BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN NGỌC ĐIỀN
TỘI NHẬN HỐI LỘ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
TỘI NHẬN HỐI LỘ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 60380104
Người hướng dẫn khoa học: Ts. Vũ Thị Thúy
Học viên: Nguyễn Ngọc Điền
Lớp: Cao học luật Bình Thuận - Khóa 1
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các bản án,
số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, có nguồn gốc và
được trích dẫn theo đúng quy định của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình
nghiên cứu khoa học nào.
Nếu có gì khơng đúng sự thật tơi hồn tồn chịu trách nhiệm.
Tác giả
Nguyễn Ngọc Điền
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ luật hình sự
BLHS
Cảnh sát điều tra
CSĐT
Cấu thành tội phạm
CTTP
Hội đồng xét xử
HĐXX
Ngân hàng chính sách xã hội
NHCSXH
Tịa án nhân dân
TAND
Thành phố Hồ Chí Minh
TP.HCM
Trách nhiệm hình sự
TNHS
Ủy ban nhân dân
UBND
Viện kiểm sát nhân dân
VKSND
MỤC LỤC
Contents
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. CHỦ THỂ CỦA TỘI NHẬN HỐI LỘ ......................................... 8
1.1. Quy định của Luật hình sự Việt Nam về chủ thể của tội nhận hối lộ ...... 8
1.2. Thực tiễn xác định dấu hiệu “người có chức vụ, quyền hạn” trong tội
nhận hối lộ ................................................................................................... 11
1.3. Kiến nghị sửa đổi Bộ luật hình sự và ban hành văn bản hướng dẫn xác
định dấu hiệu “người có chức vụ, quyền hạn” trong tội nhận hối lộ ........... 21
Kết luận chương 1 ........................................................................................... 26
CHƯƠNG 2. HÀNH VI KHÁCH QUAN CỦA TỘI NHẬN HỐI LỘ ............. 27
2.1. Quy định của Luật hình sự Việt Nam về hành vi khách quan của tội
nhận hối lộ ................................................................................................... 27
2.2. Thực tiễn xác định hành vi nhận hối lộ ................................................. 33
2.3. Kiến nghị hướng dẫn xác định hành vi nhận hối lộ .............................. 41
Kết luận chương 2 ........................................................................................... 45
KẾT LUẬN...................................................................................................... 46
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau hơn 30 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn về mọi
mặt. Những kết quả đạt được từ việc đổi mới hệ thống chính trị, cơ chế quản lý kinh
tế, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật và hội nhập
quốc tế đã tạo ra tiền đề quan trọng cho việc thực hiện mục tiêu vì dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh1; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân2. Tuy nhiên, cùng với những thành
tựu đã đạt được, nước ta cũng đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ; đặc biệt, một
trong bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của
Đảng năm 1994 nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp hơn, như tham
nhũng3. Tham nhũng, hối lộ đang diễn ra nghiêm trọng, với những biểu hiện ngày
càng tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều cấp, nhiều ngành, làm cản
trở sự phát triển kinh tế - xã hội, gây bức xúc trong dư luận, là thách thức nghiêm
trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đe dọa sự
tồn vong của chế độ4.
Nhận thức được sự nguy hại của tham nhũng, Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành nhiều văn bản xác định mục tiêu, quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp
nhằm góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong công tác đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa XI) về “Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí”; Văn kiện
Đại hội lần thứ XII của Đảng; Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 07/12/2015 của Bộ Chính
trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ
án tham nhũng; Luật phịng, chống tham nhũng năm 2018... Ngồi ra, những nỗ lực
phòng, chống tham nhũng của nước ta cũng đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận
trong khuôn khổ thực thi Công ước Liên Hợp quốc về chống tham nhũng mà Việt
Nam là thành viên.
Trong thời gian qua nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng,
phức tạp đã được phát hiện và tập trung chỉ đạo điều tra, xét xử nghiêm minh theo
đúng quy định của pháp luật, được cán bộ, đảng viên và Nhân dân hoan nghênh,
1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Văn phịng Trung ương
Đảng, Hà Nội, tr.126.
2
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), tlđd (1), tr.68.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), tlđd (1), tr.196.
