Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Dĩ bất biến, ứng vạn biến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.6 KB, 8 trang )

Đề: Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dĩ bất biến, ứng vạn
biến”. Bằng sự kiện lịch sử giai đoạn 1945 – 1946 hãy làm rõ
nội dung trên? Rút ra bài học gì cho bản thân?
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, trong tình thế “thù trong, giặc
ngồi”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với chính quyền cách mạng non
trẻ đã nỗ lực hết sức mình để đưa đất nước thốt khỏi cảnh “ngàn
cân treo sợi tóc”. Chuyến sang Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào
ngày 31/5/1946 là một trong những cố gắng ấy. Trước khi lên máy
bay, Người đến và nắm tay cụ Huỳnh Thúc Kháng (lúc bấy giờ là Bộ
trưởng Bộ Nội vụ, được Bác tạm giao quyền Chủ tịch nước khi Bác đi
Pháp), nói: “Tơi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở
nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng với anh em giải quyết cho.
Mong Cụ “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Chính từ lời căn dặn ấy của
Bác, cụ Huỳnh đã giải quyết suôn sẻ, hiệu quả và rất hợp lòng dân
mọi gay cấn ở trong nước và bảo vệ được Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà.
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là lấy cái không thay đổi – mục tiêu
cách mạng, để đối phó với vạn thay đổi từ trong thực tiễn sao cho hiệu
quả – sách lược cách mạng. Đối với cách mạng Việt Nam, cái “bất
biến” đó chính là nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một;
độc lập dân tộc, thống nhất đất nước không bao giờ thay đổi; độc lập
dân tộc gắn liền xã hội chủ nghĩa là mục tiêu chiến lược của cách
mạng Việt Nam. Tất cả điều đó là chân lý và là mục tiêu của cách
mạng Việt Nam. Tuy nhiên, phải biết sáng tạo để “ứng vạn
biến”, khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt về sách lược với mọi âm mưu
thủ đoạn của kẻ thù. Chính bằng thực tiễn cách mạng của Việt Nam
là minh chứng khách quan và đầy tính thuyết phục về phương châm
cách mạng do Người đưa ra; đồng thời, đây còn là kinh nghiệm quý
về vận dụng nó trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn khác nhau của cách
mạng.
1




Cách mạng tháng 8 đánh dấu một kỷ nguyên mới trong lịch sử
dân tộc: Kỷ nguyên độc lập, tự do. Cùng với diễn biến của tình hình
thế giới đã mang lại cho Việt Nam khơng ít thuận lợi trong việc quản
lý và xây dựng đất nước. Tuy nhiên không thể tránh khỏi phải đối
mặt với mn vàn khó khăn, thử thách.
Ở miền Bắc, đầu tháng 9/1945, 20 vạn quân Tưởng vào miền
Bắc với danh nghĩa quân đồng minh vào giải giáp vũ khí Nhật bại
trận, nhưng thực tế là thực hiện âm mưu thâm độc của Mỹ là tiêu
diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh và lật đổ chính quyền nhân dân, lập
chính phủ bù nhìn làm tay sai cho chúng. Ở miền nam, Anh ủng hộ
thực dân Pháp đánh chiếm lại Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ, đồng
thời có kế hoạch chiếm lại cả Ðơng Dương. Dựa vào thế chủ, bọn
phản cách mạng trong nước, bọn thân Mỹ, thân Tưởng, thân Pháp ra
sức phá hoại, hoành hành, cướp chính quyền ở địa phương, lập căn
cứ địa chống Việt Minh, chống Chính phủ. Nền kinh tế nơng nghiệp
trong nước lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá, nạn đói năm 1945
chưa được khắc phục. Ngân sách trống rỗng. Hơn 90% dân số khơng
biết chữ. Trong khi đó, chính quyền cách mạng vừa mới thành lập,
chưa được củng cố, lực lượng vũ trang cịn non yếu, chưa có kinh
nghiệm quản lý Nhà nước.
Trước tình thể đó, bằng sự lãnh đạo bình tĩnh, sáng suốt và đặc
biệt sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Ðảng ta đã thực
hiện mọi biện pháp để giữ vững chính quyền cách mạng, làm thất
bại mọi âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và đưa nước ta ra khỏi hiểm
nghèo. Chống giặc đói, chống giặc dốt và chống giặc ngoại xâm là
ba nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu.
Ngày 3/9/1945, Bác đã đề nghị Chính phủ thực hiện ngay sáu
nhiệm vụ cấp bách trong thời kỳ mới. Nhiệm vụ đầu tiên là việc giải

