ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN LANG
---------------KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG
GVHD
MSSV
LỚP
TÊN
: Thầy Nguyễn Hoài Thanh.
: 197QT29798
: DNV0020_01
: Nguyễn Minh Tân
TP.HCM, tháng 11 năm 2021
1
BÀI LÀM
Câu 1: Trình bày hiểu biết của anh/chị về bản chất và cấp độ
của cái hài mỹ học.
Giới thiệu chung, khái niệm
Cái hài là một phạm trù mĩ học cơ bản dùng để nhận thức về một
phương diện trong quan hệ thẩm mĩ của con người với hiện thực.
Cái hài được xem là một trong những phương tiện biểu hiện của tình
cảm thẩm mỹ trong sự đối xứng có tính chất tương đối với cái bi. Cái hài là
tấm gương phản chiếu cái bi và ngược lại. Bên cạnh đó cái hài cịn được thể
hiện trong chức năng triết học của những hình thái ý thức xã hội bên cạnh
mâu thuẫn với cái bi
Cái hài có vai trị rất lớn trong mỹ học. Nó thể hiện kinh nghiệm
nhiều hình, nhiều vẻ của ý thức xã hội. Và nó phản ánh thực tiễn đời sống
xã hội chủ yếu dưới góc độ phủ định bên cạnh sự trợ giúp đắc lực của các
triết lý triết học ẩn sâu trong bản than cái hài. Vai trò của cái hài trong đời
sống xã hội lại có điểm khác hơn so với trong mỹ học. Nó đi từ phản ánh
khái quát những kinh nghiệm trong mỹ học đến cụ thể xâm nhập vào từng
lát cắt của đời sống. Nó trở thành phương tiện để phát hiện những xung đột,
những mâu thuẫn xã hội, giai cấp, nó là hình thái phê phán đặc biệt có cảm
xúc.
Cấp độ của cái hài mỹ học
Trong mỹ học, phạm trù cái hài được nghiên cứu ở các cấp độ sau:
1) Cấp độ khái quát.
2) Cấp độ ý nghĩa chung.
3) Cấp độ “phổ cập chung”.
Trong đời sống thực tiễn xã hội, cái hài được biểu hiện rất phong phú
đa dạng. Nó vừa là phương thức của cái khơi hài vừa được bắt nguồn từ
chính cơ sở khách quan là cái khôi hài. Cái hài lại một lần nữa được chuyển
tải đến đời sống bằng công cụ sắc bén là tiếng cười. Tiếng cười với những
sắc thái ý nghĩa khác nhau trong cường độ và tính chất của nó. Tiếng cười
trong vai trò biểu hiện sự giễu cợt, mỉa mai, sâu cay. Tất nhiên là có cái
cười, tiếng cười âu yếm và cũng có tiếng cười, cái cười mà thực chất khơng
phải là “cười”. Nó là lưỡi dao ngọt ngào thể hiện sự đả kích, trào phúng
Bản chất thẩm mĩ của cái hài
Người ta thường nhầm lẫn giữa cái hài với tiếng cười mặc dầu cái hài gắn
liền với tiếng cười song không phải cái cười nào cũng là cái hài. Như vậy,
tiếng cười trước hết là một hiện tượng sinh lý (do thọc lét gây ra), thậm chí
2
ở châu Phi có bệnh dịch cười (bệnh cười – cười mãi khơng ngớt). Có tiếng
cười như của trẻ thơ vui đùa với cha mẹ, hoặc những cái gây cười bởi
khuyết tật của bản năng cũng không phải là cái cười của cái hài. Cái cười
của trẻ thơ thể hiện sự ngây thơ, trong trắng khi mới chập chững bước vào
đời chưa có ý nghĩa xã hội sâu sắc, cịn cái cười bởi sự khuyết tật của bản
năng thường trở thành tiếng cười rẻ rúng.
Cái hài gắn liền với tiếng cười với tính cách là một phạm trù mỹ học thể
hiện nội dung và ý nghĩa xã hội của nó. Chẳng hạn như Ghécxen đã cho
rằng cái cười có ý nghĩa thẩm mỹ là một cơng cụ. Ơng viết: “Tiếng cười là
một cơng cụ phá hoại hùng mạnh nhất. Nó đánh và thiêu cháy như sét. Do
tiếng cười mà những thần tượng bị sụp đổ”
Cái cười mang tính hài địi hỏi, trước hết, phải có một đối tượng cười, tức là
cái có thể gây cười và bị cười. Trong cuộc sống có rất nhiều hiện tượng có
thể gây cười, mỗi thứ một vẻ hết sức đa dạng. Song nói chung những cái
cười, xét về bản chất là có mâu thuẫn hiểu như sự đối lập, khơng cân xứng
khơng hài hồ.
Có cái có thể gây cười (đối tượng) lại cịn có chủ thể cuời. Đây là mặt thứ
hai mặt chủ quan của cái hài, khơng có nó khơng có cái hài. Bản thân đối
tượng cười không thể gây cười nếu chủ thể không thể nhận thức được
những mâu thuẫn chứa đựng trong nó. Điều này giải thích tại sao có nhiều
người xem tranh biếm họa, tranh vui, đọc chuyện cười mà vẫn khơng cười,
đến lúc hiểu ra thì mới bật cười. Cái hài do vậy là một kiểu nhận thức gắn
với tiếng cười khi phát hiện ra những mâu thuẫn nào đó của sự vật hiện
tượng ở góc độ thẩm mỹ.
Cái hài là những cái xấu không đành phận xấu, là những cái xấu đội lốt cái
đẹp, bị phát hiện bất ngờ và gây ra tiếng cười tích cực mang ý nghĩa xã hội
sâu sắc để phê phán cái xấu dưới ánh sáng của một lý tưởng thẩm mỹ nhất
định.
1. Tiếng cười trong cái hài
- Tiếng cười là yếu tố không thể vắng mặt trong cái hài. Cái hài thuộc
về khách thể thẩm mĩ còn cái cười lại thuộc về chủ thể thẩm mĩ
- Tuy nhiên không phải mọi cái cười đều có quan hệ với cái hài (đó là
những cái cười do những tình huống ngẫu nhiên hoặc do bản năng sinh lí)
- Tiếng cười trong cái hài, là một loại vũ khí, phương tiện, để phê
phán mặt trái của cuộc sống, để phủ định tất cả những gì xấu xa, giả dối, lỗi
thời, đó là hình thức phê phán đặc biệt và khẳng định cái mới, cái tốt đẹp.
