứu, Hồ sơ di tích, Hồ sơ xếp hạng di tích quốc gia của di tích, bên cạnh
đó là một số thu thập thông tin, đối chiếu so sánh trên các trang thông tin điện tử
để mở rộng các sự kiện, thơng tin có liên quan đến các di tích tại thành phố Chí
Linh
- Sử dụng phương pháp điền dã, khảo sát thực địa.
- Phương pháp nghiên cứu tư liệu cũng được tác giả sử dụng một cách triệt để
nhằm kế thừa những kết quả nghiên cứu của các học giả, các nhà khoa học đi
trước để phục vụ cho việc hồn thành bài tiểu luận của mình.
- Ngồi ra để thu thập thơng tin định tính cho luận văn tác giả còn trao đổi và
phỏng vấn một số đối tượng khác nhau như cán bộ quản lý di tích, người dân
sống xung quanh các khu di tích và một số du khách thập phương để thấy được
khách quan hơn.
6. Đóng góp của tiểu luận văn
Qua việc nghiên cứu, tôi mong muốn làm nổi bật giá trị du lịch tâm linh tại
thành phố Chí Linh thơng qua các vẻ đẹp kiến trúc, văn hóa, nghi thức, nghi lễ
của các di tích, qua đó cũng đóng góp một phần nhỏ vào việc bảo tồn văn hóa di
tích tại Chí Linh và thúc đẩy phát triển mạnh mẽ du lịch tâm linh. Đồng thời bổ
sung nguồn tư liệu về du lịch tâm linh tại Chí Linh.
7. Bố cục tiểu luận.
Bài tiểu luận gồm: Phân mở đầu, 3 chương, phần kết thúc.
Chương I : Khái quát về du lịch tâm linh tại thành phố Chí Linh - Hải Dương
Chương II: Thực trạng hoạt động du lich tâm linh tại thành phố Chí Linh
Chương III: Giải pháp phát triển du lịch tâm linh tại thành phố Chí Linh
Chương I : Khái quát về du lịch tâm linh tại thành phố chí linh - hải dương
1.1. Một số khái niệm cơ bản .
1.1.1. Khái niệm Du lịch
Ngày nay du lịch trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến. Hiệp
hội lữ hành quốc tế đã công nhận du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới
vượt lên cả ngành sản xuất ô tô, thép điện tử và nông nghiệp. Vì vậy, du lịch đã
trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia trên thế giới. Thuật
6
ngữ du lịch đã trở nên khá thơng dụng, nó bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý
nghĩa là đi một vòng. Du lịch gắn liền với nghỉ ngơi, giải trí, tuy nhiên do hồn
cảnh, thời gian và khu vực khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau
nên khái niệm du lịch cũng không giống nhau.
Luật Du lịch Việt Nam 2005 đã đưa ra khái niệm như sau: “Du lịch là
các hoạt động liên quan đến chuyến đi của con người ngồi nơi cư trú thường
xun của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng
trong một khoảng thời gian nhất định”.
Theo liên hiệp Quốc các tổ chức lữ hành chính thức( International Union
of Official Travel Oragnization: IUOTO): Du lịch được hiểu là hành động du
hành đến một nơi khác với điạ điểm cư trú thường xun cuả mình nhằm mục
đích khơng phải để làm ăn, tức không phải để làm một nghề hay một việc kiếm
tiền sinh sống...
Tại hội nghị LHQ về du lịch họp tại Roma - Italia ( 21/8 – 5/9/1963),
các chuyên gia đưa ra định nghĩa về du lịch: Du lịch là tổng hợp các mối quan
hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu
trú cuả cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên cuả họ hay ngồi
nước họ với mục đích hồ bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc
cuả họ.
Theo các nhà du lịch Trung Quốc: họat động du lịch là tổng hoà hàng
loạt quan hệ và hiện tượng lấy sự tồn tại và phát triển kinh tế, xã hội nhất định
làm cơ sở, lấy chủ thể du lịch, khách thể du lịch và trung gian du lịch làm điều
kiện.
Theo I.I pirôgionic, 1985: Du lịch là một dạng hoạt động cuả dân cư trong
thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú
thường xuyên nhằm nghĩ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng
cao trình độ nhận thức văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá
trị về tự nhiên, kinh tế và văn hoá.
Theo nhà kinh tế học người Áo Josep Stander nhìn từ góc độ du khách:
khách du lịch là loại khách đi theo ý thích ngồi nơi cư trú thường xun để
thoả mãn sinh họat cao cấp mà không theo đuổi mục đích kinh tế.
Nhìn từ góc độ thay đổi về khơng gian cuả du khách: du lịch là một trong những
hình thức di chuyển tạm thời từ một vùng này sang một vùng khác, từ một nước
này sang một nước khác mà không thay đổi nơi cư trú hay nơi làm việc.
Nhìn từ góc độ kinh tế: Du lịch là một ngành kinh tế, dịch vụ có nhiệm vụ phục
vụ cho nhu cầu tham quan giải trí nghĩ ngơi, có hoặc không kết hợp với các hoạt
động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các nhu cầu khác.
1.1.2. Khái niệm Tâm linh
Chúng ta đều hiểu "tâm" như nguồn gốc phát sinh, như người đạo diễn ẩn diện,
như nguyên lý động lực học của tư duy, tình cảm, ý chí, ham muốn... tóm lại
của mọi hoạt động hay đời sống tinh thần.
7
"Linh" hay linh thiêng là tác dụng hay hiệu lực "vật chất" lên cuộc sống của con
người hay tồn tại của vật thể. Tác dụng ấy hay hiệu lực ấy có cường tính khơng
giới hạn nhưng cơ chế của nó lại nằm ngồi, thậm chí thường khi mâu thuẫn với
kinh nghiệm hàng ngày, tri thức phổ biến, quy luật thực nghiệm và nguyên lý
khoa học. Do đó "linh" thường làm ta hoang mang trước sự lựa chọn: hoặc thực
kiện tai nghe, mắt thấy, hoặc, nói chung, tri thức mà ta đã tích tập.
Tâm Linh là cái Tâm phiếm hình nhưng lại có hiệu ứng Linh. Như vậy trong
tiếng Việt ta xưa nay vẫn có một từ hồn tồn tương ứng với cả nội hàm, cả
ngoại diên của tâm linh, đó là Thần. "Biến hóa mạc trắc vị chi thần", Thần ứng
dụng cho cả người, cả cho vật, cả lúc sống, cả lúc chết, vì thế thật ra Thần minh
định cho tâm linh rõ hơn, hay hơn bản thân khái niệm "tâm linh" nhiều, tiếc
rằng lâu nay ta có thói quen sính từ mới nên quên mất "thần”.
Như vậy Tâm linh thuộc phạm trù niềm tin của con người vào những đấng siêu
nhiên để gửi gắm niềm tin, tâm thành để cầu sự linh nghiệm phù giúp cho
những ước nguyện, ý chí của con người. Ngồi ra tâm linh cịn là những hiện
tượng kỳ bí, nằm ngồi phạm vi hiểu biết thông thường của con người như
ngoại cảm, thần giao cách cảm, lên đồng, ma nhập, mộng du, bóng đè, thơi
miên, chữa bệnh bằng tâm linh,... mà khoa học chưa khám phá, giải thích và
chứng minh được.
1.1.3. Khái niệm Du lịch tâm linh
Du lịch tâm linh (tiếng Anh là Spiritual tourism) là loại hình du lịch văn hóa,
lấy yếu tố văn hóa tâm linh vừa làm cơ sở, vừa làm mục tiêu nhằm thỏa mãn
nhu cầu tâm linh của con người trong đời sống tinh thần.
Đời sống tâm linh từ lâu đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống
hàng ngày của người dân Việt Nam, được thể hiện qua các hoạt động tôn giáo,
đời sống thường nhật…
Du lịch tâm linh là một trong những loại hình phổ biến tại Việt Nam và trên thế
giới, thường gắn liền với những giá trị văn hóa phi vật thể và vật thể gắn liền
với lịch sử, tơn giáo, tính ngưỡng và những giá trị tinh thần khác. Con người sẽ
tìm đến các đình đền chùa miếu, các khu di tích để lễ bái, tham quan, vãng
cảnh.
Do đó, du lịch tâm linh không chỉ mang đến cho khách du lịch những trải
nghiệm khám phá vùng đất mới mà còn mang đến những giá trị, trải nghiệm
thiêng liêng về tinh thần cho người đi du lịch.
1.2. Khái quát về Thành phố Chí Linh - Hải Dương
1.2.1. Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý
8
Thị xã nằm ở phía đơng bắc tỉnh Hải Dương, cách trung tâm tỉnh 40 km. Phía
đơng giáp huyện Đơng Triều, tỉnh Quảng Ninh. Phía tây giáp tỉnh Bắc Ninh.
Phía nam giáp huyện Nam Sách. Phía bắc giáp tỉnh Bắc Giang.Phía bắc và đơng
bắc của Chí Linh là vùng đồi núi thuộc cánh cung Đơng Triều, ba mặt cịn lại
được bao bọc bởi sơng Kinh Thày, sơng Thái Bình và sơng Đơng Mai.
Chí Linh nằm trong vùng tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phịng - Quảng Ninh.
Nó có đường giao thơng thuận lợi. Đường bộ có Quốc lộ 18 chạy dọc theo
hướng đông-tây qua trung tâm huyện nối liền Hà Nội - Quảng Ninh, đường
Quốc lộ 183 nối Quốc lộ 5 và đường 18, đường 37 là đường vành đai chiến lược
quốc gia từ trung tâm huyện đi tỉnh Bắc Giang. Đường thuỷ có chiều dài 40 km
đường sơng bao bọc phía đơng, tây, nam của huyện thơng thương với Hải
Phòng, Bắc Giang, Đáp Cầu (Bắc Ninh).
- Điều kiện khí hậu, thủy văn, đất đai
+ Khí hậu:
Chí Linh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa.