quyết nạn đói. Người coi “chống đói cũng như chống ngoại xâm”.
Trong thư gửi đồng bào toàn quốc ra sức cứu đói tháng 9/1945, Hồ
2


Chí Minh đề nghị với đồng bào cả nước phát động phong trào “hũ
gạo cứu đói”, kêu gọi: "Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay!
Tăng gia sản xuất nữa!". Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, sản
xuất nơng nghiệp nhanh chóng được khơi phục và có bước phát triển
hơn trước. Nạn đói được đẩy lùi, đời sống của nhân dân được dần
dần ổn định và cải thiện một bước.
Tiếp sau đó là nhiệm vụ chống nạn mù chữ trong tồn quốc.
Ngày 8/9/1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà ban hành Sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ để “trơng
nom việc học của nhân dân”. Sau khi được ban hành, phong trào
phát triển rộng khắp, ở các địa phương, nơi nào cũng có thể trở
thành lớp học. Nhờ đó, chỉ sau một năm thực hiện, ta đã mở được
15.000 lớp học, đào tạo 95.000 giáo viên. Nạn mù chữ được thanh
toán một bước quan trọng.
Một nhiệm vụ nữa mà Chính phủ lâm thời đặt ra là tổ chức càng
sớm càng tốt cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu và
lập ra Hiến pháp dân chủ. Trong tình thế cách mạng mn vàn khó
khăn, Hồ Chí Minh đã nhanh chóng lãnh đạo tổng tuyển cử bầu Quốc
hội để có cơ sở xây dựng Hiến pháp 1946. Hiến pháp 1946 khẳng
định sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trước cộng
đồng quốc tế.
Rạng sáng 23/9/1945, thực dân Pháp tiến hành gây hấn, đánh
chiếm các cơ quan đầu não của chính quyền cách mạng ở Sài Gịn,
mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Bác Hồ gửi
thư cho đồng bào Nam Bộ, khẳng định quyết tâm kháng chiến của

Trung ương Đảng, Chính phủ và nhân dân cả nước. Hưởng ứng lời
Bác Hồ kêu gọi, từ khắp các địa phương ở Bắc Bộ và Trung Bộ, các
đội quân Nam tiến nối tiếp nhau lên đường vào Nam giết giặc, cứu
nước, đồng bào miền Nam phát động cuộc chiến tranh du kích rộng
khắp, bao vây địch trong thành phố, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch,
3


làm thất bại âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của chúng. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nhân dân Nam Bộ đã nhất tề đứng lên, tiến ra
mặt trận quyết chiến với quân xâm lược với tinh thần và khí thế sục
sôi.
Với bối cảnh Việt Nam trong những năm 1945 – 1946, Hồ Chí
Minh khẳng định: “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hịa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc,
nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”. Đảng ta xác định: quân Tưởng
tìm mọi cách để tiêu diệt Đảng Cộng sản Đơng Dương, phá tan Việt
Minh, lật đổ chính quyền cách mạng. Song kẻ thù chính của nhân
dân ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa
đấu tranh vào chúng.
Vì vậy, Đảng thực hiện sách lược “Hoa – Việt thân thiện” tạm
thời hồ hỗn, nhân nhượng với quân Tưởng và tay sai của chúng ở
miền Bắc. Từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 3 năm 1946, cung cấp
lương thực cho 20 vạn quân Tưởng, chấp nhận tiêu tiền quan kim,
quốc tệ của chúng, mở rộng 70 ghế trong Quốc hội cho Việt Quốc,
Việt Cách không qua bầu cử,… với những sách lược đó chúng ta đã
củng cố và giữ vững được chính quyền cách mạng, tạo điều kiện tập
trung lực lượng chống Pháp ở miền Nam. Theo đó, đã từng bước phá
tan âm mưu “Diệt Cộng cầm Hồ”, “Hoa quân nhập Việt”, lật đổ chính
quyền cách mạng Việt Nam của Tưởng Giới Thạch.

