BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THÚY
TỘI THAM Ơ TÀI SẢN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Thành phố Hồ Chí Minh – tháng 04 năm 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TỘI THAM Ơ TÀI SẢN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60380104
Người hướng dẫn khoa học: Pgs.Ts. Nguyễn Thị Phƣơng Hoa
Học viên: Nguyễn Thị Thúy
Lớp: Cao học Luật, khóa 25
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 04 năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn và giúp đỡ của PGS. TS. Nguyễn Thị Phương Hoa. Các trích dẫn trong
luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những tài liệu tham khảo sử
dụng trong luận văn đều được liệt kê đầy đủ, cụ thể. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ CỦA LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Thúy
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỘI THAM Ô
TÀI SẢN .....................................................................................................................7
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc quy định tội tham ơ tài sản theo luật hình sự
Việt Nam. ................................................................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm tội tham ô tài sản ....................................................................7
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội tham ô tài sản trong luật hình sự ............10
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tham ơ tài sản ................... 12
1.2.1. Dấu hiệu định tội ....................................................................................12
1.2.2. Dấu hiệu định khung ..............................................................................19
1.2.3. Hình phạt ................................................................................................23
1.3. Phân biệt Tội tham ơ tài sản với một số tội phạm khác ................................. 25
1.4. Quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng và pháp luật
một số nước về tội Tham ô tài sản ........................................................................ 27
1.4.1. Quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng ............27
1.4.2.Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới quy định về tội tham ôtài sản
..........................................................................................................................29
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TỘI THAM Ô TÀI
SẢN VÀ CÁC KIẾN NGHỊ ...................................................................................36
2.1. Tổng quan về thực tiễn áp dụng pháp luật xử lý tội tham ô tài sản ............... 36
2.2. Hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật xử lý tội tham ô tài sản .............. 38
2.2.1. Hạn chế trong việc định tội danh ...........................................................39
2.2.2 Hạn chế trong quyết định hình phạt ........................................................51
2.3. Những kiến nghị cụ thể.................................................................................. 53
2.3.1. Kiến nghị về hoàn thiện pháp luật .............................................................. 53
2.3.2. Kiến nghị nâng cao chất lượng thực tiễn áp dụng pháp luật ..................... 54
2.3.4 Kiến nghị khác ............................................................................................. 60
KẾT LUẬN ..............................................................................................................67
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
:
Bộ luật Hình sự
BLTTHS
:
Bộ luật tố tụng Hình sự
BPNC
:
Biện pháp ngăn chặn
CQĐT
:
Cơ quan điều tra
CQTTHS
:
Cơ quan tố tụng hình sự
TAND
:
Tịa án nhân dân
TANDTC
:
Tịa án nhân dân tối cao
TNHS
:
Trách nhiệm hình sự
TTHS
:
Tố tụng hình sự
VAHS
:
Vụ án hình sự
VKSNDTC :
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: So sánh quy định của một số quốc gia về Tội tham ô tài sản .......... 33
Bảng 2.1: Tình hình xét xử sơ thẩm tội tham ô tài sản (2013 đến 2017) ......... 36
Bảng 2.2: Số vụ án xét xử sơ thẩm về tội tham ô tài sản so với tổng số vụ án
xét xử sơ thẩm về tội phạm tham nhũng (2013 đến 2017) ............................... 37
Bảng 2.3: Số bản ản bị sửa đổi, hủy, tạm đình chỉ, đình chỉ (2013 đến 2017). .... 37
Bảng 2.4: Tình hình án treo đối với tội tham ô tài sản (2013 đến .................... 38
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tham nhũng là căn bệnh nguy hiểm của Nhà nước, của xã hội bởi nó hiện diện ở
mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, nó tồn tại và phát triển khơng ngừng, hàng
ngày hàng giờ len lỏi vào mọi mặt của đời sống, nó làm phương hại đến lợi ích của
hầu hết công dân, cản trở sự phát triển bền vững của Nhà nước. Thậm chí một vấn
đề cịn nguy hiểm hơn nữa đó là tham nhũng có thể làm sụp đổ cả một chế độ.
Không chỉ riêng Việt Nam mà đối với các nước trên thế giới, tham nhũng luôn là
mối đe dọa đối với sự phát triển của kinh tế - xã hội làm suy giảm lòng tin của nhân
dân vào chính quyền vào pháp luật.
Trong nhóm tội phạm tham nhũng, tội tham ô tài sản là một trong những tội phạm
xảy ra thường xuyên với mức độ nguy hiểm cho xã hội rất cao do hậu quả gây ra
nghiêm trọng với số tiền chiếm đoạt thường rất lớn. Trong cơ chế thị trường hiện
nay, kinh tế là lĩnh vực luôn tiềm ẩn khả năng tham ô lớn. Bởi ở đó lợi ích vật chất
được xác định là động lực thúc đẩy mạnh mẽ hành vi tham ô tài sản. Thực tiễn cho
thấy, tội phạm tham ô, tham ngày càng gia tăng với quy mô và mức độ phức tạp cao
hơn. Động cơ vụ lợi đã khiến khơng ít cán bộ, cơng chức cố tạo cho mình một đặc
quyền nào đó để chiếm đoạt tài sản có trách nhiệm quản lý bằng các thủ đoạn lợi
dụng chức vụ, quyền hạn.
Hiện nay, tình hình tội phạm tham ơ ở nước ta hiện nay đang diễn ra cả ở chiều
rộng, lẫn chiều sâu và sức cơng phá của nó khơng phải chỉ dừng lại ở lĩnh vực kinh
tế mà cả chính trị, xã hội. Trong khi đó, Bộ luật hình sự năm 2015 đã có hiệu lực
pháp luật nhưng một số quy định của pháp luật vẫn nhưng chưa được giải thích
hướng dẫn cụ thể. Mặt khác, những năm gần đây xuất hiện ngày càng nhiều các vụ
án tham ô tài sản có tính chất nổi cộm, quy mơ ngày càng lớn, thủ đoạn tinh vi,phức
tạp và tổ chức chặt chẽ như Tham ô tài sản ở Vinashin, Vinaline, Tham ô tại Cơng
ty cho th tài chính 2 ALC – Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn…;
thực tế điều tra những vụ án tham nhũng nói chung và tham ơ tài sản nóiriêng hiệu
quả cịn hạn chế đã và đang đặt ra vấn đề với các nhà lập pháp trong qtrình hồn
thiện pháp luật cũng như các cơ quan tư pháp trong điều tra xét xử tội phạm tham ơ
tài sản.
