LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài tiểu luận này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Khoa ………. Đại học …. vì đã tạo điều kiện về cơ sở vật chất với hệ thống
hiện đại, đa dạng, tài liệu thuận lợi cho việc tìm kiếm, nghiên cứu thơng tin.
Xin cảm ơn giảng viên bộ môn - Thầy ………. đã giảng dạy tận tình, chi tiết
để em có đủ kiến thức và vận dụng chúng vào bài thu hoạch này.
Do chưa có nhiều kinh nghiệm làm để tài cũng như những hạn chế về kiến thức,
trong bài làm chắc chắn sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận
được sự nhận xét, ý kiến đóng góp, phê bình từ phía Thầy để bài luận được
hồn thiện hơn.
Lời cuối cùng, em xin kính chúc Thầy nhiều sức khỏe, thành cơng và hạnh
phúc.
Đề bài: Bằng những kiến thức đã học về thời đại nhà
Đường và thơ Đường, anh/chị hãy trình bày những đặc
điểm chung của thi nhân thời Đường và đặc trưng cơ bản
về Đường thi
BÀI LÀM
1, Khái quát căn bản về văn học Trung Quốc thời đại nhà Đường
+ Trung Quốc là một đất nước có bề dày về lịch sử, vì vậy quốc gia này cũng
lưu giữ một tài sản văn học vơ cùng phong phú. Có rất nhiều các thể loại như
thơ, tiểu thuyết, văn xuôi, kịch. Từng giai đoạn lịch sử của đất nước sẽ có những
nét đặc sắc về văn học và nghệ thuật riêng.Nền văn học Trung Quốc cũng phát
triển vô cùng Cường Thịnh và Đỉnh cao ở thời kỳ nhà Đường.
+ Nhà Đường Đã cống hiến rất nhiều những thành tựu cho lịch sử Trung Hoa.
Nó nằm giữa giai đoạn cai trị của hồng đế Đường Thái tơng và hồng đế
Đường Nhân tơng. Đây là một giai đoạn thịnh vượng, Đất nước thái bình , sự
phát triển được lan tỏa diễn ra trong mọi lĩnh vực từ văn hóa, xã hội, nghệ thuật,
kinh tế. Đây chính là một thời kỳ được các thế hệ đời sau tơn vinh với tên gọi
là “ Thịnh Đường Khí Tượng”
Có khá nhiều những thi nhân nổi tiếng như Lý Bạch, Đỗ Phủ và hàng loạt các
họa sĩ nổi tiếng Như Chu Phương, Hàn Cán. Hầu hết các cơng trình về lịch sử
văn học, các cơng trình nghiên cứu về địa lý hay những cơng trình lớn hầu như
đều được hoàn thành ở trong thời kỳ nhà Đường.
+ Nhắc tới thơ Đường, được sáng tác khoảng từ thế kỉ 7-10 ( năm 618907).Những giai đoạn của Đường Thi được chia làm những giai đoạn
➢
Sơ Đường ( Năm 618-673)
➢
Thịnh Đường (Năm 713-766)
➢
Trung Đường (Năm 766-835)
➢
Văn Đường (Năm 835-907)
+ Thơ Đường có ai thể loại đó là cổ và thân. Trong cổ lại được chia làm ngủ
ngôn và thất ngôn. Thể loại thơ của nhà Đường khá chú trọng đến tính nhạc,
tính họa. Ngôn từ được trau chuốt kết hợp với cảm hứng về tự nhiên, được tích
lũy từ những kiến thức tổng hợp từ nhiều nguồn của các nhà thơ thời kỳ đó.