2
đồng tình, ủng hộ5. Một trong các tội về tham nhũng thì tội nhận hối lộ đang diễn
biến hết sức phức tạp, tác động tiêu cực tới nhiều mặt của đời sống xã hội, gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức. Hàng loạt
các vụ án về hối lộ đã xảy ra có liên quan đến rất nhiều lĩnh vực trong đời sống xã
hội, nhất là về quản lý, sử dụng đất đai; đầu tư xây dựng; y tế; cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước; quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước, đã gây hậu quả xấu về
nhiều mặt, làm giảm sút niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của Nhà nước, tiềm ẩn các xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội, làm tăng
thêm khoảng cách giàu nghèo…
Do đó, một trong sáu nhóm nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội lần
thứ XII của Đảng ta là đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng 6 và BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã tiếp tục hoàn thiện các quy định về nhóm
tội phạm tham nhũng, quy định hành vi tham nhũng trong lĩnh vực tư. Theo đó, tội
nhận hối lộ cũng được sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Tuy nhiên, một số vấn đề về chủ thể và hành vi khách quan của tội
nhận hối lộ theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành cũng cần tiếp
tục nghiên cứu để làm sáng tỏ hơn về mặt khoa học và đưa ra các giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về tội nhận hối
lộ. Đó cũng là lý do cho sự cần thiết để tác giả lựa chọn đề tài “Tội nhận hối lộ
theo luật hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài tội nhận hối lộ, đã có một số cơng trình nghiên cứu,
trong đó đáng chú ý như: Luận văn tốt nghiệp của tác giả Lê Văn Giác tại Trường
Đại học Cần Thơ năm 2008 với đề tài “Tội nhận hối lộ trong luật hình sự Việt
Nam”; luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Đặng Hữu Anh tại Đại học Quốc gia Hà
Nội năm 2016 với đề tài “Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam”. Nội dung
của các luận văn này đã nêu khái niệm, bản chất, điều kiện, nguyên nhân của tội
phạm nhận hối lộ; sơ lược lịch sử hình thành các quy định về tội nhận hối lộ trong
pháp luật hình sự Việt Nam qua các giai đoạn, từ trước Cách mạng tháng Tám cho
đến Bộ luật hình sự năm 1999; các yếu tố cấu thành tội nhận hối lộ và so sánh với
một số tội phạm về chức vụ khác trong Bộ luật hình sự hiện hành; đánh giá thực
trạng, những bất cập trong cơ chế kinh tế, tổ chức, thanh tra, giám sát và đưa ra giải
5
6
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), tlđd (1), tr.183.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), tlđd (1), tr.218.
3
pháp phịng ngừa... Như vậy, nội dung chính của các luận văn này chủ yếu tập trung
làm rõ khái niệm, phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm, đánh giá thực trạng việc
áp dụng pháp luật đối với tội nhận hối lộ; đặc biệt là đưa ra các giải pháp phịng
ngừa nhưng dưới góc độ tội phạm học.
Ngồi ra, cịn có một số chun đề nghiên cứu, bài viết trên các tạp chí
chuyên ngành liên quan đến các tội phạm về hối lộ như:
- Chuyên đề“Một số vấn đề về cần sửa đổi, bổ sung các quy định về tội phạm
về tham nhũng trong Bộ luật hình sự năm 1999” của tác giả Phạm Mạnh Hùng Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số 22 tháng 11 năm 2006. Theo
đó, tác giả nêu lên ý kiến về việc sửa đổi, bổ sung một số vấn đề liên quan đến các
tội phạm về tham nhũng theo tinh thần Nghị quyết của Hội nghị lần thứ ba Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa X “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí”. Từ đó tác giả đã đề nghị bổ sung tội
đưa hối lộ và tội làm môi giới hối lộ vào nhóm các tội phạm về tham nhũng trong
Bộ luật hình sự, vì hiện tại hai tội phạm này được quy định trong nhóm các tội
phạm khác về chức vụ. Ngoài ra, để tăng cường hiệu lực và hiệu quả của cuộc dấu
tranh, phòng chống tham nhũng, tác giả cũng đề nghị Bộ luật hình sự cần được sửa
đổi, bổ sung hình phạt tịch thu tài sản là hình phạt bổ sung, nhưng có thể quy định
dưới dạng tùy nghi “có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
- Bài viết“Vấn đề “của hối lộ” trong các tội phạm hối lộ” của tác giả
Nguyễn Thị Minh Huyền - Tạp chí Tồ án nhân dân, Tồ án nhân dân tối cao, số 12
năm 2001. Theo tác giả, một đặc trưng quan trọng trong yếu tố cấu thành tội phạm
là “của hối lộ” và cho rằng “của hối lộ” khác với “vật được coi là của hối lộ”; đồng
thời phân tích như thế nào “của hối lộ”, “vật được coi là của hối lộ”, so sánh sự
khác nhau giữa hai khái niệm này và cho rằng ma túy vẫn được coi là của hối lộ, vì
ma túy được quy ra vật chất cụ thể, có thể tính được bằng tiền.
- Chuyên đề“Về trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội đưa hối lộ” của tác giả Trịnh Tiến Việt - Tạp chí Tồ án nhân dân,
Tồ án nhân dân tối cao, số 1 năm 2008. Tác giả chủ yếu đề cập đến “của hối lộ”,
theo đó, “của hối lộ” được hiểu là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác và tồn tại ở
nhiều dạng khác nhau với sự phong phú, đa dạng và phải có giá trị vật chất, có thể
quy đổi, định giá được, cịn nếu chỉ đơn thuần có giá trị tinh thần thì khơng thể coi
là “của hối lộ”; đồng thời tác giả cho rằng hành vi đưa hối lộ nhưng “của hối lộ” là
“chất ma túy” thì có lẽ khó có thể xử lý được khi BLHS năm 1999 chưa có quy
4
định. Ngoài ra, tác giả đưa ra quan điểm về khái niệm đưa hối lộ, cho rằng hiện nay
trong khoa học còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, song đều thống nhất với
khái niệm theo quan điểm của PGS.TS Võ Khánh Vinh và PGS.TS Trần Văn Độ.
Nhìn chung, những đề tài, chuyên đề nghiên cứu nêu trên có thể phân thành
hai loại: loại thứ nhất tìm hiểu khái niệm và các yếu tố cấu thành tội phạm của tội
nhận hối lộ, đánh giá thực trạng và đưa ra các giải pháp phịng ngừa dưới góc độ tội
phạm học; loại thứ hai nghiên cứu về các tội phạm về chức vụ nói chung, nhóm tội
tham nhũng nói riêng dưới góc độ luật hình sự và trên cơ sở quy định của luật hình
sự Việt Nam. Những cơng trình đó đã giúp làm sáng tỏ quy định của luật hình sự về
các tội phạm về chức vụ hoặc chỉ ra được một vài hạn chế trong quy định của luật
về các tội phạm này.
