ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ
-------------------------
BÀI TẬP LỚN
CƠ SỞ VĂN HĨA VIỆT NAM
Tên đề tài: Phân tích tính đa dạng trong thống nhất
của văn hóa Việt Nam
Sinh viên thực hiện:
Lớp:
Võ Thị Linh Anh
20CNJ02
Đà Nẵng, tháng 12/2021
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1)Lí do chọn đề tài ...................................................................................... 1
2)Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu ................................................... 1
3)Đối tƣợng và phạm vi của nghiên cứu .................................................... 1
4)Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu .............................................. 2
NỘI DUNG ..................................................................................................... 3
1) TÌM HIỂU CHUNG VỀ NỀN VĂN HĨA VIỆT NAM: ......................... 3
1.1)Văn hóa và nền văn hóa Việt Nam: ..................................................... 3
1.2) Quá trình hình thành và phat triển của nên văn hóa Việt Nam ........... 3
2) TÍNH ĐA DẠNG TRONG THỐNG NHẤT CỦA NỀN VĂN HÓA
VIỆT NAM:................................................................................................... 5
2.1) Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất .................................... 5
2.1.1) Tính thống nhất ............................................................................ 5
2.1.2) Văn hóa ẩm thực .......................................................................... 5
2.1.3) Phong tục tập quán ................................................................... 7
2.2) Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa đa dạng ......................................... 10
2.2.1) tính đa dang .................................................................................. 10
2.2.2) Văn hóa ẩm thực vùng Trung Bộ ................................................. 10
2.2.3) Phong tục tập quán vùng Trung Bộ .......................................... 11
3)GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY TÍNH THỐNG
NHẤT MÀ ĐA DẠNG CỦA NỀN VĂN HĨA TRONG Q TRÌNH XÂY
DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN: ............................................................................ 12
KẾT LUẬN .................................................................................................... 13
0
MỞ ĐẦU
1)Lí do chọn đề tài:
Việt Nam- vùng đất của những điều kỳ diệu, một đất nƣớc xinh đẹp và quyến rũ dù
phải trải qua bao cuộc chiến tranh trong ngàn năm qua, Việt Nam vẫn không ngừng
phát triển và giờ đây trở thành một đất nƣớc có bề dày lịch sử với nhiều nền văn hóa
đa dạng. Mỗi nền văn hóa lại mang những nét văn hóa khác nhau giàu bản sắc riêng và
ấn tƣợng. Bản sắc văn hóa Việt Nam thể hiện rõ nét trong đời sống sinh hoạt và hoạt
động kinh tế. Vì đƣợc hình thành và phát triển song song với quá trình dựng nƣớc và
giữ nƣớc theo cả chiều dài đồng đại và lịch đại, văn hóa Việt Nam là những giá trị về
vật chất nhƣ những bƣã cơm, những gói bánh kẹo.... có thể là những giá trị văn hóa về
tinh thần nhƣ các phong tục tập quán, cƣới xin, ma chay, thờ cúng, Lễ hội.... đối với
dân tộc Việt Nam mà nói, tuy đa dạng phong phú về số lƣợng nhƣng tất cả lại thống
nhất về về tấm lòng, về những tinh thần đẹp đẽ và bất khuất của những thế hệ đi trƣớc
truyền lại cho con cho cháu
Chính bởi vậy mà tơi quyết định chọn đề tài “tính thống nhất tính đa dạng trong
thống nhất của văn hóa Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu
2)Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu:
Bài tiểu luận này khơng chỉ la bài giới thiệu, làm rõ thế giới biết về sự đa dạng
trong cái thống nhất làm một của văn hóa Việt Nam mà còn là một lời cảnh tỉnh cho
những ngƣời sính ngoại mà quên đi cái “gốc rễ” của mình.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt đƣợc những mục đích nêu trên, bài tiểu luận cần thực hiện một số nhiệm vụ
cụ thể sau:
- Hiểu đƣợc khái niệm văn hóa, văn hóa Việt Nam và q trình hình thành và phát
triển của văn hóa Việt Nam
- Phân tích tính đa dạng trong thống nhất của văn hóa Việt Nam
- Đề ra một số giải pháp nhằm tiếp tục giữ gìn và phát huy tính thống nhất mà đa
dạng trong thời gian tới.
3)Đối tượng và phạm vi của nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu:
Bài tiểu luận đi sâu nghiên cứu sự thống nhất mà đa dạng của văn hóa trong ẩm
thực, phong tục tập quán, lễ hội ở vùng văn hóa Trung Bộ.
Phạm vi nghiên cứu:
Tiểu luận đi sâu nghiên cứu nền văn hóa Việt Nam và vùng ván hóa Trung Bộ, từ
đó làm rõ vấn đề nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng
trong ẩm thực, phong tục tập quán và qua các lễ hội ở vùng văn hóa Việt Nam và
vùng ván hóa Trung Bộ
4)Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu:
Cơ sở lý luận:
1
Bài tiểu luận đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở nền văn hóa Việt Nam, các quan
điểm, chủ trƣơng của Đảng về nền văn hóa.
Phương pháp nghiên cứu:
Trong q trình thực hiện đề tài, tôi sử dụng hai phƣơng pháp nghiên cứu chủ
yếu là phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp lơgic. Bên cạnh đó, tơi cịn sử dụng các
phƣơng pháp khác nhƣ phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng
pháp so sánh
2
NỘI DUNG
1) TÌM HIỂU CHUNG VỀ NỀN VĂN HĨA VIỆT NAM:
1.1)Văn hóa và nền văn hóa Việt Nam:
Văn hóa:
Trên thế giới có rất nhiều định nghĩa về văn hóa, ở phƣơng Đơng, chữ “văn” và chữ
“hóa” là hai từ đơn tách biệt, “Văn” mang nghĩa là “vẻ đẹp” cịn “hóa” mang nghĩa là
“biến đổi”. Vậy ghép chúng lại chúng ta có thể hiểu văn hóa là “làm cho đẹp, trở thành
đẹp đẽ”, cịn ở phƣơng Tây, từ văn hóa xuất hiện từ khoảng thế kỉ III TCN và có nhiều
cách lí giải khác nhau: nếu hiểu theo E.B. Tylor thì văn hóa và văn minh là mơt và
mang tính “bách khoa toang thƣ”, nếu hiểu theo UNESCO, thì văn hóa đƣợc hiểu theo
hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng: „ văn hóa là một phức hệ-tổng
hợp các đặc tính diện mạo về tinh thần, vật chất, trí thức và tình cảm… khắc họa nên
bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, Quốc gia, xã hội…văn hóa
khơng chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống những quyền cơ bản
của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống tín ngưỡng… cịn hiểu theo
nghĩa hẹp văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu tượng (ký hiệu) chi phối cách ứng
xử và giao tiếp trong cộng đồng khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng …”....