Nổi bật với những câu thơ có hình thức đẹp, những bài thơ với nội dung thấm
thía mang đậm giá trị hiện thực, lãng mạn. Nổi bật với ba nhà thơ tiêu biểu đó
là Đỗ Phủ, Lý Bạch và Bạch Cư Dị
Có thể nói, thơ Đường chính là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử của văn
học Trung Quốc. Đây chính là một thể loại đặc sắc, thể hiện văn hóa cũng như
Tinh thần của triều đại nhà Đường một cách sâu sắc nhất
2, Đặc điểm chung của thi nhân thời Đường
+ Cuộc sống đa cạnh , đa chiều , mỗi nhà thơ lại là một tài năng , một khí cốt
đặc biệt . Vì thế , họ đã chủ động tạo cho mình một phong cách thơ riêng , đặc
sắc . Tuy nhiên , điều thú vị là , qua những rung cảm tự nhiên nhất , trong những
lúc ngẫu hứng chọn và khai thác đề tài , họ đã cùng tỏ ra chú ý và thích thú một
số khách thể thẩm mỹ . Tần số lặp lại những khách thể này , trong tác phẩm ,
đã bộc lộ thị hiếu thẩm mỹ của họ . Nhìn chung , các nhà thơ thường lấy cảm
hứng từ thiên nhiên , cho dù đó là giờ tống biệt , là nỗi nhớ da diết cố hương ,
hay là nỗi đau thương vì chiến tranh , loạn lạc . Thiên nhiên hiện lên chỉ vài nét
mờ ảo nhưng tỏa ấm linh hồn của vạn vật , của cuộc sống . Mượn thiên nhiên ,
các nhà thơ muốn tạo ra một “ huyền ngoại chi âm ” ( tiếng vang sau khi dây
đàn ngừng bặt ) . Người đọc phải cố lắng nghe dư âm ấy , kể cả phải biết cảm
nhận được cái cam dư chi vị ” ( vị ngọt sau khi ăn quả đắng ) . Thiên nhiên
trong thơ Đường gắn với một không gian , thời gian nhất định . Phần nhiều ,
các hình ảnh cụ thể chính là nét phác của cả vũ trụ , hay là sự cụ thể hóa một
dịng thời gian chảy trôi . Những đặc điểm trên đều in dấu vào thị hiếu thẩm
mỹ của các nhà thơ .
Những tác giả của thơ Đường thường lựa chọn và miêu tả những khoảnh khắc
dồn nén trong tâm hồn, đó cũng chính là bản chất của q trình đời sống con
người. Đó là những khỏanh khắc đặc biệt của hiện thực được nhìn qua lăng
kính của tâm trạng, những khỏanh khắc thăng hoa, bột phát trong thế giới của
tâm linh. Có khi đó là khỏanh khắc lúc chia li, là khi lên cao, là màn đêm yên
tĩnh nhìn trăng mà da diếc nhớ về quê hương, là khỏanh khắc khi đối mặt với
cái chết, hay chỉ là một thoáng mờ của giấc chiêm bao.
+ Thi nhân thời Đường: có cách nhìn khác về cá tính sáng tạo của nhà văn, họ
tự do sử dụng văn liệu của người đi trước nhưng cũng có mức độ thể hiện cá
tính của mình trong nội dung, cái nhìn, cảm hứng, giọng điệu
+ Các nhà thơ Đường đã dùng ngịi bút của mình để phác họa lại văn hố để
nó được truyền xun suốt thời gian và khơng gian. Văn hố nhà Đường bảo
tồn một thơng điệp siêu phàm để truyền cho các thế hệ sau. Hàm ý trong các
áng thơ này bộc lộ một sự khát khao mong mỏi về một thiên giới vô lượng vô
biên, một mong ước không thể diễn tả.
+ Thi nhân thời đường đa số ghi chép về điều nhân loại hiểu và nhớ về thiên
giới như thế nào. Hồi ức về thiên giới là được lưu lại vĩnh viễn trong tâm trí
của nhân loại, duy trì ngun vẹn qua vạn kiếp luân hồi của họ trên Trái Đất.
Ba nhà thơ tiêu biểu của thời Đường:
+ Đỗ Phủ (712 – 770): Ông là một trong những nhà thơ nổi tiếng của Trung
Quốc. Sống vào thời nhà Đường. Ông được coi là một trong hai nhà thơ vĩ đại
nhất lịch sử văn học Trung Quốc. Người cịn lại chính là Lý Bạch. Những tác
phẩm của ông gây ảnh hưởng nhiều đến văn hóa Trung Quốc. Thậm chí là cả
Nhật Bản.Các nhà phê bình Trung Quốc gọi ơng là Thi sử và Thi thánh. Cả
cuộc đời Đỗ Phủ đã sáng tác khoảng hơn 1.500 bài thơ. Để lại gia tài thơ văn
đồ sộ cho nhân loại.
+ Lý Bạch (701 – 762): Là nhà thơ có sức ảnh hưởng nhất thời kỳ này. Ông đã
để lại nhiều áng thơ xuất thần. Ông tự lấy hiệu cho mình là Thái Bạch. Bên
cạnh đó, do sinh ở làng Thanh Liên nên ơng lấy hiệu là Thanh Liên cư sĩ.