Tuy nhiên, một vài nghiên cứu tiếp cận các tội phạm về hối lộ theo quy định
của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã trở nên lạc hậu, khơng cịn
tính thời sự. Trong khi đó, các quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) về tội nhận hối lộ có nhiều sửa đổi, bổ sung và nhiều vấn đề cần tiếp tục
nghiên cứu nhằm thống nhất áp dụng pháp luật hình sự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh
phòng chống tội phạm tham nhũng nói chung và tội nhận hối lộ nói riêng. Chính vì
vậy, đề tài nghiên cứu tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam này sẽ góp phần
đáp ứng được tính mới, tính thời sự.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn sẽ nghiên cứu các quy định của pháp luật về tội nhận hối lộ dưới
khía cạnh lập pháp hình sự và việc áp dụng trong thực tiễn xét xử, từ đó đưa ra
những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về tội nhận hối lộ trong luật hình sự
Việt Nam, cũng như đề xuất những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc đấu
tranh phòng chống tội nhận hối lộ. Cụ thể sẽ nghiên cứu những vấn đề lý luận chung
về tội nhận hối lộ; quy định pháp luật hình sự về tội nhận hối lộ; một số khó khăn,
vướng mắc trong thực tiễn xét xử tội nhận hối lộ và các kiến nghị hoàn thiện pháp
luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về tội nhận hối lộ hiện nay.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu của đề tài và
phương pháp nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về thời gian: Luận văn nghiên cứu các vụ án có liên quan tội nhận
hối lộ từ ngày 01/01/2018 đến nay (áp dụng các quy định của BLHS năm 2015).
Tuy nhiên, BLHS năm 2015 mới có hiệu lực áp dụng, thực tiễn áp dụng chưa nhiều
5
nên luận văn nghiên cứu thêm các vụ án từ năm 2001 đến năm 2018.
Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng tội nhận hối
lộ trên phạm vi cả nước.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật hình sự về tội
nhận hối lộ và thực tiễn xét xử hành vi tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của việc nghiên cứu là phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Để phục vụ cho việc nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh và phương
pháp nghiên cứu án điển hình.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để tiến hành phân tích và
tổng hợp một cách khái quát các nội dung cần nghiên cứu trong luận văn. Qua đó,
phân tích thành từng vấn đề để tìm hiểu cụ thể quy định về tội nhận hối lộ. Đồng
thời, luận văn tiến hành tổng hợp từng vấn đề lý luận đã phân tích, nhằm xây dựng
một số lý luận mới đầy đủ và cụ thể về tội nhận hối lộ.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ những điểm giống nhau và
khác nhau trong quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về tội nhận hối lộ với các
giai đoạn trước đó cũng như trong quy định về tội nhận hối lộ với một số tội phạm
khác có liên quan, để từ đó rút ra được những ưu điểm và hạn chế trong quy định về
tội nhận hối lộ.
- Phương pháp nghiên cứu án điển hình được sử dụng để phân tích các bản
án, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng liên quan đến những vụ án nhận
hối lộ; từ đó nhận xét, đánh giá về thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS về tội
nhận hối lộ cũng như những vấn đề bất cập, vướng mắc.
5. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 02 chương:
Chương 1: Chủ thể của tội nhận hối lộ
Chương 2: Hành vi khách quan của tội nhận hối lộ
6
NỘI DUNG CỦA LUẬN VĂN
Theo đại từ điển Tiếng Việt thì “hối lộ” được hiểu là “lén lút đưa tiền của để
nhờ kẻ có quyền làm điều trái với pháp luật nhưng có lợi cho mình”7; dưới góc độ
khoa học luật hình sự ở nước ta, khái niệm “hối lộ” được hiểu bao gồm ba loại hành
vi phạm tội tương ứng với ba tội hối lộ cụ thể: tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ và tội
làm môi giới hối lộ. Trong đó, tội nhận hối lộ được quy định tại Điều 354 BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn
trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho
chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc khơng làm
một việc vì lợi ích hoặc theo u cầu của người đưa hối lộ…”.
Như vậy, cấu thành của tội nhận hối lộ bao gồm 04 yếu tố cấu thành như sau:
Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội nhận hối lộ là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức.
Tội nhận hối lội là một trong những tội phạm tham nhũng nguy hiểm nhất vì đã trực
tiếp xâm phạm đến uy tín và hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, xâm hại đến
quyền và lợi ích của công dân8. Tác hại của tội phạm này gây hậu quả trên diện
rộng với nhiều phạm vi, lĩnh vực, là một trở lực lớn đối với quá trình đổi mới đất
nước và làm xói mịn lịng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đối với sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước9.
Mặt khách quan của tội phạm
Được thể hiện ở hành vi của người nhận hối lộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn
trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào cho chính bản
thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc
vì lợi ích hoặc theo u cầu của người đưa hối lộ10.