Và cịn rất nhiều cách hiểu khác nhau khi đƣợc nhắc đến câu hỏi Văn hố là
gì? Nhƣng với tơi, gói gọn lại tất cả các cách hiểu từ mọi góc độ thì văn hóa là tất cả
những giá trị vật thể do con ngƣời sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên. Văn hóa
có liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con, bao gồm tất cả những
sản phẩm của con ngƣời
Nền văn hóa Việt Nam:
Phạm Văn Đồng từng nói: “Nói văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú
và rộng lớn bao gồm tất cả những gì khơng phải là thiên nhiên mà có liên quan đến
con người trong suốt q trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch
sử…(văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức và phẩm
chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo
vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc sức đề kháng và chiến đấu bảo vệ mình
và khơng ngừng lớn mạnh”
Hay Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Vì lẽ Sinh Tồn cũng như mục đích của cuộc
sống lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, Pháp Luật
,khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về
mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức
là văn hóa”
Nhìn chung, văn hóa là sản phẩm của con ngƣời đƣợc tạo ra trong quá trình lao
động đƣợc chi phối bởi mơi trƣờng xung quanh và tính cách của từng tộc ngƣời, nhờ
có văn hóa mà con ngƣời trở nên khác biệt so với các loài động vật khác và do đƣợc
chi phối bởi mơi trƣờng xung quanh và tính cách đọc ngƣời nền văn hóa ở mỗi tộc
ngƣời có sẽ có những đặc trƣng riêng .
1.2) Q trình hình thành và phat triển của nên văn hóa Việt Nam:
3
Tiến trình văn hóa Việt Nam có thể chia thành ba lớp: lớp văn hóa bản địa, lớp văn
hóa giao lƣu với Trung Hoa và khu vực, lớp văn hóa giao lƣu với phƣơng Tây.
Lớp văn hóa bản địa:
Đến đất Phong Châu (vùng Việt Trì ngày nay), cùng tơn ngƣời con trƣởng làm vua
nƣớc Văn Lang, xƣng là Vua Hùng.
Về mặt khơng gian, bờ cõi nƣớc Xích Quỷ theo truyền thuyết trải dài từ Bắc Trung
Bộ đến hồ Động Đình chính là địa bàn cƣ trú của ngƣời Nam-Á – Bách Việt, là khu
vực tam giác không gian gốc của văn hóa Việt Nam. Chesnov nhận xét: “Về hàng loạt
phương diện của văn hóa – từ sản xuất nơng nghiệp cho đến lĩnh vực thần thoại –
Đông Nam Á đã có những ảnh hưởng lớn, vượt rất xa ra ngồi ranh giới những láng
giềng trực tiếp của nó… Việc tạo nên những thứ như cây lúa trồng, nghề luyện kim
đồng, hoặc những thành tựu văn hóa khác… là kết quả sáng tạo của rất nhiều dân tộc
lớn nhỏ đã tạo nên trong suốt chiều dài lịch sử nhiều nghìn năm của mình cái thế giới
độc đáo được gọi là Đơng Nam Á”.
Lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa:
Sự ra đời của quốc hiệu “Nam Việt” từ trƣớc Cơng ngun, trong đó yếu tố chỉ
phƣơng hƣớng “nam” lần đầu tiên xuất hiện (và sẽ tồn tại trong hầu hết các quốc hiệu
về sau) đánh dấu một bƣớc ngoặt trong nhận thức của dân tộc về hiểm họa xâm lăng
thƣờng trực từ phía phong kiến phƣơng Bắc mà từ đời Tần-Hán trở đi đã trở thành một
đế quốc hùng mạnh bậc nhất khu vực.
Tinh thần đối kháng thƣờng trực và bất khuất ấy đã bộc lộ mạnh mẽ qua các cuộc
khởi nghĩa của Hai Bà Trƣng (40-43), Triệu Thị Trinh (246), Lí Bơn với nƣớc Vạn
Xn (544-548), Triệu Quang Phục (548-571), Mai Thúc Loan (722), Phùng Hƣng
(791), cha con họ Khúc (906- 923), Dƣơng Diên Nghệ (931- 937) và đạt đến đỉnh cao
ở cuộc khởi nghĩa thắng lợi của Ngô Quyền (938).
Đặc điểm thứ hai của giai đoạn văn hóa chống Bắc thuộc là sự suy tàn của nền văn
minh Văn Lang – Âu Lạc, sự suy tàn này bắt nguồn từ:
(1) sự suy thối tự nhiên có tính quy luật của một nền văn hóa sau khi đạt đến đỉnh
cao.
(2) sự tàn phá cố tình của kẻ xâm lƣợc phƣơng Bắc với âm mƣu đồng hóa thâm độc.
Sử gia Tƣ Mã Thiên chép rằng từ đời Tần, Trung Hoa “đã chiếm cả thiên hạ, cƣớp lấy
đất Dƣơng Việt… đƣa những ngƣời bị đày đến ở lẫn với ngƣời Việt”.
Lớp văn hóa giao lưu với phương Tây:
Cho đến nay, lớp này gồm hai giai đoạn: văn hóa Đại Nam và văn hóa hiện đại Tại
đây cũng có hai xu hƣớng trái ngƣợc: Một bên là xu hƣớng âu hóa, bên kia là xu
hƣớng chống âu hóa và Việt Nam hóa các ảnh hƣởng phƣơng Tây. Giai đoạn văn hóa
hiện đại đƣợc chuẩn bị từ trong lịng văn hóa Đại Nam: Sự giao lƣu với phƣơng Tây
mở đầu bằng giai đoạn Đại Nam đã thổi vào Việt Nam luồng gió mới với những tƣ
tƣởng của K. Tuy nhiên, vì văn hóa là tiếp nối, thời gian văn hóa là khái niệm mờ, một
giai đoạn văn hóa ngắn nhất (nhƣ Đại Nam) cũng phải tính bằng vài thế kỉ cho nên
may chục năm tồn tại của giai đoạn văn hóa hiện đại chƣa cho phép tổng kết đầy đủ
những đặc điểm của nó: Đây là giai đoạn văn hóa đang định hình.
4
2) TÍNH ĐA DẠNG TRONG THỐNG NHẤT CỦA NỀN VĂN HĨA VIỆT
NAM:
2.1) Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất:
2.1.1) Tính thống nhất:
Tính thống nhất của nền văn hóa Việt Nam là sự hịa quyện bình đẳng nhiều nét
văn hóa thành một thể thống nhất hài hịa vừa có tổng thể vừa có khơng gian phát triển
độc lập cho từng nét văn hóa riêng trên mảnh đất hình chữ S-Việt Nam.