Giới thi nhân thời bấy giờ vơ cùng kính nể tài uống rượu làm thơ của ơng. Do
đó ơng được tơn là Lý Trích Tiên. Lý Bạch đã sáng tác khoảng gần 1.000 bài
thơ và được lưu truyền đến ngày nay. Lý Bạch là một trong những nhà thơ vĩ
đại nhất trong lịch sử thơ ca Trung Quốc. Chính vì vậy, ơng được tơn làm Thi
Tiên – Tiên thơ của Trung Quốc
+ Bạch Cư Dị (772-846): Ông cũng là một nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng ở thời
Đường. Có lẽ hai bài Tỳ bà hành, Trường Hận Ca là tác phẩm nổi tiếng nhất
của ông tại Việt Nam.
Ngồi ra ơng cịn làm một số bài thơ về các chủ đề khác. Như thiên nhiên, nhàn
tản. Ông thích đàm đạo về thiền, về Lão Trang. Cũng như mang trong mình tư
tưởng lánh đời. Ơng đã q ngán ngẩm về nhân tình thế thái thời bấy giờ. Ông
để lại khoảng trên 2.800 bài thơ cho con cháu đời sau.
+ Vương Bột (650–676), tự Tử An, người Long Môn, Giáng Châu (ngày nay
là Hà Tân, Sơn Tây) thời nhà Đường. Vương Bột được xem là một trong "Sơ
Đường tứ kiệt" (bốn nhà thơ kiệt xuất giai đoạn đầu của nhà Đường), 3 nhà thơ
còn lại là: Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân và Lạc Tân Vương. Văn học Trung
Quốc cực kì nhiều nhà thơ nổi tiếng, với những tác phẩm đi vào sử sách. Vương
Bột cũng là một trong những huyền thoại thơ của Trung Quốc. Tác phẩm nổi
tiếng của ông là Đằng Vương Các Tự. Ngoài "Đằng Vương Các tự" mà ai đọc
thơ Đường cũng biết, nhà thơ này cịn có nhiều bài thơ đặc sắc khác về nhiều
mặt của đời sống xã hội lúc bấy giờ. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc cịn nói:
đó là một "thần đồng", thậm chí một "thiên tài", và làm thơ không bao giờ phải
nháp.
3, Đặc trưng cơ bản về Đường thi
Thơ Đường hay Đường thi: là những bài thơ của các thi sĩ Trung Hoa làm dưới
thời nhà Đường, nổi tiếng nhất là 300 bài được gọi là Đường thi tam bách thủ.
Trong số đó có một số được làm theo thể thơ Đường luật, số còn lại làm theo
các thể thơ khác, phần lớn là thơ cổ phong. Trên bình diện văn hóa tinh thần,
Đường thi của một thời rực rỡ, biểu tượng hết sức huy hoàng của nhân loại đã
đạt đến đỉnh điểm của sự thăng hoa, rất nhiều bài thơ cho đến nay vẫn cịn làm
say mê, xúc động lịng người. Có thể nói một điều là trong văn chương nói
chung và thơ ca nói riêng có lẽ thể lồi Đường thi là có sức sống mãnh liệt
nhất. Lịch sử đã trải qua bao sự hưng vong, quốc gia đã bao lần đổi chủ nhưng
khơng vì lẽ đó mà làm mờ đi hồn tính của thơ Đường. Sự tồn tại bao giờ cũng
lý do nhất định của nó, với Đường thi và đó chính là sự tinh diệu trong nghệ
thuật được nhào nặn, chắt lọc của những ngòi bút tài hoa qua nhiều thế hệ
+ Nội dung: chan chứa tính nhân văn, đầy ắp tình người, tình đời, nỗi đau, nỗi
hận… Đường thi phản ánh số phận “thập loại chúng sinh” trên khắp đất nước
Trung Hoa thời phong kiến nhà Đường. Đồng thời, trong từng câu thơ còn thấm
đượm những nghĩ suy và triết lí thâm thuý của con người trước thời cuộc thăng
trầm, những rung động sâu lắng của trái tim đối với thiên nhiên, tình yêu, tình
bạn và với những cảnh thống khổ trên đời.