Vì lý do đó, tác giả đã quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài “Tội tham ô tài sản
2
theo luật hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ của mình nhằm nghiên cứu một
cách hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội danh này, từ đó tìm ra những
phương hướng nâng cao hiệu quả áp dụng trong cơng tác đấu tranh phịng chống tội
tham ô tài sản ở nước ta trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua, đã có khơng ít cơng trình nghiên cứu về tội phạm tham ô tài sản. Tội
phạm này được nghiên cứu trong một số tác phẩm của một số nhà khoa học, nghiên
cứu dưới dạng các bài viết, bài báo, chuyên đề, luận văn… Một số tác giả đã công
bố những bài báo khoa học có đề cập đến tội tham ơ tài sản chẳng hạn như:
Ngô Minh Hưng (2007), “Đồng phạm trong tội tham ô tài sàn cũng phải là người có
chức vụ, quyền hạn”, Tạp chi Tịa án nhân dân (09). Bài viết đã đi sâu vào tìm hiểu
vấn đề đồng phạm trong tội tham ô tài sản là người có chức vụ, quyền hạn. Tuy
nhiên, bài viết chỉ tập trung vào vấn đề đồng phạm mà chưa nói rõ được những nội
dung lý luận khác về tội tham ô tài sản.
Trương Thị Hằng (2006) “Bàn về chủ thể của tội tham ơ tài sản trong Bộ luật Hình
sự năm 1999”, Tạp chí Kiểm sát (06). Tác giả đã đưa ra những luận điểm cụ thể về
vấn đề xác định chủ thể của tội tham ô tài sản trong Bộ luật Hình sự năm 1999. Tuy
nhiên, tác giả chưa trình bày được những nội dung khác về mặt lý luận của tội tham
ô tài sản.
Trương Bá Hùng (2006), “Bàn về việc định tội tham ô tài sản trong giai doạn hiện
nay”, Tạp chí Kiếm sát (22). Bài viết có đề cập đến một số vấn đề quan trọng cần
chú ý đối với hoạt động định tội tham ô tài sản. Tuy nhiên, tác giả chưa đưa ra được
khái niệm chung nhất về tội tham ô tài sản, các nội dung của bài viết cũng đã cũ so
với tinh thần của Bộ luật hình sự năm 2015.
Đinh Khắc Tiến (2006),“Việc xác định tội tham ô tài sản trong cơ chế thị
trường”,Tạp chi Kiểm sát (06). Tác giả đã đánh giá một số vấn đề cần chú ý trong
việc xác định tội danh tham ô tài sản đặt trong bối cảnh cơ chế thị trường. Tuy
nhiên, những nội dung trong bài viết chưa cập nhật được tinh thần của Bộ luật Hình
sự năm 2015 nên khơng cịn phù hợp với giai đoạn hiện nay.
Trần Duy Thanh (2008) “Xác định cấu thành tội phạm tham ô tài sản trong doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Cơng an Nhân dân (07). Bài viết đã trình bày
được những nội dung cốt lõi trong việc xác định cấu thành tội phạm tham ô tài sản
3
trong doanh nghiệp ở Việt Nam. Tuy nhiên, một số nội dung trong bài viết đã cũ,
khơng cịn phù hợp với bối cảnh hiện nay.
Ở cấp độ luận văn thạc sĩ, có các đề tài của các tác giả:
Trần Quang Sơn (2007), Tội tham ô tài sản trong Bộ luật hình sự Việt Nam, những
vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật học Đại học Luật Hà Nội. Luận
văn đã trình bày được những vấn đề lý luận về tội tham ô tài sản trong Bộ luật hình
sự Việt Nam chẳng hạn như khái niệm, đặc điểm, vị trí và ý nghĩa của việc quy định
tội tham ơ tài sản trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Luận văn cũng đã trình bày
những nội dung quy định cụ thể về tội tham ô tài sản trong Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999, đánh giá được thực trạng áp dụng và đưa ra một số giải pháp nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong việc định tội danh tham ô tài sản. Nhưng do
luận văn được thực hiện cách đây đã lâu nên không cập nhật được những thông tin
và quy định mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Tạ Thu Thủy (2009), Tội tham ơ tài sán trong luật hình sự Việt Nam - Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật học Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội. Luận văn đã trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội tham ô tài sản
trong luật hình sự Việt Nam như khái niệm tội tham ô tài sản, đặc điểm, những nội
dung quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội
tham ô tài sản. Luận văn cũng nêu được thực trạng áp dụng pháp luật về tội tham ơ
tài sản và kiến nghị hồn thiện. Tuy nhiên, một số nội dung trình bày trong luận văn
đã cũ, chưa thể cập nhật được những quy định mới của Bộ luật hình sự năm 2015.
Nhìn chung, các nghiên cứu trên đây của các tác giả hoặc mới chỉ dừng lại dưới
dạng các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, một phần, mục
trong các giáo trình, sách tham khảo mà chưa ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật
hình sự và tố tụng hình sự hoặc mới chỉ tiếp cận ở góc độ tội phạm học, khoa học
thanh tra... hoặc đã nghiên cứu ở thời điểm tương đối lâu so với hiện nay, chưa cập
nhật những vấn đề mới của thực tiễn áp dụng pháp luật. Do vậy, với khoa học luật
hình sự và tố tụng hình sự, đề tài này cần phải tiếp tục được nghiên cứu một cách có
hệ thống, tồn diện, sâu sắc hơn đối với loại tội phạm này, bổ sung các thông tin
mới về lý luận và thực tiễn, nhất là trong bối cảnh Bộ luật hình sự năm 1999 đã sửa
đổi, cập nhật vào năm 2015 nhưng vẫn chưa khắc phục triệt để những tồn tại trước
đây.