2.1.2) Văn hóa ẩm thực:
Nền văn hóa ẩm thực Việt Nam (nền ẩm thực Việt) là cách chế biến nguyên, vật
liệu, phƣơng pháp nấu ăn, cách sử dụng kết hợp các loại gia vị phù hợp sao cho phù
hợp với khẩu vị và thói quen ăn uống của ngƣời Việt Nam.
Theo ý kiến của Tiến sĩ sử học Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, ẩm thực Việt Nam có
9 đặc trƣng:
Tính hồ đồng hay đa dạng:
Việt Nam là nƣớc nơng nghiệp thuộc về xứ nóng, vùng nhiệt đới gió mùa. Tuy vậy,
nhƣng nƣớc ta lại đƣợc chia thành 3 miền rõ rệt: miền Bắc, Miền Trung và miền Nam,
cùng với những điều kiện, đặc điểm về vị trí địa lí, khí hậu, văn hóa, dân tộc, mỗi miền
lại có một nét đặc trƣng riêng, khẩu vị riêng. Nền ẩm thực Việt là một nền văn hóa ăn
uống đặc biệt với những con số kỉ lục thế giới đáng kinh ngạc đƣợc Liên minh Kỷ lục
thế giới(WorldKings) thông báo xác lập danh hiệu:
+) Kỷ lục đầu tiên lạc quốc gia sở hữu nhiều món ăn từ nƣớc dùng và sợi nhất với
164 món và tiếp tục đƣợc cập nhật. Ngồi cơm trắng, lƣơng thực phổ biến nhất hàng
ngày của ngƣời Việt là mì, từ Bắc chí Nam, mỗi vùng miền lại có vơ số đặc điểm địa
phƣơng khác nhau. Một số món ăn tiêu biểu nhƣ bún bị, bún ốc, bánh gối, bánh canh
chả cá, bún bò Huế, hủ tiếu Nam Vang, bún cua thối Pleiku ...
+) Việt Nam còn là một quốc gia sở hữu nhiều món mắm và món ăn từ mắm nhất
thế giới với 100 món. Nói đến các món mắm nổi tiếng là khơng thể khơng kể đến nƣớc
mắm, mắm tôm, mắm tôm chua, mắm Ba Khía, mắm cá,... trong đó biến tấu phổ biến
nhất là bún đậu mắm tôm.
+) Kỷ lục thứ 3 là quốc gia có nhiều món ăn từ hoa nhất thế giới với 272 món. Một
số món tiêu biểu từ hoa nhƣ cơm lá sen, hoa thiên lý xào thịt bò, nộm hoa chuối, bơng
bí xào tỏi, lẩu bơng điên điển... Các loại hoa này đều có vị tƣơi giịn, ngọt hoặc chua,
nấu canh hay xào đều rất ngon.
+) Có lẽ khơng ngạc nhiên khi Việt Nam tiếp tục nắm giữ kỷ lục nhiều món cuốn
nhất thế giới. Con số đƣợc thống kê là 103 món và tiếp tục đƣợc cập nhật. Thậm chí,
Việt Nam cịn đƣợc mệnh danh là thiên đƣờng của các món cuốn từ cuốn tƣơi, cuốn
chiên (nem), cuốn bánh tráng, cuốn bánh phở...
+) Kỷ lục cuối cùng là quốc gia có nhiều món bánh làm từ bột gạo nhất. 143 món
đƣợc ghi nhận với đủ hƣơng vị mặn ngọt, phong cách chế biến khác nhau, độc đáo,
mang đậm dấu ấn địa phƣơng.
Tính đậm đà hƣơng vị:
5
Ẩm thực Việt Nam ngồi những con số biết nói, thì cịn phải kể đến hƣơng vị đạm
đà và sự bổ dƣỡng trong từng món ăn từ bình dị q hƣơng đến những nhà hàng sang
trọng. Bởi vậy Việt Nam có những món thiên về phối trộn gia vị một cách tinh tế để
món ăn đƣợc ngon, hoặc sử dụng những ngun liệu dai, giịn thƣởng thức rất thú vị
(ví dụ nhƣ các món măng, chân cánh gà, phủ tạng động vật...). Thậm chí Gorndon
Ramsay- một bếp trƣởng 5 sao Michelin sau khi nếm thử món ăn Việt và thốt lên
rằng:“ Tạ ơn Chúa là tôi không sinh ra ở Việt Nam, nếu ở đây tôi chỉ là 1 đầu bếp
tồi”.
Tính ít mỡ:
Rất nhiều ngƣời đã nghĩ Việt Nam là Quốc gia chỉ ăn thịt nhƣng khơng, các món
ăn Việt Nam chủ yếu làm từ rau, quả, củ nên ít mỡ (khá ít món ăn nấu ngập dầu).
Nhiều quốc gia cũng sử dụng các loại hoa ăn đƣợc trong ẩm thực nhƣng Việt Nam
nắm giữ kỷ lục cao nhất với đủ biến tấu từ nộm gỏi, xào, lẩu, nấu canh...
Một số món tiêu biểu từ hoa nhƣ cơm lá sen, hoa thiên lý xào thịt bị, nộm hoa
chuối, bơng bí xào tỏi, lẩu bơng điên điển... Các loại hoa này đều có vị tƣơi giịn, ngọt
hoặc chua, nấu canh hay xào đều rất ngon. Hay những món cuốn dễ ăn, nhiều rau,
hƣơng vị tƣơi mát, thƣờng chấm với nƣớc mắm tỏi ớt, chua ngọt. Ngoài nem và gỏi
cuốn, phở cuốn Hà Nội và bánh ƣớt thịt nƣớng miền Nam cũng là những món đƣợc
thực khách nƣớc ngồi u thích.
Tính tổng hồ nhiều chất, nhiều vị:
Các món ăn Việt Nam thƣờng bao gồm nhiều lọai thực phẩm nhƣ thịt, tơm, cua
cùng với các loại rau, đậu, gạo. Ngồi ra cịn có sự tổng hợp của nhiều vị nhƣ chua,
cay, mặn, ngọt, bùi béo…
Tính ngon và lành:
Ẩm thực Việt Nam là sự kết hợp giữa các món, các vị lại để tạo nên nét đặc
trƣng riêng. Những thực phẩm mát nhƣ thịt vịt, ốc thƣờng đƣợc chế biến kèm với
các gia vị ấm nóng nhƣ gừng, rau răm… Đó là cách cân bằng âm dƣơng rất thú vị,
chỉ có ngƣời Việt Nam mới có…
Dùng đũa:
Giống một vài nƣớc châu Á khác thì việc sử dụng đũa là một nét đặc trƣng rất
thú vị của ẩm thực Việt, bạn có thể sử dụng đũa trong hầu hết các món ăn, từ kho,
xào, chiên, hay thậm chí là cả canh. Đơi đũa Việt có mặt trong mọi bữa cơm gia
đình, ngay cả khi quay nƣớng, ngƣời Việt cũng ít dùng nĩa để xiên thức ăn nhƣ
ngƣời phƣơng Tây. Kèm với đó thì gắp là một nghệ thuật, gắp sao cho khéo, cho
chặt đừng để rơi thức ăn…
Tính cộng đồng hay tính tập thể:
Tính cộng đồng thể hiện rất rõ trong ẩm thực Việt Nam, bao giờ trong bữa cơm
cũng có bát nƣớc mắm chấm chung, hoặc múc riêng ra từng bát nhỏ từ bát chung ấy.