- Như vậy, cái cười trong cái hài là cái cười đặc biệt nhằm vào đối
tượng cụ thể, là cái cười có mục đích và ý nghĩa xã hội sâu sắc.
- Tiếng cười trong cái hài bởi vậy liên quan đến cả hai phương diện:
đối tượng gây cười và chủ thể cười.
2. Đối tượng gây cười
3
- Cái cười bao giờ cũng có nguyên nhân trước hết từ phía khách quan
đó là đối tượng có khả năng gây cười (cái xấu).
- Tuy nhiên không phải mọi cái xấu đều là cơ sở tạo nên cái hài.
Trước những cái xấu về mặt sinh học , những khuyết tật bẩm sinh của con
người, chúng ta không những không cười được mà trái lại, cịn cảm thấy xót
xa, thương cảm.
- Chỉ có những cái xấu về mặt xã hội, xấu về đạo đức về nhân cách,
xấu về lối sống vì lí tưởng như: thói xu nịnh, háo danh, giả dối, độc ác, phản
bội, … mới là đối tượng của cái hài. Những cái xấu cái đáng cười đó tồn tại
phổ biến trong những cái đã cũ, đã trở nên lạc hậu, lỗi thời , đã mất hết vai
trò lịch sử. Theo Mrax, đông ki sốt sở dĩ trở thành một nhân vật mang tính
hài vì chàng muốn diễn lại trong xã hội tư sản một đạo lí hiệp sĩ đã lỗi thời.
- Cơ sở của cái hài cũng có thể nằm ngay trong những cái mới, cái
tiến bộ , tích cực. ví dụ như những biểu hiện đãng trí vụng về , thậm chí ngớ
ngẩn của một người tốt khiến người ta phải bật cười.
Ví dụ: Isacc Newton(1642- 1727) nhà bác học lớn của thế kỉ 18 .Một
lần luộc trứng để ăn sáng đã đãng trí bỏ luộc ln chiếc đồng hồ quả quýt.
Khi đến giảng trường Đại học, lúc móc túi lấy đồng hồ để xem giờ thì hóa
ra quả trứng chưa luộc, cịn đồng hồ thì đang được nấu trong nồi trứng luộc
ở nhà
- Hình thái tiêu biểu điển hình nhất của cái hài là cái xấu, cái giả, cái
ác, về mặt đạo đức, cái lạc hậu, tiêu cực về mặt chính trí (những cái đối lập
với cái đẹp cái cao cả).
Nhưng cái xấu tự nó chưa có tính chất hài. Chỉ có một bộ phận của
cái xấu là biểu hiện của cái hài (cái xấu mà khơng biết mình là xấu mà cịn
tự coi mình là cái đẹp, cái cao cả)
Ở đây có thể dẫn ra câu chuyện cười nổi tiếng của thế giới, chuyện “
Ông vua trần trụi” của nhà văn Đan Mạch Andersen để làm sáng tỏ ý trên:
Có một ơng vua rỗng tuếch và một lũ quần thần xiểm nịnh cũng rỗng tuếch,
ngược lại ln tự cho mình là những kẻ thơng thái. Cuộc sống xa hoa và vô
nghĩa của họ bị hai kẻ lừa đảo chú ý. Những tên ma mãnh này tung tin
chúng có thể dệt những áo gấm cực kì mỹ lệ mà “phàm dân” khơng ai có thể
nhìn thấy. Tin ấy lọt đến tai “bệ rồng” và tên quan tin cẩn nhất được nhà vua
phái đến để hỏi mua chiếc áo. Áo long bào đã được dệt bằng những “sợi
khơng khí” trên một khung cửi cũng bằng khơng khí nốt. Từ vua đến quan,
tên nào cũng sợ mình có đôi mắt và đôi tay phàm dân, nên mặc dù khơng
nhìn thấy gì, chẳng sờ thấy gì, quan vẫn đem “áo“ về cho vua và vua vẫn
mặc để diễu hành. Đến khi nhà vua trút mảnh vải cuối cùng để mặc “áo long
bào khơng khí” đi giữa đám rước trước vạn mắt thiên hạ, thì bọn trẻ là
người hồn nhiên nhất, chúng hét tướng lên “Nhà vua không mặc quần”, lúc
đó vua cũng vừa chợt tỉnh và nhìn xuống thân thể mình thì đã quá muộn.
Lần ấy thiên hạ được một trận cười thỏa mãn.
4
Trong lịch sử tư tưởng mĩ học, các nhà mĩ học, bao giờ cũng gắn
liền bản chất của cái hài với những đối tượng mang mâu thuẫn .
Yếu tố bất ngờ là nguyên nhân tạo ra kịch tính, là lý do trực tiếp
khiến tiếng cười bật ra.
Tính chất của mỗi loại mâu thuẫn trên đây sẽ quy định các sắc thái
khác nhau của cái hài. Như vậy, mâu thuẫn là nhân tố trực tiếp nảy
sinh ra cái hài, cái hài vì vậy là một hiện tượng thẩm mĩ khách
quan được nhìn nhận và đánh giá dựa trên cơ sở một lí tưởng thẩm
mĩ cao đẹp được xã hội thừa nhận. Trong đại đa số trường hợp,
nhân vật trong cái hài đều thuộc lực lượng “phản diện” đối lập với
cái đẹp. Tuy nhiên không phải bao giờ nhân vật trong cái hài cũng
hoàn toàn là xấu.
3. Chủ thể cười
- Cái hài chỉ được thực sự xuất hiện khi chủ thể nhận ra mặt đối lập
có tính hài của đối tượng. Cái hài do đó là một kiểu nhận thức đặc biệt. Việc
nhận thức cái hài thường diễn ra một cách nhanh chóng , bất ngờ, đột ngột
mà bản thân chủ thể khơng thể lường trước, khơng có sự chuẩn bị trước.
