Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Vấn đề kiểm soát giao dịch giữa các công ty trong nhóm công ty theo luật doanh nghiệp 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 57 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
-----------***-----------BAN ĐIỀU HÀNH
CÁC CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

LÊ TRẦN QUỲNH THY

VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT GIAO DỊCH
GIỮA CÁC CƠNG TY TRONG NHĨM CƠNG TY
THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khoa: Luật Thương mại
Niên khóa: 2012 - 2016

Người hướng dẫn khoa học: Thạc sĩ Từ Thanh Thảo
Người thực hiện: Lê Trần Quỳnh Thy
MSSV: 1253801011814
Lớp: CLC37B

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Từ Thanh Thảo, đảm bảo tính
trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 7 năm 2016


Tác giả

LÊ TRẦN QUỲNH THY


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
Luật Các tổ chức tín dụng 2010
Luật Doanh nghiệp 2005
Luật Doanh nghiệp 2014

NỘI DUNG ĐƢỢC VIẾT TẮT
Luật Các tổ chức tín dụng (Luật số
47/2010/QH12) ngày 16/6/2010
Luật
Doanh
nghiệp
(Luật
số
60/2005/QH11) ngày 29/11/2005
Luật
Doanh
nghiệp
(Luật
số
68/2014/QH13) ngày 26/11/2014


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NHĨM CƠNG TY VÀ CƠ CHẾ KIỂM SỐT
GIAO DỊCH GIỮA CÁC CƠNG TY TRONG NHĨM CƠNG TY THEO LUẬT
DOANH NGHIỆP 2014 ................................................................................................. 6
1.1 Khái qt về nhóm cơng ty và thành viên nhóm cơng ty ........................................... 6
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của nhóm cơng ty........................................................... 6
1.1.2 Q trình hình thành và phát triển của nhóm cơng ty ....................................... 13
1.1.3 Vai trị của nhóm cơng ty và pháp luật điều chỉnh nhóm cơng ty trong nền kinh
tế Việt Nam ................................................................................................................. 16
1.2 Khái quát cơ chế kiểm soát giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty theo
Luật Doanh nghiệp 2014 ................................................................................................ 19
1.2.1 Cơ chế kiểm soát giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty theo Luật
Doanh nghiệp 2014 ..................................................................................................... 19
1.2.2 Các giao dịch cần kiểm soát giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty theo Luật
Doanh nghiệp 2014 ..................................................................................................... 21
CHƢƠNG 2: KIỂM SOÁT GIAO DỊCH GIỮA CÁC CƠNG TY TRONG NHĨM
CƠNG TY THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 – THỰC TRẠNG VÀ HƢỚNG
HOÀN THIỆN .............................................................................................................. 27
2.1 Thực trạng kiểm sốt giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm công ty theo Luật
Doanh nghiệp 2014 ........................................................................................................ 27
2.1.1 Thực trạng kiểm soát giao dịch tư lợi ................................................................ 27
2.1.2 Thực trạng kiểm sốt giao dịch góp vốn hoặc mua cổ phần ............................. 31
2.1.3 Thực trạng kiểm soát giao dịch cho vay và bảo lãnh vay.................................. 36
2.1.4 Thực trạng kiểm soát giao dịch chuyển giá ....................................................... 38
2.2 Kiến nghị hoàn thiện vấn đề kiểm sốt giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm cơng
ty theo Luật Doanh nghiệp 2014 .................................................................................... 40
2.2.1 Ngun tắc định hướng hồn thiện các quy định kiểm sốt giao dịch giữa các
cơng ty trong nhóm cơng ty trong Luật Doanh nghiệp 2014...................................... 40
2.2.2 Các kiến nghị hoàn thiện cụ thể kiểm sốt giao dịch giữa các cơng ty trong
nhóm cơng ty trong Luật Doanh nghiệp 2014 ............................................................ 41
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 48

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 50


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Có thể nói nhóm cơng ty là mơ hình được lựa chọn hình thành và phát triển phổ
biến tại nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế phát
triển. Vai trị của nhóm cơng ty ngày càng được khẳng định là dựa trên những đóng
góp to lớn hình thành từ ưu thế của mối liên kết đặc biệt giữa các cơng ty trong nhóm.
Chính mối liên kết này giúp cho các cơng ty trong nhóm hoạt động bền vững và linh
hoạt hơn trong môi trường cạnh tranh so với các chủ thể khác. Tuy nhiên, cũng chính
mối liên kết này mang lại nhiều vấn đề pháp lý phức tạp địi hỏi sự kiểm sốt đặc thù
của pháp luật đối với giao dịch được thực hiện giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty.
Việc các cơng ty trong nhóm thực hiện giao dịch với nhau là một nhu cầu
thương mại chính đáng, rất phổ biến trên thị trường hiện nay ở Việt Nam cũng như trên
thế giới. Xuất phát từ bản chất kinh tế – xã hội của việc hình thành nhóm cơng ty, các
giao dịch này có một số ưu điểm nhất định. Mối liên kết giúp các cơng ty trong nhóm
thơng hiểu nhau nên việc giao kết giao dịch giữa các bên dễ đạt được thỏa thuận chung,
việc thực hiện giao dịch cũng linh hoạt hơn và việc giải quyết tranh chấp phát sinh (nếu
có) cũng thường dễ dàng, thuận lợi, tiết kiệm thời gian và chi phí hơn.1 Đồng thời, với
mục tiêu hoạt động mang lại lợi ích chung, giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể
này vừa tăng cường cơ hội hợp tác phát triển, vừa đảm bảo giữ bí mật kinh doanh.
Chính vì những lý do đó, pháp luật khơng thể và cũng không nên cấm việc thực hiện
giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty.2 Mặc dù vậy, pháp luật, đặc biệt là
pháp luật doanh nghiệp, cũng không thể bng lỏng trong việc kiểm sốt các giao dịch
được thực hiện giữa những chủ thể này. Dù mang lại những ưu thế nhất định, việc thực
hiện giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm cũng tạo ra nhiều vấn đề pháp lý phức tạp,
có khả năng rủi ro cao, tác động xấu đến tính lành mạnh của mơi trường cạnh tranh,
đến tính an tồn của nền kinh tế và ảnh hưởng khơng nhỏ đến quyền và lợi ích hợp

pháp của các bên thứ ba trong mối quan hệ với nhóm cơng ty (bao gồm trong đó là
quyền lợi của các thành viên hoặc cổ đông thiểu số, đối tác kinh doanh, chủ nợ của
công ty và Nhà nước) nếu các giao dịch này khơng được kiểm sốt đúng mức và phù
hợp. Những ảnh hưởng và tác động xấu nêu trên thường là hệ quả của một số loại
(nhóm) giao dịch điển hình, như (i) giao dịch tư lợi (phục vụ cho mục đích và lợi ích
riêng của một hoặc một số cơng ty thành viên), (ii) giao dịch góp vốn, mua cổ phần dẫn
đến tình trạng “sở hữu chéo” (nguy cơ dẫn đến tình trạng vốn “ảo” hoặc nợ xấu khó
giải quyết), (iii) giao dịch cho vay, bảo lãnh vay không phù hợp với điều kiện thương
mại thông thường (nguy cơ dẫn đến mất cân bằng, ổn định của dịng tiền, nguy cơ thiệt
hại cao mang tính hệ thống khi cơng ty thành viên mất khả năng thanh tốn), (iv) giao

1

Nguyễn Thị Vân Anh (2013), “Nhận diện người có liên quan và giao dịch giữa công ty với người có liên quan”,
Tạp chị Luật học, số 12/2013, trang 5.
2
Bùi Thị Thanh Thảo (2015), “Một số quy định của pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa các thành viên trong
nhóm cơng ty”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 2/2015, trang 20.

1


dịch chuyển giá (nhằm che giấu lãi, lỗ và trốn tránh nghĩa vụ về thuế) và (v) một số
giao dịch khác trong các lĩnh vực đặc thù như giao dịch đấu thầu, kiểm toán,…
Trước nguy cơ và rủi ro gây thiệt hại nghiêm trọng như vậy, với tư cách là pháp
luật điều chỉnh hoạt động nhóm cơng ty, pháp luật doanh nghiệp hiện hành của nước ta,
mà quan trọng là Luật Doanh nghiệp 2014, lại chưa xây dựng được cơ chế hiệu quả,
khoa học và phù hợp để kiểm soát giao dịch được thực hiện giữa những chủ thể này.
Một cách tổng quát, ở Luật Doanh nghiệp 2014, các quy định kiểm sốt về (i) giao dịch
tư lợi giữa cơng ty mẹ và cơng ty con cịn chưa rõ ràng (ii) giao dịch góp vốn, mua cổ

phần, phần vốn góp dẫn đến tình trạng sở hữu chéo cịn chưa phù hợp, (iii) giao dịch
cho vay, bảo lãnh vay và giao dịch chuyển giá cịn thiếu sót.
Chính vì thế, tác giả cho rằng đề tài khóa luận cử nhân nghiên cứu “Vấn đề
kiểm sốt giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty theo Luật Doanh nghiệp
2014” là hồn tồn cần thiết. Những vấn đề được nghiên cứu, đề xuất và kiến nghị
trong đề tài sẽ là một trong những cơ sở quan trọng góp phần hồn thiện những hạn
chế, bất cập trong các quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 trên lĩnh vực này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến thời điểm hiện nay, trên thế giới cũng như tại Việt Nam, có khơng ít
các tài liệu, đề tài, cơng trình, luận văn, luận án của nhiều tác giả tiến hành công tác
nghiên cứu khoa học xoay quanh vấn đề kiểm sốt giao dịch giữa các cơng ty trong
nhóm cơng ty. Tuy vậy, so với Việt Nam, số lượng và phạm vi nghiên cứu của các bài
viết khoa học pháp lý về kiểm soát giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty
(intra – group transactions) trên thế giới, đặc biệt ở các quốc gia phát triển về pháp
luật công ty (như Anh, Mỹ, Đức, Nhật), phong phú, đa dạng và sâu rộng hơn. Điển
hình có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu như Harry Rajak (2009), “Corporate
Groups and Cross – Border Bankruptcy”, Texas International Law Journal, Vol. 44
6/2009 cho người đọc nhận thấy những vấn đề pháp lý phức tạp khi một thành viên của
nhóm phá sản và trách nhiệm pháp lý của các thành viên cịn lại của nhóm (ngay cả khi
các thành viên này thuộc các quốc gia có quyền tài phán khác nhau) trong việc xử lý
các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản phát sinh từ các giao dịch; Mark Stamp (2012),
Practical Company Law and Corporate Transactions, Sweet and Maxwell đưa ra
những phân tích và bình luận về sự điều chỉnh của Luật Công ty Vương quốc Anh
2006 (Companies Act 2006) cùng một số các giao dịch điển hình trên thực tế, trong đó
có giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty; Phillip I. Blumberg (1986),
“Limited Liability and Corporate Groups”, The Journal of Corporation Law, Vol.11
bình luận và phân tích về những vấn đề pháp lý đặc trưng trong chế độ trách nhiệm hữu
hạn trong nhóm cơng ty; hay Eiji Takahashi (2006), “Japanese Corporate Groups under
the New Legislation”, ECFR, Vol. 3/2016 cho người đọc những cái nhìn tổng quan của
tác giả về sự điều chỉnh của pháp luật Nhật Bản hiện hành đối với mơ hình nhóm cơng

ty, trong đó có một số giao dịch được thực hiện giữa các cơng ty trong nhóm.
Trong khi các vấn đề pháp lý phức tạp, gây nhiều tranh cãi về sự kiểm soát của
pháp luật đối với giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm được bình luận và nghiên cứu
một cách sôi nổi, đa dạng và phong phú tại nhiều quốc gia đã và đang phát triển trên
thế giới thì trong suốt một thời gian dài trước khi Luật Doanh nghiệp 2014 ra đời ở
2