Có 2 mùa rõ rệt: mùa khô hanh lạnh từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau và mùa
mưa từ tháng 4 đến tháng 9 hàng năm. Nhiệt độ trung bình năm 23 °C
Do đặc điểm của địa hình, địa mạo nên khí hậu Chí Linh được chia làm 2 vùng:
Khí hậu vùng đồng bằng phía nam mang đặc điểm khí hậu như các vùng đồng
bằng trong tỉnh
Khí hậu vùng chiếm diện tích phần lớn trong vùng, do vị trí địa lý và địa hình
nên mùa đơng ở đây lạnh hơn vùng khí hậu đồng bằng.
+ Thuỷ văn: Chí Linh là nơi: Sông Lục Nam hợp lưu với sông Thương tại xã
Hưng Đạo, sông Thương hội lưu với sông Cầu tại phường Phả Lại thành sơng
Thái Bình. Sơng Đuống hợp lưu với sơng Thái Bình tại phường Cổ Thành,
sơng Kinh Thầy lấy nước từ sơng Thái Bình .Sơng Đơng Mai lấy nước từ sơng
Kinh Thầy tại phường Văn Đức, chảy lên phía bắc.
Thành phố Chí Linh có nguồn nước phong phú bởi có sơng Kinh Thầy, Thái
Bình, Đơng Mai bao bọc, có kênh mương trung thủy nông từ Phao Tân đến An
Bài dài 15,5 km chạy qua những cánh đồng canh tác chính của huyện, có nguồn
nước của nhà máy điện Phả Lại cung cấp quanh năm. Ngồi ra cịn có 33 hồ đập
với tổng diện tích tự thủy 409 ha, đặc biệt có nguồn nước ngầm sạch trữ lượng
lớn.
+ Đất đai: Tổng diện tích của thành phố Chí Linh là 29.618 ha. Đất Chí Linh
được hình thành từ 2 nhóm chính, nhóm đất đồi núi được hình thành tại chỗ,
phát triển trên các đá sa thạch; nhóm đất thủy thành do phù sa sơng Kinh Thầy
và Thái Bình bồi tụ.
+ Rừng: Thành phố Chí Linh có 14.470 ha đất đồi rừng, trong đó rừng trồng
1.208 ha, rừng tự nhiên 2.390 ha. Rừng tự nhiên có nhiều loại gỗ quý, ước
khoảng 140.000 m³, có nhiều loại động thực vật đặc trưng cung cấp nguồn dược
liệu cho y học. Rừng trồng chủ yếu là keo tai tượng, bạch đàn và rừng thông
thuộc khu di tích Cơn Sơn - Kiếp Bạc.
9
+ Khống sản: Thành phố Chí Linh tuy khơng nhiều về chủng loại, nhưng có
loại có trữ lượng lớn và giá trị kinh tế như: đất Cao lanh trữ lượng 40 vạn tấn,
sét chịu lửa 8 triệu tấn, đá, cát vàng xây dựng, mỏ than nâu trữ lượng hàng tỉ
tấn.
1.2.2. Điều kiện văn hóa - xã hội
1.2.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Chí Linh được hình thành từ lâu đời, đến thời Hậu Ngô Vương vùng núi Côn
Sơn với lợi thế về vị trí địa lý đã trở thành căn cứ quân sự lớn của Dương Huy
mà đích thân vua Ngô Xương Văn phải đem quân đánh dẹp. Thu phục được
Dương Huy, Ngô Xương Văn vẫn cho ông giữ chức thứ sử cũ và cai quản vùng
đất châu Vũ Ninh. Năm 965, vua Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn mất, các
tướng ở khắp nơi nổi lên để cùng tranh giành ngơi Vua. Lịch sử gọi đó là loạn
12 sứ quân. Tuy nhiên, cánh quân của Dương Huy không nằm trong danh sách
12 sứ qn. Vì cánh qn của ơng và địa bàn của ông bị cánh quân của Nguyễn
Thủ Tiệp đánh bại, vùng đất của ông bị Nguyễn Thủ Tiệp chiếm và tự xưng Vũ
Ninh Vương. Thời điểm xảy ra loạn 12 sứ quân, vùng đất Chí Linh nằm trong
địa phận quản lý của sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp.
Năm 981 vua Lê Đại Hành đã chọn An Lạc, Tân Dân là cơ sở chỉ huy chống
quân xâm lược Tống tại đất Doanh Vạn (Ải Vạn), Vua Lê Hoàn dựng đại bản
doanh tại Đồng Dinh, đặt Nội Xưởng làm nơi rèn vũ khí, khí giới, đặt Bàn Cung
trên núi Bàn Cung để làm nơi bàn bạc việc quân cơ với các tướng lĩnh, núi
Doanh Vạn được chọn để cắm cờ hiệu, núi Sơn Đụn là nơi tích trữ, cất giấu
lương thực nuôi quân…Từ đại bản doanh này, cuối tháng 4 năm 981, Vua Lê
Hoàn đã chỉ huy quân Đại Cồ Việt đánh thắng trận Bạch Đằng, giết chủ tướng
giặc Hầu Nhân Bảo cùng hàng vạn quân giặc vùi xác dưới đáy Bạch Đằng giang
và giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược cuối
mùa xuân năm 981.
Đến thế kỷ XIII, vùng đất Chí Linh lại một lần nữa được lựa chọn trở thành đại
bản doanh chống quân Nguyên Mông và là chiến trường nơi diễn ra trận đánh
Vạn Kiếp nổi tiếng trong lịch sử thời nhà Trần, dưới sự chỉ huy Trần Quốc
Tuấn. Đại bản doanh và chiến trường Vạn Kiếp năm xưa, nay thuộc xã Hưng
Đạo, nằm phía tây bắc của thành phố. Trong 3 cuộc kháng chiến chống Ngun
Mơng, Vạn Kiếp có vai trị lớn trong 2 cuộc kháng chiến lần 2 năm 1285 và lần
3 cuối năm 1287 đầu năm 1288. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên
Mông lần 2 năm 1285, Vạn Kiếp diễn ra một trận đánh lớn khi quân Nguyên
theo đường bộ từ Lạng Sơn kéo về Thăng Long, làm tiêu hao sinh lực địch.
Tổng cộng quân số của Vua tôi nhà Trần do Vua Trần Nhân Tông và Trần
Hưng Đạo chỉ huy ở chiến trận Vạn Kiếp lên tới gần 30 vạn qn, cịn qn của
Thốt Hoan lên tới gần 50 vạn quân. Tại Vạn Kiếp, Trần Hưng Đạo đã bài binh
bố trận sẵn để đợi địch. Trần Hưng Đạo lựa chọn các tướng dũng mãnh Phạm
Ngũ Lão, Nguyễn Khoái giao chỉ huy đạo quân này. Vùng Vạn Kiếp có địa thế
đồi núi giáp đường giáp sông, quân ta chiếm địa thế đánh cắt ngang vào đội
hình địch khiến đầu cuối không cứu được nhau. Tiền quân của địch bị đánh ở
10
Vạn Kiếp còn trung quân của địch cũng vẫn chưa qua được sông Lục Đầu cũng
bị quân ta đánh mạnh khiến địch hoảng loạn dẫm đạp lên nhau khiến cầu phao
bị đứt khiến rất nhiều quân lính bị chết dưới sơng.
Trải qua các thời kỳ phong kiến Chí Linh đã được nhiều triều đại chọn là nơi
xây dựng cung thành, tỉnh lỵ như thành Phao (Phả Lại) – đời nhà Mạc, thành
Vạn (Tân Dân) trong vòng ba thế kỷ từng là trung tâm hành chính của thừa
tuyên Hải Dương. Theo lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú dưới
triều Lê Thánh Tông, “Quang thuận thứ 10 (1469) Lỵ sở Hải Dương đặt tại
Mạc Động, tục gọi Dịnh Vạn (tức cánh đồng Dinh bên bến Vạn). Lỵ sở Mạc
Động có thành Vạn, trong thành có chợ, trên bến dưới thuyền, dân chúng khắp
nơi họp chợ buôn bán tấp nập,đông vui, ở đây cịn có đị ngang qua sơng”.
Chí Linh cịn có tên gọi là Bằng Châu hay Bằng Hà sau đó đổi tên là Phượng
Hồng và sau này là Chí Linh. Đến thơi Đồng Khánh Chí Linh Có 7 tổng 65
thôn.
Tháng 6 năm 1886, thực dân Pháp thành lập Nha Chí Linh thuộc phủ Nam
Sách. Sau Cách mạng tháng 8, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hịa đặt
thành huyện Chí Linh. Tháng 4 năm 1947, huyện Chí Linh thuộc tỉnh Quảng
Hồng; tháng 11 năm 1948, Chí Linh thuộc tỉnh Quảng Yên; từ tháng 2 năm
1955, Chí Linh thuộc tỉnh Hải Dương, ban đầu gồm thị trấn Phả Lại, thị trấn
nơng trường Chí Linh và 20 xã: An Lạc, Bắc An, Cẩm Lý, Chí Minh, Cổ
Thành, Cộng Hịa, Đan Hội, Đồng Lạc, Hoàng Hoa Thám, Hoàng Tân, Hoàng
Tiến, Hưng Đạo, Kênh Giang, Lê Lợi, Nhân Huệ, Tân Dân, Thái Học, Văn An,
Văn Đức, Vũ Xá.
Ngày 21 tháng 1 năm 1957, chuyển 3 xã: Vũ Xá, Cẩm Lý, Đan Hội về huyện
Lục Nam, tỉnh Bắc Giang quản lý.
Ngày 27 tháng 3 năm 1978, thành lập thị trấn Sao Đỏ, thị trấn huyện lỵ huyện
Chí Linh.
Ngày 16 tháng 1 năm 1981, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 19-CP.
Theo đó, sáp nhập 3 thơn Phao Sơn, Thạch Thủy và Bình Giang của xã Cổ
Thành vào thị trấn Phả Lại.
Ngày 14 tháng 1 năm 2002, giải thể thị trấn nông trường Chí Linh và thành lập
thị trấn Bến Tắm trên cơ sở 412,88 ha diện tích tự nhiên và 5.703 nhân khẩu của
xã Bắc An.