Hành vi đặc trưng trong tội phạm này là hành vi của người có chức vụ, quyền
hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất
hoặc lợi ích phi vật chất; hình thức biểu hiện của hành vi nhận hối lộ rất đa dạng là
“trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất
hoặc lợi ích phi vật chất dưới bất kỳ hình thức nào”; hậu quả của tội phạm là những
7
/>Trường ĐH Luật Tp. HCM (2017), Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm - quyển 2, NXB
Hồng Đức - Hội Luật Gia Việt Nam, tr.229.
9
Trần Văn Luyện - Phùng Thế Vắc - Lê Văn Thư - Nguyễn Mai Bộ - Phạm Thanh Bình - Nguyễn Ngọc Hà Phạm Thị Thu (2018), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) - Phần các
tội phạm, NXB Công an Nhân dân, tr.775.
10
Khoản 1 Điều 354 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
8
7
thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất, tuy nhiên dấu hiệu hậu quả không phải là dấu
hiệu định tội mà được xác định là dấu hiệu định khung tăng nặng cho tội nhận hối
lộ, như vậy tội nhận hối lộ là tội có cấu thành tội phạm hình thức; tội phạm hoàn
thành khi đạt được “sự thỏa thuận” giữa người nhận và người đưa hối lộ, trên cơ sở
căn cứ vào giá trị của “của đưa hối lộ”11.
Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội nhận hối lộ là chủ thể đặc biệt, là những người có chức vụ,
quyền hạn không chỉ trong các tổ chức kinh tế, bộ máy Nhà nước và cơ quan Đảng mà
còn là người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước12.
Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức
được hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để làm hoặc không làm một
việc gì vì lợi ích hoặc theo u cầu của người đưa hối lộ là nguy hiểm cho xã hội và
trái pháp luật. Người phạm tội mong muốn làm hoặc khơng làm việc đó, nhằm mục
đích nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích khác mà đã thỏa thuận trước với người đưa hối
lộ13; thấy trước được hệ lụy đặc biệt nghiêm trọng do hành vi của mình gây ra và
mong muốn làm hoặc khơng làm việc đó để nhận được “của hối lộ” theo sự thỏa
thuận trước với người đưa hối lộ14.
Tội nhận hối lộ được cấu thành bởi 4 yếu tố cấu thành nêu trên. Tuy nhiên,
thực tiễn áp dụng pháp luật thì vấn đề khó khăn, vướng mắc thường gặp nhất trong
thời gian qua đối với tội nhận hối lộ là việc xác định chủ thể của tội phạm và hành
vi khách quan của tội phạm. Vì vậy, trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên
cứu hai dấu hiệu chủ thể và hành vi khách quan của tội nhận hối lộ.
11
Trần Văn Luyện - Phùng Thế Vắc - Lê Văn Thư - Nguyễn Mai Bộ - Phạm Thanh Bình - Nguyễn Ngọc Hà
- Phạm Thị Thu (2018), tlđd (9), tr.777 đến 780.
12
Khoản 6 Điều 354 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
13
Trường ĐH Luật Tp. HCM (tái bản năm 2017), Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm quyển 2, NXB Hồng Đức - Hội Luật Gia Việt Nam, trang 232.
14
Trần Văn Luyện - Phùng Thế Vắc - Lê Văn Thư - Nguyễn Mai Bộ - Phạm Thanh Bình - Nguyễn Ngọc Hà
- Phạm Thị Thu (2018), tlđd (9), tr.781.
8
CHƯƠNG 1
CHỦ THỂ CỦA TỘI NHẬN HỐI LỘ
1.1. Quy định của Luật hình sự Việt Nam về chủ thể của tội nhận hối lộ
Đối với tội nhận hối lộ các dấu hiệu thuộc về chủ thể là các dấu hiệu đặc
trưng để xác định hành vi phạm tội, là dấu hiệu phân biệt sự khác nhau giữa tội
nhận hối lộ với các tội phạm khác. Theo đó, luật hình sự Việt Nam đã quy định:
“Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc
sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người
hoặc tổ chức khác để làm hoặc khơng làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của
người đưa hối lộ…”15. Từ quy định của luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội nhận
hối lộ có các dấu hiệu cơ bản như sau:
Dấu hiệu thứ nhất, người phạm tội nhận hối lộ phải là người có chức vụ,
quyền hạn, đây là chủ thể đặc biệt của tội phạm. Đó là chủ thể mà ngồi hai đặc
điểm là có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự cịn địi
hỏi phải có thêm đặc điểm khác nữa về nhân thân thì mới có thể thực hiện được
hành vi phạm tội được mô tả trong cấu thành tội phạm. Đặc điểm có thêm ở chủ thể
của tội nhận hối lộ là dấu hiệu “có chức vụ, quyền hạn”; người có chức vụ là người
là do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng
lương hoặc khơng hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có
quyền hạn nhất định trong khi thực hiện cơng vụ, nhiệm vụ16.
Ngồi khái niệm được nêu tại Điều 352 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017), những đối tượng cụ thể được coi là người có chức vụ, quyền hạn theo
quy định17 cịn bao gồm:
“Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển
dụng, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng
lương, được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định
trong khi thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó, bao gồm:
a) Cán bộ, công chức, viên chức;
b) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, cơng nhân, viên chức quốc phịng
trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ
15
Khoản 1 Điều 354 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Khoản 2 Điều 352 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
17
Khoản 2 Điều 3 của Luật phịng, chống tham nhũng năm 2018 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2019).
16
9
quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân công an trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân;
c) Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp;
d) Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức;
đ) Những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ và có quyền
hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó”.