Việt Nam, các cơng trình nghiên cứu về nhóm cơng ty chủ yếu chỉ xoay quanh các khía
cạnh như (i) chuyển đổi mơ hình hoạt động của nhóm cơng ty, (ii) mối quan hệ giữa
các cơng ty trong nhóm cơng ty, (iii) việc thành lập, cơ cấu tổ chức, quản trị nội bộ,
quản lý tài chính trong nhóm cơng ty, (iv) quản lý Nhà nước đối với nhóm cơng ty hay
(iv) địa vị pháp lý của nhóm cơng ty trong nền kinh tế, mà ít đề cập và phân tích sâu
những vấn đề pháp lý liên quan đến giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm. Do đó, ở
các cơng trình nghiên cứu trước đây, tác giả nhận thấy các vấn đề pháp lý liên quan đến
giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty chỉ thường được đề cập và phân tích với
tư cách là một bộ phận có liên quan đến đối tượng nghiên cứu của đề tài mà chưa phải
là một đối tượng được nghiên cứu sâu rộng và phổ biến.
Cho đến vài năm trở lại đây, trước thực trạng những thiệt hại “khổng lồ” gây ra
từ sự kiểm soát chưa hiệu quả của pháp luật đối với giao dịch giữa các cơng ty trong
nhóm, vấn đề pháp lý này bắt đầu nhận được sự quan tâm sâu sắc hơn. Nhiều bài viết
chuyên sâu nghiên cứu cơ chế kiểm soát hiệu quả đối với giao dịch giữa các cơng ty
trong nhóm cơng ty được ra đời, tiêu biểu như Hà Thị Thanh Bình (2015), “Điều chỉnh
mối quan hệ giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty theo Luật Doanh nghiệp”, Tạp chí
Khoa học Pháp lý, số 5/2015, trang 15 – 22; Bùi Thị Thanh Thảo (2015), “Một số quy
định của pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa các thành viên trong nhóm cơng ty”,
Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 2/2015, trang 18 – 26; Nguyễn Kiên Bích Tuyền (2016),
“Một số quy định pháp lý điều chỉnh giao dịch giữa các bên có liên quan trong nhóm
cơng ty ở lĩnh vực tài chính – ngân hàng”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 1/2016, trang
15 – 20; Trần Nguyễn Thùy Dương (2016), “Vấn đề bảo lãnh của công ty mẹ đối với

việc vay vốn của cơng ty con trong nhóm cơng ty là tổng cơng ty nhà nước”, Tạp chí
Khoa học Pháp lý, số 1/2016, trang 9 – 14; Nguyễn Hồng Thùy Trang (2016), “Kiểm
sốt giao dịch giữa các bên có liên quan trong nhóm cơng ty theo pháp luật Hoa Kỳ”,
Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 1/2016, trang 31 – 38; Nguyễn Thị Thanh Huyền (2016),
“Giao dịch giữa các bên có liên quan trong nhóm cơng ty – một cơng cụ để thực hiện
hành vi thao túng dưới dạng thâu tóm hoặc trợ giúp và kinh nghiệm từ Trung Quốc”,
Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 1/2016, trang 39 – 47,…
Tuy vậy, nhìn chung, các bài viết chuyên đề trên thường đi sâu vào một loại
giao dịch và trong một lĩnh vực pháp lý đặc thù. Do vậy, cơ chế kiểm soát giao dịch
giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty vẫn đang còn tồn tại nhiều vấn đề pháp lý mới
mẻ, phức tạp cần giải quyết, địi hỏi sự nghiên cứu tồn diện, đầy đủ, hệ thống và
chuyên sâu hơn nữa trong hiện tại và tương lai. Đó là cơ sở và động lực để tác giả lựa
chọn nghiên cứu về đề tài này nhằm, cùng với những đề tài nghiên cứu trước đó, góp
phần tăng cường tính hiệu quả của pháp luật trong việc kiểm sốt giao dịch giữa các
cơng ty trong nhóm cơng ty. Tất cả các đề tài nghiên cứu trên đều là nền tảng quý báu,
là nguồn tham khảo rất có giá trị cho tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu và thực
hiện đề tài. Tác giả sẽ khơng thể hồn thiện đề tài nếu khơng có những cơng trình
nghiên cứu đa dạng, phong phú và sâu rộng như vậy.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Tác giả mong muốn nghiên cứu một cách tổng quát về nhóm công ty, về mối
quan hệ giữa các công ty trong nhóm, để từ đó làm tiền đề cho sự phân tích đặc điểm
3


của giao dịch được thực hiện giữa các công ty trong nhóm cơng ty thơng qua một số
giao dịch cụ thể điển hình.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích quy định của pháp luật thực định, mà cụ thể là
Luật Doanh nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành, về vấn đề kiểm sốt giao
dịch giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty, tác giả sẽ đưa ra những bình luận, nhận xét
về thực trạng pháp luật doanh nghiệp Việt Nam trên lĩnh vực này trên cơ sở quan điểm

cá nhân và quan điểm của các tác giả, các nhà bình luận chun mơn khác trên từng
khía cạnh có liên quan.
Từ những điểm cịn hạn chế, bất cập trong thực trạng kiểm soát những giao dịch
này trong Luật Doanh nghiệp 2014, tác giả sẽ đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm
góp phần hồn thiện khung pháp lý về giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty
vững chắc hơn. Những giải pháp và kiến nghị của tác giả sẽ dựa trên cơ sở kinh
nghiệm của pháp luật một số quốc gia phát triển khác, đồng thời, cân nhắc đến bối
cảnh kinh tế – chính trị – xã hội của Việt Nam hiện tại, để những giải pháp và kiến
nghị có tính khả thi khi triển khai áp dụng trên thực tế, mang lại hiệu quả cao trong
việc kiểm soát của pháp luật đối với giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là các vấn đề pháp lý xoanh quanh các quy
định của Luật Doanh nghiệp 2014 của Việt Nam về kiểm sốt giao dịch được thực hiện
giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty.
4.2 Phạm vi nghiên cứu đề tài
Tác giả giới hạn việc nghiên cứu trong phạm vi nhất định để phù hợp với dung
lượng của khóa luận và đảm bảo những vấn đề pháp lý được chọn lọc phân tích đáp
ứng đủ độ chính xác và chun sâu.
Theo đó, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề kiểm soát giao dịch trong phạm
vi (i) được thực hiện giữa các cơng ty của tập đồn kinh tế, bao gồm tập đoàn kinh tế
nhà nước và tập đoàn kinh tế tư nhân (mà không bao gồm tổng công ty), (ii) giữa hai
chủ thể là công ty mẹ và công ty con (mà không bao gồm các công ty thành viên khác
của nhóm cơng ty) và (iii) được điều chỉnh bởi các quy định của Luật Doanh nghiệp
2014.3 Do đó, khi đề cập đến phạm trù “nhóm cơng ty” trong xun suốt đề tài này,
nhóm cơng ty được hiểu là tập đồn kinh tế, bao gồm hai chủ thể là cơng ty mẹ và công
ty con được quy định trong Luật Doanh nghiệp 2014.
Đồng thời, cơ chế kiểm soát sẽ được phân tích thơng qua một số giao dịch điển
hình nhất định, mang tính phổ biến và quan trọng mà quy định của pháp luật điều chỉnh
các loại giao dịch này cịn nhiều điểm chưa hồn thiện và việc nghiên cứu để hồn

thiện quy định kiểm sốt các giao dịch này là cần thiết.

3

Mặc dù tại một số phần có liên quan, tác giả vẫn kết hợp phân tích một số văn bản quy phạm pháp luật khác có
liên quan để làm rõ hơn vấn đề nghiên cứu nhưng Luật Doanh nghiệp 2014 vẫn là văn bản chủ yếu và quan trọng
nhất trong phạm vi nghiên cứu của tác giả.

4


5. Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được tiến hành trên cơ sở kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau, nhưng chủ yếu bao gồm bốn phương pháp sau:
Thứ nhất, về phương pháp phân tích – đánh giá, phương pháp này được sử
dụng xuyên suốt tồn bộ đề tài. Tác giả phân tích và đánh giá các quy định của Luật
Doanh nghiệp 2014 và một số văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan cùng với
một số kinh nghiệm của pháp luật nước ngồi, để từ đó, đánh giá tính khoa học, phù
hợp và hiệu quả trong thực trạng các quy định hiện hành của pháp luật doanh nghiệp
Việt Nam về cơ chế kiểm sốt giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty và nêu
các giải pháp, kiến nghị hồn thiện cần thiết.
Thứ hai, về phương pháp tổng hợp, phương pháp này cũng được sử dụng xuyên
suốt toàn bộ đề tài nhưng chủ yếu tập trung tại Chương 1 nhằm đưa đến kết quả nghiên
cứu tổng quát các vấn đề lý luận về nhóm cơng ty và các giao dịch cần kiểm sốt giữa
các cơng ty trong nhóm.
Thứ ba, về phương pháp so sánh luật, phương pháp này chủ yếu được sử dụng
tại Chương 2 của đề tài. Tại một số phần có liên quan, tác giả sẽ so sánh quy định của
pháp luật Việt Nam và pháp luật một số quốc gia khác khi kiểm soát giao dịch giữa
thành viên của nhóm cơng ty. Từ kết quả của việc so sánh, tác giả sẽ trình bày những
ưu điểm cũng như hạn chế của cơ chế kiểm soát từng loại giao dịch cụ thể và đưa ra

kiến nghị phù hợp cần thiết được nghiên cứu sửa đổi trong Luật Doanh nghiệp 2014.
Thứ tư, về phương pháp nghiên cứu vụ việc cụ thể, phương pháp này chủ yếu
được sử dụng tại Chương 2 của đề tài. Thông qua việc nghiên cứu một số vụ việc cụ
thể phát sinh trên thực tế, quan điểm lý luận về cơ chế kiểm soát giao dịch trong nhóm
cơng ty sẽ có cơ sở khoa học và phù hợp hơn, vừa đáp ứng vai trị kiểm sốt và can
thiệp đúng mức của pháp luật, vừa phù hợp với nhu cầu của thị trường và nền kinh tế.
6. Bố cục tổng qt của khóa luận
Ngồi Phần mở đầu và Phần kết luận được trình bày trong phần đầu tiên và
phần cuối cùng của đề tài, đề tài bao gồm hai chương sau:
Chương 1: Tổng quan về nhóm cơng ty và cơ chế kiểm sốt giao dịch giữa các
cơng ty trong nhóm cơng ty theo Luật Doanh nghiệp 2014.
Chương 2: Kiểm sốt giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty theo Luật
Doanh nghiệp 2014 – thực trạng và hướng hoàn thiện.