Đề tài trong Đường thi có những nội dung rất đa dạng và phong phú… Có rất
nhiều hình thức diễn đạt phóng khống từ những đề tài về an nhàn ẩn dật, vui
thú điền viên, tả cảnh thiên nhiên, đến những bài thơ nói về cung đình, biên tái,
chiến chinh, những đề tài liên quan đến xã hội, cảnh nghèo đói áp bức, nỗi bất
cơng của phụ nữ, những bài thơ tâm tình, tình bè bạn, thiên nhiên, đến tình yêu
nam nữ, rồi những đề tài vịnh sử, hoặc những bài thơ mang hương vị Thiền,
đạo giáo. Đường thi rất coi trọng tính nhạc, tính họa. Sự trau chuốt khổ cơng đi
đơi với những cảm hứng tự nhiên, không phải tự dưng hái được, mà do những
kiến thức thu hái từ nhiều nguồn của các nhà thơ đời Đường. Vương Duy không
chỉ là một nhà thơ, ơng cịn là một họa sĩ, một nhà thư pháp nổi tiếng. Vì lẽ đó
mà trong thơ của ông, thơ và họa kết hợp rất hài hòa. Sau này, Tô Đông Pha đã
phải thốt lên rằng: “Trong mỗi bài thơ của Vương Duy là một bức họa. Và
trong mỗi bức họa lại có một bài thơ”. Vương Xương Linh, Vương Chi Hốn,
Cao Thích nghe hát ở Kỳ Đình, thẩm âm sành điệu chẳng khác gì nhạc cơng,
nhạc sĩ…
Đường thi có hình thức đẹp, nội dung cực kì sâu sắc. Cả giá trị hiện thực và
lãng mạn đều đạt tới đỉnh cao…
+ Thể thơ trong Đường thi
Ðường thi tam bách thủ (Ba trăm bài thơ Ðường) là cuốn hợp tuyển gồm những
được cho là tiêu biểu của thi ca đời Ðường. Ta có thể căn cứ vào sự phân loại
trong sách này, lấy thể thơ làm tiêu chuẩn, chia thơ Ðường ra làm sáu loại sau:
ngũ ngôn cổ thi, thất ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật thi, thất ngôn luật thi, ngũ ngôn
tuyệt cú, thất ngôn tuyệt cú. Trong mỗi loại, là những bài nhạc phủ làm theo
thể thơ thuộc loại ấy.
Cổ thể hay cổ phong:Thể thơ này không có luật lệ nhất định. Khơng hạn định
số câu. Cách gieo vần rất rộng rãi, uyển chuyển. Có thể dùng độc vận (một
vần), liên vận (nhiều vần) hay không hiệp vận. Vận chính là các vận thuộc cùng
một vận bộ. Vận thông là các vận thuộc hai vận bộ khác nhau, có âm thanh
tương tự. Vận chuyển là những vận có âm vốn khơng giống nhau. Ngồi ra, thể
này khơng phải theo niêm, luật, cũng khơng bắt buộc phải có đối ngẫu.
Cận thể hay kim thể:Người đời Đường gọi lối thơ tuyệt cú và lối thơ luật là cận
thể hay kim thể, để phân biệt cổ thể hay cổ phong nói trên. Thơ cận thể thật ra
đã xuất hiện trong đời Lục Triều, sau cơng trình biện biệt tứ thanh của nhóm
Thẩm Ước (Thẩm Ước là tác giả sách Tứ thanh phổ, người thời Vĩnh Minh
(483-493), đời Tề), và việc phân định vận của nhóm Lục Pháp Ngơn (Lục Pháp
Ngơn là tác giả sách Thiết vận, người đời Tuỳ Văn Đế (581-640)). Nhưng đến
đời Ðường, mới có sự phân biệt rõ rệt thơ cổ với thơ cận thể.
Luật thi: Luật đây là sáu luật, là luật hoà hợp âm thanh. Luật thơ cũng giống
như kỷ luật dụng binh, pháp luật hình án, nghiêm ngặt chặt chẽ, không được vi
phạm
Tuyệt cú: Trong một bài tuyệt cú, câu 1 là khởi, câu 2 là thừa, câu 3 là chuyển,
câu 4 là hợp. Khi làm thơ tuyệt cú, các nhà thơ đời Ðường cũng có thái độ như
khi làm luật thi, nghĩa là khơng chịu sự câu thúc chặt chẽ của quy tắc.
Nhạc phủ: là một loại thơ làm theo nhiều thể khác nhau và có cơng dụng trong
ca nhạc. Ðời Ðường, nhạc phủ gồm có những bài thơ cổ phong, luật thi và nhất
là tuyệt cú. Vương Thế Trinh đời Thanh nói rằng: "Thơ tuyệt cú của ba trăm
năm đời Ðường chính là nhạc phủ của ba trăm năm đời Ðường".