Chính hiệu quả của yếu tố bất ngờ đã đem lại khối cảm thẩm mĩ cho chủ
thể.
- Cũng chính yếu tố bất ngờ này khiến cho chủ thể trong khi nhận
thức cái hài địi hỏi phải có nỗ lực tích cực của tư duy. Như vậy tiếng cười
trong cái hài là một thái độ nhận thức về hiện thực (thấy được mặt xấu của
nó).
- Cảm xúc thẩm mĩ mà cái hài gợi lên ở chủ thể nói chung là trạng
thái tinh thần vui vẻ, sảng khoái,hả hê được biểu hiện thơng qua hình thức
cụ thể là tiếng cười. Cảm xúc thẩm mĩ mà cái hài đem lại là loại cả xúc
mạnh, diễn ra một cách sơi nổi, nhanh chóng.nó là một loại cảm xúc phức
tạp.Cảm xúc hài cũng được biểu hiện với nhiều cung bậc, sắc thái khác
nhau.
Các phạm trù biểu hiện chủ thể thẩm mỹ
1. Ý thức thẩm mỹ
Con người khác lồi vật chính là ở năng lực ý thức. L. Pascal nói: “Con
người là một cây sậy, nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ”. Ý thức con người là sự
tổng hợp hữu cơ giữa nhiều hình thái khác nhau, trong đó có hình thái đặc thù là ý
thức thẩm mỹ. Vậy, ý thức thẩm mỹ là một bộ phận của ý thức xã hội được biểu
hiện dưới hình thức trực tiếp, cảm tính.
Đã tồn tại hai quan niệm đối lập nhau về bản chất của ý thức thẩm mỹ
trong lịch sử mỹ học.
- Quan niệm có tính bản thể luận xem ý thức thẩm mỹ chính là sự phản
ánh bản thân thể hiện bằng những nguyên tắc đặc thù.
5
- Quan niệm có tính nhận thức luận xem ý thức thẩm mỹ như là một phẩm
chất thuần túy thuộc đời sống tinh thần của con người chủ yếu được biểu hiện
trong nghệ thuật.
Phải thấy là cả hai quan niệm đều rơi vào cực đoan. Một mặt, bất cứ một
thuộc tính thẩm mỹ khách quan nào trong các giá trị thẩm mỹ cũng đều mang
“tính người” nghĩa là có tính nhận thức luận, khơng thế chúng mãi mãi chỉ là
khách thể thẩm mỹ mà không thể là đối tượng thẩm mỹ. Mặt khác, bất kỳ một
đánh giá thẩm mỹ nào cũng đều xuất phát từ những thuộc tính thẩm mỹ khách
quan tồn tại khơng tùy thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Trong trường
hợp này, năng lực và cảm xúc thẩm mỹ chỉ làm tăng hay giảm phẩm chất của các
hiện tượng thẩm mỹ chứ không sản sinh ra chúng. Giá trị thẩm mỹ vì vậy được
nảy sinh đồng thời từ hai phía, cả chủ thể lẫn đối tượng.
Ý thức thẩm mỹ tồn tại dưới hai dạng: ý thức thông thường và ý thức lý
luận. Không nên đối lập hai hình thái này. Ý thức thơng thường chính là dạng
biểu hiện phổ biến của ý thức thẩm mỹ. Còn ý thức lý luận lại là dạng biểu hiện
cao mang tính khái quát, tính hệ thống của ý thức thẩm mỹ. Ý thức thẩm mỹ có
thể xuất hiện trong mọi hành vi thẩm mỹ tích cực của con người. Đó là khi con
người khai thác, đồng hóa hiện thực về phương diện thẩm mỹ trong hoạt động
thực tiễn hàng ngày. Tuy nhiên, ý thức thẩm mỹ đặc biệt tập trung trong hoạt
động nghệ thuật của người nghệ sĩ. Với tư cách là một hoạt động thẩm mỹ chuyên
biệt, nghệ thuật đã làm cho ý thức thẩm mỹ ở người nghệ sỹ được thể hiện một
cách trọn vẹn nhất, dưới hình thức biểu hiện cao nhất.
Có ý thức thẩm mỹ của thời đại, đồng thời có ý thức thẩm mỹ của cá nhân.
Ý thức thẩm mỹ của thời đại được biểu hiện qua tính đa dang của ý thức thẩm mỹ
cá nhân, chi phối ở một mức độ nhất định đối với ý thức thẩm mỹ cá nhân. Tuy
nhiên, không hiếm những cá nhân kiệt xuất như những nghệ sĩ thật sự vĩ đại mà tư
tưởng đã vượt trước thời đại, có ý nghĩa soi sáng, dẫn đường.
Cũng như những hình thái ý thức xã hội khác, ý thức thẩm mỹ vừa phản
ánh vừa tác động tới tồn tại xã hội, thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển. Ý thức thẩm
mỹ khơng chỉ là một hình thái nhận thức thế giới mà cịn là hình thái tự nhận thức
của con người. Với ý nghĩa đó, ý thức thẩm mỹ làm phong phú thêm cuộc sống
vốn đã vô cùng phong phú của con người trên trái đất này.
Trong mỹ học, ý thức thẩm mỹ là một phạm trù thể hiện chủ thể thẩm mỹ
một cách bao quát nhất. Nó được cấu thành bởi những phạm trù thẩm mỹ khác
vốn là những thành tố quan trọng phụ thuộc và làm nên nó như cảm xúc thẩm mỹ,
thị hiếu thẩm mỹ, quan điểm thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ…
2. Cảm xúc thẩm mỹ
Đó là trạng thái rung động trực tiếp của con người trước các hiện tượng
thẩm mỹ khách quan trong thiên nhiên, trong đời sống và trong nghệ thuật. Sắc
thái cảm xúc thẩm mỹ đa dạng như chính hiện tượng thẩm mỹ khách quan mn
hình vạn trạng. Đó có thể là cảm giác sảng khoái trước cái đẹp, sửng sốt trước cái
cao cả, đau xót trước cái bi, khinh bỉ trước cái hài, ghê tởm trước cái thấp hèn và
buồn rầu trước cái xấu… Đây chính là phạm trù biểu hiện chủ thể thẩm mỹ đầu
tiên trước đối tượng thẩm mỹ. Nó đồng thời là dấu hiệu rõ nhất xác nhận sự tồn
tại trên thực tế mối quan hệ thẩm mỹ của con người đối với thực tại.