5


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ NHĨM CƠNG TY VÀ CƠ CHẾ KIỂM SỐT GIAO DỊCH
GIỮA CÁC CƠNG TY TRONG NHĨM CƠNG TY
THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014

1.1 Khái qt về nhóm cơng ty và thành viên nhóm cơng ty
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của nhóm cơng ty
1.1.1.1 Khái niệm nhóm cơng ty
Trên thế giới, khơng ít pháp luật quốc gia khơng đưa ra định nghĩa pháp lý về
nhóm cơng ty. Bởi lẽ, về bản chất, như phân tích tại Mục 1.1.2.1 của Chương 1, nhóm
cơng ty được xem là một khái niệm kinh tế hơn là một khái niệm pháp lý. Do đó, theo
quan điểm của nhiều quốc gia, pháp luật khơng cần thiết định nghĩa về nhóm cơng ty,
mà điều quan trọng là định nghĩa, điều chỉnh và kiểm soát về mối quan hệ giữa các

công ty thành viên trong nhóm. Cụ thể, Luật Cơng ty Vương quốc Anh 2006
(Companies Act 2006) cũng khơng đưa ra khái niệm nhóm cơng ty mà chỉ quy định các
tiêu chí để xác định mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con.4 Luật Công ty Nhật
Bản 2005 (Japan Companies Act 2005) cũng tương tự với Luật Công ty Vương quốc
Anh 2006, chỉ định nghĩa về công ty mẹ và công ty con,5 hay pháp luật công ty của Mỹ
cũng không xây dựng khái niệm chung thống nhất về nhóm cơng ty mà chỉ xác định
quan hệ kiểm soát – bị kiểm sốt giữa các cơng ty trong nhóm và cách xác định này
cũng khác nhau theo từng lĩnh vực và quan hệ pháp luật cụ thể.6
Tại Việt Nam, Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Doanh nghiệp 2014 có sự khác
nhau ở mức độ nhất định khi đề cập đến khái niệm “nhóm cơng ty”. Theo Luật Doanh
nghiệp 2005, nhóm cơng ty được hiểu là “tập hợp các cơng ty có mối quan hệ gắn bó
lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh
khác”.7 Khái niệm này mang tính định tính cao, chưa rõ ràng khi xác định mối quan hệ
giữa các thành viên trong nhóm cơng ty. Khác với Luật Doanh nghiệp 2005, Luật
4

Luật Công ty Vương quốc Anh 2006, Điều 1159. Cụ thể Điều luật này quy định như sau:
“Meaning of “subsidiary” etc
A company is a “subsidiary” of another company, its “holding company”, if that other company –
(a) holds a majority of the voting rights in it, or
(b) is a member of it and has the right to appoint or remove a majority of its board of directors, or
(c) is a member of it and controls alone, pursuant to an agreement with other members, a majority of the voting
rights in it,
or if it is a subsidiary of a company that is itself a subsidiary of that other company.”
5
Luật Công ty Nhật Bản 2005, điểm (iii) và (iv) Điều 2. Cụ thể Điều luật này quy định như sau:
“(iii) “Subsidiary” means any entity which is prescribed by the applicable Ordinance of the Ministry of Justice
as the juridical person the management of which is controlled by a Company, including, but not limited to, a
Stock Company a majority of all votes in which are owned by the Company;
(iv) “Parent Company” means any entity which is prescribed by the applicable Ordinance of the Ministry of

Justice as a juridical person who controls the management of a Stock Company, including, but not limited to, a
Company which has a Stock Company as its Subsidiary.”
6
Hà Thị Thanh Bình (chủ nhiệm đề tài) (2016), Điều chỉnh giao dịch giữa các bên có liên quan trong nhóm cơng
ty theo pháp luật công ty – kinh nghiệm ở một số quốc gia và bài học cho Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Bộ, mã số B2014-10-03, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, trang 12.
7
Luật Doanh nghiệp 2005, khoản 1 Điều 146.

6


Doanh nghiệp 2014 không quy định theo hướng trực tiếp đưa ra khái niệm nhóm cơng
ty mà chỉ định nghĩa về tập đồn kinh tế và tổng cơng ty để từ đó khái qt cách hiểu
về nhóm cơng ty. Cụ thể, Điều 188 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định như sau:
“1. Tập đồn kinh tế, tổng cơng ty thuộc các thành phần kinh tế là nhóm cơng ty
có mối quan hệ với nhau thông qua sở hữu cổ phần, phần vốn góp hoặc liên kết khác.
Tập đồn kinh tế, tổng cơng ty khơng phải là một loại hình doanh nghiệp, khơng có tư
cách pháp nhân, khơng phải đăng ký thành lập theo quy định của Luật này.
2. Tập đoàn kinh tế, tổng cơng ty có cơng ty mẹ, cơng ty con và các công ty
thành viên khác. Công ty mẹ, công ty con và mỗi công ty thành viên trong tập đồn
kinh tế, tổng cơng ty có quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp độc lập theo quy định của
pháp luật.”
Theo đó, nhóm cơng ty được hiểu bao gồm hai hình thức là tập đồn kinh tế và
tổng cơng ty thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, có thể bao gồm (i) những công ty
thuộc sở hữu của Nhà nước, được Nhà nước đầu tư vốn từ ngân sách và do Nhà nước
làm chủ sở hữu toàn bộ (được tổ chức dưới hình thức cơng ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên), (ii) những công ty thuộc sở hữu tư nhân (được tổ chức dưới hình thức
cơng ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần) hoặc (iii) những công ty kết hợp
giữa sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân, tức những công ty mà Nhà nước sở hữu phần

vốn góp hoặc cổ phần chưa đến 100% vốn điều lệ. Ngoài ra, giữa các thành viên của
nhóm cơng ty sẽ tồn tại mối quan hệ với nhau “thơng qua sở hữu cổ phần, phần vốn
góp hoặc liên kết khác” và nhóm cơng ty được hình thành trên cơ sở của những liên kết
này “không phải là một loại hình doanh nghiệp, khơng có tư cách pháp nhân”, và do
đó, “khơng phải đăng ký thành lập” theo quy định của pháp luật doanh nghiệp.8 Đồng
thời, nhóm cơng ty có các cơng ty thành viên là cơng ty mẹ, công ty con và công ty
thành viên khác (nếu có).
Một cách khái quát, quy định tại Điều 188 Luật Doanh nghiệp 2014, về cơ bản,
đã ghi nhận bản chất và các đặc điểm quan trọng của nhóm cơng ty phù hợp với lý luận
chung về nhóm cơng ty trên thế giới. Theo đó, (i) nhóm cơng ty là tập hợp bao gồm
công ty mẹ, công ty con và các cơng ty thành viên khác (nếu có), (ii) mối liên kết giữa
các cơng ty trong nhóm dựa trên cơ sở của quan hệ kiểm soát và quan hệ kiểm soát có
thể phát sinh trên cơ sở sở hữu cổ phần, phần vốn góp hoặc trên cơ sở một liên kết
khác và (iii) mỗi cơng ty thành viên của nhóm đều là những chủ thể pháp lý độc lập, có
tư cách pháp nhân nhưng nhóm cơng ty thì khơng có tư cách pháp nhân.
1.1.1.2 Đặc điểm của nhóm cơng ty
Từ những phân tích khái qt về nhóm cơng ty như trên, có thể nhận thấy nhóm
cơng ty có bốn đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, nhóm cơng ty là một khái niệm kinh tế hơn là một khái niệm pháp lý.9
Việc điều chỉnh chế định pháp lý về nhóm cơng ty là sự ghi nhận thực tiễn thương mại
phù hợp với xu thế phát triển khách quan của thị trường. Vì vậy, những quy định của
pháp luật về nhóm cơng ty nên và cần thiết tập trung điều chỉnh mối quan hệ, mối liên
8

Luật Doanh nghiệp 2014, khoản 1 Điều 188.
Harry Rajak (2009), “Corporate Groups and Cross – Border Bankruptcy”, Texas International Law Journal,
Vol. 44 6/2009, trang 521; Nguyễn Hoàng Thùy Trang (2016), “Kiểm sốt giao dịch giữa các bên có liên quan
trong nhóm cơng ty theo pháp luật Hoa Kỳ”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 01/2016, trang 31.
9


7


kết mang tính kiểm sốt đặc thù giữa các cơng ty trong nhóm (trong đó có giao dịch
được thực hiện giữa những chủ thể này).
Thứ hai, nhóm cơng ty là tập hợp từ hai cơng ty trở lên có tư cách pháp lý độc
lập. Dưới góc độ pháp lý, tư cách pháp lý độc lập của từng công ty thành viên được ghi
nhận và thể hiện rõ nét qua án lệ kinh điển “Salomon v Salomon & Co. Ltd” trong hệ
thống pháp luật Vương quốc Anh.10 Theo đó, trong án lệ này, Viện Nguyên lão (House
of Lords) của Vương quốc Anh đã nhất trí ra phán quyết cuối cùng cho rằng công ty là
một thực thể pháp lý độc lập có quyền và trách nhiệm tách bạch với chủ sở hữu ngay
cả khi ý định của chủ sở hữu khi thành lập ra công ty là để phục vụ cho lợi ích của
mình. Học thuyết về “tấm màn che cơng ty” (corporate veil) đã được hình thành một
cách vững chắc từ án lệ kinh điển này, theo đó, khẳng định tư cách pháp lý độc lập của
các công ty. Tuy vậy, học thuyết này vẫn có ngoại lệ và việc áp dụng ngoại lệ “xuyên
qua màn che công ty” (piercing or lifting of the corporate veil) cho phép Tòa án có thể
xử lý trách nhiệm đối với các thành viên “phía sau” (insider members) lợi dụng cơng ty
thực hiện các giao dịch tư lợi nhất định. Do đó, ngay cả khi cơng ty mẹ nắm quyền
kiểm sốt các cơng ty con trong nhóm thì tất cả các cơng ty này đều là những doanh
nghiệp độc lập về mặt pháp lý, tự chủ thực hiện quyền của doanh nghiệp trong hoạt
động kinh doanh. Đặc điểm này góp phần lý giải các quy định về trách nhiệm pháp lý
của công ty mẹ đối với các giao dịch được thực hiện bởi các công ty con và ngược lại
cũng như các ngoại lệ cần thiết phải có sự can thiệp của pháp luật khi các cơng ty trong
nhóm khơng đảm bảo tính độc lập, bình đẳng khi thực hiện giao dịch.
Do đó, chỉ có các cơng ty thành viên của nhóm cơng ty mới là chủ thể có tư
cách pháp lý độc lập, có tư cách pháp nhân, cịn nhóm cơng ty (là tập hợp dựa trên sự
liên kết của chúng) thì khơng. Vậy nên, nhóm cơng ty khơng phải là một loại hình
doanh nghiệp được pháp luật thừa nhận và cũng khơng thể nhân danh mình tham gia
các quan hệ pháp luật một cách độc lập (như là chủ thể ký kết hoặc thực hiện giao dịch
hoặc hợp đồng với các chủ thể khác).

Thứ ba, mối liên kết giữa các công ty trong nhóm cơng ty dựa trên cơ sở của
quan hệ kiểm soát và việc xác định quan hệ này giữa cơng ty kiểm sốt và cơng ty bị
kiểm sốt sẽ phụ thuộc vào pháp luật từng quốc gia khác nhau và thường dựa trên một
số cơ sở nhất định như (i) quan hệ sở hữu (quan hệ góp vốn hoặc mua cổ phần), (ii)
quan hệ quản lý hoặc (iii) một quan hệ hoặc liên kết khác theo quy định của pháp luật.
Mặc dù vẫn có một số điểm chưa rõ ràng nhưng các tiêu chí xác định mối liên
kết giữa cơng ty mẹ và cơng ty con để từ đó xác định cơng ty mẹ và cơng ty con trong
nhóm công ty theo Luật Doanh nghiệp 2014 cũng tương đối phù hợp với pháp luật về
nhóm cơng ty trên thế giới.11 Về cơ bản, mối liên kết, mối quan hệ giữa cơng ty mẹ và
cơng ty con trong nhóm cơng ty sẽ hình thành dựa trên cơ sở của quan hệ kiểm soát
trên một trong ba phương diện sau, về (i) vốn sở hữu, (ii) việc quyết định bổ nhiệm đa
số hoặc tất cả thành viên hội đồng quản trị hoặc (tổng) giám đốc hoặc (iii) việc quyết
định sửa đổi hoặc bổ sung điều lệ. Mối liên kết giữa công ty mẹ và công ty con trong
pháp luật doanh nghiệp Việt Nam được phân tích cụ thể hơn tại Mục 1.1.1.3 của
Chương 1 dưới đây.
10
11

Xem thêm án lệ Salomon v A Salomon & Co Ltd [1897] AC 22.
Luật Doanh nghiệp 2014, khoản 1 Điều 188 và khoản 1 Điều 189.