Như vậy, phạm vi người có chức vụ, quyền hạn theo luật hình sự Việt Nam
được xác định bao gồm tất cả những đối tượng nêu tại Khoản 2 Điều 3 của Luật
phòng, chống tham nhũng năm 2018. Những đối tượng này có thể thực hiện chức
năng, nhiệm vụ không chỉ tại các cơ quan quyền lực nhà nước, các cơ quan quản lý
nhà nước, các cơ quan xét xử hoặc các cơ quan kiểm sát, ở tất cả các cấp chính
quyền từ trung ương đến địa phương mà còn cả trong các doanh nghiệp, tổ chức.
Dấu hiệu thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn liên quan trực tiếp đến việc
giải quyết yêu cầu của người đưa hối lộ. Người có chức vụ, quyền hạn khơng có
thẩm quyền trực tiếp giải quyết u cầu của người đưa hối lộ thì khơng phải chủ thể
của tội phạm này18. Một điểm chung dễ nhận thấy ở những người này là dấu hiệu
được giao nhiệm vụ, công vụ và đang thực thi nhiệm vụ, công vụ. Trong số các đặc
điểm của người có chức vụ, quyền hạn thì đặc điểm chức năng, nhiệm vụ và thời
điểm đang thực hiện công vụ, nhiệm vụ là những dấu hiệu bắt buộc ở người có chức
vụ, quyền hạn. Có thể khẳng định dấu hiệu có ý nghĩa quyết định làm cơ sở để xác
định một người có phải là người có chức vụ, quyền hạn hay khơng là tính chất của
chức năng, nhiệm vụ mà người đó thực hiện và quyền hạn mà pháp luật quy định
đối với người đó. Ngồi ra, người có chức vụ, quyền hạn trong tội nhận hối lộ phải
là người có trách nhiệm trong việc giải quyết những yêu cầu của người đưa hối lộ.
Những yêu cầu đó có thể là những yêu cầu về lợi ích vật chất hoặc phi vật chất của
người đưa hối lộ. Tuy nhiên, người có chức vụ, quyền hạn khi giải quyết những yêu
cầu của người đưa hối lộ phải là việc thực hiện công vụ, nhiệm vụ. Nếu có chức vụ,
quyền hạn khi giải quyết yêu cầu cho người khác để nhận tiền hoặc lợi ích khác của
họ, nhưng không phải là thực hiện công vụ, nhiệm vụ thì khơng phải là nhận hối lộ.
Chủ thể của tội nhận hối lộ theo luật định là người có chức vụ, quyền hạn.
Tuy nhiên, khơng phải người có chức vụ, quyền hạn nào cũng có thể trở thành chủ
thể của tội phạm này. Cấu thành tội phạm của tội nhận hối lộ theo Điều 354 BLHS
18
Trần Thị Quang Vinh - Vũ Thị Thúy (2018), Luật hình sự Việt Nam - Phần những quy định chung và một
số chương phần các tội phạm, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, trang 481.
10
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đòi hỏi dấu hiệu “để làm hoặc khơng làm
một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ”. Vì vậy, chủ thể của tội
phạm này phải là người với chức vụ, quyền hạn của mình có thể thực hiện được
việc làm hoặc không làm mà người đưa hối lộ yêu cầu. Nói một cách khác, đó phải
là người “có trách nhiệm trong việc giải quyết những yêu cầu của người đưa hối
lộ”. Khả năng giải quyết việc mà người đưa hối lộ yêu cầu vừa gắn với tính chất của
chức năng, nhiệm vụ, vừa gắn với thời điểm thực hiện chức năng, nhiệm vụ đó của
người có chức vụ, quyền hạn. Điều đó có nghĩa là người có chức vụ, quyền hạn chỉ
có thể thực hiện được yêu cầu của người đưa hối lộ nếu việc làm hay khơng làm đó
có liên quan trực tiếp tới việc thực thi chức trách của họ và được tiến hành vào thời
điểm họ đang thực thi công vụ, nhiệm vụ. Như vậy, người đã chấm dứt việc thực thi
công vụ hoặc người khơng có khả năng thực hiện được u cầu của người đưa hối
lộ đều không thể là chủ thể của tội nhận hối lộ.
Dấu hiệu thứ ba, chủ thể của tội nhận hối lộ có thể là người có chức vụ
trong cơ quan nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp trong và ngồi nhà nước, cơng chức
nước ngồi, cơng chức của các tổ chức quốc tế công19. Việc bổ sung từ “nhiệm vụ”
sau từ “công vụ” đã mở rộng phạm vi chủ thể tội phạm tham nhũng không chỉ giới
hạn ở lĩnh vực công mà đã vượt sang lĩnh vực ngoài nhà nước. Tương ứng với khái
niệm mới tội phạm về chức vụ quy định chủ thể của tội phạm chức vụ là “Người có
chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác,
có hưởng lương hoặc khơng hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất
định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ”. Như vậy,
theo BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chủ thể của tội phạm chức vụ không
chỉ là người có chức vụ quyền hạn trong bộ máy nhà nước, tổ chức xã hội mà cịn là
người có chức vụ quyền hạn ở khu vực ngoài nhà nước. Đây là quy định chung
đóng vai trị là cơ sở pháp lý cho việc mở rộng quy định về tội phạm tham nhũng
trong lĩnh vực ngoài nhà nước20. Điều này cho thấy, đối với dấu hiệu chủ thể của tội
nhận hối lộ, điểm mới của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã tội phạm
hóa hành vi nhận hối lộ khơng những trong lĩnh vực cơng mà cịn ở cả lĩnh vực
ngoài Nhà nước, đáp ứng yêu cầu của các Công ước quốc tế về chống tham nhũng.