Ngày 24 tháng 9 năm 2009, thị trấn Sao Đỏ được công nhận là đô thị loại IV.
Cuối năm 2009, huyện Chí Linh có 20 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 3 thị
trấn: Sao Đỏ (huyện lị), Phả Lại, Bến Tắm và 17 xã: An Lạc, Bắc An, Chí
Minh, Cổ Thành, Cộng Hịa, Đồng Lạc, Hồng Hoa Thám, Hoàng Tân, Hoàng
Tiến, Hưng Đạo, Kênh Giang, Lê Lợi, Nhân Huệ, Tân Dân, Thái Học, Văn An,
Văn Đức.
Ngày 12 tháng 2 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết 09/NQ-CP. Theo
đó: Thành lập thị xã Chí Linh trên cơ sở tồn bộ diện tích và dân số của huyện
Chí Linh.
11
Chuyển 3 thị trấn: Bến Tắm, Phả Lại, Sao Đỏ và 5 xã: Chí Minh, Cộng Hịa,
Hồng Tân, Thái Học, Văn An thành 8 phường có tên tương ứng.
Sau khi thành lập, thị xã Chí Linh có 28.202,78 ha diện tích tự nhiên và 164.837
người với 20 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 8 phường: Bến Tắm, Chí Minh,
Cộng Hịa, Hồng Tân, Phả Lại, Sao Đỏ, Thái Học, Văn An và 12 xã: An Lạc,
Bắc An, Cổ Thành, Đồng Lạc, Hoàng Hoa Thám, Hoàng Tiến, Hưng Đạo, Kênh
Giang, Lê Lợi, Nhân Huệ, Tân Dân, Văn Đức.
Ngày 25 tháng 6 năm 2015, thị xã Chí Linh được cơng nhận là đô thị loại III.
Ngày 10 tháng 1 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết
623/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 3 năm 2019).
Theo đó:
Sáp nhập tồn bộ diện tích và dân số của xã Kênh Giang vào xã Văn Đức.
Chuyển 6 xã: An Lạc, Cổ Thành, Đồng Lạc, Hoàng Tiến, Tân Dân, Văn Đức
thành 6 phường có tên tương ứng.
Thành lập thành phố Chí Linh trên cơ sở tồn bộ diện tích và dân số của thị xã
Chí Linh.
Sau khi thành lập, thành phố Chí Linh có 282,91 km² diện tích tự nhiên và
220.421 người với 19 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 14 phường và 5 xã.
1.2.2.2. Điều kiện dân cư và kinh tế
. Năm 2018, kinh tế tăng trưởng khá, với giá trị sản phẩm tăng 9%. Cơ cấu kinh
tế chuyển dịch tích cực, cơng nghiệp chiếm 57,39%, thương mại - dịch vụ
32,6% và nơng nghiệp giảm cịn hơn 10%. Thành phố hiện có một khu cơng
nghiệp và 4 cụm công nghiệp với trên 1.400 doanh nghiệp hoạt động, trong đó 7
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thu ngân sách nhà nước đạt
hơn 1.000 tỷ đồng/năm. Thu nhập bình quân năm 2018 đạt 75 triệu đồng/người;
tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 1,2%, thấp nhất tỉnh. Nhiều chỉ tiêu y tế, giáo dục của TP
Chí Linh đang dẫn đầu tỉnh. Tất cả các trường công lập đều đạt chuẩn quốc gia;
các xã, phường đều đạt chuẩn quốc gia về y tế. Trước đó, Chí Linh đã trở thành
một trong 2 đơn vị cấp huyện đầu tiên của tỉnh hồn thành xây dựng nơng thơn
mới vào năm 2017, vượt xa chỉ tiêu đại hội đảng bộ đã đề ra. Để đạt kết quả
này, Chí Linh đã huy động hơn 2.100 tỷ đồng xây dựng nông thôn mới, trong
đó có 70% từ nguồn xã hội hóa.
Những năm qua, TP Chí Linh đã tập trung quy hoạch, đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng, chỉnh trang đô thị. Trong giai đoạn 2016 - 2018, Chí Linh đã dành hơn
743 tỷ đồng tập trung đầu tư xây dựng cơ bản. Năm 2018, thành phố đã triển
khai 74 dự án đầu tư xây dựng và chỉnh trang đô thị trên địa bàn, tăng 29 dự án
so với năm trước đó. Diện mạo Chí Linh đổi thay rõ nét từng ngày. Khơng gian
đơ thị Chí Linh được mở rộng với việc phát triển các khu đô thị mới, điểm dân
cư mới vừa tạo quỹ đất ở, vừa tạo điểm nhấn cho đô thị như khu dân cư phường
Sao Đỏ, khu tái định cư hồ Cơn Sơn, khu dân cư phía đơng đường Yết Kiêu...
Công tác quản lý về đầu tư xây dựng cơ bản được thực hiện tốt, quản lý trật tự
đô thị và kiến trúc đô thị ngày càng chặt chẽ. Trong một thời gian ngắn, hàng
loạt cơng trình trọng điểm đã được triển khai, đưa vào sử dụng. Điển hình như
12
Trung tâm Văn hóa thể thao, Trường THCS Chu Văn An, đền thờ các anh hùng
liệt sĩ, nhà làm việc Thành ủy, nhà lưu trữ tài liệu… Một số công trình phục vụ
dân sinh đã được xây dựng như quảng trường Sao Đỏ, khu du lịch, dịch vụ và
dân cư hồ Mật Sơn, Trung tâm Thương mại Vincom, công viên cây xanh Hoa
Lạc viên. Nhiều tuyến đường đã được cải tạo, nâng cấp như đường Yết Kiêu,
đường Bạch Đằng (phường Sao Đỏ), đường Thanh Xuân (phường Phả Lại),
đường xuống vùng chuyên canh rau Nhân Huệ, kết nối đường Nguyễn Huệ với
đường 398, đường giao thông Bắc An - Lê Lợi, đường dẫn hai đầu cầu Văn Đức
- Kênh Giang... Nhiều tuyến phố và các đoạn tuyến quốc lộ 37, 18 qua trung
tâm thành phố được chỉnh trang với hệ thống điện chiếu sáng, cây xanh, vỉa hè,
thoát nước tạo cảnh quan đơ thị sáng, xanh, sạch, đẹp.
TP Chí Linh tiếp tục nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế; đẩy mạnh xây
dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; xây dựng môi trường đầu tư thuận lợi
để tạo động lực phát triển. Thành phố đang hoàn thiện và phát triển các khu
công nghiệp, cụm công nghiệp để tiếp tục thu hút nhiều doanh nghiệp đến đầu
tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Khu cơng nghiệp Cộng Hịa đầu năm 2019 đã
thu hút thêm 5 dự án FDI từ Hồng Kông, Đài Loan (Trung Quốc) với số vốn
đăng ký đầu tư hơn 10 triệu USD/dự án. Nhiều tập đoàn như FLC, Tân Hoàng
Minh, TMS, ADJ... đang nghiên cứu phát triển tại TP Chí Linh với tổng mức
đăng ký đầu tư dự kiến hàng tỷ USD. Một số dự án sinh thái, dịch vụ đang
hướng tới các khu vực Bến Tắm, cồn Vĩnh Trụ, hồ Mật Sơn. Công nghiệp sạch,
điện mặt trời đang được các doanh nghiệp xúc tiến, nghiên cứu đầu tư ở Hồng
Tiến…
1.2.2.2. Hệ thống di tích lịch sử, văn hóa và danh thắng
- Đền Kiếp Bạc: tức đền thờ Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng
Đạo vương từ), còn được biết đến với các tên gọi khác, như đền Kiếp, đền Vạn
Kiếp, đền Trần Hưng Đạo. Kiếp Bạc là ghép từ tên của hai vùng Vạn Yên (làng
Kiếp) và Dược Sơn (làng Bạc). Khu vực đền Kiếp Bạc nằm trong một thung
lũng trù phú, xanh tươi, ba phía có dãy núi Rồng bao bọc, phí trước là Lục Đầu
Giang, nơi hội tụ của sáu con sông: sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam,
sông Đuống, sông Kinh Thầy và nhánh chính của sơng Thái Bình. Vị trí Đền
Kiếp Bạc xưa cũng là đầu mối huyết mạch giao thơng đường thủy bộ trấn giữ
cửa ngõ phía đơng Kinh thành Thăng Long xưa (Hà Nội ngày nay). Chính vì
vậy sau cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất (1258), Trần
Hưng Đạo đã chọn khu vực này làm trung tâm chỉ huy của phịng tuyến qn sự
vùng Đơng Bắc, kéo dài từ biên giới Lạng Sơn ra biển Đông, nhằm tạo thế trận
chống giặc Nguyên Mông lần thứ 2 (1285) và lần thứ 3 (1288). Sau khi Trần
Hưng Đạo mất, để tưởng nhớ công lao to lớn của ông đối với đất nước, nhân
dân địa phương đã lập đền thờ trên vị trí trung tâm chỉ huy xưa kia, đặt tên là
Kiếp Bạc và tôn ông làm Đức Thánh Trần. Bà Nguyễn Thị Thùy Liên, Phó
Trưởng Ban quản lý di tích Cơn Sơn kiếp bạc, cho biết: "Hiện nay thì trên cả
nước ta có hàng nghìn di tích thờ Hưng Đạo đại vương. Tuy nhiên với Vạn Kiếp
đây là một mảnh đất gắn bó rất sâu sắc với cuộc đời và sự nghiệp của người.
13
Nếu như Nam Định là quê hương của Đức Thánh Trần và Trần Thương ở Hà
Nam là kho quân lương lớn nhất của nhà Trần thì Vạn Kiếp là nơi đại bản
doanh và là nơi mà người cống hiến cả cuộc đời và sự nghiệp và cũng là nơi mà
người mất tại tư dinh Vạn Kiếp này. Hiện nay thì rất nhiều trên cả nước có di
tích thờ đức thánh Trần nhưng tuy nhiên ở Vạn Kiếp, Kiếp bạc với những tình
cảm mà Đức Thánh Trần gắn bó với Vạn Kiếp cả khi người còn sống và khi
người hiển thánh mất đi. Cho nên Kiếp Bạc trong tâm thức của dân gian đây là
thánh địa thờ đức Thánh Trần".