8


Thứ tư, công ty con (thông qua việc ra các quyết định trong q trình hoạt động
kinh doanh) ln chịu sự tác động và chi phối của công ty mẹ, khiến cho hợp đồng,
giao dịch và các quan hệ khác được thực hiện giữa công ty mẹ và công ty con khó đạt
được hoặc khó kiểm sốt được tính độc lập và bình đẳng.12 Mặc dù cơng ty mẹ và công
ty con đều là những chủ thể pháp lý độc lập nhưng khi quan hệ kiểm sốt giữa cơng ty
mẹ – con được hình thành thì cơng ty mẹ thường có xu hướng muốn chi phối và can

thiệp quá mức cho phép để các hoạt động của công ty con được tiến hành theo định
hướng của công ty mẹ.
Nhận biết được đặc trưng này của nhóm cơng ty, Luật Doanh nghiệp 2014 cũng
có đặt ra u cầu đối với cơng ty mẹ và công ty con trong việc phải bảo đảm tính độc
lập và bình đẳng khi thiết lập và thực hiện mọi “hợp đồng, giao dịch và quan hệ khác”
có liên quan.13
Ngồi bốn đặc trưng cơ bản trên, trong nhiều tài liệu nghiên cứu khoa học,
nhóm cơng ty cịn thường được đề cập với một số đặc điểm khác như (i) có quy mơ
vốn, lao động, doanh thu và phạm vi hoạt động lớn, (ii) hoạt động đa ngành, đa lĩnh
vực hay (iii) đa dạng về cơ cấu tổ chức và sở hữu,…14 Tuy vậy, tác giả chỉ tập trung
phân tích bốn đặc trưng trên đây theo tác giả có ảnh hưởng lớn đến cơ chế kiểm sốt
của pháp luật đối với giao dịch được thực hiện giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty.
1.1.1.3 Cơng ty mẹ – cơng ty con
Về mặt lý luận, như được phân tích tại Mục 1.1.1.2 trên, nhóm cơng ty hình
thành dựa trên cơ sở của quan hệ kiểm soát và bao gồm hai loại thành viên cơ bản là
công ty mẹ và công ty con. Trong quan hệ này, công ty mẹ là cơng ty nắm quyền kiểm
sốt và cơng ty con là cơng ty bị kiểm sốt. Quyền kiểm sốt này thông thường dựa
trên cơ sở của (i) quyền sở hữu, (ii) quyền quản lý hoặc (iii) một quyền chi phối khác
cho phép cơng ty mẹ có khả năng kiểm sốt đối với công ty con.
Pháp luật các quốc gia khác nhau sẽ có các tiêu chí khác nhau để xác định quan
hệ kiểm sốt và từ đó xác định cơng ty mẹ và công ty con hoặc đưa ra khái niệm để xác
định trực tiếp công ty mẹ và công ty con. Chẳng hạn như theo Luật Công ty Vương
quốc Anh 2006, mối liên kết giữa công ty mẹ và công ty con được xác định tại khoản 1
Điều 1159 như sau:
“1. Một công ty là “công ty con” của một cơng ty khác, “cơng ty mẹ” của nó,
nếu cơng ty khác đó:
(a) nắm giữ đa số quyền biểu quyết trong công ty, hoặc
(b) là một thành viên của công ty và có quyền bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm đa số
thành viên ban giám đốc của công ty, hoặc
(c) là một thành viên của cơng ty và tự mình kiểm soát, theo thỏa thuận với các

thành viên khác, đa số quyền biểu quyết trong cơng ty;

12

Hà Thị Thanh Bình (chủ nhiệm đề tài), tlđd (6), trang 23.
Luật Doanh nghiệp 2014, khoản 2 Điều 190.
14
Lê Hồng Tịnh (2010), Quản lý nhà nước đối với Tổng công ty 90 – 91 theo hướng hình thành tập đồn kinh tế,
Luận án tiến sĩ Quản lý Hành chính cơng, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, trang 19 – 20;
Đặng Thị Tuyết Mai (2007), Điều chỉnh mối liên kết giữa công ty mẹ – công ty con trong mô hình nhóm cơng ty,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, trang 21 – 24.
13

9


Hoặc nếu công ty này là công ty con của một cơng ty mà cơng ty đó lại là cơng
ty con của công ty khác này.”
Hay theo như Luật Công ty Nhật Bản 2005, công ty mẹ và công ty con được xác
định tại điểm (iii) và (iv) của Điều 2 như sau:
“(iii) “Công ty con” là bất kỳ thực thể nào có tư cách pháp nhân theo Pháp
lệnh của Bộ Tư pháp mà việc quản lý thuộc kiểm soát của một công ty, bao gồm,
nhưng không giới hạn, một cơng ty cổ phần có đa số phiếu biểu quyết thuộc sở hữu của
cơng ty đó.
(iv) “Cơng ty mẹ” là bất kỳ thực thể nào có tư cách pháp nhân theo Pháp lệnh
của Bộ Tư pháp mà kiểm soát việc quản lý một công ty cổ phần, bao gồm, nhưng
không giới hạn, một cơng ty có một cơng ty cổ phần là công ty con.”15
Về cơ bản, mặc dù cách thức quy định khác nhau, nhưng quyền kiểm sốt của
cơng ty mẹ đối với công ty con đúng với bản chất mối quan hệ nhóm cơng ty đều được
pháp luật công ty Vương quốc Anh và Nhật Bản và rất nhiều quốc gia phát triển khác

ghi nhận.16 Quyền kiểm soát này có thể dựa trên cơ sở của quyền biểu quyết (thơng qua
quyền sở hữu phần vốn góp hoặc cổ phần có quyền biểu quyết hoặc thơng qua thỏa
thuận với các thành viên hoặc cổ đông khác trong công ty), quyền quản lý (như quyền
bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm người quản lý của cơng ty) hoặc quyền kiểm sốt được “gián
tiếp” xác định thơng qua cấu trúc nhóm hai cấp công ty mẹ – công ty con – công ty
cháu như trong pháp luật Vương quốc Anh.
Trong pháp luật Việt Nam, Luật Doanh nghiệp cũng xây dựng cách xác định
gần tương tự như vậy. Theo đó, nhóm cơng ty bao gồm công ty mẹ, công ty con và các
công ty thành viên khác.17 Mặc dù khơng có quy định cụ thể để xác định mối liên kết
với các công ty thành viên khác, nhưng Luật Doanh nghiệp 2014 lại có quy định khá cụ
thể về mối liên kết giữa công ty mẹ và công ty con. Cụ thể, khoản 1 Điều 189 Luật
Doanh nghiệp 2014 quy định như sau:
“1. Một công ty được coi là công ty mẹ của công ty khác nếu thuộc một trong
các trường hợp sau đây:
a) Sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ thơng của cơng ty đó;
b) Có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp quyết định bổ nhiệm đa số hoặc tất cả
thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của cơng ty đó;
c) Có quyền quyết định việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ của cơng ty đó.”
Như vậy, một cơng ty được coi là công ty mẹ của một công ty khác chỉ khi đáp
ứng một trong ba điều kiện sau, cụ thể cơng ty đó phải (i) sở hữu trên 50% vốn điều lệ
hoặc tổng số cổ phần phổ thông, hoặc (ii) có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp quyết định
bổ nhiệm đa số hoặc tất cả thành viên hội đồng quản trị hoặc (tổng) giám đốc, hoặc (iii)
có quyền quyết định việc sửa đổi, bổ sung điều lệ của công ty khác. Theo đó:

15

Luật Cơng ty Nhật Bản 2005, điểm (iii) và (iv) Điều 2.
Xem thêm Trần Hoàng Nga, “Pháp luật Nhật Bản về nhóm cơng ty và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Kỷ
yếu hội thảo thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Điều chỉnh giao dịch giữa các bên có liên quan trong
nhóm cơng ty theo pháp luật công ty – kinh nghiệm ở một số quốc gia và bài học cho Việt Nam”, trang 99.

17
Luật Doanh nghiệp 2014, khoản 2 Điều 188.
16

10


(i) Sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ thông.18 Trường hợp
này, quan hệ kiểm sốt của cơng ty mẹ đối với cơng ty con dựa trên cơ sở quyền sở
hữu.19 Điều này có nghĩa là công ty mẹ phải chiếm 50% tỷ lệ sở hữu trong tổng giá trị
tài sản (đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần) hoặc 50% tổng số cổ
phần phổ thông (đối với công ty cổ phần) của công ty con. Như vậy, quy định này cho
phép tồn tại hai cơ sở để xác định tỷ lệ sở hữu cổ phần hoặc phần vốn góp của công ty
mẹ trong công ty con, một là dựa trên vốn điều lệ và hai là dựa trên số lượng cổ phần
phổ thông.
Đối với việc xác định vốn điều lệ, (i) tại thời điểm đăng ký thành lập doanh
nghiệp, dựa trên cơ sở giá trị tài sản đã góp hoặc cam kết góp (đối với cơng ty trách
nhiệm hữu hạn) hoặc giá trị mệnh giá cổ phần đã mua hoặc cam kết mua (đối với công
ty cổ phần) và (ii) tại mọi thời điểm khác sau khi doanh nghiệp đã được thành lập, việc
xác định tỷ lệ sở hữu trong vốn điều lệ đều phải dựa trên cơ sở giá trị tài sản hoặc giá
trị mệnh giá cổ phần thực góp (tức người mua đã thanh tốn đủ giá trị phần vốn góp và
phần vốn cổ phần của doanh nghiệp).20
Đối với cổ phần phổ thông, nếu một công ty sở hữu trên 50% tổng số cổ phần
phổ thông (tức không bao gồm các loại cổ phần ưu đãi) của một cơng ty cổ phần thì
quan hệ cơng ty mẹ – cơng ty con cũng được hình thành. Về mặt bản chất, quan hệ sở
hữu tính trên tỷ lệ 50% sẽ giúp cơng ty mẹ có thể đạt được mục tiêu kiểm sốt cơng ty
con thơng qua việc nắm giữ tỷ lệ vốn cổ phần ở mức có khả năng chi phối q trình
biểu quyết và thơng qua các quyết định tại cơ quan quản lý (mà cụ thể là đại hội đồng
cổ đông) của công ty con. Tuy vậy, việc sở hữu trên 50% tổng số cổ phần phổ thông
không phải trong mọi trường hợp đều giúp công ty mẹ ln đạt được mục đích trên vì

quyết định được đại hội đồng cổ đơng đưa ra được tính trên cơ sở cổ phần có quyền
biểu quyết (khơng phải trên cơ sở cổ phần phổ thơng). Ngồi cổ phần phổ thơng, cơng
ty cổ phần cịn có quyền phát hành các loại cổ phần ưu đãi khác tạo cho cổ đông sở
hữu có quyền biểu quyết (cụ thể là cổ phần ưu đãi biểu quyết).21 Do đó, 50% tổng số
cổ phần phổ thông không đồng nghĩa (hoặc không tương đương) với 50% tổng số cổ
phần có quyền biểu quyết. Trong trường hợp này, tổng số lượng cổ phần ưu đãi phổ
thông và cổ phần ưu đãi biểu quyết mới thể hiện tổng số cổ phần có quyền biểu quyết
của cơng ty cổ phần và vì vậy, khi tỷ lệ 50% được tính trên cơ sở tổng số cổ phần có
quyền biểu quyết thì khả năng kiểm sốt q trình biểu quyết và ra quyết định của công
ty mẹ trong công ty con mới thật sự có hiệu quả.22
Đối với một số quốc gia khác trên thế giới, tiêu chí này thường dựa trên cơ sở tỷ
lệ cổ phần có quyền biểu quyết. Khoản 1 Điều 1156 Luật Công ty Vương quốc Anh
2006 và khoản (iii) và (iv) Điều 2 Luật Công ty Nhật Bản như được phân tích ở trên
cũng dựa trên cơ sở cổ phần có quyền biểu quyết hoặc quyền biểu quyết (votes hoặc
voting rights). Hay theo như pháp luật Mỹ, mặc dù tỷ lệ sở hữu cổ phần để xác lập
18