Tính hiếu khách:
Trƣớc mỗi bữa ăn ngƣời Việt thƣờng có thói quen mời. Lời mời thể hiện sự giao
thiệp, tình cảm, hiếu khách, mối quan tâm trân trọng ngƣời khác…
6
Tính dọn thành mâm:
Ngƣời Việt có thói quen dọn sẵn thành mâm, dọn nhiều món ăn trong một bữa
lên cùng một lúc chứ khơng nhƣ phƣơng Tây ăn món nào mới mang món đó ra.
2.1.3) Phong tục tập quán:
Phong tục tập quán bao gồm chủ yếu 3 nhóm trong cuộc sống: phong tục hôn
nhân, tang ma, lễ Tết và lễ hội.
Phong tục hôn nhân
Trƣớc đây, theo truyền thống dân Việt, cha mẹ thƣờng lo cho con đầy đủ mọi thứ kể
cả việc kén vợ kén chồng cho con. Chính vì thế, việc hỏi vợ và gả chồng là bổn phận
của cha mẹ nhƣ đã trình bày trong các câu tục-ngữ sau đây: “Trai lớn dựng vợ, gái lớn
gả chồng, cha mẹ đặt đâu ngồi đấy.”, “môn đăng (đang, đương) hộ đối”. Sau đây là
các phong tục mà những gia đình ngƣời Việt đã từng áp dụng để kén vợ kén chồng cho
con: lấy vợ xem tông, lấy chồng kén giống, kén con ơng cháu cha, và kén gia đình có
luân lý đạo đức. Kén vợ cho con, các bậc cha mẹ chú trọng đến đức hạnh hơn là nhan
sắc vì “cái nết đánh chết cái đẹp.” Thêm vào đó, các bậc cha mẹ cịn phải xem trai gái
có hợp tuổi với nhau khơng, khơng hợp thì thơi.
Tuy nhiên, ngày nay, Để đảm bảo hôn nhân tự do, tiến bộ và bênh vực quyền lợi
ngƣời phụ nữ Nhà nƣớc đã cụ thể hóa hơn nhân bằng luật: Luật hơn nhân và gia
đình… Cụ thể nhƣ: “Việc thực hiện đầy đủ chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ
một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con cái, xố bỏ những
tàn tích cịn lại của chế độ hơn nhân phong kiến cưỡng ép, trọng nam khinh nữ, coi rẻ
quyền lợi của con cái, Cấm tảo hôn, 10 cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do, yêu
sách của cải trong việc cưới hỏi, đánh đập hoặc ngược đãi vợ. Cấm lấy vợ lẽ”..
Ngày nay, việc cƣới gả không tổ chức rƣờm rà, nhiêu khê, phiền phức, tốn kém và
kéo dài nhƣ xƣa nữa, tùy theo mỗi gia đình, mỗi tơn giáo mà có những nghi lễ đặc thù
khác nhau, tuy nhiên nhìn chung vẫn giữ ít nhiều tục lệ cổ truyền hay đẹp của ngƣời
xƣa. Từ 6 lễ ngƣời ta rút xuống còn 3 lễ gồm: lễ viếng (bao gồm: lễ dạm, lễ sơ vấn, lễ
vấn danh), lễ hỏi (bao gồm: lễ hỏi, lễ nạp tài), lễ cƣới (rƣớc dâu, đƣa dâu). Một số hủ
tục cũng đã đƣợc loại bỏ bớt khiến hôn nhân mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp hơn:
+ Khơng cịn tục ở rể, khơng cịn thách cƣới, nhƣng nhà trai vẫn giữ tục lệ xƣa, tự
động mang tiền đến nạp tài trong lễ hỏi.
+ Khơng cịn quan niệm “Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy” nữa, cũng không cịn tục
“tảo hơn”, tệ “phúc hơn” và nam nữ lấy nhau thì phải “mơn đăng hộ đối”...
+ Tiệc cƣới khơng cịn tổ chức ăn uống linh đình, tốn kém mấy ngày liền nhƣ trƣớc
nữa, nhà trai và nhà gái có thể sẽ gộp chung tiệc cƣới của cả hai nhà thành một lễ ăn
mừng với bạn bè và ngƣời thân của hai bên gia đình.
+ Đám cƣới khơng những khơng cịn phơ trƣơng, tốn kém mà ngày nay đám cƣới
cịn có nhiều hình thức lạ nhƣ: Để tiết kiệm chi phí ngƣời ta tổ chức đám cƣới tập thể.
Trong một đám cƣới có nhiều cơ dâu và chú rể làm lễ “bái đƣờng thành thân” cùng
một lúc. Những đám cƣới này thƣờng xuất hiện trong quân đội hoặc ở đoàn thanh
niên...Hơn nhân hồn tồn tự do, tự nguyện, bình đẳng, tiến bộ giữa nam và nữ.
Phong tục tang ma
7
Ngƣời Việt Nam chuẩn bị khá chu đáo, kĩ càng cho cái chết của chính mình hoặc
của ngƣời thân. Các cụ già tự mình lo sắm cỗ hậu (chỉ việc về sau, còn gọi là cỗ thọ,
quan tài, áo quan). Quan tài của ta làm hình vng tƣợng trƣng cho cõi âm theo triết lí
âm dƣơng.
Khi trong nhà có ngƣời nhà hấp hối, việc quan trọng là đặt lên hèm (tên thụy) cho
ngƣời sắp chết. Đó là một tên mới (do ngƣời sắp chết tự đặt hoặc con cháu đặt cho) mà
chỉ có ngƣời chết, con cháu và thần Thổ cơng nhà đó biết mà thơi. Khi cúng giỗ, con
trƣởng sẽ khấn bằng tên hèm. Thổ thần có trách nhiệm chỉ cho phép linh hồn có "mật
đanh" đúng nhƣ thế vào thơi (vì vậy, tên này cịn gọi là tên cúng cơm). Làm nhƣ vậy là
đề phịng ngừa những cơ hồn lang thang vào ăn tranh cỗ cúng sau này.