Tương ứng với sửa đổi của BLHS 2015 về các tội phạm hối lộ trong lĩnh vực ngoài
19
Trần Thị Quang Vinh - Vũ Thị Thúy (2018), tlđd (18), tr.481.
Nguyễn Thị Phương Hoa - Phan Anh Tuấn (2017), Bình luận khoa học Những điểm mới của BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), NXB Hồng Đức, tr.290.
20
11
Nhà nước, chủ thể của tội nhận hối lộ không chỉ là người có chức vụ quyền hạn
trong bộ máy Nhà nước mà cịn là người có chức vụ quyền hạn các doanh nghiệp, tổ
chức ngoài Nhà nước; đối tượng được đưa hối lộ cũng khơng cịn giới hạn là người
có chức vụ quyền hạn trong bộ máy Nhà nước mà cịn là cơng chức nước ngồi,
cơng chức của tổ chức quốc tế cơng, người có chức vụ quyền hạn trong các doanh
nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước21.
1.2. Thực tiễn xác định dấu hiệu “người có chức vụ, quyền hạn” trong
tội nhận hối lộ
Trong thực tiễn xét xử, vẫn còn tồn tại một số trường hợp các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng xác định chưa
chính xác như thế nào là “người có chức vụ, quyền hạn”. Điều này được thể hiện
qua một số vụ án sau đây:
Vụ án thứ nhất22:
Ơng Nguyễn Thành Nam, ngụ tại thơn Lị To, xã Hàm Cần, huyện Hàm
Thuận Nam được Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) huyện Hàm Thuận
Nam, tỉnh Bình Thuận hợp đồng làm tổ trưởng tổ tiết kiệm và vay vốn do UBND xã
Hàm Cần quản lý; cịn ơng Nguyễn Thanh Tuấn, ngụ cùng thơn, là tổ phó. Tuy
nhiên, đã bị Tịa án nhân dân tỉnh Bình Thuận tun phạm tội “Nhận hối lộ” tại Bản
án số 10/2018/HS-PT ngày 31/01/2018.
Tháng 3/2015, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Thuận Nam
khởi tố, bắt tạm giam hai ông về tội nhận hối lộ và tạm giam gần hai tháng thì cho
tại ngoại. Cơ quan điều tra, Viện KSND kết luận trong hai năm 2013 và 2014, ông
Tuấn đã ép những hộ dân cần vay vốn phải bồi dưỡng từ 200.000 đồng đến
2.000.000 đồng. Theo đó, tổng cộng số tiền ơng Tuấn đã nhận hối lộ 16,5 triệu đồng
của 12 hộ dân. Với ơng Nam, dù khơng trực tiếp địi hối lộ nhưng khi triệu tập các
hộ dân đến họp đã gợi ý bồi dưỡng cho ông Tuấn, được ông Tuấn chia hơn một
triệu đồng.
Tháng 8/2015, Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam đã tuyên phạt ông
Tuấn tám năm tù, ông Nam bảy năm tù. Hai ông kháng cáo kêu oan. Tháng
12/2015, Tịa án nhân dân tỉnh Bình Thuận đã hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều
tra, xét xử lại vì những hộ dân vay tiền khai đưa tiền chỉ nhằm để ơng Tuấn có chi
21
Nguyễn Thị Phương Hoa - Phan Anh Tuấn (2017), tlđd (20), tr.292.
Theo Bản án số 10/2018/HS-PT về “Tội nhận hối lộ tại thôn Lò To, xã Hàm Cần, huyện Hàm Thuận Nam”
của Tòa án Nhân dân tỉnh Bình Thuận.
22
12
phí đi lại giúp họ vay vốn. Ngày 09/8/2016, Cơng an huyện Hàm Thuận Nam đã ra
quyết định miễn trách nhiệm hình sự, đình chỉ điều tra đối với ơng Nam và ông
Tuấn theo Khoản 1 Điều 25 BLHS. Không đồng ý, ông Nam và ông Tuấn gửi đơn
kêu oan, yêu cầu được bồi thường, xin lỗi. Tuy nhiên đến tháng 11/2016, Cơ quan
Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Thuận Nam lại ra quyết định phục hồi điều
tra với hai ông và được Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp phê chuẩn.
Đến ngày 12/7/2017, Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam đưa vụ án ra
xét xử lần hai và tuyên hai bị cáo phạm tội nhận hối lộ, tuy nhiên miễn hình phạt tù
đối với hai ơng Nguyễn Thành Nam và Nguyễn Thanh Tuấn. Sau nhiều lần tạm hỗn
phiên tịa phúc thẩm, ngày 31/01/2018, Tịa án nhân dân tỉnh Bình Thuận Thuận mở
phiên tịa phúc thẩm và tuyên phạt hai ông Nguyễn Thành Nam và Nguyễn Thanh
Tuấn y án sơ thẩm tội nhận hối lộ, tuy nhiên miễn hình phạt tù cho hai bị cáo này.