Luật Doanh nghiệp 2014, điểm a khoản 1 Điều 189.
Trương Nhật Quang (2016), Pháp luật về doanh nghiệp – các vấn đề pháp lý cơ bản, Nhà xuất bản Dân Trí,
trang 26.
20
Luật Doanh nghiệp 2014, khoản 29 Điều 4, khoản 1 Điều 48, khoản 1 Điều 74 và khoản 1 Điều 111.
21
Luật Doanh nghiệp 2014, khoản 2 Điều 113 và Điều 116.
22
Trương Nhật Quang, tlđd (19), trang 26.
19

11



quan hệ kiểm sốt giữa các cơng ty trong nhóm có thể khác nhau trong từng lĩnh vực
hoặc trong từng bang cụ thể nhưng đều dựa trên cơ sở tổng số cổ phần có quyền biểu
quyết mà khơng phải là tổng số cổ phần phổ thông.23 Tác giả cho rằng mục đích của
quy định này trong Luật Doanh nghiệp 2014 cũng là để đảm bảo quyền kiểm sốt của
cơng ty mẹ, theo đó, cơng ty mẹ có thể dựa trên ưu thế tỷ lệ sở hữu về vốn để đảm bảo
khả năng chi phối việc ra quyết định tại hội đồng thành viên hoặc đại hội đồng cổ đông
của công ty con. Tuy nhiên, với cách thức quy định cơ sở tổng số cổ phần phổ thông
như hiện nay, Luật Doanh nghiệp 2014 khó có thể đảm bảo quyền kiểm sốt của cơng
ty mẹ đối với cơng ty con.
(ii) Có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp quyết định bổ nhiệm đa số hoặc tất cả
thành viên hội đồng quản trị, (tổng) giám đốc.24 Trường hợp này, quan hệ kiểm soát
của công ty mẹ đối với công ty con dựa trên cơ sở quyền quản lý.25 Khi một cơng ty có
quyền quyết định việc bổ nhiệm đa số thành viên hội đồng quản trị hoặc (tổng) giám
đốc của một công ty khác, dù dưới hình thức trực tiếp hay gián tiếp đưa ra quyết định,
thì cơng ty đó cũng được xem là cơng ty mẹ của cơng ty có thành viên hội đồng quản
trị hoặc (tổng) giám đốc được bầu hoặc bổ nhiệm. Luật Doanh nghiệp 2014 không làm
rõ khái niệm “trực tiếp” và “gián tiếp” trong trường hợp này. Theo quan điểm của tác
giả, quyền bổ nhiệm “trực tiếp” là trên cơ sở quyền của chủ sở hữu phát sinh từ việc
nắm giữ phần vốn góp hoặc cổ phần chi phối dẫn đến có khả năng bổ nhiệm các chức
danh trên, cịn quyền bổ nhiệm “gián tiếp” là quyền hình thành thông qua các phương
thức khác (như thỏa thuận cổ đơng) mà cơng ty mẹ có quyền quyết định bổ nhiệm các
chức danh trên. Tuy vậy, đối với quyền bổ nhiệm (tổng) giám đốc trong công ty cổ
phần, quy định này khơng có ý nghĩa trên thực tế vì theo Luật Doanh nghiệp 2014,
(tổng) giám đốc của công ty cổ phần do hội đồng quản trị bổ nhiệm.26
Thông thường, quyền quyết định bổ nhiệm đa số thành viên hội đồng quản trị
hoặc (tổng) giám đốc thường phát sinh trên cơ sở tỷ lệ sở hữu phần vốn góp hoặc cổ
phần có quyền biểu quyết ở mức chi phối (thường trên 50%) dẫn đến kết quả quyết
định do cơ quan quản lý đưa ra phù hợp với quyết định của thành viên hoặc cổ đông
nắm giữ tỷ lệ sở hữu phần vốn góp hoặc cổ phần có quyền chi phối đó. Tuy vậy, trong

trường hợp này, quyền quản lý mang tính kiểm sốt vẫn có thể phát sinh ngay cả khi
cơng ty mẹ khơng sở hữu phần vốn góp hoặc cổ phần chi phối trong cơng ty con, như
có thể dựa trên cơ sở của “quan hệ hợp đồng hoặc một hình thức thỏa thuận khác”.27
(iii) Có quyền quyết định việc sửa đổi, bổ sung điều lệ.28 Tương tự như trong
trường hợp việc kiểm soát dựa trên cơ sở của quyền quản lý, một cơng ty có quyền
quyết định việc sửa đổi hoặc bổ sung điều lệ của một công ty khác (ngay cả khi khơng
sở hữu phần vốn góp hoặc cổ phần chi phối) cũng được xem là công ty mẹ của cơng ty
khác đó. Điều lệ là tài liệu nội bộ cơ bản và quan trọng của công ty. Cùng với pháp luật
về doanh nghiệp, điều lệ có vai trò điều chỉnh việc thành lập, tổ chức quản lý, hoạt
23

Public Utility Holding Company Act; Bank Holding Company Act 1956, Điều 1181; Investment Company Act
1940, Điều 80a-3. Xem thêm Nguyễn Hoàng Thùy Trang, tlđd (9), trang 32.
24
Luật Doanh nghiệp 2014, điểm b khoản 1 Điều 189.
25
Trương Nhật Quang, tlđd (19), trang 27.
26
Luật Doanh nghiệp 2014, điểm i khoản 2 Điều 149.
27
Trương Nhật Quang, tlđd (19), trang 27.
28
Luật Doanh nghiệp 2014, điểm c khoản 1 Điều 189.

12


động, tổ chức lại và giải thể của doanh nghiệp ở mức độ cụ thể, chi tiết và đầy đủ và
thành viên hoặc cổ đơng của doanh nghiệp có nghĩa vụ phải tuân thủ quy định của điều
lệ.29 Do đó, quyền quyết định sửa đổi hoặc bổ sung điều lệ là một trong những quyền

quan trọng để có khả năng kiểm sốt một cơng ty khác. Như đã đề cập ở trên, quyền
sửa đổi hoặc bổ sung điều lệ cũng có thể “dựa trên cơ sở của quan hệ hợp đồng hoặc
một hình thức thỏa thuận khác”.30
1.1.2 Quá trình hình thành và phát triển của nhóm cơng ty
Như một quy luật kinh tế khách quan, khi doanh nghiệp đã phát triển ở một mức
độ nhất định, một trong những hoạt động chiến lược tìm kiếm lợi nhuận, mở rộng quy
mơ kinh doanh quan trọng và hiệu quả chính là thơng qua việc đầu tư vốn phát triển
vào một hoặc một số doanh nghiệp khác. Khi nguồn vốn đầu tư đó đạt đến một tỷ lệ
hoặc đạt đủ điều kiện nhất định có khả năng kiểm sốt doanh nghiệp khác, mơ hình
được thiết lập trong mối quan hệ giữa các doanh nghiệp này được gọi là nhóm cơng ty.
Nhóm cơng ty bao gồm nhiều hình thức và tồn tại với nhiều tên gọi, tùy thuộc vào quy
định pháp luật của từng quốc gia khác nhau. Trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ đề
cập đến nhóm cơng ty là tập đồn kinh tế (hoặc các hình thức tương tự với tập đoàn
kinh tế trong pháp luật các quốc gia khác) và chỉ bao gồm hai chủ thể cơ bản là cơng ty
mẹ và cơng ty con.
1.1.2.1 Q trình hình thành và phát triển của nhóm cơng ty trên thế giới
Ngay từ những năm đầu của thế kỉ thứ XIX (vào khoảng năm 1811), nhóm cơng
ty đã bắt đầu có những dấu hiệu manh nha cho sự xuất hiện của mình tại Châu Âu khi
đầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước đầu tiên được ra đời.31 Để xây dựng các tuyến
đường sắt một cách nhanh chóng phục vụ cho quá trình cơng nghiệp hóa, bên cạnh quy
mơ to lớn về nguồn vốn thì nhu cầu thiết lập các mối liên kết, hỗ trợ và hợp tác lẫn
nhau giữa các nhà tư bản để cùng tồn tại và phát triển trong thị trường cạnh tranh được
hình thành. Chính nhu cầu kinh tế khách quan này đã tạo ra những liên kết đơn giản
bước đầu giữa các chủ thể của nền kinh tế và được xem là mơ hình sơ khai của tập
đồn kinh tế (nhóm cơng ty) như hiện nay.32
Cho đến khoảng nửa cuối thế kỉ thứ XIX, các mơ hình nhóm cơng ty dần hình
thành và phát triển một cách rõ nét hơn tại nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là
những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh như Anh, Mỹ và một số nước
châu Âu.33 Tại các quốc gia này, sự hình thành nhóm công ty bắt nguồn từ các quy luật
kinh tế khách quan của thị trường. Theo đó, khi kinh tế thị trường phát triển, các máy

móc, thiết bị, phát minh, sáng kiến khoa học kỹ thuật ngày càng được ứng dụng một
cách phổ biến, rộng rãi trong hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, thay
thế phần lớn lao động chân tay của con người. Từ đó, năng suất lao động tăng lên đáng
kể, hàng hóa, dịch vụ được tạo ra và lưu thông trên thị trường ngày càng nhiều, đa
29

Luật Doanh nghiệp 2014, khoản 3 Điều 51, khoản 2 Điều 76 và khoản 2 Điều 115.
Trương Nhật Quang, tlđd (19), trang 27.
31
Vũ Đình Bách và Ngơ Đình Giao (đồng chủ biên) (1997), Phát triển các thành phần kinh tế và các tổ chức
kinh doanh ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 151.
32
Hồ Nguyễn Hải Hà (2010), Vấn đề tổ chức quản lý và điều hành trong tập đoàn kinh tế, Khóa luận tốt nghiệp
Cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, trang 6.
33
Trần Viết Quân (2013), Cơ chế kiểm sốt giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty, Khóa luận tốt nghiệp
Cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, trang 5.
30