Ngày 28/2/1946, Chính phủ Tưởng Giới Thạch ở Trùng Khánh đã
ký với Pháp Hiệp ước Hoa – Pháp nhằm mua bán, trao đổi lợi ích, để
cứu vãn quyền lợi chung của đế quốc. Chúng cho quân Pháp vào
thay quân Tưởng ở Bắc Ðông Dương. Dù vậy, quân Tưởng đóng ở
miền Bắc nước ta vẫn tiếp tục âm mưu phá hoại cách mạng Việt
Nam, khơng chịu rút qn, hịng ép chính phủ ta phải cải tổ để đưa
bọn tay sai của chúng vào.

4


Nhằm tranh thủ thời gian, củng cố lực lượng, tránh đối đầu cùng
lúc với nhiều kẻ thù, sau những cuộc thương lượng và nhân nhượng
có ngun tắc, ngày 6/3/1946, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đã ký với Pháp Hiệp định Sơ bộ. Theo đó, Pháp phải cơng nhận
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do, có chính phủ,
quốc hội, qn đội và tài chính riêng, nằm trong liên bang Đông
Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp và cam đoan thừa nhận kết quả
trưng cầu dân ý về vấn đề thống nhất ba kỳ (Bắc, Trung, Nam). Đổi
lại Chính phủ ta đồng ý cho 15.000 quân Pháp được vào thay thế
quân Tưởng vào miền Bắc và sẽ rút khỏi Việt Nam sau 5 năm, mỗi
năm rút một phần năm. Quân đội hai bên ngừng bắn và ở nguyên vị
trí. Hai bên sẽ mở cuộc đàm phán tại một trong ba nơi: Hà Nội, Sài
Gòn hoặc Paris.
Hiệp định Sơ bộ thể hiện sự mềm dẻo về sách lược, linh hoạt
trong đấu tranh, nhưng vẫn kiên định với quan điểm độc lập dân tộc.
Hiệp định đã phá tan được vịng vây nguy hiểm của kẻ thù, khơng
cho Pháp liên minh với Tưởng, loại trừ được 20 vạn quân Tưởng, tiêu
diệt bọn tay sai của chúng, tập trung được lực lượng vào kẻ thù
chính là thực dân Pháp. Đồng thời tranh thủ được thời gian hịa

hỗn, để củng cố lực lượng về mọi mặt, chuẩn bị điều kiện cho cuộc
kháng chiến sau này. Đó cũng là sách lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trên nguyên tắc “dĩ bất biến ứng vạn biến”.
Từ những chủ trương đúng đắn, sách lược linh hoạt, mềm dẻo
mà Đảng, Chính phủ ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện để củng
cố, giữ vững nền độc lập dân tộc trong những năm 1945 – 1946 cho
thấy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh độc lập dân tộc, thống nhất Tổ
quốc và tự do, hạnh phúc cho nhân dân là cái “bất biến” phải giữ
vững, không được thay đổi; còn sách lược linh hoạt, mềm dẻo là cái
“vạn biến”, cịn phải tùy điều kiện hồn cảnh, tùy đối tượng cụ thể