Trƣớc khi khâm liệm, phải làm lễ mộc đục (tắm gội cho ngƣời chết) và lễ phạn hàm:
bỏ một nhúm gạo nếp và ba đồng tiền vào miệng (gạo để dùng thay bữa, tiền để đi đò quan niệm của ngƣời vùng sơng nƣớc). Khi khâm liệm, phải có miếng vải đắp mặt
ngƣời chết để khỏi trông thấy cháu con sinh buồn.
Trƣớc khi đƣa quan tài đến nơi chôn cất, ngƣời ta cúng thần coi sóc các ngả đƣờng
để xin phép đƣa tang. Trên đƣờng đi có tục rắc các thỏi vàng giấy làm lộ phí cho ma
quỷ để chúng khỏi quấy nhiễu. Đến nơi, làm lễ tế Thồ thần nơi đó để xin phép cho
ngƣời chết đƣợc nhập cƣ".
Chơn cất xong, trên nấm mộ đặt bát cơm, quả trứng, đôi đũa (cắm trên bát cơm),
nhiều nơi còn đặt thêm mớ bùi nhùi. Tục này mang ý nghĩa chúc tụng : mớ bùi nhùi
tƣợng trƣng cho thế giới hỗn mang, trong hỗn mang hình thành nên thái cực (tƣợng
trƣng bằng bát cơm), thái cực sinh ra lƣỡng nghi (tƣợng trƣng bằng đơi đũa), có lƣỡng
nghi (âm dƣơng) là có sự sống (tƣợng trƣng bằng quả trứng).
Tang lễ truyền thống Việt Nam dùng màu trắng là màu của phƣơng Tây theo Ngũ
hành. Mọi thứ liên quan đến phƣơng Tây đều đƣợc xem là xấu. Nơi để mồ mả của
ngƣời Việt và ngƣời dân tộc thƣờng là hƣớng Tây của làng; ngƣời dân tộc xem rừng
phía Tây là rừng của ma quỷ. Sau màu trắng là màu đen (của phƣơng Bắc theo Ngũ
hành). Nếu chắt, chút để tang cụ, kị (là tốt, vì các cụ sống lâu) thì dùng các màu tốt
nhƣ màu đỏ (phƣơng Nam) và vàng (Trung ƣơng).
Theo triết lí âm dƣơng, âm ứng với số chẵn, dƣơng ứng với số lẻ; vì vậy mọi thứ
liên quan đến ngƣời chết đều phải là số chẵn.
Phong tục lễ Tết và lễ hội
Theo thống kê của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, hiện cả nƣớc có 7.966 lễ hội.
Tính ra, trung bình mỗi ngày diễn ra khoảng 22 lễ hội. Tức là bình qn mỗi giờ, ở
Việt Nam lại có một lễ hội đƣợc tổ chức.
Lễ hội ở Việt Nam bao gồm 2 phần là phần lễ và phần hội, trong đó lễ đƣợc hiểu là
việc bày tỏ sự tơn nghiêm và ƣớc mơ của mỗi ngƣời về một cuộc sống no đủ, giàu có,
một sức khỏe dồi dào, tràn đầy may mắn, thành công trong cuộc sống của bản thân và
những ngƣời thân trong gia đình. Phần hội là những đặc điểm độc đáo về văn hóa, về
cộng đồng và tôn giáo,… của từng vùng miền. Ở Việt Nam ta có 2 lễ hội lớn nhất mà
bất cứ ngƣời Việt nào cũng phải nhớ là Tết Nguyên đán và giỗ Tổ vua Hùng, đây là
dịp mà chúng ta, những ngƣời con đất Việt cùng quây quần và ngồi lại với nhau. Lễ
8
hội ở nƣớc ta thƣờng đƣợc tổ chức vào mùa xuân, khi đất trời giao hòa, thiên nhiên
tƣơi tốt, lòng ngƣời hân hoan. Việt Nam là một đất nƣớc có rất nhiều lễ hội cổ truyền đa dạng,
độc đáo ở khắp các vùng miền của đất nƣớc.
Tại mỗi vùng miền, sẽ có những lễ hội mang lại những nét tiêu biểu và giá trị khác
nhau, nhƣng mục đích chung đều hƣớng tới các đối tƣợng tâm linh cần suy tôn
Các lễ hội truyền thông là dịp để con ngƣời giao lƣu, truyền tải những đạo đức, luân lý
về khát vọng cao đẹp, qua đó nhắc lại nhiều câu chuyện về các đối tƣợng đƣợc tôn
vinh nhƣ những vị anh hùng chơng giặc ngoại xâm, những ngƣời có cơng chống thiên
tai, diệt thú dữ, cứu nhân độ thế… hay những ngƣời có cơng truyền thụ nghề.
Lễ hội truyền thống giúp gột rửa những điều lo toan tƣờng nhật, giúp con ngƣời tìm
đƣợc sự than thản nơi chốn tâm linh. Và đó cũng chính là lý do để các lễ hội truyền
thống ở Việt Nam thƣờng thu hút rất đông ngƣời dân địa phƣơng và du khách gần xa
tham gia.
Tính thiêng
Muốn hình thành một lễ hội, bao giờ cũng phải tìm ra đƣợc một lý do mang tính
"thiêng" nào đó. Cũng có khi lễ hội chỉ hình thành nhằm ngày sinh, ngày mất của một
ngƣời có cơng với làng với nƣớc, ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác (có ngƣời chữa
bệnh, có ngƣời dạy nghề, có ngƣời đào mƣơng, có ngƣời trị thủy, có ngƣời đánh giặc...
mà cịn có thể giúp họ vƣợt qua những khó khăn đa dạng hơn, phức tạp hơn của đời
sống. Chính tính "Thiêng" ấy đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho nhân dân trong những
thời điểm khó khăn, cũng nhƣ tạo cho họ những hy vọng vào điều tốt đẹp sẽ đến.
Tính "cộng đồng"
Lễ hội chỉ đƣợc sinh ra, tồn tại và phát triển khi nó trở thành nhu cầu tự nguyện của
một cộng đồng. Tính địa phƣơng của lễ hội chính là điều chứng tỏ lễ hội gắn bó rất
chặt chẽ với đời sống của nhân dân, nó đáp ứng những nhu cầu tinh thần và văn hóa
của nhân dân, khơng chỉ ở nội dung lễ hội mà còn ở phong cách của lễ hội nữa. Phong
cách đó thể hiện ở lời văn tế, ở trang phục, kiểu lọng, kiểu kiệu, kiểu cờ, ở lễ vật dâng
cúng...
Tính cung đình
Đa phần các nhân vật đƣợc suy tôn thành Thần linh trong các lễ hội của ngƣời Việt,
là các ngƣời đã giữ các chức vị trong triều đình ngày xƣa. Mặt khác lễ nghi cung đình
cũng làm cho ngƣời tham gia cảm thấy đƣợc nâng lên một vị trí khác với ngày thƣờng,
đáp ứng tâm lý, những khao khát nguyện vọng của ngƣời dân.