13


dạng và phong phú. Dưới sức ép của thị trường cạnh tranh, q trình tích lũy tư bản
ngày càng diễn ra nhanh chóng, hướng đến mục đích mở rộng quy mô hoạt động, hạn
chế rủi ro kinh doanh và tối đa hóa lợi nhuận cho doanh nghiệp. Giữa các cơng ty sẽ
xuất hiện nhu cầu liên kết chặt chẽ hơn (có thể liên kết theo chiều dọc, chiều ngang
hoặc kết hợp liên kết theo chiều dọc và chiều ngang) nhằm tận dụng lợi thế so sánh, tối
đa hóa điểm mạnh của từng công ty riêng lẻ để tăng cường hiệu quả sản xuất kinh
doanh chung của cả “nhóm” cơng ty. Thừa nhận nhu cầu thương mại của việc hình
thành mơ hình liên kết nhóm giữa các cơng ty, các học thuyết pháp lý và quy định của

pháp luật tại một số quốc gia đã nhanh chóng ghi nhận, điều chỉnh và kiểm sốt “chủ
thể” đặc biệt này. Vai trị của pháp luật điều chỉnh về nhóm cơng ty và các quan hệ
giữa các cơng ty trong nhóm là vơ cùng cần thiết, vừa góp phần tối đa hóa hiệu quả sản
xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của các cơng ty trong nhóm cũng như vị
thế chung của nhóm cơng ty trên thị trường, vừa hạn chế những rủi ro và nguy cơ tư lợi
do việc lợi dụng quan hệ nhóm cơng ty để thực hiện các giao dịch có nguy cơ gây thiệt
hại, giảm tính minh bạch và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Như vậy, xét về nguồn gốc
lịch sử, có thể thấy bản chất của nhóm cơng ty khơng phải là một khái niệm pháp lý mà
là một khái niệm kinh tế và được hình thành từ chính thực tiễn thương mại.34
Thực tế đã cho thấy ở các quốc gia khác nhau, nhóm cơng ty sẽ được hình thành
theo các xu hướng khác nhau, nhưng nhìn chung, có hai xu hướng hình thành phổ biến:
(i) một là, hình thành thơng qua các quy luật kinh tế khách quan của thị trường và (ii)
hai là, hình thành theo ý chí chủ quan của Nhà nước.35 Ở các nước kinh tế tư bản phát
triển sớm, như Anh, Mỹ và các nước phương Tây, nhóm cơng ty chủ yếu hình thành và
phát triển dựa trên quy luật cạnh tranh và các quy luật kinh tế khách quan khác. Thông
qua các quy luật kinh tế (mà chủ yếu là quy luật cạnh tranh), các công ty vừa và nhỏ sẽ
có xu hướng khách quan bị các cơng ty lớn hơn mua lại một phần hoặc toàn bộ phần
vốn góp hoặc cổ phần nhằm hình thành và phát triển cấu trúc “nhóm” cơng ty. Trong
khi đó, ở các nước kinh tế tư bản phát triển muộn hơn như Nhật Bản, Trung Quốc hay
Hàn Quốc, nhóm cơng ty chủ yếu hình thành và phát triển theo ý chí chủ quan của nhà
nước hơn là tuân theo quy luật kinh tế khách quan của thị trường. Nhà nước sẽ xây
dựng các nhóm cơng ty điển hình trong những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế (như
dầu khí, điện năng, nhiên liệu, hàng khơng, vận tải,…) để từ đó đặt “nền móng” về
chính sách và khung pháp lý dẫn dắt nhóm cơng ty thuộc các thành phần kinh tế khác
cùng hình thành và phát triển theo.
Tuy vậy, cho dù hình thành và phát triển theo xu hướng nào đi chăng nữa, nếu
được pháp luật điều chỉnh một cách phù hợp, nhóm cơng ty đều có thể phát triển nhanh
chóng, mạnh mẽ và bền vững. Cho đến thời điểm hiện nay, không ít mơ hình nhóm
cơng ty của các quốc gia khác nhau đã được biết đến và áp dụng rộng rãi chính bởi
những đóng góp to lớn cho nền kinh tế – xã hội của quốc gia, khu vực và thế giới,

trong số đó, có thể kể đến một số mơ hình nhóm cơng ty điển hình như mơ hình tập
đồn kinh tế kiểu Mỹ (còn gọi là “Holding Company” hoặc “Holding Corporation”),
mơ hình tập đồn kinh tế liên kết khối được áp dụng ở Đức và một số nước châu Âu
(cịn gọi là “Conglomerate”), mơ hình tập đồn doanh nghiệp kiểu Trung Quốc (hay
34
35

Harry Rajak, tlđd (9), trang 521; Nguyễn Hoàng Thùy Trang, tlđd (9), trang 31.
Trần Viết Quân, tlđd (33), trang 5.

14


cịn gọi là “Jituan Gongxi”), mơ hình tập đồn kiểu Nhật (cịn gọi là “Keiretstu”) hay
mơ hình tập đồn “gia đình” kiểu Hàn Quốc (cịn gọi là “Chaebol”),...36
1.1.2.2 Q trình hình thành và phát triển của nhóm cơng ty tại Việt Nam
Dưới góc độ pháp lý, khác với nhiều quốc gia phát triển trên thế giới, mơ hình
nhóm cơng ty ở Việt Nam chỉ mới xuất hiện và được điều chỉnh bởi pháp luật từ
khoảng cuối thế kỉ thứ XX. Mặc dù không thật sự rõ ràng nhưng Luật Công ty 1990 có
thể được xem là đã đặt khn khổ pháp lý cho sự hình thành của nhóm cơng ty, với
những quy định đầu tiên cho phép “quyền tham gia thành lập công ty” của tổ chức
thuộc thành phần kinh tế tư nhân.37 Tuy vậy, Luật Công ty 1990 không có các quy định
để điều chỉnh mối quan hệ giữa các cơng ty thành viên trong nhóm cơng ty cũng như
các giao dịch được thực hiện giữa những chủ thể này.38
Sau đó, khi Quyết định số 91-TTg được ban hành vào năm 1994, việc thành lập
nhóm cơng ty đã có cơ sở pháp lý rõ ràng hơn với tên gọi ban đầu trong giai đoạn thí
điểm là “tập đồn kinh doanh”.39 Theo quyết định này, các tập đoàn kinh doanh được
chọn để Nhà nước thí điểm thành lập sẽ phải đáp ứng một số điều kiện nhất định, đặc
biệt trong đó có điều kiện về quy mơ vốn (vốn pháp định ít nhất là 1.000 tỷ đồng) và số
lượng doanh nghiệp thành viên (có từ 7 doanh nghiệp thành viên lên).40 Tập đồn kinh

doanh có tư cách pháp nhân và các doanh nghiệp thành viên trong tập đồn phải có
“mối quan hệ với nhau về tài chính và các dịch vụ liên quan” để đảm bảo “những yêu
cầu cần thiết cho thị trường trong nước” và hướng đến triển vọng “mở rộng quan hệ
kinh doanh ra ngoài nước”.41 Nếu đặt trong tương quan so sánh thì mơ hình tập đồn
kinh doanh và mối quan hệ giữa các doanh nghiệp trong tập đồn kinh doanh mặc dù
có nhiều nét tương đồng với mơ hình nhóm cơng ty và mối quan hệ giữa các thành viên
trong nhóm cơng ty, nhưng hai mơ hình này vẫn có khơng ít điểm khác biệt với những
đặc trưng riêng. Vậy nên, nếu cho rằng mơ hình tập đồn kinh doanh theo Quyết định
số 91-TTg là mơ hình nhóm cơng ty cũng có phần gượng ép. Mặc dù vậy, việc điều
chỉnh về tập đoàn kinh doanh tại giai đoạn này đã mang lại những ảnh hưởng tích cực
nhất định góp phần hồn thiện các quy định về nhóm cơng ty ở các giai đoạn sau.
Gần mười năm sau, quyết tâm phát triển mơ hình này tiếp tục được ghi nhận
trong Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX của Đảng về sắp
xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Cùng với những
văn bản trên, một số văn bản quy phạm pháp luật khác (trong đó có Luật Doanh nghiệp
1999)42 cũng góp phần tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển một cách “chính
thức” của mơ hình nhóm cơng ty tại Việt Nam trong Luật Doanh nghiệp 2005.
36

Trần Viết Quân, tlđd (33), trang 5; Hồ Nguyễn Hải Hà, tlđd (5), trang 3. Xem thêm Trần Khắc Điền (2015),
“Quản trị nhóm cơng ty – Mơ hình phù hợp cho doanh nghiệp Việt Nam”,
truy cập ngày 12/6/2016.
37
Luật Công ty (Luật số 47-LCT/HĐNN8) ngày 21/12/1990 (“Luật Công ty 1990”), Điều 15.
38
Hà Thị Thanh Bình (2015), “Điều chỉnh mối quan hệ giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty theo Luật Doanh
nghiệp”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 5/2015, trang 15.
39
Quyết định số 91-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 7/3/1994 về việc thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh
(“Quyết định số 91-TTg”).

40
Quyết định số 91-TTg, khoản 3 Điều 2.
41
Quyết định số 91-TTg, Điều 1 và khoản 1 Điều 2.
42
Luật Doanh nghiệp (Luật số 13/1999/QH10) ngày 12/6/1999.

15


Có thể nói, trước khi Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời và có hiệu lực (tức trước
ngày 1/7/2006), khung pháp lý điều chỉnh nhóm cơng ty vẫn cịn nhiều thiếu sót.
Những đặc thù của nhóm cơng ty chưa được ghi nhận một cách chuẩn xác và phù hợp.
Do đó, những tiền đề pháp lý ban đầu mặc dù có ý nghĩa nhất định nhưng chưa mang
lại nhiều tác động tích cực đến hiệu quả của mơ hình nhóm cơng ty. Nhiều đặc trưng
của nhóm cơng ty như “địa vị pháp lý, chế độ tài chính, mơ hình quản trị nội bộ” cũng
như “mối quan hệ, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ” hay giao dịch giữa các công ty
thành viên trong nhóm cơng ty vẫn chưa được làm rõ.43 Đến khi Luật Doanh nghiệp
2005 ra đời, Luật này đã dành hẳn một chương riêng biệt với bốn điều khoản để quy
định một cách rõ ràng, đầy đủ và thống nhất hơn về nhóm cơng ty và các vấn đề pháp
lý liên quan.44 Cho đến thời điểm hiện nay, Luật Doanh nghiệp 2005 đã hết hiệu lực và
được thay thế bởi Luật Doanh nghiệp 2014 (có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2015) và, mặc
dù vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định, những nền tảng pháp lý cơ bản về nhóm
cơng ty trong Luật Doanh nghiệp 2014 vẫn được xem là hoàn thiện và phát triển hơn so
với Luật Doanh nghiệp 2005.
Nói tóm lại, ở nước ta, sự hình thành nhóm cơng ty dựa trên ý chí định hướng
của Nhà nước. Nhà nước tập trung đặt nền móng phát triển trước hết là cho những
doanh nghiệp có vốn nhà nước và sau đó là những doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác. Cho đến nay, rất nhiều tập đoàn kinh tế Nhà nước đã được thành lập và
đạt được nhiều thành tựu, trong đó có thể kể đến như Tập đồn Bưu chính Viễn thơng

Việt Nam, Tập đồn Than – Khống sản Việt Nam, Tập đồn Điện lực Việt Nam, Tập
đồn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, Tập đồn Xăng dầu Việt Nam, Tập đồn Tài chính –
Bảo hiểm Bảo Việt, Tập đoàn Dệt may Việt Nam, Tập đoàn Cơng nghiệp Cao su Việt
Nam, Tập đồn Viễn thơng Qn đội,... Những tập đoàn kinh tế này thường được tổ
chức dưới hình thức cơng ty mẹ – cơng ty con, trong đó, cơng ty mẹ thường tập trung
thực hiện chức năng quản lý phần vốn góp ở các cơng ty con mà không trực tiếp tham
gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh; các công ty con thường sẽ trực tiếp tham gia
vào hoạt động sản xuất kinh doanh và mang lại doanh thu cho cả nhóm cơng ty.45 Bên
cạnh những nhóm cơng ty có sở hữu nhà nước, nhóm công ty thuộc các thành phần
kinh tế khác – thành phần kinh tế tư nhân – cũng dần dần hình thành và phát triển
mạnh mẽ trong những năm trở lại đây, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của nền
kinh tế Việt Nam như Tập đoàn Vingroup, Tập đoàn Hồng Anh Gia Lai, Tập đồn
Tơn – Thép Hoa Sen, Tập đồn Hịa Phát, Tập đồn Vàng Bạc Đá q DOJI,…
1.1.3 Vai trị của nhóm cơng ty và pháp luật điều chỉnh nhóm cơng ty trong
nền kinh tế Việt Nam
Đối với Việt Nam, trong giai đoạn hiện nay, vai trò của nhóm cơng ty trong nền
kinh tế là vơ cùng quan trọng, thể hiện ở ba khía cạnh cơ bản sau đây:

43

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright (khóa 2011 – 2013), “Nghiên cứu tình huống Mơ hình tập đồn kinh
tế”,
/>D%3D2435+&cd=1&hl=vi&ct=clnk&gl=vn, truy cập ngày 12/6/2016.
44
Luật Doanh nghiệp 2005, Chương VII (từ Điều 146 đến Điều 149).
45
Trương Nhật Quang, tlđd (19), trang 29.