4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu là đề xuất một số giải pháp hồn thiện pháp luật hình sự về tội
tham ơ tài sản và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của áp dụng những quy định
này trong thực tiễn.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu
như sau:
-
Phân tích những vấn đề lý luận về tội tham ơ tài sản
-
Phân tích quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội tham ơ tài sản;
-
Phân tích các Công ước quốc tế về tội phạm tham nhũng và pháp luật hình sự
một số nước về tội tham ơ tài sản.
-
Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về tội tham ơ tài sản, trình bày một số hạn
chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật xử lý tội tham ô tài sản.
-
Đề xuất một số kiến nghị cụ thể trong việc hoàn thiện pháp luật, kiến nghị trong
thực tiễn áp dụng pháp luật xử lý tội tham ô tài sản.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu những lý luận quy định của pháp luật hình sự về tội
tham ơ tài sản và thực tiễn áp dụng pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Tác giả nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về tội
tham ô tài sản trên phạm vi cả nước Việt nam.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật xử lý tội tham ô tài
sản trong khoảng thời gian từ năm 2013-2017.
Về luật thực định: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam, chủ yếu là quy định tại Điều 278của Bộ luật hình sự năm 1999 và Điều 353
Bộ luật hình sự năm 2015. Đồng thời để tham khảo quy định của nước ngồi và
Luật quốc tế trong việc Luật Hình sự Việt Nam.
5
Luận văn nghiên cứu một số nội dung của Công ước Liên Hợp Quốc về chống tham
nhũng và Luật Hình sự của một số quốc gia trên thế giới quy định về tội tham ô tài
sản bao gồm: Trung Quốc, Thụy Điển, Nhật Bản, Liên Bang Nga. Đây là những
quốc gia có quy định tiến bộ, rõ ràng về tội tham ơ tài sản và có những điểm tương
đồng nhất định với pháp luật Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để làm sáng tỏ những nội dung được nghiên cứu, luận văn sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp khác nhau như: phân tích, đánh giá, so sánh, tổng hợp và thống kê.
Các phương pháp nêu trên được thực hiện trên nền tảng của phương pháp luận duy
vật lịch sử, duy vật biện. Cụ thể các phương pháp thực hiện ở từng chương như sau:
Chương 1: Phương pháp tổng hợp,phân tíchđược sử dụng để phân tích những vấn
đề lý luận chung về tội tham ô tài sản, bao gồm các khái niệm, ý nghĩa của tội tham
ô tài sản, phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm khác, trình bày quy định
của Cơng ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng và pháp luậtmột số nước về tội
Tham ô tài sản, quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội tham ô tài sản.
Chương 2: Phương pháp phân tích, so sánh, kết hợp với phương pháp thống kê,
tổng hợp được sử dụng để tổng hợp thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình
sự năm 2015 về tội tham ô tài sản. Phương pháp tổng hợp, phân tích được sử dụng
để đánh giá những điểm hạn chế trong việc định tội danh và hạn chế trong quyết
định hình phạt vềtội tham ơ tài sản, từ đó đề xuất những kiến nghị hiệu quả nhằm
hồn thiện quy định của pháp luật về tội tham ô tài sản.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là cơng trình khoa học đầu tiên nghiên cứu nghiên cứu quy định vềTội
tham ơ tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó, luận văn có những đóng góp
mới như sau:
Đóng góp về lý luận và pháp lý
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội tham ô tài sản như khái
niệm và ý nghĩa của tội tham ô tài sản, phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội
phạm khác. Phân tích một số quy định của Cơng ước Liên hợp quốc về chống tham
nhũng và pháp luậtmột số nước về tội Tham ô tài sản.
6
Nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ những quy định của Bộ luật hình sự năm
2015 về tội tham ô tài sản bao gồm những nội dung như: các dấu hiệu định tội, các
dấu hiệu định khung, hình phạt đối với tội tham ơ tài sản.
Đóng góp về thực tiễn
Chỉ ra những điểm thiếu sót, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ
luậthình sự năm 2015 về tội tham ơ tài sản, bao gồm có hạn chế trong việc định tội
danh và hạn chế trong quyết định hình phạt.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn cũng đã đưa ra những kiến nghị cụ thể
nhằm hồn thiện những quy định củaBộ luật hình sự năm 2015 về tội tham ô tài sản
cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định này trong thực tiễn đấu tranh
phịng, chống tội phạm tham ơ tài sản.
Ngồi ra, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong
việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu trong các cơ sở đào tạo luật. Luận văn cũng
là tài liệu tham khảo bổ ích đối với việc hồn thiện pháp luật hình sự và cán bộ làm
công tác thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn được kết cấu như sau:
Chƣơng 1. Một số vấn đề lý luận và pháp lý về Tội tham ô tài sản.
Chƣơng 2.Thực tiễn áp dụng pháp luật về tội tham ô tài sản và các kiến nghị.
7
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ
VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc quy định tội tham ô tài sản theo luật hình sự
Việt Nam.
1.1.1. Khái niệm tội tham ơ tài sản
Tham nhũng, tham ô là vấn nạn chung của tất cả các quốc gia, ở tất cả các
Nhà nước và thời kỳ lịch sử, kể từ khi chế độ tư hữu xuất hiện và Nhà nước ra
đời.Trong đó, tham ơ là một biểu hiện của tham nhũng, một hành vi phổ biến trong
các tội tham nhũng.Tham ô làmột hệ quả tất yếu của sự vị kỷ, vụ lợi của mỗi cá
nhân, đặc biệt trong điều kiện quản lý kinh tế - xã hội lỏng lẻo, yếu kém tạo ra nhiều
sơ hởcho các hành vi tiêu cực, tham ơ có điều kiện phát triển và một phầnquyền lực
chính trị được biến thành quyền lực kinh tế.Tham ô làmthâm hụt công quỹ, rút ruột
cơng trình xây dựng, giảm mức phúc lợi.Thậm chí ở tầm kháqt cao hơn, có thể
nóitham ơ làm chậm sự phát triển kinh tế-xã hội,làm giảm lịng tin của cơng dân vào
nhà nước, đến chừng mực nào đó nó gây mấtổn định chính trị, kinh tế - xã hội, thậm
chí sụp đổ cả một cơ quan, tổ chức, sụp đổmột thể chế chính trị.