Tại phiên tịa sơ thẩm, ơng Nguyễn Thái Hịa - Giám đốc Ngân hàng Chính
sách xã hội huyện Hàm Thuận Nam đã khai rõ: NHCSXH huyện giao dịch thơng
qua các hội đồn thể tại địa phương, ở từng địa phương, các hội đồn thể sẽ thành
lập các tổ vay vốn trong đó có Ban quản lý tổ do tổ bầu, có sự phê duyệt chấp nhận
của UBND xã thì trên cơ sở đó, NHCSXH huyện sẽ ký các hợp đồng ủy nhiệm cho
Ban quản lý tổ một số nhiệm vụ, quyền hạn nhất định để họ giúp NHCSXH huyện
trong việc thu lãi, thu tiền gửi và thực hiện một số nội dung cơng việc khác trong
quy trình cho vay của NHCSXH. Theo đó, hai ơng Nguyễn Thành Nam và Nguyễn
Thanh Tuấn được ngân hàng ký hợp đồng ủy nhiệm dựa trên cơ sở Biên bản thành
lập Tổ tiết kiệm và vay vốn ngày 19/4/2011 đến Biên bản kiện toàn Ban quản lý Tổ
tiết kiệm và vay vốn theo Quyết định số 15/QĐ-HĐQT ngày 15/7/2013, Nam và
Tuấn đều được các tổ viên Tổ tiết kiệm và vay vốn do Hội Nông dân xã quản lý tín
nhiệm bầu vào Ban quản lý tổ, trong đó, bị cáo Nam làm tổ trưởng và bị cáo Tuấn
làm tổ phó; Biên bản thành lập Tổ tiết kiệm và vay vốn ngày 23/9/2012 đến Biên
bản kiện toàn Ban quản lý Tổ tiết kiệm và vay vốn theo Quyết định số 15/QĐHĐQT ngày 15/9/2013, Tuấn đều được các tổ viên Tổ tiết kiệm và vay vốn do
Đoàn Thanh niên xã quản lý tín nhiệm bầu làm tổ trưởng.
Theo các hợp đồng ủy nhiệm của NHCSXH Hàm Thuận Nam và quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn của Ban quản tổ tại Điều 12 Quy chế tổ chức và hoạt động của
Tổ tiết kiệm và vay vốn, những nội dung công việc trong quy trình cho vay của
NHCSXH mà ngân hàng đã ủy nhiệm cho Ban quản lý Tổ tiết kiệm và vay vốn gồm:
nhận giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay của tổ viên; tổ chức họp
13
các tổ viên trong Tổ để bình xét cho vay công khai, dân chủ; lựa chọn tổ viên đủ điều
kiện vay vốn; lập danh sách hộ gia đình đề nghị vay vốn, biên bản họp Tổ về việc
bình xét cho vay. Sau đó, tập hợp các loại giấy tờ trên thành hồ sơ đề nghị vay vốn và
gửi Ban giảm nghèo cấp xã họp, trình UBND cấp xã xác nhận và gửi về NHCSXH
làm cơ sở để cho vay. Tất cả đây là quy trình bắt buộc do Ban quản lý tổ tiến hành.
Nhận xét, đánh giá:
Đây là vụ án có rất nhiều ý kiến tranh luận trái chiều. Cụ thể các luật sư bảo vệ
cho hai bị cáo đều khẳng định hành vi của ông Tuấn không cấu thành tội nhận hối lộ.
Bởi những hộ dân có nhu cầu vay vốn, nhờ ơng Tuấn làm giúp và hồn tất các thủ tục
vay nên được trả công và tiền xăng xe. Đây là quan hệ dân sự và việc bị cáo bỏ cơng,
chi phí đi lại là có thực... Đại diện UBND xã Hàm Cần cũng cho biết cả hai bị cáo
khơng có quyền hạn, chức vụ gì và UBND xã không ra quyết định nào bổ nhiệm hai
ông phụ trách việc vay vốn; đồng thời cho rằng hai bị cáo này là do người dân tự bầu
lên và Ngân hàng CSXH huyện Hàm Thuận Nam hợp đồng với họ.
Ngày 24/9/2018, VKSND Cấp cao tại TP.HCM đã ban hành văn bản trả lời
đơn ông Nguyễn Thanh Tuấn và Nguyễn Thành Nam cùng ngụ thơn Lị To, Hàm
Cần, Hàm Thuận Nam, Bình Thuận là phạm tội “nhận hối lộ”, bản án hình sự phúc
thẩm của TAND tỉnh Bình Thuận khơng vi phạm nên khơng có căn cứ kháng nghị
giám đốc thẩm23. Theo văn bản này cho biết VKSND Cấp cao tại TP.HCM nhận
đơn của ông Tuấn và Nam kêu oan, đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm
đối với Bản án hình sự phúc thẩm số 10/2018/HSPT ngày 31/01/2018 của TAND
tỉnh Bình Thuận kết án hai ơng nhận hối lộ. Theo đơn, ông Tuấn và ông Nam cho
rằng mình chỉ là nơng dân, khơng phải là người có chức vụ, quyền hạn nên không
phải là chủ thể của tội nhận hối lộ; ngoài ra, số tiền mà người dân bồi dưỡng cho hai
ông để làm hồ sơ vay vốn là tiền chi phí đi lại, xăng xe… và đây là tiền ngoài hợp
đồng ủy nhiệm mà ngân hàng đã ký kết với hai ông.