16



Thứ nhất, tăng cường hiệu quả sản xuất – kinh doanh và sức cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường. Với lợi thế là một tập hợp bao gồm nhiều công ty độc lập
khác nhau và các công ty này có thể hoạt động trên cùng ngành nghề, lĩnh vực (cùng
cung ứng một loại hàng hóa, dịch vụ hoặc các loại hàng hóa, dịch vụ trong cùng “dây
chuyền” sản xuất hàng hóa nhất định) hoặc khác ngành nghề, lĩnh vực (nhưng có khả
năng hỗ trợ, tạo tiền đề, vị thế, thị trường, khách hàng,…cho nhau), nhóm cơng ty được
xem là một trong những mơ hình hiệu quả cần thiết được đầu tư và tạo điều kiện phát
triển ở Việt Nam. Điểm mạnh của mơ hình nhóm cơng ty là quy mơ vốn và lao động
cao, có khả năng hoạt động đa dạng, phong phú trên nhiều ngành nghề, lĩnh vực, đồng
thời, có thể tận dụng thế mạnh, phát triển nguồn lực sẵn có của từng cơng ty thành viên
cũng như phân tán rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh, đem lại nguồn lợi rất lớn
trong sự phát triển của nền kinh tế.46 Sự hỗ trợ về vốn, tài chính và các nguồn lực từ
cơng ty mẹ vào các công ty con cũng như giữa các công ty con với nhau sẽ giúp doanh
thu, thị trường, khách hàng của cả công ty mẹ và công ty con cùng phát triển, tăng hiệu
quả kinh doanh và sức cạnh tranh, nhất là trong giai đoạn cạnh tranh ngày càng gay gắt
như hiện nay.
Những số liệu kinh tế – xã hội trong những năm gần đây là minh chứng rõ nét
vai trò này của nhóm cơng ty tại Việt Nam. Số lượng và quy mơ của các nhóm cơng ty
ngày càng tăng nhanh và sự đóng góp cho nền kinh tế của các nhóm cơng ty cũng ngày
càng đáng kể, tạo động lực cho sự phát triển nội tại của nền kinh tế và khẳng định vị
thế của nhiều hàng hóa, dịch vụ, ngành nghề Việt Nam trong tiến trình vươn ra thị
trường thế giới. Theo kết quả thống kê mới nhất từ các Bảng xếp hạng thường niên
“VNR500 – 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam theo mơ hình Fortune 500” và
“V1000 – 1000 doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam”
hàng năm từ năm 2010 đến năm 2015, các tập tồn kinh tế ln giữ vị trí rất quan
trọng, là những doanh nghiệp có quy mơ lớn nhất và được ghi nhận là có sự đóng góp
to lớn nhất cho sự phát triển của nền kinh tế. Đồng thời, các nhóm cơng ty ln chiếm
đa số các vị trí trong 10 thang bậc xếp hạng cao nhất của các Bảng xếp hạng này (điển
hình như Tập đồn Viễn thơng Qn đội, Tập đồn Dầu khí Việt Nam, Tổng cơng ty

Khí Việt Nam, Tập đồn Vingroup, Tập đồn Hịa Phát,…).47
Thứ hai, đẩy nhanh q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế – xã hội.48 Với đặc
điểm là mơ hình thể hiện sự liên kết theo chiều dọc hoặc chiều ngang hoặc kết hợp liên
kết cả theo chiều dọc và chiều ngang, các cơng ty trong nhóm cơng ty có sự đa dạng và
linh hoạt trong các hàng hóa, dịch vụ cung ứng, thích ứng nhanh với nhu cầu của thị
trường. Do đó, q trình chuyển dịch từ các hàng hóa, dịch vụ địi hỏi sức lao động cao
chuyển dần sang các hàng hóa, dịch vụ địi hỏi tập trung quy mô vốn, lao động và kỹ
thuật với trình độ chun mơn hóa và hiệu suất kinh doanh cao. Đồng thời, cơ cấu
ngành nghề cũng dần thay đổi chuyển dịch sang các ngành nghề công nghiệp và dịch
46

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, tlđd (43).
Cơng ty cổ phần Vietnam Report (2015), “Bảng xếp hạng V1000 – Top 1000 doanh nghiệp nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam”, truy cập vào ngày 1/6/2016; Công ty cổ phần Vietnam
Report (2015), “Bảng xếp hạng VNR500 – 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam theo mơ hình Fortune 500
truy cập vào ngày 1/6/2016.
48
Lê Hồng Tịnh, tlđd (14), trang 28.
47

17


vụ. Tất cả những biến chuyển trên từ sự hình thành và phát triển của nhóm cơng ty đã
góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế – xã hội hiện nay.
Thứ ba, thúc đẩy quá trình hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.49 Với quy mô về
vốn và thị trường cao, hoạt động trong nhiều ngành nghề đa dạng, các tập đồn kinh tế
có đủ sức vươn ra thị trường quốc tế. Nhiều tập đoàn kinh tế đa quốc gia với công ty
mẹ đầu tư vốn và nguồn lực cho các cơng ty con hình thành và phát triển tại nhiều quốc
gia khác nhau đã giúp tính kết nối, hội nhập giữa các nền kinh tế ngày càng chặt chẽ.50

Từ đó, độ chênh lệch trong trình độ phát triển kinh tế giữa các quốc gia cũng dần được
rút ngắn. Với vai trò là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) và Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cũng như đã từng gia nhập,
ký kết và đang trong tiến trình đàm phán, thương lượng nhiều điều ước quốc tế với hầu
hết các quốc gia trên thế giới trên nhiều lĩnh vực có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát
triển kinh tế xã hội (mà quan trọng có thể kể đến là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) vừa được ký kết vào tháng 2 vừa qua), nhóm công ty là một trong những
công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế mà Nhà nước đang chú trọng.
Nhận thức vai trị quan trọng của nhóm cơng ty, để mơ hình này có khn khổ,
nền tảng vững chắc cho sự hình thành và phát triển, pháp luật cần xây dựng hành lang
pháp lý khoa học, phù hợp và hiệu quả để điều chỉnh các vấn đề pháp lý phát sinh liên
quan đến nhóm cơng ty. Trong đó, một trong những khía cạnh pháp lý phức tạp và cần
thiết phải kiểm sốt từ góc độ pháp lý chính là các giao dịch được tiến hành giữa các
cơng ty trong nhóm (intra – group transactions). Vai trò của pháp luật trong việc điều
chỉnh và kiểm soát vấn đề này thể hiện trên ba khía cạnh sau:
Thứ nhất, bảo đảm tính minh bạch, độc lập và bình đẳng khi giao dịch được
thực hiện giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty. Khi giao dịch được thực hiện giữa
những chủ thể này, quan hệ kiểm soát dựa trên cơ sở các mối liên kết giữa các bên sẽ
chi phối bản chất thực sự của giao dịch, khiến tính minh bạch, độc lập và bình đẳng của
giao dịch bị hạn chế. Các thành viên nhóm cơng ty có khả năng rất cao lợi dụng các
giao dịch này để tư lợi, né tránh các nghĩa vụ pháp lý (như nghĩa vụ về công bố thông
tin, tuân thủ các điều kiện của báo cáo về tài chính hoặc các nghĩa vụ về thuế,…) hoặc
phục vụ lợi ích riêng của một hoặc một số chủ thể nhất định và gây thiệt hại cho chủ
thể khác cần được pháp luật bảo vệ (chẳng hạn như cổ đông nhỏ, đối tác, chủ nợ của
các công ty thành viên trong nhóm hoặc lợi ích của Nhà nước) nếu pháp luật lỏng lẻo
trong cơ chế kiểm soát. Một thực trạng thường bắt gặp trên thực tế là công ty mẹ lợi
dụng quan hệ chi phối của mình đối với cơng ty con hoặc người quản lý của công ty
con để giao dịch được thực hiện bởi công ty con theo mục đích của cơng ty mẹ. Cơng
ty con là đối tượng bị kiểm sốt nên khó có khả năng tự bảo vệ lợi ích của mình trong
các giao dịch mà thường thực hiện theo quyết định từ công ty mẹ.

Thứ hai, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có lợi ích liên quan cần
được bảo vệ. Các bên có liên quan này bao gồm (i) các cổ đơng nhỏ trong cơng ty con
(do họ có phần vốn góp hoặc cổ phần thiểu số nên khó có khả năng tác động và ngăn
ngừa những giao dịch tư lợi hoặc có nguy cơ gây thiệt hại từ sự chi phối của công ty
mẹ và các thành viên khác của nhóm cơng ty), (ii) đối tác hoặc chủ nợ của công ty (do
49
50

Lê Hồng Tịnh, tlđd (14), trang 29.
Lê Hồng Tịnh, tlđd (14), trang 29.

18


giao dịch bị hạn chế tính minh bạch, chính xác nên các thông tin từ giao dịch không
phản ánh đúng tình hình kinh doanh thực tế hoặc khả năng thanh tốn của cơng ty) và
(iii) Nhà nước (do giao dịch có khả năng cao chuyển giá, thiếu minh bạch gây thất thu
nguồn thuế và khó khăn trong cơng tác quản lý của Nhà nước đối với thị trường vĩ mô).
Thứ ba, ngăn ngừa và hạn chế các thiệt hại hoặc nguy cơ gây thiệt hại từ các
giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm. Nhóm cơng ty có đặc điểm là có quy mơ vốn
lớn, nguồn lao động cao, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực nên những thiệt hại xảy ra
khi thực hiện các giao dịch khơng an tồn, không lành mạnh là vô cùng nghiêm trọng,
nguy hiểm và có tác động rất lớn đến sự ổn định và minh bạch của thị trường. Những
giao dịch chuyển nhượng tài sản, đầu tư vốn hoặc cho vay, bảo lãnh vay giữa các cơng
ty trong nhóm khơng tn theo điều kiện thương mại thông thường áp dụng đối với các
chủ thể pháp lý độc lập sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng chuyển giá, vốn “ảo”, mất khả năng
thanh toán hoặc nợ “xấu” mang tính hệ thống ảnh hưởng đến mơi trường cạnh tranh
lành mạnh và an toàn của tất cả các chủ thể trong nền kinh tế.
Chính vì thế, với tư cách là pháp luật điều chỉnh các chủ thể tham gia vào hoạt
động kinh doanh, pháp luật doanh nghiệp (mà cơ bản là Luật Doanh nghiệp 2014) có