Ở nước ta hiện nay thuật ngữ tham ô được sử dụng phổ biến trong đời sống hàng
ngày, nhưng vẫn chưa đạt tới sự thống nhất về quan niệm.Về mặt ngữ nghĩa, theo
Từ điển Tiếng Việt, tham ôlà“lợi dụng quyền hạn hoặc chức trách để ăn cắp của
cơng"1.Theo đó, có thể hiểu tham ơ là hành vi của người có quyền hạn hoặc chức
trách đã lợi dụng quyền hạn hoặc chức trách của mình để chiếm đoạt của công.
Tham ô gắn liền với quyền lực công, vấn đề “tham quan ơ lại” thì triều đại nào cũng
đều được đặt ra và xử lý hết sức nghiêm ngặt.
Ngay sau khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ban hành sắc lệnh số 233 – SL ngày 27 tháng 11 năm 1946 quy định về Tội biển
thủ cơng quỹ với hình phạt rất nghiêm khắc, đây được xem là văn bản quy phạm
pháp luật đầu tiên về tội tham ô tài sản. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh coi
tham ô, lãng phí là tội lỗi lớn nhất trong xã hội, chỉ rõ bản chất của tham ô là lấy
của công làm của tư, là gian lận tham lam. Hiểu theo nghĩa rộng thì hành vi tham ơ
1
Hồng Phê (chủ biên) (2010), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr. 1165.
8
chính là trộm cướp. Hiểu theo nghĩa này, chủ thể của hành vi tham ô không chỉ là
cán bộ, công chức – những người nắm chức vụ, quyền hạn nhất định trong bộ máy
nhà nước mà ngay cả những người dân bình thường, nếu “ăn cắp của cơng, khai
gian, lậu thuế” cũng có thể là chủ thể của hành vi tham ô.
TheoTổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International Organisation- TIO),
thì tham ơ là “hành vi của người giữ chức vụ trong cơ quan, tổ chức, hoặc công ty,
đã chiếm đoạt, sử dụng hoặc buôn bán một cách trái phép số tiền và tài sản mà họ
được giao quản lý để phục vụ cho những mục đích làm giàu cá nhân hoặc các hoạt
động khác”2.
Theo quy định tại Điều 17 Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng thì
tham ơ được hiểu là “… hành vi của cơng chức tham ơ, biển thủ hoặc chiếm đoạt
dưới các hình thức khác cho bản thân hoặc cho người hay tổ chức khác cơng quỹ
hoặc tư quỹ hoặc chứng khốn hay bất cứ thứ gì có giá trị mà cơng chức này được
giao quản lý do địa vị của mình3”. Quan điểm này nêu rất khái quát về tham ô
nhưng chỉ nói tới hành vi chiếm đoạt tài sản của cơng chức mà bỏ qua những hành
vi chiếm đoạt tài sản của các đối tượng không phải là công chức.
Khoa học luật hình sự và pháp luật hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới
mô tả tham ô trước hết là hành vi của người có thẩm quyền quản lý tài sản của cơ
quan tổ chức, chiếm đoạt tài sản của cơ quan tổ chức đó bằng chính vị trí, chức vụ
của mình sau đó mới phân tách hành vi tham ô diễn ra trong cơ quan tổ chức nhà
nước, doanh nghiệp nhà nước và thuộc khu vực tư nhân để phân hóa trong các cấu
thành của tội tham ơ tài sản.
Như vậy, có thể thấy rằng mặc dù cịn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về tội tham
ô tài sản nhưng nhìnchung thì có hai quan niệm khá phổ biến:
Một là, xem tham ô bao gồm mọi hành vi chiếm đoạt tài sản công của bất kỳ
người nào có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn để chiếm
dụng tài sản. Chủ thể của hành vi tham ơ có thể là cán bộ, cơng chức nhà nước, viên
2
“Embezzlement”, Transparency International[ />(truy cập ngày 10/01/2019)
3
“Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng”, Thư viện pháp luật online
[ (truy cập ngày 10/01/2019)
9
chức hoặc những người làm việc trong các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội và tài
sản bị chiếm đoạt của hành vi tham ô là tài sản của nhà nước.
Hai là, xem tham ô là hành vi lợi dụng quyền để chiếm đoạt tài sản mà mình
cótrách nhiệm quản lý chuyển thành của riêng, với động cơ xuất phát từ lợi ích cá
nhân hoặc nhóm cá nhân có quan hệ lợi ích với nhau. Hành vi tham ơ không chỉ ở
việc chiếm đoạt tài sản của nhà nước mà của các tổ chức chính trị - xã hội và doanh
nghiệp bao hàm cả lĩnh vực tư. Và như đã đề cập ở trên, đây là quan điểm về tội
tham ô tài sản ở nhiều nước trên thế giới.
Qua nghiên cứu các quan điểm trên cho thấy, hiện này vẫn chưa có quan niệm
thống nhấtvề tham ơ và vẫn còn nhiều tranh cãi xoay quanh hai dấu hiệu cơ bản của
hành vi này là: thứ nhất, tài sản tham ô là của Nhà nước hay của cơ quan tổ chức
(bao gồm cả lĩnh vực côngvà lĩnh vực tư), và từ dấu hiệu này phái sinh dấu hiệu thứ
hai, chủ thể tham ơ tàisản - người có chức vụ quyền hạn để thi hành công vụ - là cán
bộ, công chức, viênchức hay chỉ là người có trách nhiệm quản lý trong cơ quan tổ
chức.
Cá nhân của tác giả cho rằng tham ô tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của cơ
quan, tổchức thành của riêng cho bản thân hay người khác mà bản thân chủ thể có
tráchnhiệm quản lý, xâm hại vào hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức đồng
thời xâmhại vào quyền sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức.