Đền Kiếp Bạc hướng ra sông Lục Đầu với cổng lớn nguy nga, đồ sộ cùng ba
cửa ra vào. Trên mặt ngoài cổng có 9 chữ lớn, trong đó phía trên là 4 chữ "Hưng
thiên vơ cực", phía dưới là 5 chữ "Trần Hưng Đạo Vương từ" và hai cột câu đối
“Kiếp Bạc hữu sơn giai kiếm khí/ Lục Đầu vơ thủy bất thu thanh” (Kiếp Bạc
mn ngọn núi đều có hùng khí của kiếm thiêng/ Lục Đầu khơng cịn nước nào
chẳng vọng tiếng thu). Qua cổng lớn, bên trái có Giếng Ngọc mắt rồng không
bao giờ cạn nước. Đền Kiếp Bạc có 3 tịa điện lớn. Tại vị trí trang trọng nhất là
tòa điện giữa, đặt tượng thờ Trần Hưng Đạo. Tịa điện ngồi cùng đặt tượng thờ
Tướng qn Phạm Ngũ Lão là con rể Trần Hưng Đạo. Tòa điện trong cùng đặt
tượng thờ Quốc mẫu Thiên Thành công chúa, vợ của Trần Hưng Đạo và hai con
gái. Trong đền còn đặt 4 bài vị thờ 4 con trai của Trần Hưng Đạo. Bà Nguyễn
Thị Thùy Liên, Phó Trưởng Ban quản lý di tích Cơn Sơn kiếp bạc, cho biết
thêm: "Tồn bộ khu Đền Kiếp Bạc này được khởi dựng từ thời nhà Trần khi mà
Vua Trần Anh Tông cho xây dựng để phụng thờ đức Thánh Trần (năm 1300).
Toàn thể cơng trình kiến trúc của đền Kiếp Bạc được bố trí theo lối cung đình.
Niên đại của đền Kiếp Bạc đây là từ thời nhà Nguyễn (1802 - 1945) và trước đó
đã được tơn tạo nhiều lần. Tồn bộ khu vực sân đá cũng được tôn tạo từ thời
nhà Nguyễn vào năm Khải Đinh thứ 21. Cho đến nay qua nhiều năm tơn tạo và
mới nhất là năm 2012 có tôn tạo lại sân để phục vụ cho bà con nhân dân về lễ
thánh".
- Khu di tích Cơn Sơn: gồm quần thể các di tích sau
+ Chùa Cơn Sơn: tên Nôm là chùa Hun, tên chữ là Thiên Tư Phúc tự, Tư Phúc
tự, Côn Sơn tự, được xây dựng từ thế kỷ XIV, đã qua nhiều lần trùng tu. Các
hạng mục kiến trúc chính của chùa hiện nay gồm: hồ bán nguyệt, tam quan, sân
trước, tiền đường (5 gian, 2 chái), thiêu hương (3 gian), thượng điện (3 gian),
nhà Tổ, điện Mẫu, vườn tháp, nhà bia, cùng một số hạng mục phụ trợ khác…
+ Tả, hữu hậu hành lang: hai dãy tả, hữu hậu hành lang dài 75,13m, rộng 3,86m,
mỗi bên gồm 29 gian.
+ Thanh Hư động: nằm ở phía Tây Bắc núi Côn Sơn. Đây là một thung lũng,
được bao bọc bởi núi Côn Sơn và núi Ngũ Nhạc, giữa là suối Côn Sơn. Thanh
Hư động bao gồm nhiều cơng trình kiến trúc nổi tiếng, gắn với một số danh
nhân, hiền sĩ thời Trần và thời Lê, như nhà ở của Đại Tư đồ Trần Nguyên Đán,
cầu Thấu Ngọc, nền nhà Nguyễn Trãi, bàn đá, suối Côn Sơn…
+ Đền thờ Nguyễn Trãi: Khu đền có 15 hạng mục cơng trình. Đền chính rộng
200m2, mặt bằng kiến trúc dạng chữ Công.
14
+ Đền thờ Trần Nguyên Đán: Đền được dựng trên mặt bằng kiến trúc dạng chữ
Đinh, gồm bái đường và hậu cung. Kiến trúc bái đường gồm 2 tầng, 8 mái. Hậu
cung là nơi đặt tượng Trần Nguyên Đán, được đúc bằng đồng. Cạnh đền thờ là
dấu tích nền nhà cũ của quan Đại Tư đồ Trần Nguyên Đán, hiện được bảo tồn
nguyên trạng.
Núi Ngũ Nhạc: là dãy núi xoải dài từ Bắc xuống Nam, với chiều dài hơn 4km,
gồm có 5 đỉnh. Đỉnh cao nhất khoảng 238m, nằm về phía Đơng Bắc của dãy
Cơn Sơn. Các ngơi đền/miếu ở đây đều được xây dựng lộ thiên, bằng các khối
đá xanh...
Bàn cờ tiên: đỉnh Côn Sơn là một khu vực khá bằng phẳng. Tương truyền, từ
thời Trần, Pháp Loa Tôn giả - tổ thứ 2 của Thiền phái Trúc Lâm, đã lập một bàn
cờ tại vị trí này, tục gọi là Bàn cờ Tiên. Hiện nay, tại khu vực này mới dựng
thêm một nhà bia, theo kiểu vọng lâu, với 2 tầng, 8 mái.
Đăng Minh bảo tháp: giữa hai khu vườn tháp, ở phía trên giếng Ngọc, là Đăng
Minh bảo tháp - tháp Tổ Huyền Quang, vị Tổ thứ 3 của Thiền phái Trúc Lâm.
Sau khi Tổ Huyền Quang viên tịch tại chùa Côn Sơn (1334), tháp mộ của ông
được dựng ở vị trí này. Đăng Minh bảo tháp hiện nay được dựng lại trên nền
tháp cũ, trên bình đồ rộng 8,40m, dài 7,78m, gồm 3 tầng, cao khoảng 6m, được
ghép bởi những phiến đá hình hộp chữ nhật.
Hồ Cơn Sơn: có diện tích 43 ha, với sức chứa hàng trăm ngàn mét khối nước.
Suối Côn Sơn: Bắt nguồn từ hai dãy núi Côn Sơn và Ngũ Nhạc, dài khoảng
3km, uốn lượn tạo thành nhiều ghềnh, thác kế tiếp nhau, rồi đổ vào hồ Cơn Sơn.
Khu Di tích Cơn Sơn là một trong những trung tâm Phật giáo của dòng thiền
phái Trúc Lâm Đại Việt mà Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập ở
thế kỷ XIV. Côn Sơn còn là nơi thờ quan Đại tư đồ Trần Nguyên Đán và Anh
hùng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi. Côn Sơn, Kiếp Bạc là
một trong những khu di tích tiêu biểu kết tinh tư tưởng tam giáo đồng nguyên:
Phật giáo - Đạo giáo - Nho giáo cùng hịa đồng, mục đích là quy tụ nhân tâm,
lấy thần quyền phục vụ cho vương quyền, củng cố tư tưởng độc lập tự chủ của
dân tộc.
Côn Sơn là mảnh đất lịch sử lâu đời. Hơn một ngàn năm trước, Định Quốc
Cơng Nguyễn Bặc, thủy tổ của dịng họ Nguyễn Trãi đã lập căn cứ ở đây để
đánh sứ quân Phạm Phịng Át, giúp Đinh Tiên Hồng thống nhất đất nước vào
năm 968.
Cùng với Yên Tử, Quỳnh Lâm và Thanh Mai, Côn Sơn là chốn tổ của thiền
phái Trúc Lâm, một thiền phái mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam. Đệ nhất tổ
- Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, Đệ nhị tổ - Pháp Loa tôn giả và Đệ
tam tổ - Huyền Quang tôn giả đã về đây hoằng dương thuyết pháp, xây dựng
chùa Hun thành chốn tổ đình gọi là liêu Kỳ Lân, một thiền viện lớn nổi tiếng
của Triều Trần.
- Khu di tích lịch sử đền Cao đang trầm mă ̣c soi mình bên dòng Nguyê ̣t Giang
thơ mô ̣ng - một cảnh quan đặc biệt của Chí Linh. Dấu ấn lịch sử oanh liê ̣t hào
hùng thời Tiền Lê cùng những chiến công hiển hách của năm vị tướng họ
15
Vương đến nay còn hiê ̣n diê ̣n qua những ngôi đền cổ tại vùng đất An Lạc làm
nên dấu thiêng vùng đất Chí Linh.
Từ cầu Thiên trên quốc lô ̣ 18 bắc qua dòng Nguỵêt Giang đi vào 300m du
khách đến với miền đất nhiều sử thoại, đó chính là mảnh đất An Lạc của huyện
Chí Linh. Diện tích tự nhiên 4km2 nhưng lại có tới 99 quả đồi lớn nhỏ cao từ
15 – 100m. Phía nam có dịng Nguyệt giang êm đềm uốn khúc ôm ấp những
cánh đồng phì nhiêu. An Lạc cũng là nơi có rừng lim nhân tạo duy nhất của tỉnh
Hải Dương với hàng trăm năm tuổi.
Do ở vị trí quân sự trọng yếu, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, động thực vật
phong phú, núi non giăng thành, đường thủy bộ xuôi ngược thuận tiện nên thế
kỷ 10 An Lạc đã trở thành một phòng tuyến, một hậu cứ để tấn công kẻ thù xâm
phạm miền Đông Bắc của tổ quốc. Thời kỳ cận hiện đại đây vẫn cịn là một vị
trí qn sự có tầm quan trọng chiến lược. Khảo sát và tìm hiểu vùng An lạc thấy
nhiều di tích và truyền thuyết quan hệ đến cuộc kháng chiến chống Tống.