vai trị rất quan trọng trong việc điều chỉnh nhóm cơng ty nói chung và giao dịch giữa
các cơng ty trong nhóm nói riêng.
1.2 Khái qt cơ chế kiểm sốt giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm cơng
ty theo Luật Doanh nghiệp 2014
1.2.1 Cơ chế kiểm soát giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty theo
Luật Doanh nghiệp 2014
1.2.1.1 Sự cần thiết xây dựng cơ chế kiểm soát giao dịch giữa các cơng ty trong
nhóm cơng ty
Như đã phân tích tại Mục 1.1.1.1 và Mục 1.1.1.2 trên, mặc dù cả công ty mẹ và
công ty con đều là những chủ thể có tư cách pháp lý độc lập, tuy nhiên, do đặc tính của
quan hệ kiểm sốt, các giao dịch mà công ty con thực hiện luôn chịu ảnh hưởng chi
phối ở mức độ nhất định từ công ty mẹ và, thậm chí (trong một số trường hợp), từ các
cơng ty con khác của nhóm cơng ty. Sự chi phối và can thiệp này có thể nhằm mục
đích lợi dụng quan hệ nhóm cơng ty để (i) che giấu bản chất, chủ thể và đối tượng của
giao dịch, (ii) trốn tránh các nghĩa vụ cần phải thực hiện (như nghĩa vụ về thuế, nghĩa
vụ về báo cáo tài chính, nghĩa vụ về công bố thông tin, nghĩa vụ tuân thủ pháp luật
cạnh tranh, nghĩa vụ xin chấp thuận của cơ quan quản lý nội bộ hoặc cơ quan quản lý
nhà nước,…) hoặc (iii) tư lợi riêng cho một, một số hoặc tất cả thành viên của nhóm.
Do đó, tính minh bạch, độc lập và bình đẳng trong các giao dịch giữa các cơng ty trong
nhóm cơng ty ln bị hạn chế hơn so với giao dịch cùng loại được thực hiện với các
chủ thể khác. Từ đó, nguy cơ tư lợi cùng nhiều rủi ro pháp lý khác rất dễ xảy ra, dẫn
đến khả năng cao gây thiệt hại cho các bên thứ ba (bao gồm các thành viên và cổ đông
nhỏ, đối tác, chủ nợ của công ty và Nhà nước) trong mối quan hệ với thành viên nhóm
cơng ty và giảm tính an tồn, lành mạnh của thị trường kinh tế. Riêng đối với những
quốc gia như Việt Nam với các nhóm cơng ty do Nhà nước tham gia làm chủ sở hữu
chiếm tỷ lệ đáng kể thì sự cần thiết của pháp luật trong việc xây dựng cơ chế kiểm soát
hiệu quả giao dịch giữa những chủ thể này cũng là một công cụ quan trọng giúp Nhà
nước điều tiết nền kinh tế và hạn chế tình trạng thất thốt nguồn vốn cơng.
19



Bên cạnh đó, đặt trong bối cảnh kinh tế – xã hội hiện nay, Việt Nam đang trong
bước đầu của quá trình hội nhập và xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, do đó, pháp luật chưa có nhiều kinh nghiệm, nền tảng và cơng cụ pháp
lý để dự đốn, ngăn ngừa cũng như kiểm sốt hiệu quả giao dịch giữa các cơng ty trong
nhóm cơng ty – vốn là những giao dịch có tính chất phức tạp với mức độ rủi ro cao.
Đồng thời, với vai trò là văn bản quan trọng, chủ yếu để điều chỉnh và định hướng
kiểm sốt nhóm cơng ty và giao dịch giữa các cơng ty nhóm, Luật Doanh nghiệp 2014
hiện hành lại chưa hoàn thiện tốt cơ chế kiểm sốt của mình mà vẫn cịn tồn tại một số
điểm hạn chế, bất cập, thiếu sót dẫn đến hiệu quả thực thi và áp dụng trên thực tế cịn
hạn chế.
Chính vì những lý do trên, việc hồn thiện cơ chế kiểm sốt nhóm cơng ty nói
chung và giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty nói riêng là vơ cùng cần thiết,
góp phần ngăn ngừa nguy cơ tư lợi, thao túng, lũng đoạn thị trường, mất cân bằng và
ổn định lượng hàng hóa, dịch vụ cung – cầu, hạn chế cạnh tranh, thiệt hại cho nền kinh
tế cùng nhiều rủi ro pháp lý khác cho các chủ thể có liên quan.
1.2.1.2 Cơ chế kiểm sốt giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty theo
Luật Doanh nghiệp 2014
Những rủi ro và thiệt hại gây ra từ giao dịch giữa các cơng ty trong nhóm cơng
ty xuất phát từ sự hạn chế về tính minh bạch, độc lập và bình đẳng so với các giao dịch
tương tự được thực hiện giữa các chủ thể độc lập khác trên thị trường. Vậy nên, cơ chế
kiểm soát mà pháp luật xây dựng cần phải đảm bảo kiểm soát được các tiêu chí về tính
minh bạch, tính độc lập và tính bình đẳng trong các giao dịch mà thành viên nhóm
cơng ty tiến hành.
Cụ thể hơn, để xây dựng cơ chế đảm bảo các tiêu chí trên, pháp luật doanh
nghiệp, trong q trình hồn thiện các quy định của mình, phải thống nhất và kết hợp
với pháp luật về kế tốn (chủ yếu là thơng qua các báo cáo về tài chính thể hiện những
thơng tin cần kiểm sốt về giao dịch tiến hành) và pháp luật về thuế (chủ yếu thông qua
quy định điều chỉnh giá chuyển giao trên cơ sở phù hợp với giá thị trường) để tăng
cường tính khoa học, tồn diện và hiệu quả của cơ chế kiểm soát. Đồng thời, trong

từng lĩnh vực chuyên mơn (như lĩnh vực về đấu thầu, kiểm tốn,...) hoặc áp dụng cho
từng đối tượng đặc thù cụ thể (như doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước hoặc cơng ty
đại chúng hoặc những công ty hoạt động trong ngành nghề đặc thù có tính rủi ro hệ
thống cao như tài chính – ngân hàng, bảo hiểm) thì biện pháp kiểm sốt cũng nên linh
hoạt để phù hợp với tính chất của giao dịch và chủ thể.
Về biện pháp kiểm sốt, đối với những giao dịch có tính chất phổ biến, có khả
năng gây rủi ro cao cho dù cơng ty trong nhóm hoạt động trong lĩnh vực nào, thuộc đối
tượng nào (như bốn loại (nhóm) giao dịch được phân tích cụ thể tại Mục 1.2.2 của
Chương 1 và Mục 2.1 của Chương 2 dưới đây) thì Luật Doanh nghiệp cần có quy định
về ngun tắc kiểm sốt chung, đồng thời, quy định các biện pháp kiểm soát cụ thể để
đảm bảo nguyên tắc kiểm soát chung đạt hiệu quả. Chẳng hạn như các biện pháp về
công bố thông tin, chấp thuận nội bộ, yêu cầu đối với giá giao dịch, các điều kiện giới
hạn nhất định tránh sự lạm dụng quá mức của các chủ thể hoặc các tiêu chí đặt ra để
xác định trách nhiệm của người quản lý trong quá trình xem xét hoặc quyết định giao
dịch có liên quan,... Đối với những giao dịch có tính chất đặc thù đòi hỏi sự tham gia
20


kiểm soát của các ngành luật khác, Luật Doanh nghiệp cần theo hướng xây dựng các
quy định mang tính định hướng, dẫn chiếu đến pháp luật chuyên ngành, nhằm đảm bảo
các biện pháp kiểm soát mà pháp luật chuyên ngành đưa ra dù nghiêm khắc hơn cũng
không xâm phạm quyền lợi chính đáng của cơng ty thành viên nhóm cơng ty được Luật
Doanh nghiệp bảo vệ.
Về cách thức xử lý, các chế tài áp dụng đối với trách nhiệm của các chủ thể có
liên quan dẫn đến giao dịch khơng đảm bảo tính minh bạch, độc lập, bình đẳng cần
được quy định một cách rõ ràng và cụ thể. Khi biện pháp kiểm soát được quy định một
cách rõ ràng, cụ thể và khoa học thì việc xác định và xử lý trách nhiệm của các chủ thể
có liên quan sẽ được thực hiện một cách hiệu quả hơn. Từ đó, cơ chế kiểm sốt giao
dịch mới có ý nghĩa trên thực tế vì mang tính khả thi cao khi áp dụng, đồng thời, có
khả năng định hướng và điều chỉnh hành vi của các chủ thể phù hợp với quy định của

pháp luật. Các chế tài và cách thức xử lý này có thể được quy định cụ thể trong các quy
định riêng về giao dịch cần kiểm soát hoặc trong các quy định chung xử lý vi phạm tại
Chương X của Luật Doanh nghiệp 2014 hiện hành.
Cơ chế kiểm sốt cần hồn thiện của Luật Doanh nghệp 2014 này sẽ được tác
giả tập trung phân tích và làm rõ thơng qua bốn loại (nhóm) giao dịch điển hình cần
kiểm soát sau, bao gồm (i) giao dịch tư lợi, (ii) giao dịch góp vốn hoặc mua cổ phần,
(iii) giao dịch cho vay và bảo lãnh vay và (iv) giao dịch chuyển giá.
1.2.2 Các giao dịch cần kiểm soát giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty theo
Luật Doanh nghiệp 2014
1.2.2.1 Giao dịch tư lợi
Theo định nghĩa tại từ điển chuyên ngành về Luật Black’s Law, giao dịch tư lợi
được hiểu là “giao dịch mà người tham gia giao dịch thu lợi cho bản thân, thay vì làm
lợi cho người mà mình đang nhận nhiệm vụ ủy thác”.51 Hoặc hiểu một cách đơn giản
hơn, giao dịch tư lợi là “giao dịch có nguy cơ bị trục lợi bởi một hoặc một số thành
viên hay cổ đông của công ty”,52 và khái niệm này được sử dụng để chỉ giao dịch giữa
cơng ty với người có liên quan được điều chỉnh tại Điều 67, Điều 86 và Điều 162 của
Luật Doanh nghiệp 2014. Khi công ty thực hiện giao dịch với những người có liên
quan, tính minh bạch, bình đẳng và độc lập của giao dịch bị hạn chế hơn so với khi
thực hiện với những chủ thể khác nên khả năng lợi dụng giao dịch để tư lợi là rất lớn.
Đó là cơ sở để Luật Doanh nghiệp quy định những điều kiện chặt chẽ nhằm đảm bảo
tính minh bạch, bình đẳng và độc lập khi giao dịch được thực hiện. “Người có liên
quan” trong pháp luật doanh nghiệp được quy định cụ thể tại khoản 17 Điều 4 của Luật
Doanh nghiệp 2014. Theo quy định này, mặc dù chỉ có cơng ty mẹ và cơng ty con được
quy định là “người có liên quan” của nhau cịn giữa các công ty con của cùng một công
ty mẹ không được quy định rõ ràng là “người có liên quan” của nhau nhưng giao dịch
giữa các chủ thể này đều chịu sự điều chỉnh của cơ chế kiểm soát giao dịch tư lợi theo
Điều 67, Điều 86 và Điều 162 của Luật Doanh nghiệp 2014. Bởi lẽ khi hai công ty con
của cùng công ty mẹ thực hiện giao dịch, công ty con kia sẽ được xem là “người có
51


Bryan A. Garner (2001), Black’s Law Dictionary, Second Pocket Edition, West Publishing Co., USA. Xem
thêm Nguyễn Thị Vân Anh, tlđd (1), trang 6.
52
Lê Đình Vinh (2004), “Kiểm sốt giao dịch tư lợi trong cơng ty theo Luật Doanh nghiệp”, Tạp chí Luật học,
số 01/2004, trang 54 – 58.

21


×