Tuy nhiên, xét ở góc độ tội phạm học, tình hình tội phạmlà hiện tượng mang tính
lịch sử và tính pháp lý hình sự, thực tiễn cho thấy cùng vớisự thay đổi của các thành
phần kinh tế đã có nhiều trường hợp người có trách nhiệmquản lý tài sản lợi dụng
điều này để chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức thuộc cácthành phần kinh tế
quốc doanh (cơng), doanh nghiệp cổ phần hóa (công – tư kết hợp)và doanhnghiệp
dân doanh, tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp, tổ chức phi chínhphủ. Trong mộtxã
hội mà nhà nước chỉ nắm giữ những lĩnh vực kinh tế chủ chốt màkhơng thể khơng
tư nhân hóa, trong xu thế cổ phần hóa đang được thực hiện với tinhthần chỉ đạo
khơng thể trì hỗn của Chính phủ hiện nay thì rõ ràng tài sản của các cơquan, tổ
chức khác trong xã hội cũng cần được bảo vệ trước hành vi của những ngườicó
thẩm quyền quản lý trong các cơ quan này lợi dụng vị trí, chức vụ của mình
đểchiếm đoạt trái phép… Dù chủ sở hữu tài sản thuộc thành phần kinh tế nào,
thuộcthẩm quyền quản lý của Nhà nước hay khơng thì các chủ sở hữu đều phải
10
được bìnhđẳng trước pháp luật mà cụ thể ở đây là pháp luật hình sự. Bản chất của
tham ơ vẫn làdùng chức vụ quyền hạn tổ chức để chuyển tài sản đó thành của riêng.
Xuất phát từ thực tiễn xử lý tội phạm ở nước ta có nhiều vướng mắc donhững quy
định trong luật hình sự về tội tham ơ tài sản nói riêng và tội phạm vềchức vụ nói
chung chưa giải quyết được các yêu cầu thực tiễn đặt ra; vì vậy Bộ luậtHình sự sửa
đổi năm 2015 có sự thay đổi đáng kể trong tư duy lập pháp khi tội thamơ tài sản vẫn
nhằm trong nhóm tội phạm về chức vụ nhưng khái niệm các tội phạm
về chức vụ đã có sự mở rộng:
“Là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức dongười có
chức vụ thực hiện trong khi thực hiện cơng vụ, nhiệm vụ” và“người cóchức vụ là
người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác,có hưởng
lương hoặc khơng hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhấtđịnh và có
quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ”.
Từ những đánh giá và nhận định nêu trên, tác giả xin đia ra một khái niệm chung
nhất về tội tham ôtài sản như sau:Tội tham ô tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, trái pháp luật hình sựdo người đủ tuổichịu TNHS, có năng lực TNHS,có trách
nhiệm quản lýtài sản thực hiện bằng việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình
chiếm đoạt tài sảnmà mình có trách nhiệm quản lý.
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội tham ô tài sản trong luật hình sự
Việc quy định tội tham ơ tài sản trong luật Hình sự có ý nghĩa quan trọng trong
cuộc đấu tranh chống tham nhũng và khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng và
Nhà nước ta trong phòng, chống tham nhũng nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo
và quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe
doạsự sống còn của chế độ chính trị cũng như góp phần củng cố niềm tin của nhân
dân đối với Đảng và Nhà nước ta.
Từ những quy định trong luật và các văn bản có liên quan, các cơ quan hành
pháp và tư pháp đã tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm tham ô
tài sản. Trong những năm gần đây, mặc dù tội phạm đang ngày càng sử dụng các
thủđoạn tinh vi nhưng công tác đấu tranh với tội phạm tham nhũng đã dành được
nhiều kết quả tích cực về chất lượng; bao gồm q trình đấu tranh ngăn ngừa phạm
tội, kếtquả thi hành án, thu hồi tài sản tham ô; nhiều vụ án lớn như: Vinaline, Vinashin đã được đưa ra xét xử đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và đem lại
11
niềm tin cho nhân dân. Thực tiễn tình hình tội phạm thì tội tham ơ tài sản là tội
phạmcótỉlệphạmtội khá cao.
Theo Báo cáo phịng chống tham nhũng của Chính phủ năm 2010 tội
tham ơ tài sản chiếm 51.5% trong nhóm tội phạm tham nhũng cho thấy tội phạm
tham ô tài sản chiếm tỉ lệ lớn trong tội tham nhũng; việc đấu tranh ngăn chặn loại
tội phạm này sẽ đẩy mạnh hiệu quả trong cuộc chiến với tội phạm tham nhũng.
Mặt khác, đi liền với quy định về tội phạm là quy định về hình phạt trong
luật hình sự. Việc luật hình sự quy định mức hình phạt rất nghiêm khắc (cao nhất là
tử hình) cho thấy tính răn đe mạnh mẽ của nhà nước đối với loại tội phạm tham
nhũng. Trong xu hướng sửa đổi luật hiện nay vẫn có nhiều ý kiến cho rằng cần tiếp
tục có chế tài mạnh để hạn chế tội phạm này.
Việc quy định tội tham ơ tài sản trong luật hình sự cịn là căn cứ để xây dựng
hệ thống các văn bản hướng dẫn khác trong phòng chống tội phạm tham nhũng,
đồng thời đây cũng là minh chứng về mặt thể chế trong triển khai thực hiện Kế
hoạch thực thi Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng của Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao uy tín, vị thế chính trị của Việt
Nam trên trường quốc tế.
Thực tiễn trong những năm gần đây công cuộc đấu tranh chống tội phạm
tham nhũng đã có những bước tiến nhất định và đi vào quy củ hơn; Đảng và nhà
nước đã xây dựng được hệ thống tổ chức và hệ thống văn bản, hệ thống tổ chức
chính trị để chống tham nhũng. Sau khi ban hành BLHS 1999 Quốc hội và Ủy ban
thường vụ Quốc hội đã ban hành 03 Nghị quyết có liên quan; trong đó Nghị quyết
số 33/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật hình sự với nội dung sửa đổi tại điều 278; Hội đồng
thẩm phán cũng đã ban hành 07 nghị quyết; Chính phủ ban hành 06 nghị định; các
cơ quan có liên quan đã ban hành 17 thơng tư liên tịch liên quan đến việc thi hành
Bộ Luật Hình sự năm 1999. Từ những quy định về tội tham ô trong BLHS 1999,
Quốc Hội khóa 12 đã ban hành Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005. Gần đay
nhất Quốc Hội nước ta đã thơng quaLuật Phịng, chống tham nhũng năm 2018 đây
làbước tiến tích cực trong cuộc đấu tranh, chống tham nhũng của nước ta. Để có
được kết quả trên thì quy định về tội tham ơ tài sản, hình phạt đối với tội danh này
trongluật Hình sự là căn cứ có tính quyết định cơ bản đối với hệ thống văn bản pháp
luật liên quan sau này.