6
Cần phải thấy sự khác biệt của cảm xúc thẩm mỹ với cảm xúc sinh lý. Khi
đói được ăn, khi nóng được tắm, khi rét được mặc ấm… con người đều có những
cảm giác khoan khối nhiều khi khơng thể nói là khơng da diết. Nhưng đó là cảm
giác sinh lý, khơng hồn tồn giống với cảm xúc của con người khi đứng trước cái
đẹp chẳng hạn. Tính xã hội và tính tinh thần của cảm xúc thẩm mỹ cao hơn nhiều.
Đó là kết quả tổng hịa của nhiều yếu tố: tình cảm, nhận thức, truyền thống văn
hóa… trong một con người. Không phải ngẫu nhiên khi cảm xúc thẩm mỹ được
coi như một trong những biểu hiện rõ nhất của “tính người”. K. Marx đã gọi tình
cảm đối với cái đẹp là tiêu chí khu biệt quan trọng đối với con người. Cịn V.
Biêlinxki thì cho rằng nếu khơng có tình cảm thẩm mỹ thì ngay một con người có
học thức cũng khơng đứng cao hơn động vật mấy tí. Rõ ràng cảm xúc thẩm mỹ và
cảm xúc sinh lý là hai khái niệm khác nhau. Tuy nhiên, cũng không nên đối lập
mà cần thấy tác động qua lại nhất định giữa chúng với nhau.
Do gắn với lý trí, lý tưởng nên cảm xúc thẩm mỹ bao giờ cũng thể hiện xu
hướng đánh giá. Đó là cơ sở tạo ra hại loại cảm xúc thẩm mỹ với tính chất đối
nghịch nhau: cảm xúc thẩm mỹ tích cực và cảm xúc thẩm mỹ tiêu cực. Điều này
đặc biệt rõ rệt trước những hiện tượng thẩm mỹ thuộc về con người, những hoạt
động và đời sống vô cùng tận của con người. Và ở đây, chúng ta vừa thấy sự khác
biệt lại vừa thấy được mối liên hệ giữa tình cảm thẩm mỹ với tình cảm chính trị,
đạo đức và tơn giáo…
Hiển nhiên là cảm xúc thẩm mỹ có vai trị to lớn trong mọi hoạt động thẩm
mỹ nhất là trong hoạt động nghệ thuật. Cảm xúc thẩm mỹ chính là động lực mạnh
mẽ thơi thúc người nghệ sĩ trong hoạt động sáng tạo. Thiếu sức mạnh tự bên trong
này sẽ khơng giải thích nổi vì sao người nghệ sĩ thuộc các thời đại và các dân tộc
khác nhau lại thường coi sáng tạo như “sự giải thốt nội tâm”. Người nghệ sĩ
sáng tạo khi khơng thể đừng, khơng thể khơng sáng tạo. Và cảm xúc chính là nhân
tố thấm vào mọi khâu, mọi giai đoạn của q trình sáng tạo nghệ thuật. Khơng thể
hiểu được cảm hứng nếu tách rời khỏi cảm xúc mặc dù cảm hứng khơng đơn
thuần là tâm thế chứa chan cảm xúc.
Vì vai trò đặc biệt của cảm xúc trong mọi hoạt động thẩm mỹ nên chủ thể
thẩm mỹ cần phải tích lũy và trau dồi thường xuyên để cảm xúc thẩm mỹ ngày
một dồi dào, tinh tế và sâu sắc. Điều kiện thiết yếu là phải xúc tiếp thường xuyên
với các giá trị thẩm mỹ. Cái gọi là “đi tìm cảm xúc” ln tỏ ra khơng mấy thích
hợp là vì vậy.
3. Thị hiếu thẩm mỹ
Trong cuộc sống, con người ln có những phản ứng “thích” hoặc “khơng
thích” trước các hiện tượng mình có thiện cảm hay ác cảm. Điều đó bắt nguồn từ
sở thích. Nếu đấy là các phản ứng trước các hiện tượng thẩm mỹ thì liên quan tới
sở thích thẩm mỹ. Thị hiếu thẩm mỹ chính là các sở thích tương đối ổn định của
cá nhân hay cộng đồng về phương diện thẩm mỹ.
Sở thích xã hội khơng nhất thành bất biến. Mọi sự thay đổi bên trong và
hoàn cảnh sống của con người đều có thể đưa tới sự thay đổi trong sở thích. Có
điều, đã là thị hiếu, trong đó có thị hiếu nghệ thuật thì những sở thích phải
mang tính ổn định tương đối. Đó là vì thị hiếu thẩm mỹ khơng phải và khơng thể
được hình thành ngày một ngày hai. Đó cịn vì thị hiếu được nảy sinh trên cơ sở
7
của nhiều nhân tố vật chất và tinh thần, bên trong và bên ngoài khác nhau của con
người.
Như các lĩnh vực khác, có thị hiếu thẩm mỹ cá nhân đồng thời có thị hiếu
thẩm mỹ cộng đồng (một tộc người, một tầng lớp, một giai cấp, một địa
phương…). Chẳng hạn, mỹ học cổ điển chủ nghĩa cuối thế kỷ XVIII được xây
dựng trên ý thức phong kiến nên đánh giá rất thấp mọi hiện tượng trong đời sống
của “tầng lớp bình dân”. Nhà văn Pháp Boalô từng tuyên bố: “Hãy xa lánh cái
thấp hèn, nó bao giờ cũng xấu xa”. Cần thấy sự gắn bó cũng như sự khác
biệt giữa thị hiếu cá nhân và thị hiếu cộng đồng. Bất cứ thị hiếu cá nhân nào, dù
muốn hay khơng cũng đều ít nhiều chịu sự chi phối của thị hiếu cộng đồng. Tuy
nhiên, do được xây dựng trên đời sống riêng của mỗi người, thị hiếu thẩm mỹ cá
nhân có nhiều mặt khơng hồn tồn trùng khớp, thậm chí đi ra ngồi thị hiếu thẩm
mỹ của cộng đồng. Điều này phần nào nói lên tính đa dạng, riêng biệt, độc đáo
của thị hiếu thẩm mỹ. Phải thấy và chấp nhận đặc tính đó. Nó nói lên sự giàu có
của đời sống thẩm mỹ, đời sống văn hóa. Sự đơn điệu, nhất là sự độc tôn của một
dạng thị hiếu chỉ chứng tỏ sự nghèo nàn, hời hợt của đời sống tinh thần của con
người mà thôi. Thật tẻ nhạt nếu phải sống trong một môi trường hoặc một xã hội
như vậy.