+ Đặc trưng mĩ học: Đặc trưng mỹ học của thơ ĐườngĐặc trưng mỹ học của
thơ Đường trước hết biểu hiện ở tính hàm súc, ít lời nhiều ý, ý ở ngồi lời. Kết
cấu thơ Đường luật hết sức chặt chẽ, mỗi bài thơ giống như một bài toán giải
đáp một vấn đề xã hội bằng hình tượng nghệ thuật. Thơ Đường luật đúc kết
những kinh nghiệm quá khứ nâng lên thành luật bằng trắc đối xứng. Đối xứng
chính là mâu thuẫn thống nhất trong âm thanh, đối xứng càng cao, hài hòa càng
lớn. Do đó câu số chữ của một bài thơ được hạn định, nên các nhà thơ phải tìm
tịi những tinh hoa của dân gian, kết hợp với điển cố lịch sử và từ hoa lệ của
văn học thành văn. Sự quy định niêm luật cho một thể thơ có thể hạn chế sự
biểu đạt những tình cảm bay bổng, phóng khống, nhưng nó buộc phải sáng tạo
ngơn ngữ hàm súc, cấu tứ chặt chẽ. Thơ Đường có phong độ một tâm hồn Á
Đơng, gắn tâm tư tình cảm con người với thiên nhiên Đất nước. Tình cảm biểu
hiện trong thơ Đường thực mn màu mn vẻ, có khi bồng bột,bay bổng, có
khi thâm trẩm, uẩn khúc quanh co. Có thể nói, nó như những dịng thác đổ dồn
về một con sông lớn cuồn cuộn.
+ Ở Đường thi, có thể nói nó sống đúng nghĩa với hai chữ " trữ tình". Tình
cảm, cảm xúc trở thành mạch nối vơ hình để hàn kết các hình ảnh, ý tưởng,
nhạc điệu tạo nên sự vận động của ý thơ trên con đường tạo nên cấu tứ.
Cái độc đáo nhất của Đường thi là dồn nén biểu cảm để đạt tới sự tập trung cao
độ và trở thành tính khái quát, triết lí. Thơ Đường thường gợi chứ không tả.Từ
những khoảng trống, khoảng trắng, nốt lặng vô hình trong kết cấu, trong các
tương quan, trong các " nhãn tự", người đọc tự khám phá về thế giới tâm hồn
của nhà thơ được dồn nén vào trong đó.
+ Nghệ thuật:Đường thi tập trung nghệ thụât tinh tế, diệu xảo.Thơ Đường lựa
chọn những chi tiết đặc sắc,đạt đến độ tinh xảo giàu sức gợi, giàu sức khái quát,
mọi ý tứ thăng trầm, sâu sắc được toát lên từ những gợi ý này. Thơ Đường
thường dồn nén những ẩn dụ tượng trưng. Những ẩn dụ tượng trưng này có sức
bùng nổ lượng thông tin lớn. Cái ưu thế của nghệ thuật tinh tế, diệu xảo được
tạo ra bởi "ngôn hữu hạn, ý vô cùng", nhờ sự lựa chọn và tổ chức hình ảnh
mang tính ẩn dụ cao. Các thủ pháp miêu tả dựa trên các mối quan hệ giữa các
đối tượng, theo các dạng thức “vẽ mây nảy trăng”, dùng tĩnh tả động, dùng
động tả tĩnh, tả cảnh ngụ tình, trong thơ có hoạ, trong thơ có nhạc… tạo nên
cấu trúc đặc biệt của thơ Đường. Các thi nhân đều nhất thiết tuân thủ phương
pháp sáng tác cơ bản và ưu việt là sự “lập tứ” : phải tìm bằng được cái “vấn đề”
để viết! Do đó, thơ khơng chú trọng vào miêu tả mà là gợi mở, tìm ra các “ý
tượng” của thơ. Tất cả những câu, những chữ của bài thơ đều được tổ chức để
xoáy, vào cái tứ đó, miêu tả và phát triển nó đến tuyệt đỉnh. Do đó, Đường thi
có tính khắc họa rất cao và sống mãi với thời gian
+ Ngôn ngữ Đường thi là ngôn ngữ khái quát so với ngôn ngữ thơ ca đời trước.
Mặt khác ngơn ngữ thơ đường cịn là ngơn ngữ tinh luyện và chính xác, cơ động
và hàm súc.Cũng như thơ nói chung, Đường thi sử dụng rộng rãi phép tĩnh
lược và đảo trang.Tất cả những yếu tố trên đã hợp thành chỉnh thể nghệ thuật,
tạo nên cái tinh tế, diệu xảo để chuyển tải nội dung một cách tốt nhất.