12
Do vậy, từ quy định về tội tham ô tài sản về chủ thể và khách thể của tội
danh này cũng như mức hình phạt được áp dụng là căn cứ để ban hành các văn bản
hướng dẫn thực hiện luật như: Nghị quyết, thông tư, nghị định… và từ những quy
định trong luật và các văn bản có liên quan, các cơ quan hành pháp và tư pháp đã
tiến hành hoạt động thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm tham ô tài sản.
Như vậy, từ quy định về tội tham ô tài sản trong Bộ luật hình sự - đạo luật có
vị trí và ý nghĩa đặc biệt trong hệ thống pháp luật và trong đời sống xã hội, cần tích
cực củng cố kiện tồn hệ thống luật pháp nhằm đảm bảo tính thực tiễn và hiệu quả
của pháp luật nói chung và hệ thống luật pháp đối với tội danh tham nhũng. Đây là
nhân tố quyết định cơ bản dẫn tới thắng lợi trong cuộc đấu tranh phòng chống tham
nhũng hiện nay.
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tham ơ tài sản
Từ nội dung quy định tại Điều 278 BLHS năm 1999, trong sự đối chiếu với các nội
dung mới được sửa đổi, bổ sung của Điều 353 BLHS năm 2015 về tội tham ơ tài
sản, có thể phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội tham ô tài sản như sau:
1.2.1. Dấu hiệu định tội của tội tham ô tài sản
Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội tham ô tài sản là những quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động
đúng đắn của các cơ quan, tổ chức trong nhà nước và của cả các doanh nghiệp, tổ
chức ngoài nhà nước; làm cho cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp này bị suy yếu, mất
uy tín; đồng thời tội tham ơ tài sản cịn xâm phạm quyền sở hữu tài sản của các cơ
quan tổ chức đã nêu.
Đối tượng tác động của tội phạm chính là tài sản mà người có chức vụ,quyền hạn
đang trực tiếp quản lý và thông qua việc tác động đến tài sản này người phạm tội
mới có thể xâm phạm đến khách thể của tội phạm.Tài sản này là tài sản của nhà
nước giao cho các cơ quan, tổ chức trong Nhà nước sở hữu và đang đặt dưới sự
quản lý của cơ quan, tổ chức trong Nhà nước hoặc là tài sản của các doanh nghiệp,
tổ chức ngoài Nhà nước đang giao cho người phạm tội quản lý.
Mặt khách quan
Tội tham ô tài sản có cấu thành tội phạm vật chất nên mặt khách quan của tội tham
ô tài sản gồm hành vi khách quan và hậu quả của tội phạm.Do tội tham ô tài sản là
13
nhóm tội liên quan tới chức vụ nên các dấu hiệu thuộc mặt khách quan là những cơ
sở rất quan trọng để xác định hành vi phạm tội cũng như để phân biệt tội tham ô tài
sản với các tội phạm khác.
Hành vi khách quan của tội tham ô tài sản là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản mà người phạm tội quản lý. Hành vi chiếm đoạt tài sản đó có liên
quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của người phạm tội, nếu người phạm tội
khơng có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó hoặc khơng thể thực hiện được hành vi
chiếm đoạt tài sản. Chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội
thực hiện việc chiếm đoạt tài sản.
Người tham ô tài sản thuộc 01 trong 03 trường hợp sau đây mới phạm tội tham ô tài
sản:
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý
trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý
trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi tham ơ tài sản mà
cịn vi phạm;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý
trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị kết án về một danh khác, chưa được xố án
tích mà cịn vi phạm. Những tội danh đó là: tội tham ơ tài sản (Điều 353), tội nhận
hối lộ (Điều 354), tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 355),
tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 356), tội lạm
quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 357), tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây
ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 358), tội giả mạo trong công tác
(Điều 359).
Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt, người phạm tội có thể có những thủ đoạn gian
dối, những thủ đoạn này không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của
tội này. Những thủ đoạn gian dối thường gặp ở tội tham ơ tài sản là: lập chứng từ
giả, tẩy xố, sửa chữa sổ sách, tài liệu, giấy tờ thu chi, giao nhận tài sản... Các thủ
đoạn gian dối tuy không có ý nghĩa trong định tội nhưng có ý nghĩa trong quyếtđịnh
hình phạt, thủ đoạn gian dối càng tinh vi thì tính chất nguy hiểm cho xã hộicủa tội
phạm càng cao, gian dối ở mức độ cao cũng tạo điều kiện cho người phạmtội chiếm
đoạt tài sản với số lượng nhiều hoặc có giá trị lớn.
14
Chủ thể thực hiện tham ô tài sản phải là người có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền
hạn của mình chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu đầu tiên của tội này. Đây chính là yếu
tố khách quan của tội phạm; bởi từ quyền hạn quản lý tài sản được trao chủ thể mới
nảy sinh nhu cầu chiếm đoạt tài sản và có khả năng chiếm đoạt tài sản của nhà
nước; nếu khơng có chức vụ, quyền hạn quản lý tài sản thì cá nhân khơng có điều
kiện thực hiện hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, chức vụ và quyền quản lý tài sản
là điều kiện khách quan của hành vi phạm tội.
Ở khía cạnh khác, việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô tài sản phải do người
có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi chiếm đoạt tài sản có lien quan trực tiếp
đến chức vụ, quyền hạn của họ; có nghĩa người phạm tội phải lợi dụng chức vụ để
chiếm đoạt tài sản do mình có trách nhiệm quản lý thì mới bị coi là tham ô tài sản.