Do tính riêng biệt, độc đáo của thị hiếu thẩm mỹ nên có người đã đẩy nó
vào lĩnh vực huyền bí mang tính bản năng. Thật ra, thị hiếu thẩm mỹ khơng hề
mang tính bẩm sinh. Nó được hình thành, thậm chí biến đổi nhờ những hoạt động
duy trì, phát triển sự sống của bản thân con người. Thị hiếu thẩm mỹ cũng khơng
có tính chất huyền bí. Dẫu khó hiểu đến đâu ta cũng bằng cách này hay cách khác
truy tìm thấy cội nguồn nảy sinh ra thị hiếu thẩm mỹ. Nói khác đi, ta có thể giải
thích được những biểu hiện muôn màu muôn vẻ của thị hiếu cá nhân cũng như thị
hiếu cộng đồng. Đấy là những hiện tượng xã hội – lịch sử trong đó phản ánh
những quan niệm sống và lối sống của con người. Bên cạnh cái riêng có cái
chung, bên cạnh cái uyển chuyển có cái nguyên tắc. Bởi vậy, bàn bạc hay tranh
cãi về thị hiếu thẩm mỹ là khó, nhưng khơng vì thế mà khước từ hoặc phủ nhận
mọi sự bàn bạc, tranh biện về chúng. Đại thể, ta vẫn có thể chia thành hai loại thị
hiếu thẩm mỹ: lành mạnh và không lành mạnh. Cơ sở của phân loại này là ở việc
xem xét thị hiếu bắt nguồn từ nhu cầu thẩm mỹ nào, chính đáng hay khơng chính
đáng, thực chất hay hình thức, tơn thêm hay hạ thấp phẩm hạnh con người.
Vai trò của nghệ thuật rất lớn trong việc xây dựng những thị hiếu thẩm mỹ
tích cực. Tuy thế, khơng được đồng nhất thị hiếu nghệ thuật với thị hiếu thẩm
mỹ. Đó là hai khái niệm khơng hồn tồn trùng khớp với nhau. Thị hiếu thẩm mỹ
bao hàm một mặt cơ bản của thị hiếu nghệ thuật – mặt thẩm mỹ. Trong khi ngoài
mặt thẩm mỹ, người ta có thể dùng những thước đo khác để xem xét thị hiếu nghệ
thuật. Nói như V. Lênin: “Khơng thể vận dụng chỉ những phán đoán thẩm
mỹ” trong đánh giá nghệ thuật. Ví như: tính chân thật của tác phẩm nghệ thuật.
Khơng ai khơng thấy tầm quan trọng của nó trong thẩm định nghệ thuật. Cũng
không thể tách thị hiếu thẩm mỹ ra khỏi thị hiếu nghệ thuật. Sự gắn bó và tác
động qua lại giữa chúng là một sự thật hiển nhiên. Thị hiếu nghệ thuật là hạt nhân
của thị hiếu thẩm mỹ, ngược lại thị hiếu thẩm mỹ lại là mảnh đất nảy sinh ra thị
hiếu nghệ thuật. Thấy được mối tương quan giữa thị hiếu thẩm mỹ và thị hiếu
nghệ thuật sẽ thật sự có ý nghĩa trong việc xây dựng đời sống thẩm mỹ cũng như
đời sống nghệ thuật tiến bộ, lành mạnh và hiện đại.
8
4. Quan điểm thẩm mỹ
Ý thức xã hội gồm hai bộ phận liên quan trực tiếp với nhau: tư tưởng xã
hội và tâm lý xã hội. Cũng như các dạng thức khác của ý thức xã hội, ý thức thẩm
mỹ vừa được biểu lộ ở cấp độ tâm lý (cảm xúc và thị hiếu thẩm mỹ), vừa được
biểu lộ ở cấp độ tư tưởng (quan điểm và lý tưởng thẩm mỹ).
Quan điểm thẩm mỹ là một bộ phận hợp thành thế giới quan của cá nhân
và xã hội. Thế giới quan là hệ thống quan niệm, quan điểm của con người về thế
giới. Cần thấy tính đa dạng và tính thống nhất của thế giới quan. Cũng cần thấy
vai trò quyết định của quan điểm, quan niệm triết học và chính trị tới các bộ phận
khác trong thế giới quan. Nói khác đi, thế giới quan bao giờ cũng mang tính giai
cấp khi xã hội còn phân chia giai cấp. Tuy vậy, sự tác động qua lại giữa các giai
cấp về mặt tư tưởng cũng là một thực tế hiển nhiên.
Ngày nay, trong việc xây dựng đời sống văn hóa thẩm mỹ dân tộc – hiện
đại, cuộc đấu tranh trên vẫn diễn ra với nhiều hình thức khác nhau. Những quan
điểm thẩm mỹ đồi trụy, lai căng có lúc, có nơi vẫn chưa bị lên án, tác động không
nhỏ đến hoạt động thẩm mỹ của nhiều người, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên.
Ngay cả những quan điểm thẩm mỹ tưởng không cần phải tranh luận về tính đúng
đắn của chúng như Cái đẹp là sự giản dị (M. Gorki) cũng không phải đã được mọi
người chấp nhận và tuân thủ. Mới biết việc tạo lập nếp nghĩ, nếp sống, nếp hành
động thật sự văn hóa khó khăn và dài lâu biết chừng nào!