Tính đương đại
Tuy mang nặng sắc thái cổ truyền, lễ hội, trong quá trình vận động của lịch sử,
cũng dần dần tiếp thu những yếu tố đƣơng đại. đã tham gia vào lễ hội, giúp cho việc tổ
chức lễ hội đƣợc thuận lợi hơn, đáp ứng nhu cầu mới. Tuy vậy, những sự tiếp thu này
đều phải dần dần qua sự sàng lọc tự nguyện của nhân dân, đƣợc cộng đồng chấp nhận,
không thể là một sự lắp ghép tùy tiện, vô lý...
Nghệ thuật diễn xướng
Có thể nói rằng, tồn bộ lễ hội là một sân khấu đặc biệt. Nhân vật thứ ba tuy khơng
xuất hiện trên sân khấu, nhƣng lại có vai trị rất quan trọng trong Lễ hội, chính nhân
9
vật này tạo ra cảm hứng xuyên suốt cuộc Lễ hội, là động lực của Lễ hội. Trong điện
thờ, các vị Thánh đƣợc thờ ở một vị trí riêng, vừa phù hợp với thứ bậc của họ trong hệ
thống Thần linh của Đạo Mẫu, vừa phù hợp với tính cách của các vị theo quan niệm
truyền thống.
Nghệ thuật âm nhạc, ca hát và múa
Trong lễ hội có diễn ca, trống chiêng và múa. Ngay ở phần lễ, các loại nghệ thuật
biểu diễn này đã có mặt nhƣ một yếu tố không thể thiếu đƣợc, và ở một số lễ hội, các
loại hình nghệ thuật này đã chiếm vai trị chủ đạo.
2.2) Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa đa dạng:
2.2.1) tính đa dang:
Tính đa dạng của nền văn hóa Việt Nam là sự khác biệt giữa các nét văn hóa vống
có từ lâu đời ở những vùng miền khác nhau, của các dân tộc khác nhau cùng với sự
tiếp thu những nét văn hóa mới để dung hợp có chọn lọc tạo ra nhiều hơn nữa những
nét văn hóa phong phú, đa dạng hơn
2.2.2) Văn hóa ẩm thực vùng Trung Bộ:
Trung Bộ là vùng đất dài và hẹp nhất nƣớc ta, gồm các tỉnh trải dài từ Thanh Hóa
đến Bình Thuận. Miền trung do tính chất khí hậu đặc thù nên rất hảo cay, chua, rất ƣa
mắt vơi những màu sắc đƣợc pha trộn độc đáo, màu sắc rực rỡ và hơi hƣớng về màu
đỏ hoặc nâu sẫm. Và tất nhiên cũng thể thiếu những đặc sản vô cùng nổi tiếng nhƣ:
Nem chua Thanh Hóa là đặc sản của Thanh hóa vơ cùng nổi tiếng bởi vị chua
thanh, gion, ngọt, cay dậm đà và sẽ là một gợi ý hấp dẫn khi muốn mua làm quà khi du
lịch Thanh Hóa. Ngồi ra, nhắc cho xứ thanh Hóa, tơi nghĩ tức thì đến những món đặc
sản nổi tiếng ấn tƣợng bánh sợi, chè lam,… Ngồi ra khơng thể khơng có những món
ăn uống đậm màu vùng biển nhƣ: Cá rơ Đầm Sét, Mắm cáy, mắm txay, chẻo chệch,…
cùng một số món ăn uống bình dân khác ví nhƣ cháo canh, bánh đúc sốt, bánh cuốn,
chả tôm,…
Cháo lươn Nghệ An là món đặc sản “có tiếng” của vùng quê Bác. Đây là món khối
khẩu của ngƣời bản địa cũng nhƣ những du khách mỗi lần đến Nghệ An. Bát cháo
nóng hổi, thêm chút hành lá phía trên cũng vơi thịt lƣơn vàng ƣơm mang vị ngọt thơm
hơi cay nồng khiến ai cũng phải gật gù. Nghệ An cịn có những đặc sản độc nhất vơ
nhị nhƣ những món lƣơn khác: gỏi lƣơn, lƣơn xào, cháo lƣơn, lƣơn nƣớng, lƣơn om,..
hay nhút Thanh Chƣơng, tƣơng Nam Đàn....cac loại bánh: bánh mƣớt, bánh ngào.....
Kẹo cu đơ chính là một trong những đặc sản nổi tiếng của ngƣời dân Hà
Tĩnh. Kẹo Cu Đơ đƣợc làm chủ yếu từ đậu phộng (lạc) và mật mía. Có thể trộn thêm
một số phụ gia nhƣ gừng, mạch nha để kẹo ăn đƣợc giòn hơn, thơm hơn. Vị ngọt
của mật mía nguyên chất, vị cay cay của gừng, vị thơm của lạc kết hợp với hƣơng
thơm giòn của bánh tráng vừng tạo nên món đặc sản này. Chẳng thế mà ai đi du lịch
vùng đất này cũng mang về vài bịch cu đơ để làm quà.
Bún bò Huế, đứng đầu danh sách đặc sản Huế chắc chăn phải là bún bị Huế, một
món ăn đƣợc nhiều báo chí trong và ngoài nƣớc ca ngợi hết lời. Tại Huế các bạn sẽ
thấy bún bị chính gốc khác hẳn so vơi phiên bản khác ở các miền khác, đặc biệt ở chỗ
sợi bún gạo nhỏ và nƣớc dùng đậm vị ruốc. Đến Huế ăn bun bò vẫn chƣa thể chuẩn là
10
đi du lịch Huế rồi, cịn có cơm hến và các món từ hến, bánh bột lọc,...khi vivu vùng
đất nên thơ của sông hƣơng núi Ngự, bạn đừng quên mang về những đặc sản Huế làm
quà thơm thảo nhé, từ mắm hạt sen, tinh dầu tràm, đến bánh kẹo dƣờng nhƣ mọi món
ngon Huế đều có thể trở thành quà trao tay đầy tâm ý.