Khu di tích Đền Cao gồm có 5 đền thờ
Đền Cả thờ Vương phụ, Vương mẫu và Vương Thị Đào (Đào hoa trinh thuâ ̣n
công chúa) Vương Thị Liễu là ( Liễu hoa linh ứng công chúa)
Bên cạnh đền là chùa
Đền Cao: thờ trưởng nam họ Vương: Vương Đức Minh (Thiên Bồng Đại tướng
quân đại vương )
Đền Bến Tràng thờ Vương Đức Xuân (Dực thánh linh ứng đại vương).
Đền Bến Cả thờ Vương Đức Hồng (Anh vũ dũng lược đại vương)
Đền Cả toạ lạc giữa cánh đồng xanh tươi trù phú, nằm cạnh dòng Nguyê ̣t Giang
thơ mô ̣ng, uốn mình chở nă ̣ng phù sa. Đền Cả mang mô ̣t dáng vẻ uy linh, huyền
ảo được bao trùm bởi những cây cổ thụ gần 1000 năm. Đền Cả là nơi thờ phụng
Vương phụ Vương mẫu và hai chị cả “ Đào Hoa Trinh Thuâ ̣n công chúa” và “
Liễu Hoa Linh Ứng công chúa”. Đền được xây dựng theo kiến trúc thời
Nguyễn: 3 gian tiền tế, 1 gian trung từ, 1gian hâ ̣u cung. Trên nóc ngôi đền có
đôi rồng chầu mă ̣t trời do cụ phó sĩ ở Nam Hà đắp. Theo nhiều nhà nghiên cứu
nhâ ̣n xét thì đây là mô ̣t trong những đôi rồng đẹp nhất miền Bắc. Trong đền có
nhiều bức hoành phi, câu đối cổ ca ngợi công lao to lớn của 5 vị thánh tiêu biểu
là bức hoành phi “ Tam linh tích hựu” và câu đối “ Thần hoá khai tiên cổ miếu
anh linh quang lạc địa; Thánh sinh kế hâ ̣u tiền Lê trung liê ̣t trấn nam thiên” .
Trong quá trình hơn 1000 năm kiến thiết trùng tu xây dựng di tích quê hương,
người An Lạc cùng các cấp chính quyền, ban ngành đoàn thể của xã, huyê ̣n,
tỉnh cùng du khách thâ ̣p phương cả nước đã bổ sung vào đây nhiều hạng mục
công trình để di tich ngày càng khang trang tố hảo. Bên cạnh đền Cả là ngôi
chùa thâm nghiêm, trầm mă ̣c - nơi phâ ̣t Thích Ca ban phúc cho muôn dân. Đền
Cả sẽ mãi mãi là điểm hẹn văn hoá tâm linh của những con người biết trân trọng
công tích của tổ tông và của lịch sử.
Đền Cao cách đền Cả trừng 500m về phía đông, du khách thấy ẩn hiê ̣n thấp
thoáng trong vẻ u tịch của rừng lim cổ thụ ngôi đền Cao nằm trên đỉnh núi
Thiên Bồng thuô ̣c dãy núi Voi, trước mă ̣t là dòng Nguyê ̣t Giang mềm mại uốn
16
lượn ôm ấp trọn vùng đất này. Được thế rồng cuô ̣n hổ ngồi, đền Cao trầm mă ̣c,
uy nghi đã chứng kiến bao thăng trầm dâu bể của hơn 1000 năm với vô vàn biến
đô ̣ng dữ dô ̣i, với bom đạn chiến tranh và lòng người tan hợp theo thế sự xoay
vần.
Đền Cao là mô ̣t ngôi đền đô ̣c đáo, được xây dựng từ thế kỉ 10 ( năm 981) và
được trùng tu nhiều lần. Kiến trúc còn lại bây giờ là kiến trúc thời Nguyễn
theo kiểu chữ Đinh: 3 gian tiền tế, 2 gian trung từ, 1 gian hâ ̣u cung, mái ngói rêu
phong, những đầu đao cong vút, trên mái là bức phù điêu lưỡng long chầu mă ̣t
trời. Bàn tay tài hoa của người thợ đã mang lại cho di tích mô ̣t dấu ấn riêng với
113 bâ ̣c gạch thả dài từ đỉnh núi xuống chân núi, nơi sân đền có thờ voi đá,
ngựa đá. Trầm ngâm trước cửa đền, phóng tầm mắt nhìn ra bốn phương tám
hướng du khách có thể liên tưởng đến thế hổ chầu, voi phục của 99 ngọn đồi
bao bọc xung quanh ngọn Thiên Bồng như trải ra mô ̣t không gian kì vĩ, tầng
tầng lớp lớp... Trong đền còn lưu giữ nhiều đồ thờ tế tự giá trị, với những bức
hoành phi, câu đối thể hiê ̣n công lao to lớn của vị thánh được phụng thờ nơi
đây. Trong cung cấm còn lưu giữ Ngọc phả và 11 sắc phong của các đời vua
Minh Mê ̣nh đến vua Khải Định.
Từ lâu đền Cao đã lưu truyền trong dân gian về sự linh thiêng và nhiều bí ẩn mà
người đời chưa thể lý giải. Cổ nhân Lạc Đạo có câu “ Biết không nói, không
biết không hỏi”. hay “không được mở khám thờ” nên gian cấm đền Cao là cả
mô ̣t sự bí ẩn mà không ai được vào ngoài năm quan đám. Khi vào các quan đám
phải tuân theo những qui định rất khắt khe như: không được ăn mă ̣n, không có
tang tóc, phải tắm rửa sạch sẽ, phải mang khăn bao hàm, qua cửa vào cung cấm
phải bước chân phải vào trước và khi ra phải bước chân trái ra trước… Đền Cao
đã và sẽ mãi lưu giữ được nguyên vẹn giá trị văn hoá tâm linh.
Đền Bến Tràng cũng là mô ̣t trong những ngôi đền lớn nằm cạnh dòng Nguyê ̣t
Giang. Nơi thờ phụng ngài Vương Đức Xuân- Dực Thánh Linh Ứng đại vương.
Đền được xây dựng theo kiến trúc hình chữ Đinh, 02 gian tiền tế, 01 gian hâ ̣u
cung. Về nơi đây du khách sẽ được thả hồn theo dòng Nguyê ̣t Giang trôi từ
miền quá khứ hào hùng về hiê ̣n tại phồn thịnh trôi tới tương lai tươi đẹp hơn.
Đền Bến Cả là ngôi đền có nhiều chuyê ̣n ly kỳ. Đây là ngôi đền trần
(không có mái che) thờ người con trai thứ 5 là Vương Đức Hồng – Anh Vũ
Dũng lược đại vương. Theo truyền thuyết xưa, khi người dân lâ ̣p đền thờ, công
viê ̣c chuẩn bị chu đáo nhưng cứ xây lên lại đổ, xây lại đổ, vào mô ̣t đêm có mô ̣t
vị thần hiê ̣n lên bảo rằng: “Nếu có thờ thì xây đủ 100 gian, không thì để thờ trần
và nếu thờ trần thì làm mô ̣t bình hương đá, mô ̣t tráp đá, mô ̣t đèn đá.” Và từ đó
dân ta quyết định để ngôi đền trần thờ cúng. Có lẽ đây là mô ̣t ngôi đền đă ̣c biê ̣t
nhất trong hê ̣ thống di tích đền thờ Viê ̣t Nam.
Đền Vua toạ lạc trên núi bàn cung – nơi vua Lê Hoàn bàn luâ ̣n viê ̣c quân cơ
năm 981 và quyết định chọn Dược Đâ ̣u Trang ( An Lạc ngày nay) để đóng
doanh đồn. Nơi đây như còn ấm dấu chân vua Lê Đại Hành trong cuô ̣c kháng
chiến Tống đưa tâm linh du khách trở về trang sử hào hùng của dân tô ̣c.
17
Căn cứ vào tài liê ̣u lịch sử, nơi đây đã từng có các dinh thự, hành cung và nhiều
vị trí đồn trú cùng với các kho quân lương, vũ khí để sử dụng trong viê ̣c nuôi
quân, tâ ̣p luyê ̣n, bài binh bố trâ ̣n trong các cuô ̣c kháng chién chống giă ̣c Tống.
Những dấu tích còn lại đến nay vẫn còn mang tên theo lịch sử như: Cánh Đồng
Dinh, Núi Gạo, Núi Tiền, Bàn cung...
Cùng với sự giúp đỡ của các ngành, các cấp chính quyền, các tâ ̣p thể, cá nhân,
đă ̣c biê ̣t là sự đầu tư của Bô ̣ Quốc phòng với số vốn là 10 tỉ bươc đầu đã xây
dựng được nơi thờ phụng Vua Lê Đại Hành với các hạng mục công trình: Đền
thờ chính, sân đền, đường lên đền. Tuy nhiên công trình vẫn chưa được thâ ̣t
hoàn thiê ̣n. Rất cần có sự đầu tư hơn nữa của các ngành các cấp, các tâ ̣p thể, cá
nhân.
Đền thờ chính được xây dựng theo kiến trúc hình chữ Đinh, 3 gian tiền tế, 1gian
hâ ̣u cung. Trong đền có nhiều đồ thờ tế tự, các hoành phi, câu đối, thể hiê ̣n rất
rõ tài năng, đức đô ̣ và công lao to lớn của vua Lê Đại Hành. Ví dụ: Bức hoành
phi “ Xuất thánh minh”, “ Vạn cổ anh linh”, câu đối “Đức đại an dân thiên cổ
thịnh; Công cao vạn quốc vạn linh trường”...
Đứng trên đỉnh núi Bàn Cung phóng tầm mắt ra phía trước du khách được tâ ̣n
hưởng mô ̣t không gian khoáng đạt, giúp du khach tìm thấy sự bình yên trong
tâm hồn. Trong không gian ấy dòng Nguyê ̣t Giang như mô ̣t nét vẽ của tạo hoá,
mềm mại uốn lượn như ôm ấp lấy miền quê trù phú.