Nếu hành vi chiếm đoạt tài sản do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện khơng
liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn của họ thì dù họ có chức vụ, quyền hạn cũng
không bị coi là tham ô tài sản. Vậy, mối quan hệ giữa chức vụ và quyền hạn với tài
sản chiếm đoạn chính là yếu tố khách quan quy định cho tội danh này
Hành vi chiếm đoạt tài sản theo nghĩa thông thường là hoạt động chuyển dịch bất
hợp pháp tài sản từ chủ sở hữu thành tài sản của mình hoặc của người khác mà
mình quan tâm. Có thể nói hình thức phạm tội của hành vi này rất đa dạng,mang
tính khách quan đặc trưng của tội phạm liên quan đến chức vụ. Tuy nhiên, hình thức
thực hiện hành vi không ảnh hưởng tới tội danh này (nên pháp luật không quy định
theo hướng liệt kê cụ thể).
Chủ thể của tội phạm
Tội tham ô tài sản được quy định trong chương các tội phạm về chức vụ, do đó chỉ
những người có chức vụ được quy định tại Điều 352 BLHS năm 2015 mới có thể là
chủ thể của tội tham ô tài sản. Cụ thể tại Khoản 2 Điều 352 BLHS năm 2015 quy
định như sau: “Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng
hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao
thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện
công vụ, nhiệm vụ”. Việc bổ sung từ “nhiệm vụ” sau từ “công vụ” đã mở rộng phạm
vi phạm tội phạm tham nhũng không chỉ giới hạn ở lĩnh vực ở lĩnh vực công mà đã
vượt sang lĩnh vực tư. Như vây, theo BLHS 2015, Chủ thể tội tham ơ tài sản khơng
chỉ là người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước, tổ chức xã hội mà còn
15
là người có chức vụ quyền hạn ở khu vực ngồi nhà nước. Đây là quy định đóng vai
trị là cơ sở pháp lý cho việc mở rộng quy định về tội tham ơ tài sản trong lĩnh vực
ngồi nhà nước. Khái niệm này đã chỉ ra những dấu hiệu đặc trưng cơ bản của
người có chức vụ nên nó có ý nghĩa lớn về lý luận và thực tiễn, đã chỉ rõ được chủ
thể của tội tham ô tài sản. Người có chức vụ chỉ có thể trở thành chủ thể của tội
tham ô tài sản khi hành vi phạm tội của họ được thực hiện trong khi thi hành công
vụ, nhiệm vụ, nếu họ thực hiện hành vi phạm tội ngồi phạm vi thi hành cơng vụ thì
khơng phải là chủ thể của tội tham ô tài sản. Trong đó, cơng vụ được hiểu là nhiệm
vụ cơng. Ở nước ta khái niệm công vụ không chỉ là khái niệm “cơng quyền” trong
bộ máy nhà nước, mà cịn bao gồm nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức trong hệ
thống chính trị mà nhà nước chỉ là một cơ quan trong hệ thống đó. Những người
được bầu cử, được bổ nhiệm, được tuyển dụng, hợp đồng lao động hoặc được giao
nhiệm vụ thường xuyên trong các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị khi thực
hiện nhiệm vụ của mình đều được coi là thực hiện nhiệm vụ công. Những người
thực hiện nhiệm vụ công được xác định là cán bộ, công chức, viên chức và được
quy định trong luật.
Theo Tại Khoản 2 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã đưa ra khái
niệm về người có chức vụ, quyền hạn như sau:
“2. Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng,
do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc khơng hưởng
lương, được giao thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ nhất định và có quyền hạn nhất định
trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó, bao gồm:
a) Cán bộ, cơng chức, viên chức;
b) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ
quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân công an trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân;
c) Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp;
d) Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức;
đ) Những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ và có quyền hạn trong
khi thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó”.
16
Theo quy định tại Điều 4 Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 thì Cán bộ, cơng chức
bao gồm những dạng sau:
- Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,
chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau
đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi
chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
- Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức
vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc
Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chun nghiệp, cơng nhân
quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội
(sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị
sự nghiệp cơng lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công
lập theo quy định của pháp luật.
- Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam,
được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã
hội; cơng chức cấp xã là cơng dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh
chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.
Mặt khác theo quy định tại Điều 2 Luật Viên chức năm 2010 thì: “Viên chức là
cơng dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự
nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn
vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”.
Vấn đề xác định tư cách chủ thể của tội tham ô tài sản, ngồi chức vụ mà họ có do
bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương
hoặc khơng hưởng lương thì điều quan trọng là những người này có được giao thực
hiện một công vụ hay không. Đây là dấu hiệu rất quan trọng nhưng trong thực tiễn
17
điều tra, truy tố, xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng
không chú ý đến dấu hiệu này mà chỉ chú ý đến dấu hiệu chức vụ, quyền hạn mà
người phạm tội có, nên khơng ít trường hợp người phạm tội chỉ lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để chiếm đoạt tài sản do mình có trách nhiệm quản lý đã vội xác định họ
phạm tội tham ô, mà không xác định hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó là lợi
dụng việc thực hiện nhiệm vụ công hay họ chiếm đoạt tài sản không do thực hiện
nhiệm vụ công và bản thân chủ thể khơng có trách nhiệm quản lý.
Từ những căn cứ trên cho thấy, chủ thể của tội tham ô tài sản phải là người có chức
vụ, bao gồm người có chức vụ, quyền hạn và người khác được tuyển dụng, bổ
nhiệm, hợp đồng lao động, được giao nhiệm vụ thường xuyên, được phân loại theo
trình độ đào tạo, ngành chun mơn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự
nghiệp trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
Những người này tuy không phải là cán bộ, công chức, họ chỉ được các cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hợp đồng làm một cơng việc nhất
định thường xuyên hay theo thời vụ hoặc trong một thời gian nhất định có liên quan
đến việc quản lý tài sản và họ có trách nhiệm quản lý đối với tài sản.