+ Đường thi trở thành cuộc họp mặt hùng hậu của 2.300 nhà thơ tài hoa, với
khoảng 50.000 bài thơ đặc sắc.Dịng chảy thơ Đường có 4 thời kỳ, mang diện
mạo và sinh khí khác nhau: Sơ Đường (618 – 713) bóng bẩy và hoa mỹ trong
những vần thơ ca tụng.Thịnh Đường (713 – 766) “ Tài này, sắc ấy nghìn vàng
chưa cân” (Nguyễn Du).Trung Đường (766 – 835) bắt đầu phai sắc kém hương,
với vần thơ cảm thương.Vãn Đường (835 – 907) buổi chiều tà, với những vệt
sáng hoàng hôn cuối cùng.Sừng sững giữa đội ngũ 2.300 nhà thơ là những tên
tuổi ngời chói. Sơ Đường có tứ kiệt: Vương Bột, Lạc Tân Vương, Lô Chiếu
Lân, Dương Quýnh,... Thịnh Đường có thi tiên Lý Bạch, thi thánh Đỗ Phủ, thi
phật Vương Duy,... Trung Đường có Bạch Cư Dị, Liễu Tơng Ngun,... Vãn
Đường có Lý Thương Ẩn, Đỗ Mục,... Mỗi nhà thơ là một ngọn sóng tỏa dư ba
khác nhau, nhưng cùng tạo nên sinh khí cuồn cuộn, tráng lệ cho thơ ca thời này.
Chúng ta xin mượn lời cụ Ngô Tất Tố để cảm nhận khái quát về thơ Đường:“Sơ
Đường phần nhiều hay về khí cốt nhưng lối dùng chữ đặt câu chưa được trau
chuốt cho lắm. Vãn Đường giỏi về từ tảo, lời đẹp, ý sâu, nhưng lại thiếu phần
hùng hồn, có khi cịn bị cái tội ủy mị là khác. Duy chỉ có Thịnh Đường ở vào
giữa hai thời kỳ ấy, cho nên chẳng những khơng có cái dở của hai thời kỳ kia,
mà còn gồm cả cái hay của hai thời kỳ ấy nữa”.
+ Tư duy: tư duy quan hệ, nói cách khác nó theo đúng biện chứng nghệ thuật.
Điều này có nguồn gốc sâu xa là sự phát triển đến độ chín muồi của tư duy
Trung Quốc ở thời đại hoàng kim của xã hội phong kiến (nhà Đường). Ở đó có
sự hội nhập của ba dòng tư tưởng, ba kiểu tư duy tiêu biểu của phương Đông
là Nho, Phật, Lão. Sự hội nhập này là một q trình biện chứng. Nó dung hội
ưu điểm của ba dịng tư tưởng: tính thực tiễn và duy lý của Nho gia, tính chất
huyền diệu, vơ vi của Đạo gia, tính chất từ bi và siêu thế của Phật giáo; đồng
thời nó cũng chế ước lẫn nhau, khơng có một kiểu tư duy nào độc chiếm ưu thế
(mặc dù Nho được ủng hộ bởi triều đình), khiến cho tư duy Trung Quốc thời
này đã đạt được một sự qn bình. Nó hướng tới cái cao siêu nhưng khơng hề
viển vơng, nó hợp lý và thực tiễn nhưng khơng dung tục tầm thường; Nó tìm
được sự dung hoà trong những quan hệ thống nhất, tương giao để đạt đến sự
hồ diệu. Vì thế nó 'bất bình' khi sự hồ diệu bị phá vỡ và ứng xử bằng cách
vạch trần, tố cáo những quan hệ đối lập, bất công trong xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Giáo trình văn học Trung Quốc phần 2 – Phùng Hoài Ngọc :
/>2, Nguyễn Minh Mẫn , Hoàng Văn Việt , 2007 , Con đường tơ lụa - Quá khứ
và tương lai . Nxb . Giáo Dục .
3, Phương Lý Lợi , 2013 ,Văn học Trung Quốc . Nxb . Tổng hợp Thành phố
Hồ Chí Minh .
4, Thái Yến Hâm , 2015 , Thơ Trung Quốc ( người dịch : Trương Lệ Mai ,
Tăng Hồng Ngữ ) . Nxb . Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh
5,. Tưởng Phủ Thuận , 2001 , Văn học Trung Quốc . Nxb . Mỹ Thuật .