Khu di tích Đền Cao đã hình thành và phát triển hơn 1000 năm nay. Tuy qui mô
của các ngôi đền không lớn nhưng đã hô ̣i tụ được linh khí của đất trời. Bao phen
vâ ̣t đổi sao dời, dầm mưa dãi nắng. Bao thuở “nồi da nấu thịt” khói súng thuốc
bom thế mà các ngôi đền vẫn ngạo nghễ cùng trời đất.
Điều thiêng liêng ấy không phải đến bây giờ mới nhâ ̣n ra mà cách đây gần 300
năm Tiến sĩ Chu Đôn Lâm đã từng khẳng định “ Núi chẳng cần cao hễ có tiên ở
là trở nên nổi tiếng. Sông chẳng cần sâu, hễ có rồng cuốn là trở nên linh thiêng.
Vì thì đền thờ cần gì phải nguy nga lô ̣ng lẫy, cần gì phải có tô đỏ vẽ xanh, mà
chỉ cần có linh thần là đã thiêng liêng rồi.” Chân lý ấy sẽ mãi vĩnh tồn và được
các thế hê ̣ đời sau chứng nghiê ̣m.
- Đền Sinh, Đền Hoá là quần thể di tích thờ Thánh Phi Bồng, hay đức Thánh An
Mô, thời Nguyễn thuộc địa phận xã An Mô, tổng Chi Ngại, nay là thôn An Mô,
xã Lê Lợi, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Di tích cách chùa Cơn Sơn 1km về
phía Bắc.
Di tích Đền Sinh – đền Hóa tọa lạc trên sườn núi Ngũ Nhạc thơn An Mơ xã Lê
Lợi huyện Chí Linh. Đền là một cơng trình kiến trúc cổ, tựa lưng vào núi Ngũ
Nhạc nhìn ra hướng Đơng Bắc giữa bạt ngàn cây rừng xen lẫn những đồi vải
thiều xum xuê. Đền Sinh thờ nơi sinh, đền Hóa thờ nơi hóa của tướng quân Chu
Phúc Uy – thiên thần thời tiền Lý ( 544)
Đền Sinh - đền Hóa (đền Mẫu Sinh – Thánh Hóa) ngày nay cịn có tên là đền
Thánh Phi Bồng, đền Thánh An Mô nay thuộc xã Lê Lợi – huyện Chí Linh cách
chùa Cơn Sơn chừng 1 km về phĩa bắc. Đền ở trên sườn núi Ngũ Nhạc, giữa
rừng cây bát ngát. Đó đây có những khối đá kỳ dị bên suối nước ngầm chảy rì
18
rầm trong lịng đất hịa cùng tiếng thơng reo vi vu. Trên mặt suối những viên
cuội lớn được thời gian và nước suối mài nhẵn chồng xếp lên nhau. Xa xa trên
đỉnh núi, thấp thoáng vài miếu cổ trong làn mây trắng nhẹ bay. Cảnh tượng này
khiến người ta nghĩ đến những sự tích thần bí. Sách Lĩnh Nam chích qi, Đại
Nam nhất thống chí đã ghi:
Ở xã An Mơ huyện Chí Linh, địa đầu xã này có một quả núi hình như bình
phong. Ở đó có một khối đá rộng bằng hai cái chiếu, ở giữa nứt ra một hố rộng
chừng một thước. Khối đá kết nổi này phần nào có dáng vẻ người mẹ trong tư
thế sinh nở. Tương truyền ngày trước trẻ chăn trâu tụ hội ở chân núi nghe có
tiếng trẻ khóc, đến nơi thấy một em bé ngồi ở chỗ đá nứt, tiếng như chuông
đồng. Trẻ mục đồng lấy tay làm kiệu, lấy nón làm lọng, lấy khăn làm cờ, rước
về làng. Trên đường đi, bỗng nhiên trời nổi mưa to gió lớn, em bé ấy bay thảng
lên khơng, nghe có tiếng nói vọng lại: “Ta là thần Phi Bồng hạo Thiên giáng hạ,
nay bị lộ hóa về trời”. Người địa phương lấy làm kinh dị lập đền thờ. Chỗ Mẫu
Mẹ Thạch Linh sinh ra em bé lập Đền Sinh, chỗ em bé hóa về trời lập đền Hóa.
Trải qua trên một ngàn năm lịch sử, biết bao cuộc chiến tranh và biến động xã
hội, sự tích và huyền thoại Phi Bồng tướng quân vẫn được bảo tồn trong ký ức
nhân dân ta từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các di tích cũng được giữ gìn và
khơng ngừng tơn tạo. Đền Sinh thờ Đức Quốc Mẫu Thạch Linh – Hồng Thị
Ba, đền Hóa thờ Hạo Thiên Phi Bồng đại tướng quân – Chu Phúc Uy là nơi ban
phúc lộc cho dân lành.
Căn cứ lịch sử và thần tích thì đền Sinh – đền Hóa ra đời từ thế kỷ 11. Nhưng di
tích hiện còn được tái tạo vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
Đền Sinh xây dựng theo hình chữ Tam gồm 3 tòa liền nhau, phần hậu cung xây
trùm lên khối đá kỳ dị được mô tả trong huyền thoại. Ở đây có tượng Mẫu –
tượng bà Hồng Thị Ba. Tại đền còn nhiều cổ vật và hai tấm bia nói về thần tích
và q trình trùng tu đền.
Đền Hóa có hình thức và kiến trúc tương tự đền Sinh nhưng quy mô lớn hơn
trên một khu đất tương đối bằng phẳng. Trung từ tái tạo năm Tự Đức Kỷ Mão
(1879). Hậu cung có tượng tướng quân Chu Phúc Uy và nhiều đồ tế tự có giá
trị.
- Đền Chu Văn An: tọa lạc trên núi Phượng Hoàng, thuộc địa phận phường Văn
An, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nơi đây bao gồm một quần thể kiến
trúc bề thế, mang đậm phong cách thời Nguyễn, có địa thế linh thiêng và cảnh
sắc thiên nhiên tươi đẹp.
Qua các đợt trùng tu, đền thờ Chu Văn An đã trở thành quần thể kiến trúc bề thế
trang nghiêm bao gồm: tam quan nội, tam quan ngoại, sân hạ, sân trung, sân
thượng, vườn cây, hai nhà giải vũ, hai nhà bia, đền thờ chính cùng những bức
phù điêu chạm Long Phượng vờn mây và 112 bậc đá dẫn lên đền thờ chính.
Đền thờ chính tọa lạc trên thế đất cao, rộng, theo phong thủy thì đây chính là
mắt của chim Phượng. Phía trước đền có núi Ngọc làm tiền án, phía sau có núi
Phượng làm hậu trẩm, hai bên là núi Kì Lân và núi Phượng Hoàng chầu về. Đền
Chu Văn An được xây dựng theo hình chữ Nhị, phong cách kiến trúc thời
19
Nguyễn, chồng diêm 2 tầng 8 mái, ngói liệt với 8 góc đao cong, bao gồm 5 gian
tiền tế và 1 gian hậu cung.
Chính giữa tiền tế đặt ban thờ cơng đồng, ngay phía sau là ban thờ gia tiên họ
Chu, bên phải là ban thờ sơn thần núi Phượng Hồng, bên trái là ban thờ các
mơn sinh của thầy. Trong hậu cung đặt tượng thờ thầy bằng đồng, nặng 100kg.
Nghệ thuật trang trí trong đền theo đề tài tứ linh (Long - Ly - Quy - Phượng) và
tứ quý (Tùng - Cúc - Trúc - Mai). Các bức y mơn sơn son thếp vàng, trang trí
mỹ thuật theo hình tượng “rồng chầu hoa cúc mãn khai”. Phía trước đền Chu
Văn An là đôi rồng đá mang phong cách kiến trúc thời Trần...
Trong không gian quần thể đền Chu Văn An thanh tịnh, nằm ẩn mình giữa khu
rừng thơng xanh ngút ngàn, nổi bật lên hàng chữ “Vạn thế sư biểu”, đặc biệt là
bảng khắc chữ “Học” rất lớn theo nét bút thư pháp ở trên lối vào đền. Đây là sự
thể hiện tấm lòng tri ân của bao thế hệ người Việt đối với người thầy giáo mẫu
mực.
- Đền thờ Bà Chúa Sao Sa Nguyễn Thị Duệ: Đền thờ bà Nguyễn Thị Duệ là nơi
linh thiêng, được bao bọc bởi dãy núi Phượng Hoàng. Trong đền là tượng bà
được đặt trang trọng ở trung tâm hậu cung, tượng được sơn son thiếp vàng và có
nhiều câu đối ca ngợi nữ tiến sĩ như: “Sắc nước hương trời nghìn xưa cịn
ngưỡng mộ. Linh thiêng đức lớn mn đời tỏa ánh hào quang”…
Ngôi đền được xây dựng ngay trước tháp mộ đã tạo nên một khu di tích hồn
thiện giữa khung cảnh núi rừng chập chùng. Từ xa xưa, núi Phượng Hoàng đã
được nhắc đến trong lịch sử là chốn linh thiêng, đất lành nên mỗi khi hồng hơn
bng xuống cị vạc từng đàn vẫn bay về tổ ấm tạo cho khơng gian trở nên
thanh bình n ả. Đền thờ được xây dựng theo kiểu chữ Đinh, gồm tiền tế ba
gian hai dĩ và một gian hậu cung, phía sau hậu cung là Tinh Phi tháp cổ. Kết cấu
khung nhà tiền chế theo kiểu “ giá chiêng”, các bức cốn chạy quanh lịng nhà
chạm hình tượng tứ linh trong tư thế múa chầu nhìn về trung tâm. Hai bức cốn
hồi được chạm chữ “Phúc” cách điệu mang ý nghĩa cầu chúc cho muôn họ luôn
tốt lành, hạnh phúc.
Trải qua thời gian và những biến động lịch sử, việc thờ cúng có nhiều thay đổi,
đặc biệt là trong giai đoạn chiến tranh, nhân dân khơng có điều kiện cúng lễ.