Mì Quảng một món ăn khơng quá xa lạ với nhiều ngƣời, nhƣng nếu muốn ăn một
tơ Mì Quảng ngon đúng vị, bạn sẽ khơng thể tìm thấy tại bất cứ đâu trừ Quảng Nam
- Đà Nẵng. Đây là món ăn đƣợc ví nhƣ cái “hồn” của ẩm thực Quảng Nam và ngƣời
ta có thể dễ dàng thƣởng thức đƣợc tơ mì thơm ngon với tơm, thịt heo tƣơi thái lát
hay thịt gà xé miếng nhỏ, vị beo béo của dầu, hƣơng thơm của đậu phộng, nƣớc lèo
sánh, ngọt đủ thấm và không thể thiếu bánh đa vừng giòn ngậy ăn kèm với các loại
rau sống nhƣ xà lách, diếp cá, húng, rau mùi, bắp chuối,… Những ngun liệu đó
nhƣ hịa quyện với nhau, hài hịa làm tăng thêm hƣơng vị, tôn lên nét đặc trƣng của
một tơ mì Quảng trứ danh
Trà cung đình Huế mang đậm, gợi nhớ một nét gì đó rất xa xƣa, chắc là do ngày
xƣa vua chúa hay dùng trà cung đình vào nhiều thời gian khác nhau trong ngày, mà
vì là loại trà chỉ vua chúa đƣợc thƣởng thức nên đƣợc bào chết rất kỹ lƣỡng tỉ mỉ từ
rất nhiều loại thảo dƣợc quý.
2.2.3) Phong tục tập quán vùng Trung Bộ:
Lễ hội cầu Ngư
Là lễ hội của nhân dân làng Thái Dƣơng hạ (thuộc thị trấn Thuận An, huyện Phú
Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế), đƣợc tổ chức vào ngày 12 tháng Giêng âm lịch hàng
năm. Ba năm một lần làng lại tổ chức đại lễ rất linh đình.
Lễ hội để tƣởng nhớ Trƣơng Quý Công (biệt danh là Trƣơng Thiều) – vị thành
hồng của làng. Ơng là ngƣời gốc Thanh Hố, đã có cơng dạy cho dân nghèo cách
đánh cá và bn bán ghe mành.
Lễ hội cầu Ngƣ có các trị chơi mơ tả cảnh sinh hoạt của nghề đánh cá, đặc sắc là
hình ảnh “bủa lƣới” mang ý nghĩa trình nghề, khắc họa đậm nét nghi lễ dân gian của
cƣ dân vùng ven biển.
Lễ hội Lam Kinh
Diễn ra tại khu di tích Lam Kinh (thuộc địa bàn xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh
Thanh Hóa), mảnh đất quê hƣơng của vị anh hùng dân tộc Lê Lợi và nhiều danh tƣớng
nổi tiếng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Địa danh Lam Kinh cịn là khu di tích có quy
mơ lớn về các đời vua, hoàng tộc của thời nhà hậu Lê và các danh tƣớng đƣơng thời.
Vào ngày 22 tháng 8 âm lịch hàng năm, nhân dân các vùng ở miền Bắc nô nức kéo
về điện Lam Kinh để dự lễ tƣởng niệm Lê Lợi và các danh tƣớng nhà Lê – những
ngƣời đã có cơng lao đánh tan giặc Minh xâm lƣợc, giành độc lập cho dân tộc, và xây
dựng đất nƣớc.
Trong lễ hội, phần nghi thức rƣớc kiệu từ lăng vua Lê Thái Tổ về đền thờ đƣợc tổ
chức rất trang trọng, uy nghiêm. Kết thúc phần lễ dâng hƣơng tƣởng niệm, du khách sẽ
có dịp tham quan quần thể di tích Lam Kinh, xem các điệu múa nhƣ múa Xuân Phả
hay chơi các trò chơi dân gian truyền thống nhƣ Bình Ngơ phá trận…
11
Lễ hội Dinh Thầy – Thím
Từ lâu, lễ hội này đã trở thành nét văn hóa đặc sắc riêng biệt của tỉnh Bình Thuận.
Vào ngày 14 đến 16 tháng 9 âm lịch hàng năm, ngay chính tại khu di tích lịch sử – văn
hóa Dinh Thầy – Thím (xã Tân Tiến, thị xã Lagi, tỉnh Bình Thuận) lại diễn ra lễ hội
lớn nhân ngày giỗ của Thầy – Thím.
Vào dịp lễ hội, đông đảo ngƣời dân địa phƣơng và du khách đến cầu nguyện sức
khỏe, hạnh phúc cho gia đình, họ hàng và cơng việc làm ăn hanh thơng. Ngồi các
nghi lễ xƣa vẫn đƣợc bảo tồn, trong phần hội cịn có nhiều trị chơi dân gian thu hút
nhƣ: chèo Bả Trạo, diễn xƣớng tích Thầy, biểu diễn võ thuật, thi lắc thúng, gánh cá đi
bộ, múa rồng… tạo nên khơng khí lễ hội sơi động.
Lễ hội Katê
Là lễ hội lớn nhất, đông vui nhất của tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, nơi có đơng
đảo đồng bào dân tộc Chăm sinh sống. Đƣợc tổ chức tại tháp Poklong Garai hoặc các
tháp Chàm khác, lễ hội Katê (tên khác là lễ tƣởng niệm đấng cha) diễn ra vào ngày 1-7
Chăm lịch (khoảng từ 25-9 đến 5-10 dƣơng lịch) hàng năm.
Lễ hội Katê để tƣởng niệm các vị anh hùng dân tộc, tổ tiên, ông bà, thần linh cùng
các vua Pôklông Garai, vua Prôme. Trong thời gian diễn ra lễ hội, nhân dân các vùng
lân cận sẽ tụ tập lên tháp làm lễ đơn giản.
Các thầy cúng sẽ tiến hành lễ cúng tế ở ngoài sân sau khi các thầy coi về đạo giáo.
Sau đó thì du khách vào tháp, tận mắt chứng kiến bà bóng và thầy cúng tắm rửa, thay
áo cho vua Poklong Garai (tƣợng đá), đọc kinh và hát những bài hát dân ca. Nghi lễ
này đƣợc kết thúc bằng điệu múa thiêng liêng của bà bóng trong tháp.
3)GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY TÍNH THỐNG
NHẤT MÀ ĐA DẠNG CỦA NỀN VĂN HÓA TRONG QUÁ TRÌNH XÂY
DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN:
Việc bảo tồn sự đa dạng văn hóa khơng chỉ tạo nên sức mạnh mềm cho dân tộc mà
cịn góp phần vào sự đa dạng, phong phú và lợi ích của nhân loại, bởi một thế giới đa
dạng về văn hóa mới là mơi trƣờng sống tốt đẹp mà loài ngƣời hƣớng tới. Để bảo tồn
và phát huy sự đa dạng văn hóa ở Việt Nam, biến nó thành nguồn sức mạnh mềm của
dân tộc trong bối cảnh hiện nay, cần chú trọng thực hiện những giải pháp sau đây:
Thứ nhất, giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống phải luôn gắn liền với
tăng cƣờng giáo dục pháp luật.