5. Lý tưởng thẩm mỹ
Con người không thể sống thiếu lý tưởng. Xưa đã thế, nay vẫn thế và mai
sau còn thế. Ý nghĩa của đời sống tùy thuộc phần nhiều vào lý tưởng mà con
người theo đuổi.
Có nhiều dạng lý tưởng trong đó có lý tưởng thẩm mỹ. Tính xã hội của lý
tưởng thẩm mỹ nói lên mối quan hệ hữu cơ giữa lý tưởng thẩm mỹ với các lý
tưởng chính trị, tôn giáo và đạo đức… Nhưng lý tưởng thẩm mỹ có những đặc thù
riêng. Lý tưởng thẩm mỹ là hình ảnh mẫu mực cảm quan về sự hoàn thiện hoàn
mỹ của cuộc sống và con người.
Vì lý tưởng thẩm mỹ nói lên hình ảnh đẹp cần phải hướng tới của con
người và cuộc sống nên nó là hình thức biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm
mỹ. Mọi hoạt động thẩm mỹ đều lấy nó làm đích để vươn tới, đều coi nó làm
chuẩn mực để đánh giá hiệu quả và ý nghĩa của mình. Lý tưởng thẩm mỹ cịn
là sản phẩm cao nhất của ý thức thẩm mỹ. Xây dựng một lý tưởng thẩm mỹ cao
đẹp luôn là mong muốn của mỗi cá nhân và của cả xã hội. Điều này lệ thuộc vào
hoàn cảnh sống và hoạt động của con người. Nhưng ý thức và sự rèn luyện của
từng cá nhân mới mang tính quyết định. Trong mơi trường văn hóa chung cũng
như sự trau dồi học hỏi riêng, nghệ thuật bao giờ cũng giữ một vai trò đặc biệt.
Song, chớ nên quên rằng, những hoạt động thẩm mỹ ngoài nghệ thuật lại có giá trị
định hướng thường xuyên và rộng lớn hơn nhiều. Biết tận dụng và phát huy mọi
phương tiện và hình thức giáo dục lý tưởng thẩm mỹ chính là bí quyết nâng cao
một cách có hiệu quả chất lượng đời sống trong xã hội và đối với mỗi người.
9
Đặc điểm của cái hài
Nói như C. Mác con người có nhiều hình thức kế thừa và phủ định bản thân
mình. Chính tiếng cười, sự hài hước, châm biếm, đả kích là một trong
những phương tiện tự phát triển của con người dùng để từ giã quá khứ một
cách vui vẻ. Cái hài có những đặc điểm sau đây:
- Cái hài trước hết phải là cái xấu của con người hoặc con người có
điểm xấu. Nói đến cái hài trước hết phải là cái xấu, khơng có nghĩa mọi cái
xấu đều là yếu tố của cái hài. Cái xấu chỉ trở thành yếu tố của cái hài khi nó
có ý nghĩa xã hội về mặt thẩm mỹ. Ví dụ cái xấu của trong bước đi lạch
bạch của con vịt, nhẩy chồm chồm của con cóc, nếu khơng liên quan gì đến
tính cách của con người thì nó khơng phải là yếu tố của cái hài.
- Cái hài là cái xấu thuộc về đạo đức, về đời sống, về lý tưởng xã hội
thể hiện ở quan hệ thẩm mỹ. Thí dụ như tính hay xu nịnh, tính gia trưởng,
trưởng giả, đua đòi, bon chen, tham ăn, tục uống, dối trá, lươn lẹo, tồn tại
trong từng con người và cả trong các quan hệ xã hội, những tổ chức xã hội
như sự dốt nát, thiếu dân chủ, thái độ quan liêu, hống hách, cửa quyền đều
là những yếu tố góp phần tạo nên tổng thể của cái hài.
- Cái xấu, cái đáng cười là chưa đến nỗi xấu quá, chưa đến kinh tởm
cũng là đối tượng của cái hài. Cho nên, Arixtốt cho rằng cái xấu đã đến mức
đê tiện mà ai cũng biết, khơng giấu nổi thì nó khơng cịn của tiếng cười hài
hước, mà cái với tính cách là đối tượng của cái hài, tiếng cười thẩm mỹ của
cái hài, thực ra chỉ là một bộ phận của cái xấu, lại khơng đành phận xấu,
mặt khác nó cố tình che đậy bản chất bản chất xấu xa của nó.
- Cái hài là cái xấu đột lốt cái đẹp. Cũng như trên chúng ta đã phân
tích khơng phải cái xấu nào cũng là yếu tố của cái hài. Sự tàn bạo, đê tiện và
ghê tởm lại thuộc về các phạm trù chính trị, đạo đức. Cái xấu là yếu tố của
cái hài là là cái xấu giả dạng cái đẹp, đột lốt cái đẹp, cái xấu chưa biết mình
là xấu, đó mới là cái hài với tư cách là một phạm trù mỹ học.
- Cái xấu được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Ví dụ: một tên quan huyện ăn đút lót vẫn tưởng mình là thanh liêm và
những kẻ xu nịnh cũng cho mình là thanh liêm. Một người tham quyền lực
nhưng lại phê phán người khác hám danh. Một xã hội mất tự do nhưng luôn
tô điểm những hình thức bên ngồi của biểu tượng tự do. Vì vậy, nhân tố
mâu thuẫn là nhân tố cơ bản của cái hài và mâu thuẫn đó thể hiện như lời
nói – việc làm, nội dung – hình thức phải có yếu tố che đậy, giấu diếm, ngộ
nhận.