Sau khi đền thờ được nhiều lần tu bổ thì lễ hội nơi đây cũng bắt đầu được mở
rộng. Tại khu di tích đã được xếp hạng quốc gia này, người dân Hải Dương đã
tổ chức nhiều lễ hội long trọng, khu di tích đã trở thành một địa chỉ du lịch về
mặt tâm linh của nhân dân cả nước.
1.2.2.3. Lễ hội - Phong tục tập quán
- Hội đền Kiếp Bạc, lễ hội truyền thống kỉ niệm ngày mất của anh hùng dân tộc
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, diễn ra vào mùa thu từ ngày 15 – 20/8
âm lịch. Đây là một trong những lễ hội lớn nhất nước, thu hút hàng vạn người từ
khắp mọi miền đất nước về đây trẩy hội. Chị Hoàng Thị Phượng, du khách Hà
Nội, cho biết: "Tôi đi lễ hội Kiếp Bạc là đến tưởng nhớ Đức Thánh Trần, người
mà nhân dân tôn như một người cha. Đồn chúng tơi thường đi hai ngày để dự
20
các hoạt động chính của lễ hội và thăm quan, nghi ngơi tại đây, vì phong cảnh
thiên nhiên khu vực rất đẹp, khơng khí trong lành".
Tới lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc, du khách được trải nghiệm nhiều hoạt
động văn hóa tín ngưỡng truyền thống mang đậm màu sắc văn hóa dân gian
như: Lễ Cáo yết, Lễ khai ấn, Lễ dâng hương tưởng niệm ngày mất của Anh
hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, Lễ rước bộ, Lễ hội quân, Lễ cầu an và Hội hoa
đăng trên sông Lục Đầu, Diễn xướng hầu thánh, các trò chơi dân gian... Trong
đó đặc biệt nhất là Lễ rước bộ và Lễ hội quân trên sông Lục Đầu. Bà Nguyễn
Thị Thùy Liên, Phó Trưởng Ban quản lý di tích Cơn Sơn kiếp bạc, cho biết:
"Vào ngày 17/8 ngồi sơng Lục Đầu diễn ra một nghi lễ quan trọng và đặc
trưng của đền Kiếp Bạc đó là lễ hội qn trên sơng Lục Đầu. Và nghi lễ này
nhằm tưởng nhớ công lao của Đức thánh Trần, Quốc cơng Tiết chế và cũng
chính là vị thủ lĩnh tài ba, là thủy tổ của thủy quân Việt Nam. Vào những ngày
này thì ngư dân khắp nơi, khắp mọi miền đều tề tịu đua thuyền về đền Kiếp Bạc
để hội quân, để cầu xin Đức Thánh Trần một năm mưa thuận gió hịa, một năm
đi biển ra khơi được tôm cá được một năm bộ thu".
- Lễ hội chùa Cơn Sơn, cịn gọi là Lễ hội Côn Sơn hay Lễ hội chùa Hun, bắt
nguồn từ ngày giỗ Trúc Lâm đệ tam Tổ - Huyền Quang (thế kỷ XIV), thường
được tổ chức tại chùa Côn Sơn (Côn Sơn Thiên Tư Phúc tự), nằm dưới chân núi
Côn Sơn, tục gọi là chùa Hun.
Trong những năm gần đây, Lễ hội chùa Côn Sơn được cộng đồng cư dân
phường Cộng Hịa, xã Lê Lợi, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương cùng với Ban
Quản lý Di tích Cơn Sơn - Kiếp Bạc tổ chức vào tháng Giêng hằng năm, từ
ngày 15 đến ngày 22.
Từ thời Lê Sơ, lễ hội chùa Côn Sơn đã được tổ chức rất quy củ. Sách Đại Nam
nhất thống chí chép: “Phong tục ở đây, cứ đến đầu mùa xuân, trai gái đến chùa
dâng hương hàng tuần mới tan, đó là thắng hội của một phương”. Đầu thế kỷ
XX, lễ hội bị thu hẹp lại, hầu như chỉ là việc nội bộ của tăng ni và cư dân xã sở
tại. Lễ hội bị gián đoạn trong cuộc chiến tranh chống Mỹ và được khôi phục vào
năm 1968. Năm Canh Thân (1980), Lễ hội chùa Côn Sơn được tổ chức long
trọng nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh danh nhân văn hố Nguyễn Trãi.
Diễn trình lễ hội:
Lễ dâng hương khai hội: diễn ra vào ngày 16 tháng Giêng, tưởng niệm ngày
viên tịch của Đệ tam tổ Trúc Lâm Huyền Quang tôn giả và tôn vinh công đức to
lớn của Thiền phái Trúc Lâm.
Lễ rước nước, mộc dục: đây là một nghi lễ quan trọng trong Lễ hội Côn Sơn,
diễn ra vào sáng ngày 16 tháng Giêng, ngay sau khi kết thúc lễ dâng hương khai
hội. Năm 2008, lễ mộc dục chùa Côn Sơn được phục dựng, thu hút được đông
đảo cộng đồng tham gia.
Lễ Mông Sơn thí thực: diễn ra vào tối ngày 17 tháng Giêng tại sân chùa Cơn
Sơn. Đàn Mơng Sơn thí thực bao gồm: đàn chính và đàn tiến cúng Phật. Đây là
một trong những nội dung quan trọng được phục dựng thành công trong Đề án
nâng cấp Lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc giai đoạn 2006 - 2010.
21
Lễ tế trời đất trên núi Ngũ Nhạc: diễn ra vào sáng ngày 17 tháng Giêng tại
Trung Nhạc miếu, trên núi Ngũ Nhạc, do các pháp sư thực hiện. Vật phẩm gồm
lễ chay (hoa quả, các loại bánh), lễ mặn (xơi, thịt), ngồi ra, cịn có đồ mã và
ngũ cốc... Tế trời đất tại Ngũ Nhạc để cầu phúc, tránh hoạ, mong cho mùa màng
bội thu, quốc thái, dân an.
Các sinh hoạt văn hóa dân gian trong hội
Ngồi các nghi lễ gắn với tơn giáo, tín ngưỡng, Lễ hội chùa Cơn Sơn cịn hấp
dẫn đặc biệt đối với du khách bởi các sinh hoạt văn hóa mang tính đặc thù, tiêu
biểu như:
Đu tiên: được tổ chức từ ngày 16 đến ngày 18 tháng Giêng. Hình thức phổ biến
là đu đơi, với từng cặp thanh niên (một nam, một nữ) cùng lên đu so tài.
Thư pháp: vào những ngày hội, các cụ đồ và các vị cao tăng thường viết chữ
Hán - Nôm tặng cho du khách. Hiện nay, câu lạc bộ Hán - Nôm của tỉnh Hải
Dương đã về đây viết chữ để phục vụ cho du khách khi đến chùa.
Đấu vật: là tâm điểm thu hút khách thập phương khi về dự Lễ hội chùa Côn Sơn
từ bao đời nay.
Hát quan họ: được tổ chức vào những ngày diễn ra lễ hội từ ngày 16 đến ngày
20 tháng Giêng, tại cổng chùa Côn Sơn.
Côn Sơn thuộc chốn Tổ của Thiền phái Trúc Lâm, một Thiền phái mang tư
tưởng tự cường dân tộc. Lễ hội chùa Côn Sơn là một trong những lễ hội lớn của
vùng châu thổ Bắc Bộ cũng như của cả nước. Từ lâu, việc tham gia lễ hội hằng
năm đã trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hóa - tâm linh của
cộng đồng.
Lễ hội chùa Côn Sơn chứa đựng và phản ánh nhiều vấn đề lịch sử, văn hóa dân
tộc, giúp các nhà khoa học tìm hiểu, nghiên cứu về đời sống, tín ngưỡng, phong
tục tập quán gắn liền với khu di tích đặc biệt quan trọng này, nhằm góp phần
gìn giữ di sản văn hóa của cha ơng ta để lại cho các thế hệ.
- Lễ hội Đền Sinh – Đền Hóa: Hàng năm cứ đến tháng Năm và tháng Tám âm
lịch. Vùng đất An Mô lại náo nhiệt, tưng bừng cho khơng khí vào hội.
Lễ hội tháng năm là lễ hội chính tại đền Sinh, đền Hố. Từ khắp các mọi miền
đất nước khách hành hương về với lễ hội đền Sinh, đền Hoá, mang theo những
tâm tư, những ước nguyện của mình để về với chốn tâm linh. Tại lễ hội đền
Sinh, đền Hố ngồi những nghi lễ bắt buộc, thường niên cịn có nhiều hình
thức nghi lễ thiêng liêng mang tính đặc trưng, tiêu biểu mà khơng một di tích
nào có được. Đó là lễ đón bóng Thánh, lễ ban khước, hội thi hát văn diễn xướng
hầu Thánh...
Ngày 6/5 là lễ Cáo Yết: với ý nghĩa xin phép đức Thánh được mở hội ngày
Ngày 7/5 là lễ Mộc Dục (tắm tượng) sau đó là lễ An Vị tượng.
Tối ngày 7/5 khai mạc hội thi hát văn diễn xướng hầu Thánh.
Vào giờ Dần, ngày 8/5 là lễ đón bóng Thánh
Lễ đón bóng được diễn ra ở cả tại hai đền, để tưởng nhớ ngày Sinh và Hoá về
trời của đức Thánh . Chuẩn bị đến giờ đón bóng, khơng khí trang nghiêm hồi
hộp mong chờ giờ khắc đức thánh giáng sinh. Sau ba hồi trống chiêng điểm,
22
một già làng đại diện lên thắp nhang và đọc văn đón bóng Đức Thánh. Biểu
hiện lúc này đức thánh đã giáng sinh. Sau khi đọc văn đón bóng thì nghi lễ thả
đèn trời để tiễn chân Đức Thánh cũng được diễn ra. Đây là một nét đẹp đặc
trưng của lễ hội đền Sinh, đền Hoá. Thả đèn trời với ý nghĩa tượng trưng cho
hình ảnh đức Thánh giáng Sinh và Hố vế trời.