5


để vận dụng linh hoạt, khéo léo những phương pháp, cách thức giao
tiếp khác nhau để đạt được cái “bất biến” đó.
Nói một cách tổng quát, tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến”
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết hợp chặt chẽ giữa đường lối cách
mạng (cái bất biến) và phương pháp cách mạng (cái vạn biến). Để
thực hiện được đường lối cách mạng (cái bất biến), thì phương pháp
cách mạng trong từng thời kỳ cụ thể phải mềm dẻo, uyển chuyển,
linh hoạt (cái vạn biến). Đồng thời, tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn
biến” của Hồ Chí Minh cịn có nghĩa là lấy cái bất biến (cái khơng
thay đổi) ứng phó với cái vạn biến (cái thay đổi); ứng phó với cái vạn
biến nhưng khơng xa rời, vứt bỏ, đánh mất cái bất biến.
Độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia dân tộc luôn
là những vấn đề thiêng liêng, tối thượng của dân tộc ta. Những giá
trị cốt lõi này thể hiện một cách xuyên suốt, nhất quán trong đường
lối, chủ trương của Đảng và trong tư tưởng của Hồ Chí Minh. Người
nêu rõ: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không

chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Trong “Lời kêu gọi
chống Mỹ cứu nước”, một lần nữa Người khẳng định: “Khơng có gì
q hơn độc lập, tự do”. Trong suốt quá trình cách mạng, Đảng, Nhà
nước ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln kiên định mục tiêu vì độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên cả nước (cái bất biến), để sẵn sàng
đối phó với các âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù (cái vạn biến).
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” không chỉ là lời căn dặn riêng mà đã
trở thành một phương

châm

cách

mạng xuyên suốt và

nhất

quán được Bác Hồ cùng với Đảng thực hiện trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Trên thế giới và ngay tình thế của cách
mạng luôn vận động, thay đổi, nhưng giá trị chân lý và mục tiêu cách
mạng thì khơng thể thay đổi. Người làm cách mạng cần phải đứng
vững trên một chân lý cách mạng, phải kiên định với mục tiêu cách

6


mạng đã lựa chọn để đối phó với những tình huống phức tạp xảy ra
trong thực tế ở mỗi thời kỳ.
Hiện nay, dù sống trong thời kỳ hịa bình nhưng với sự diễn biến
phức tạp, khó lường trong ngoại giao các nước. Thì việc nghiên cứu,

vận dụng phương pháp ngoại giao “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác đối ngoại,
góp phần giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để xây dựng và
phát triển đất nước là điều rất cần thiết. Các thế hệ của dân tộc Việt
Nam nói chung và với bản thân tơi nói riêng, cần phải nghiên cứu,
học hỏi và rèn luyện phẩm chất bản lĩnh chính trị ấy. Đó là tinh thần
khơng ngại khó khăn, gian khổ, không sợ bất cứ một kẻ thù nào;
không chùn bước trước khó khăn, khơng lay chuyển trước cám dỗ,
ln giữ vững tình u với Tổ quốc. Đặc biệt trong thời kỳ hội nhập
với thế giới, bản lĩnh chính trị vững vàng sẽ giúp cho bản thân tôi
đứng vững trước những cám dỗ, thách thức và nguy cơ của các thế
lực thù địch. Đồng thời, tự tin ứng phó với những thay đổi, biến động
của cuộc sống, cống hiến sức mình vào cơng cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Là những người trẻ mang trong mình tình yêu đất nước nồng
nàn, bản thân tôi ý thức được một cách sâu sắc vai trị, trách nhiệm,
nghĩa vụ của mình đối Tổ quốc khơng chỉ là học tập, rèn luyện mà
cịn phải biết cống hiến và hy sinh. Trước đây, khi đất nước còn chiến
tranh, người thanh niên yêu nước là người cầm súng lên đường bảo
vệ Tổ quốc, chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Ngày nay, trong điều
kiện hịa bình, người thanh niên yêu nước là người thanh niên biết đi
đầu gương mẫu trong mọi việc để xứng đáng với truyền thống của
dân tộc. Do đó bản thân tơi ln cố gắng phấn đấu trong học tập,
nghiên cứu về những tư tưởng đường lối của Đảng của Bác, củng cố
thêm về kiến thức cũng như về niềm tin vào Đảng, niềm tự hào dân
tộc. Trong đó có sự học tập và vận dụng phương châm “Dĩ bất biến
7


ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh vào cơng tác hằng ngày, để tự rèn

luyện để tự hoàn thiện bản thân, ngày càng tiến bộ.

8



×