- Cái xấu giả danh cái đẹp dù có ý thức hay vơ ý thức đều đặt trên
các vấn đề xã hội, ý nghĩa xã hội sâu rộng của nó. Chẳng hạn nhân vật
Đôngkisốt lại đưa một người nông dân Xangxô lên làm đảo trưởng khi xã
hội đã có chủ nghĩa tư bản, có thị trưởng các thành phố, các đảo. Sự vơ ý
10
thức đầy long tốt Đôngkisốt lại phản ánh sự ngu dốt lịch sử đến cực độ của
giai cấp nông dân tư hữu muốn làm cuộc cách mạng tư sản, đại diện cho
một phương thức sản xuất tiên tiến
- Cái hài có yếu tố bất ngờ. Mâu thuẫn và sự xung đột trong cái xấu
phát triển đến đỉnh cao rồi đột ngột bất ngờ bị phát hiện, bị bộc lộ, bị phơi
bày bản chất của nó. Hay nói lại một cách khác một tình huống của cuộc
sống của nghệ thuật điễn ra một cách căng thẳng giữa cái đẹp và cái xấu
(trong bản thân cái xấu – cái xấu giả danh cái đẹp), cái xấu tưởng đã chiến
thắng, bất ngờ bị vạch trần, bị đánh bại đúng lúc đó nó tạo nên yếu tố của
cái hài. Có một truyện kể về Niutơn, vì q bận trong cơng việc nên đơi khi
ơng cũng khơng để ý nhiều đến trang phục. Có lần do sơ xuất ơng để chiếc
khăn mùi xoa lịi ra khỏi túi quần ở chỗ đông người. Một kẻ ghen ghét, hám
danh đã nhân sự việc này liền nói to: Xin mời mọi người hãy xem cái đuôi
thông minh của nhà bác học đã lịi ra. Niutơn hóm hỉnh trả lời: Xin lỗi mọi
người khơng phải như vậy, mà chính đó là cái nhìn của sự dốt nát.
Tính bất ngờ của cái hài đều gắn với tiếng cười đều xoáy vào những điểm
yếu của con người và con người có điểm yếu. Ở đây cái hài sẽ có ý nghĩ
thẩm mỹ xã hội sâu rộng nếu nó có tính giá trị nhân loại và văn hoá.
- Cái hài gắn với tiếng cười – tiếng cười tích cực. Cái hài có chủ thể
là tiếng cười là bộ phận tạo thành tính tồn vẹn của các yếu tố hài. Trong đó
yếu tố bất ngờ và từ sự bất ngờ này đến sự bất ngờ khác đều hướng tới mục
đích khêu gợi tiếng cười. Tiếng cười thẩm mỹ của cái hài là tiếng cười tích
cực chống lại và phê phán cái xấu, cái thấp hèn ủng hộ cái đẹp, đón đỡ cái
đẹp, xây dựng cái đẹp và khẳng định tính tất thắng của cái đẹp.
Câu 2: Anh/chị hãy trình bày những nhận xét của mình về sân
khấu hài ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay
Lâu nay, nghệ sĩ hài nổi tiếng sống tốt bằng nghề, "chạy sô" không
hết việc. Mặc dù vậy, nhìn nhận dưới góc độ tổ chức và quản lý thì hài chưa
bao giờ được quan tâm một cách "chính quy". Sự phát triển của hài kịch
trong đời sống sân khấu vẫn là tự phát. Ý thức được điều đó, Hội Nghệ sĩ
Sân khấu Việt Nam quyết định tổ chức Liên hoan sân khấu hài toàn quốc
lần đầu tiên nhằm rà soát, đánh giá lại thực trạng của sân khấu hài.
Hài kịch xưa nay vốn được xem là một "đặc sản" của nghệ thuật sân
khấu, mang lại tiếng cười, niềm vui cho khán giả. Những năm qua, trong khi
chúng ta chứng kiến sự "long đong" của sân khấu chính thống trong việc tìm
kiếm khán giả thì tình hình lại khơng đến nỗi bi quan đối với hài. Các
chương trình hài kịch của các đoàn nghệ thuật thường dễ "dụ" được khán
giả tới nhà hát hơn là các vở diễn chính kịch. Nghệ sĩ hài nổi tiếng sống tốt
bằng nghề, "chạy sơ" khơng hết việc. Mặc dù vậy, nhìn nhận dưới góc độ tổ
chức và quản lý thì hài chưa bao giờ được quan tâm một cách "chính quy".
11
Sự phát triển của hài kịch trong đời sống sân khấu vẫn là tự phát, theo kiểu
có cung thì có cầu.
Ý thức được điều đó, và trước thực trạng u ám của sân khấu nhiều
năm qua, Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam quyết định tổ chức Liên hoan sân
khấu hài tồn quốc lần đầu tiên nhằm rà sốt, đánh giá lại thực trạng của sân
khấu hài, định vị tầm quan trọng của loại hình nghệ thuật này trong đời sống
đương đại. Trên cơ sở đó đề ra những định hướng, chiến lược cụ thể cho sự
phát triển của hài kịch trong tương lai.
Sân khấu ngày nay đứng trước nguy cơ, tồn tại hay khơng tồn tại.
Nhiều đồn nghệ thuật đã phải tự giải thể khi qua thời bao cấp và không
chống đỡ nổi khi ra cơ chế thị trường. Sân khấu quanh năm ảm đạm, nhà hát
đóng cửa im ỉm thi thoảng đôi ba lần sáng đèn chiếu lệ khi có sự kiện, chỉ
đến mỗi kì hội diễn, liên hoan mới tưng bừng đua sắc.
Nhưng, thời gian được đắm mình trong khơng khí hội hè đình đám ấy
cũng chỉ được mấy ngày rồi lại quay về cảnh đìu hiu, vắng lặng. Không
được bao cấp, các nghệ sĩ từ những đơn vị nghệ thuật vật vã mưu sinh, chạy
đua bằng việc diễn hàng loạt tiểu phẩm hài để bóc ngắn, cắn dài.
Khán giả bây giờ, cơng bằng mà nói cũng có thói quen đi xem sân
khấu để giải trí là chủ yếu. Vì vậy, để tồn tại nhiều Nhà hát từ Nam chí Bắc
đều phải đi "săn" các tiểu phẩm hài mua vui khán giả và cũng được sáng
đèn sân khấu.
Một số các đơn vị nghệ thuật nằm ở vị trí đắc địa của Thủ đơ, từ Nhà
hát Tuổi Trẻ trên phố Ngơ Thì Nhậm, đến Nhà hát kịch Hà Nội trên phố
Tràng Tiền, tới Nhà hát Chèo Hà Nội phố Nguyễn Đình Chiểu, tiếp theo
Sân khấu Lệ Ngọc phố Huế... vẫn thường xun duy trì bên cạnh những vở
chính kịch, là song song những tiết mục hài kịch.