Đặc biệt, khoản 6 Điều 353 BLHS năm 2015 đã chỉ rõ: “Người có chức vụ, quyền
hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà tham ơ tài sản, thì bị xử lý
theo quy định tại Điều này”. Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp Hình sự Việt Nam,
BLHS 2015 đã tội phạm hóa hành vi tham ơ tài sản trong lĩnh vực ngồi nhà nước.
Như vậy, đây là quan điểm rất rõ ràng của các nhà lập pháp hình sự về chủ thể của
tội tham ơ tài sản và cũng thể hiện chính sách hình sự mới, phù hợp với lý luận và
thực tiễn tình hình kinh tế xã hội, thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà
nước trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và tạo ra sự
bình đẳng giữa các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế trong bối cảnh hội
nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.
Ngoài ra, chủ thể của tội tham ô tài sản phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và
đủ của tội phạm nói chung bao gồm: Độ tuổi và năng lực TNHS quy định tại các
Điều 12, Điều 21 BLHS năm 2015.Tức là người đó phải “từ đủ 16 tuổi trở lên”4 và
khơng thuộc trường hợp “thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang
4
Khoản 1 Điều 12 BLHS năm 2015.
18
mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình”5.
Tóm lại, chủ thể của tội tham ơ tài sản là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ
quan, tổ chức nhà nước và doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước, từ đủ 16 tuổi trở
lên, khơng thuộc tình trạng khơng có năng lực TNHS và có trách nhiệm quản lý đối
với tài sản mà họ chiếm đoạt.
Mặt chủ quan
Tội tham ơ tài sản cũng là tội phạm có tính chất chiếm đoạt nên cũng như đối với
những tội có tính chất chiếm đoạt khác, chủ thể thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực
tiếp, tức là, “người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra”6. Khơng có
trường hợp tham ô tài sản nào được thực hiện do vơ ý hoặc cố ý gián tiếp, vì người
phạm tội này bao giờ cũng mong muốn chiếm đoạt được tài sản mà mình có trách
nhiệm quản lý.
Bản thân người thực hiện tội phạm, ngay từ khi nảy sinh ý định phạm tội đã nhận
thức được rõ ràng, cụ thể những thiệt hại về tài sản, đồng thời ở cương vị của mình,
họ cũng hồn tồn có đủ khả năng để hiểu rằng họ đang trực tiếp xâm phạm hoạt
động đúng đắn của cơ quan nhà nước trong lĩnh vực quản lý tài sản nói chung và
quản lý kinh tế tài chính nói riêng. Mặc dù nhận thức đầy đủ nhưng người phạm tội
vẫn cố tình thực hiện bằng được mục đích chiếm đoạt của mình, sự cố tình đó đặc
biệt được thể hiện trong những trường hợp người phạm tội sử dụng những thủ đoạn
tinh vi, khéo léo để che đậy hành vi của mình.
Mặt khác, khi thực hiện hành vi phạm tội người phạm tội bao giờ cũng có động cơ
vụ lợi. Trong mọi trường hợp người phạm tội cũng đều có mong muốn biến tài sản
bản thân có trách nhiệm trực tiếp quản lý thành tài sản của riêng để thỏa mãn những
nhu cầu vật chất của mình.
Do đó, mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu
hiệu bắt buộc của cấu thành tội tham ơ tài sản; nếu mục đích của người phạm tội
5
6
Điều 21 BLHS năm 2015.
Khoản 1 Điều 10 BLHS năm 2015.
19
chưa đạt được (chưa chiếm đoạt được tài sản) là nằm ngồi ý muốn chủ quan của tội
phạm, thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Nên mặt chủ quan của hành vi tham
ô là căn cứ xác định mức độ nghiêm trọng của tội danh này, từ đó áp dụng hình phạt
tương ứng với tội danh này; bởi mặt chủ quan cho thấy đây là hành vi cố ý, được
nhận thức đầy đủ về các vấn đề có liên quan trong hành vi của chủ thể.
1.2.2. Dấu hiệu định khung
Điều 353 BLHS năm 2015 về tội tham ô tài sản quy định cấu thành tội phạm cơ bản
của tội tham ô tài sản tại Khoản 1 và quy định ba cấu thành tội phạm định khung
tăng nặng tại Khoản 2, 3 và 4 của Điều luật này, bao gồm các dấu hiệu sau đây:
Phạm tội có tổ chức: Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác,
tham ơ tài sản có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người
cùng thực hiện tội phạm này, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi
giục, người giúp sức. Tuy nhiên, khơng phải vụ án tham ơ tài sản có tổ chức nào
cũng có đủ những người đồng phạm trên. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ
chức được quy định tại Điều 17 BLHS năm 2015. Ngoài ra, phạm tội tham ơ tài sản
có tổ chức có những đặc điểm riêng như:
Người thực hành trong vụ án tham ơ tài sản có tổ chức phải là người có chức vụ,
quyền hạn trực tiếp thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản như: Thủ quỹ lấy tiền trong
két, sửa chữa sổ sách; kế toán viết phiếu thu chi khống, sửa chữa sổ sách hoặc xác
nhận các phiếu thu chi khống để hợp thức hoá việc chiếm đoạt tài sản.
Tham ơ tài sản có tổ chức thường khó bị phát hiện, vì việc thu, chi khống đã được
hợp thức hoá bằng một hệ thống sổ sách, hoá đơn chứng từ. Chỉ khi nào một trong
những người đồng phạm tố giác thì sự việc mới bị phát hiện.
Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm: Dùng thủ đoạn xảo quyệt khi thực hiện hành
vi tham ô tài sản là trường hợp người phạm tội có những mánh khoé, cách thức
thâm hiểm làm cho cơ quan, tổ chức, người quản lý tài sản và những người khác
khó lường trước để đề phịng như: Thủ quỹ, kế toán sửa chữa sổ sách để chiếm đoạt
tài sản bằng các hố chất rất khó phát hiện hoặc sau khi đã chiếm đoạt được tài sản
người phạm tội tạo hiện trường giả như phá khoá cửa tạo vụ trộm cắp giả, giả vờ bị
cướp, bị cướp giật, bị trộm cắp... để che giấu hành vi tham ô tài sản của mình.