Pháp luật có vai trị đặc biệt quan trọng đối với việc điều chỉnh hành vi của con
ngƣời trong xã hội. Cùng với đạo đức, pháp luật xã hội chủ nghĩa hƣớng con ngƣời tới
hệ giá trị chân - thiện – mỹ, trừng trị và ngăn chặn cái ác, cái xấu nhằm làm lành mạnh
hoá xã hội. Do vậy, cần phải giáo dục ý thức pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân,
nhất là đối với thanh niên, học sinh, sinh viên; giúp họ tránh đƣợc những hành vi phạm
pháp và trở thành những công dân sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Thứ hai, khơi dậy sự chủ động và sức sáng tạo của nhân dân trong việc bảo tồn các
di sản văn hóa của các dân tộc, truyền dạy và giới thiệu các di sản văn hóa đó tới thế
hệ sau. giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là một tƣ tƣởng luôn đƣợc đề cao trong lịch sử
xây dựng và phát triển đất nƣớc của nhân dân Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập
12
quốc tế sôi động hiện nay đây lại càng là vấn đề quan trọng. Ý thức giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc của thế hệ trẻ- một lực lƣợng đông đảo và hùng hậu đang là điều đƣợc
quan tâm đặc biệt của xã hội. Hơn bất kỳ ai thanh niên, thiếu niên, sinh viên là những
đối tƣợng bén nhạy nhất với các yếu tố văn hóa. Khi đó, sự cuốn hút của một nền văn
hóa đa dạng, phong phú mà sống động của Việt Nam sẽ tạo nên sức hấp dẫn vô cùng
lớn đối với bạn bè quốc tế, thu hút họ tìm hiểu về đất nƣớc và con ngƣời Việt Nam, tạo
thêm cơ hội cho sự phát triển của đất nƣớc, khơng chỉ về kinh tế mà cịn về chính trị.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho văn học nghệ thuật phát
triển mạnh mẽ, đa dạng về đề tài, nội dung, loại hình, phƣơng pháp sáng tác... để xác
lập bản lĩnh văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Càng có nhiều sản
phẩm văn hóa nghệ thuật phản ánh đƣợc sự đa dạng, nét đẹp độc đáo của văn hóa Việt
Nam thì càng tăng cƣờng củng cố hình ảnh một Việt Nam tƣơi đẹp trong mắt ngƣời
nƣớc ngoài, hơn nữa, phải biến các giá trị đó thành sức mạnh nội sinh nâng đất
nƣớc ta lên tầm cao mới, đồng thời gia tăng sự hấp dẫn của Việt Nam đối với cộng
đồng quốc tế.
KẾT LUẬN
Bản sắc văn hóa có ý nghĩa vô cùng sâu sắc đối với mỗi một quốc gia, dân tộc.
Trƣớc hết, bản sắc chính là cái gốc, cái hồn cốt lõi khẳng định sự tồn tại của mỗi một
quốc gia, dân tộc. Điều này đã đƣợc Nguyễn Trãi - tác giả của áng thiên cổ hùng văn
"Bình Ngơ đại cáo" sớm khẳng định trong giai đoạn lịch sử trung đại. Trong tác phẩm
của mình, để nêu ra một khái niệm hoàn chỉnh về quốc gia, dân tộc, Nguyễn Trãi đã
nêu ra năm yếu tố, trong đó có hai yếu tố về nền văn hiến và phong tục tập quán, thể
hiện rõ sự ý thức sâu sắc về vai trị của bản sắc văn hóa. Khơng chỉ dừng lại ở đó, bản
sắc cịn là cái nơi ni dƣỡng ý thức về quyền độc lập và ý thức gìn giữ non sông, đất
nƣớc đối với mỗi một con ngƣời. Trong vơ vàn những quốc gia tồn tại bình đẳng với
bức tranh đa dạng và mn màu sắc, bản sắc chính là một trong những yếu tố làm nên
đặc trƣng riêng, khơng thể hịa lẫn, hợp nhất giữa các đất nƣớc.
Trong bối cảnh hòa nhập vào nền kinh tế thị trƣờng và mở cửa hội nhập quốc tế
hiện nay, vai trò vị trí của bản sắc văn hóa dân tộc càng đƣợc khẳng định hơn nữa và
gắn bó mật thiết với trách nhiệm của thế hệ trẻ. Là những chủ nhân tƣơng lai của đất
nƣớc, thế hệ thanh thiếu niên học sinh Việt Nam đã và đang phát huy bản sắc dân tộc
bằng những việc làm tích cực. Mặc dù có sự du nhập và tác động từ văn hóa nƣớc
ngồi nhƣng khơng ít bạn trẻ vẫn tìm về với những giá trị truyền thống mang đậm bản
sắc dân tộc nhƣ những trị chơi dân gian, những loại hình văn hóa dân gian nhƣ ca trù,
nhã nhạc cung đình,..., đặc biệt là khơng ngần ngại quảng bá hình ảnh của Việt Nam ra
thế giới nhƣ cách Hoa hậu H'Hen Niê đã tỏa sáng với bộ quốc phục đƣợc lấy cảm
hứng từ những chiếc bánh mì, mang theo niềm tự hào về thành tựu nông nghiệp của
nƣớc ta trên đấu trƣờng nhan sắc quốc tế.
13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1], Trần Thị Thu Lƣơng, “TÍNH THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG CỦA VĂN HĨA
VIỆT NAM NHÌN TỪ GĨC ĐỘ HỊA NHẬP VĂN HỐ ĐẠI VIỆT-CHĂM
PA”. Science & Technology, 13.X2-2010.
[2] Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam ,(tr.2-3), 2019, Đà Nẵng.
[3] Đinh Thị Hƣơng Giang(2021), “Bảo đảm tình thống nhất trong đa dạng của văn
hóa Việt Nam”, Tạp Chí Cộng sản
[4] Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021, t. I, tr. 170
[5], Vũ – Bản sắc văn hóa ẩm thực Việt Nam – Đa dạng sắc màu. (2020). 19/12/
2021, nguồn: />[6] Đề tài Tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á Luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp . (2013). 19/12/ 2021, nguồn:
/>
[7] Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo Dục, TP.HCM.
[8] Mai, N. (2021). Sự đa dạng trong văn hóa ẩm thực Việt Nam - Andrews The Power
MBA. 19/12/ 2021, nguồn: />[9] Phạm Đức Dƣơng: Việt Nam - Đông Nam Á ngơn ngữ và văn hóa, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 2007, tr.490.
[10] chủ, T., giảng, G., & học, C. (2021). Phong tục hôn nhân truyền thống. 19/12/
2021, nguồn: />
14
Nhận xét
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………
Điểm bằng số
Cán bộ chấm thi thứ nhất
(Ký ghi rõ họ tên)
Điểm bằng chữ
Cán bộ chấm thi thứ hai
(Ký ghi rõ họ tên)
15