Dựng hài kịch kinh phí khơng lớn, thời gian khơng nhiều mà khán giả
vẫn đều đều đến rạp. Dựng chính kịch, hay còn là kịch luận đề, kịch tâm lý
xã hội, mất nhiều thời gian, công sức, tiền của mà hiệu quả khán giả chưa
chắc mang lại như mong muốn. Có những đơn vị nghệ thuật, vở chính kịch
chỉ là để cho diễn viên thêm Huy chương Vàng, Huy chương Bạc sau mỗi kì
hội diễn, sau này thêm điều kiện khi xét tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú, Nghệ
sĩ nhân dân. Sau buổi "tàn canh" vở diễn ngốn nhiều kinh phí ấy lại bị "bó
xó". Đã qua rồi thời kì sân khấu một thời vàng son từ những năm đầu thập
niên 80 của thế kỷ trước. Lúc đó những đơn vị Nghệ thuật biểu diễn (Tuồng,
chèo, cải lương, dân ca, kịch), từ Trung ương đến địa phương hoạt động tấp
nập, những đêm diễn ln chật kín khán giả.
Nói về ngun nhân vì sao sân khấu thưa vắng khán giả, đạo diễn,
NSND Dỗn Hồng Giang, ngun Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Sân Khấu
Việt Nam ngậm ngùi một nỗi thực tế:
"Khán giả ngày nay có q nhiều kênh giải trí để theo dõi. Họ không
xếp hàng đi mua vé xem sân khấu nữa vì ở nhà đã có cái tivi tha hồ xem đủ
12
cách kênh. Đầu tiên phải nói đến các chương trình truyền hình, trước đây cả
nước chỉ có vài ba đài truyền hình ở các thành phố lớn, sau này địa phương
nào cũng có kênh truyền hình riêng, chưa kể là ngay các Bộ cũng thành lập
kênh truyền hình của riêng Bộ mình.
Thêm nữa, mỗi một đài truyền hình cịn có nhiều kênh để khán giả
thoải mái lựa chọn với những tiêu chí riêng. Hàng loạt các chương trình
game show hấp dẫn, phim truyền hình lên ngơi, phim Mỹ, phim hành động
nước ngoài với hàng chục kênh khác nhau để lựa chọn.
Thời đại cơng nghệ 4.0, chỉ cần có một chiếc laptop bạn có thể kết nối
với cả thế giới. Những chương trình thơng minh của máy tính với Facebook,
Internet báo mạng khiến cho con người khó có thể rời nó, và rồi tất cả
những điều đó làm cho sân khấu đứng trước sự lao đao, khó khăn đi dần vào
ngõ cụt vì khơng cịn là lự chọn hàng đầu của khán giả".
Bây giờ, hỏi tên diễn viên nổi tiếng, người ta chỉ nhớ đến tên của diễn
viên hài: Trấn Thành, Trường Giang, Hoài Linh, Thành Trung. Một số diễn
viên nổi lên "phần phật" nhờ công nghệ của truyền thông, nhờ tham gia ngồi
ghế nóng trong các game show truyền hình, hoặc may mắn có vai trong một
bộ phim truyền hình ăn khách được chiếu vào giờ vàng.
Những diễn viên đình đám như NSƯT Xuân Bắc, NSND Tự Long,
NSND Công Lý, NSƯT Quốc Khánh, NSƯT Chí Trung được khán giả cả
nước biết đến cũng nhờ cả vào sự chạy sô game show và xuất hiện xúng
xính trong chương trình "Gặp nhau cuối năm" trên ti vi vào dịp tối 30 Tết.
Nếu ví điện ảnh, truyền hình là biển cả mênh mơng thì trái lại sân
khấu chỉ là một cái hồ nhỏ hẹp. Nhưng cái hồ đấy đã từng có lúc rất đẹp như
nói đến mùa thu thì khơng thể khơng có hồ nước trong xanh, tĩnh lặng. Tiếc
thay, hồ nước ấy ngày nay bị xâm lấn và co cụm lại chỉ thành một cái ao. Và
lắm lúc là một cái ao bèo.
Đời sống sân khấu ngày hôm nay thiếu kịch bản hay, thiếu những nhà
phê bình lý luận giỏi. Những nhà lý luận phê bình được đào tạo ở các nước
XHCN khi xưa như Liên Xô, Tiệp Khắc, Bungari, Trung Quốc... thì nay đã
người cịn, người mất. Người cịn tuổi cũng đã cao, mắt mờ, xương đau
không đủ sức khoẻ để xem một vở diễn kéo dài hai tiếng đồng hồ trên sân
khấu. Trường Đại học Sân khấu & Điện ảnh Hà Nội là cái nôi đào tạo ra
những nhà lý luận phê bình sân khấu tương lai thì đội ngũ này lại quá mỏng,
èo uột.
Đời sống đang ăm ắp những điều nhức nhối như vấn nạn tham ô,
tham nhũng của những viên quan tham hàng triệu đơ, vơ vét bịn rút tiền của
của nhà nước đang chờ thi hành án. Cảnh gia đình máu mủ tàn sát chém giết
lẫn nhau vì tranh giành đất đai, nhà cửa mất đi mấy mạng người khơng cịn
là điều hiếm gặp. Vợ chồng xơ xát, con cái hư hỏng hỗn hào. Sự lạnh lùng,
dửng dưng của người dân trước cái ác đầy rẫy trong cuộc sống xung quanh
ta.
13
Dường như, thiếu đâu đó tiếng nói hơi hổi hơi thở đời sống, một tài
năng biên kịch sân khấu đích thực. Từ ngày nhà biên kịch nổi tiếng Lưu
Quang Vũ mất đi, đến giờ đã qua cả một chặng đường dài 30 năm có lẻ,
trơng ngóng mịn mỏi mãi mà vẫn chưa tìm thấy một gương mặt xuất sắc để
thay thế?!
Đã có những đêm diễn phải trả lại vé khán giả vì q ít người xem.
Câu trả lời là phải có khán giả, nếu khơng có khán giả thì sẽ khơng có sân
khấu.
14