Ngồi nghi lễ đón bóng và thả đèn trời trong lễ hội tháng Năm tại Đền Sinh,
Đền Hoá là lễ ban khước áo Thánh áo Mẫu cho c¸c q vị đại biểu, cho dân
thơn bản hạt, cùng đông đảo quý khách thập phương, những người nhất tâm với
Thánh với Mẫu. Theo quan niệm thì những ai có mặt trong giây phút linh thiêng
của lễ đón bóng Thánh ngày 8/5 đó là một may mắn nhưng nếu nhận được lộc
khước Thánh, khước Mẫu thì đó cịn là một điều quý giá và thiêng liêng hiếm
có sẽ được ban lộc, ban tài, cầu được ước thấy trong cả một năm. Khước của
Thánh của Mẫu như một chiếc bùa hộ mệnh ln phù hộ và che chở cho mỗi
người, đó là lá bùa tâm linh mang đầy niềm tin mà khơng phải ai cũng may mắn
có được.
Sau lễ đón bóng, lễ ban khước là lễ rước truyền thống, lễ dâng hương thể hiện
lịng ngưỡng mộ, thành kính của tồn thể nhân dân đối với công lao của đức
thánh An Mô đã linh ứng giúp đỡ và che chở cho dân làng ngàn đời nay được
ấm no,hạnh phúc. Điều này góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự
hào dân tộc của mỗi con người Việt Nam.
Hồ chung khơng khí của phần lễ, thì các hoạt động của phần hội cũng diễn ra
rất sơi động. Với các trị chơi dân gian truyền thống như: Đấu vật, kéo co, cờ
ngưòi, chọi gà…Biểu diễn các làn điệu cổ như: Hát chầu văn, hát chèo, quan họ
Bắc Ninh. Các giải giao hữu thể thao như: cầu lơng, bóng bàn, bóng đá...Tất cả
các hoạt động vui chơi giải trí đó đã thu hút hàng ngàn người tham gia.
- Lễ hội đền thờ Chu Văn An hàng năm, tại đền Chu Văn An diễn ra lễ khai bút
đầu xuân vào ngày 6 tháng Giêng với 4 chữ thư pháp Hán Nơm: Chính - Học Thuần - Hành, và 10 chữ Quốc ngữ: Tâm - Đức - Chí - Nghĩa - Trung - Tài Minh - Trí - Thành - Vinh. Đây là nét đẹp văn hóa được gìn giữ từ khi thầy Chu
Văn An về đây mở lớp dạy học.
Và lễ hội đền Chu Văn An mùa thu diễn ra từ ngày 1 - 25/8 âm lịch (chính hội
ngày 25). Lễ kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam vào ngày 20/11 dương lịch. Lễ
hội về nguồn từ ngày 24 - 26/11 âm lịch (chính hội ngày 26).
1.2.2.4. Các điều kiện khác
Ẩm thực:
-Bánh đậu xanh: có thể nói là đặc sản nổi tiếng nhất của Hải Dương nói chun g
và Chí Linh nói riêng. Đến Chí Linh ai cũng một lần thưởng thức đặc sản bánh
đậu xanh và mang về làm quà cho người thân. Bánh được làm từ những nguyên
liệu gần gũi với người nông dân: đậu xanh, đường tinh, mỡ lợn, tinh dầu hoa
bưởi. Cái độc đáo, hấp dẫn của bánh nằm ở những cơng đoạn vơ cùng tỉ mỉ, địi
hỏi sự khéo léo và tinh tế của người chế biến.
- Bún cá rô đồng thì có thể tìm thấy khắp mọi nơi nhưng để thưởng thức món
bún cá rơ vừa thơm, vừa hấp dẫn vừa đậm đà hương vị thì bạn phải về đất Chí
23
Linh. Chế biến bún cá tưởng như đơn giản nhưng lại đòi hỏi sự khéo léo và tinh
tế của người làm. Những con cá được luộc chín, bóc thịt ra riêng rồi phi cùng
hành mỡ có mùi thơm nức. Nước dùng của bún cá rô cũng được chế biến rất tỉ
mỉ, nước trong leo lẻo và đậm đà vị ngọt của cá, người ta có thể bỏ ít gừng tươi
để mùi hương thêm phần quyến rũ. Thưởng thức bát bún cá rô đồng trong ngày
đông lạnh giá mới là cái thú. Đó là cảm giác ngồi xì xụp bát bún cá nóng hổi,
thìa nước dùng ngọt đậm, thịt cá mềm, ngon trộn lẫn cùng những sợi bún trắng
đều tăm tắp khiến thực khách nhớ mãi.
- Vải thiều được mệnh danh là “bà hồng” của các loại vải. Vải ở Chí Lin h
được trồng nhiều ở xã Hưng Đạo. Vải thiều hạt nhỏ, màu nâu đen, cây vải tuổi
càng cao thì hạt càng nhỏ, có nhiều trái gần như khơng có hạt và lớp cùi dày
mọng nước. Trái vải lớn cỡ ngón chân cái, tạo thành chùm, vỏ màu đậm hơi sần
sùi. Vị ngọt dịu mát hòa lẫn với mùi thơm của nước vải ngấm vào tận răng
người thưởng thức. Hương vị của vải Chí Linh khi ăn xong cịn vương vấn mãi.
Loại hình nghệ thuật truyền thống:
- Hát Chầu Văn là một loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống gắn với cửa
Thánh, hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu đã có từ lâu đời ở nước ta. Làng hát
chầu Văn ở làng An Mô xã Lê Lợi, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nghề
hát Chầu Văn ở làng An Mô xuất phát từ các truyền thuyết về Thánh Phi Bồng
sinh và hóa trong một giờ. Theo đó, tại nơi Thánh sinh ở khe đá, người dân lập
ra Đền Sinh để thờ Đức Mẫu Thạch Bàn, còn nơi Thánh hóa được lập Đền Hóa
để thờ Thánh Phi Bồng. Hai đền thờ này gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu, vì vậy
nghi thức hầu đồng có từ rất sớm. Do đó, hát Chầu Văn ở An Mô ra đời gắn với
hoạt động thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ ở Đền Sinh – Đền Hóa.
24
Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TÂM LINH TẠI
THÀNH PHỐ CHÍ LINH
2.1. Thực trạng về số lượng khách du lịch
Theo số liệu phịng Văn Hóa Du Lịch thành phố Chí Linh thống kê lượng khách
du lịch đến với Chí Linh trong năm 2018 là 2.3 trệu lượt khách, năm 2020 giảm
cịn 1.7 triệu lượt khách do tình hình dịch bệnh kéo dài, Trong đó khách hành
hương tâm linh chiếm hơn 85%. Chỉ trong dịp Tết riêng Khu di tích Cơn SơnKiếp Bạc đạt khoảng 120 nghìn lượt người trong năm 2018, tập trung nhiều
nhất vào các ngày mồng 3 đến mồng 5 Tết.
2.2. Thực trạng về doanh thu
Doanh thu từ du lịch tâm linh văn hóa tại Chí Linh đạt 15 tỷ năm 2018 và năm
2020 giảm còn 9,3 tỷ với 1.7 triệu lượt khách
2.3. Cơ sở vật chất - hạ tầng kỹ thuật phục vụ du lịch
Hạ tầng kỹ thuật dịch vụ du lịch đơn sơ, nguồn nhân lực vừa thiếu, vừa yếu, sản
phẩm du lịch nghèo nàn, chưa thu hút được nhiều nguồn lực đầu tư từ xã hội...
Thành phố hiện có 62 cơ sở lưu trú với gần 700 phịng nghỉ nhưng chỉ có 2
khách sạn đạt 3 sao và 1 khách sạn đạt 2 sao cùng 10 doanh nghiệp, điểm dừng
chân kinh doanh du lịch. Năm 2019, TP Chí Linh đón khoảng 2,5 triệu lượt du
khách, chỉ tăng khoảng 5% so với năm 2018. Du khách chủ yếu vẫn chỉ đến do
nhu cầu tâm linh. Khách đến đây ít lưu trú qua đêm. Kết quả này chưa tương
xứng với tiềm năng.
2.4. Công tác quảng bá du lịch tâm linh tại địa phương
Hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch được coi là yếu tố quan trọng góp phần
vào sự phát triển chung của ngành Du lịch. Trong những năm qua, hoạt động
quảng bá, xúc tiến du lịch, thu hút đầu tư du lịch được triển khai có trọng tâm,
trọng điểm, hướng vào tiềm năng, thế mạnh của các khu, điểm du lịch trọng
điểm của thành phố Chí Linh và có hiệu quả nhất định. Để du khách có thể biết
đến vẻ đẹp tự nhiên cùng các giá trị di sản văn hóa vùng địa linh nhân kiệt, thì
việc tham gia các hội nghị xúc tiến, các cuộc triển lãm, hội chợ du lịch trong và
ngoài nước được ngành Du lịch “khai thác” tối đa như tham gia vào: Hội nghị
xúc tiến đầu tư du lịch trong và ngoài nước. Việc tham gia các hoạt động xúc
tiến, quảng bá du lịch không chỉ là cơ hội để xây dựng thương hiệu, quảng bá
hình ảnh du lịch Chí Linh mà cịn giúp doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa
bàn thành phố cập nhật thông tin về dịch vụ, giới thiệu sản phẩm, quảng bá hình
ảnh của đơn vị mình và tìm kiếm đối tác, ký kết hợp đồng kinh doanh và trao
đổi khách giữa các bên liên quan.
Xác định Internet là một công cụ xúc tiến, quảng bá du lịch hiệu quả với chi phí
thấp, không phụ thuộc vào không gian và thời gian, ngành Du lịch đã khai thác
lợi thế quảng bá này thông qua việc duy trì, phát triển Trang thơng tin Du lịch
Chĩ Linh với tên miền truy cập: dulichchilinh.com.vn. Đây là địa chỉ thông tin
tin cậy không chỉ của du khách mà của các nhà đầu tư, đồng thời cũng là cầu
nối trung gian, hỗ trợ, quảng bá các sản phẩm, dịch vụ cho các doanh nghiệp
25