Tuy nhiên, theo VKSND Cấp cao tại TP.HCM, về chủ thể của tội nhận hối
lộ, căn cứ biên bản họp ngày 02/11/2011 của 23 thành viên thơn Lị To bầu ơng
Nam và ơng Tuấn làm tổ trưởng và tổ phó tổ tiết kiệm và vay vốn nông dân, đã
được UBND xã Hàm Cần phê duyệt; căn cứ vào hai hợp đồng ủy nhiệm vào ngày
06/8/2013 và ngày 15/9/2013 giữa NHCSXH huyện Hàm Thuận Nam với ông Nam
và ông Tuấn về việc Ngân hàng ủy nhiệm cho hai ông được thực hiện tổ chức và lập
23
Văn bản số 121/VC3-V1 ngày 24/9/2018 của VKSND Cấp cao tại TP.HCM về việc trả lời đơn của ông
Nguyễn Thanh Tuấn và Nguyễn Thành Nam.
14
hồ sơ vay vốn cho các tổ viên và được ngân hàng chi trả hoa hồng; căn cứ Điều 277
BLHS 1999, quy định khái niệm người có chức vụ, VKSND Cấp cao cho rằng ông
Tuấn và ông Nam được dân bầu ra, được chính quyền xác nhận, được tổ chức pháp
nhân ủy nhiệm và được hưởng phần công theo quy định của pháp luật, do đó ơng
Tuấn và ơng Nam là những người có chức vụ, là chủ thể của tội danh nhận hối lộ.
Về bản chất số tiền mà người dân đưa cho ông Tuấn và ông Nam, căn cứ lời khai
của đại diện NHCSXH thì “Theo quy định của ngân hàng, ban quản lý tổ tiết kiệm
vay vốn chỉ được thu tiền của các hộ viên là thu lãi và thu tiền gửi tiết kiệm để ngân
hàng chi % hoa hồng hàng tháng, không được thu thêm bất cứ khoản chi phí nào
khác để làm thủ tục vay”.
Ngồi ra căn cứ lời khai của những hộ dân thì người dân vay tiền không tự
nguyện đưa mà do ông Tuấn và ơng Nam gợi ý nên khơng thể nói là chi phí đi lại;
các hộ dân cịn khẳng định các bị cáo cịn làm trái quy định khi khơng tổ chức họp
các tổ viên trong Tổ để thực hiện bình xét cơng khai, dân chủ, lựa chọn tổ viên đủ
điều kiện để vay vốn mà các bị cáo tự điền vào các biểu mẫu có sẵn để hợp thức hóa
hồ sơ cho những người cần vay vốn, hồn chỉnh các thủ tục rồi nộp cho NHCSXH
huyện Hàm Thuận Nam xét cho vay. Do đó, hành vi trên của ơng Tuấn và ông Nam
đã phạm vào tội nhận hối lộ, thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần. Tòa án hai cấp ở
Bình Thuận tun ơng Nam và Tuấn phạm tội là đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật và không oan24.
Quan điểm của tác giả:
Trong trường hợp này cả hai bị cáo có quyền hạn, chức vụ. Quyền hạn, chức
vụ của hai bị cáo thể hiện ở chỗ, mặc dù UBND xã Hàm Cần không ra quyết định
bổ nhiệm hai ông phụ trách việc vay vốn nhưng hai bị cáo này là do người dân tự
nguyện bầu lên, được UBND xã Hàm Cần chấp thuận và được NHCSXH huyện
Hàm Thuận Nam hợp đồng với họ. Những hộ dân có nhu cầu và muốn vay vốn, hai
bị cáo tuy khơng có thẩm quyền giải quyết các hồ sơ vay vốn của các hộ dân nhưng
hồ sơ phải có chữ ký của bị cáo, khi có chữ ký của bị cáo thì UBND xã Hàm Cần
mới xác nhận và NHCSXH huyện Hàm Thuận Nam mới cho vay, vì một trong
24
(ngày truy
cập 15/10/2018 - 11:13).
15
những điều kiện để được vay vốn thì phải được Tổ tiết kiệm và vay vốn bình xét,
lập thành danh sách có xác nhận của UBND xã25.
Ngồi ra, hoạt động của Nam và Tuấn là đang thực hiện công vụ theo hợp
đồng ủy nhiệm của NHCSXH huyện Hàm Thuận Nam. Bởi vì, NHCSXH huyện
Hàm Thuận Nam được thành lập là để thực hiện tín dụng ưu đãi đối với người
nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn huyện, hoạt động của
NHCSXH khơng vì mục đích lợi nhuận; việc cho vay đối với hộ nghèo căn cứ vào
kết quả bình xét của Tổ tiết kiệm và vay vốn, mà Tổ tiết kiệm và vay vốn là tổ chức
do các tổ chức chính trị - xã hội hoặc cộng đồng dân cư tự nguyện thành lập trên địa
bàn hành chính của xã, được UBND xã Hàm Cần chấp thuận bằng văn bản, trong
đó Nam là Tổ trưởng, Tuấn là Tổ phó của Tổ tiết kiệm và vay vốn26.
Như vậy, người nghèo sẽ không được vay vốn nếu không được Nam và
Tuấn tổ chức bình xét, ký xác nhận vào danh sách vay. Do đó, các bị cáo Nguyễn
Thanh Tuấn và Nguyễn Thành Nam có đầy đủ các điều kiện của một chủ thể
thuộc nhóm tội về tham nhũng mà cụ thể trong vụ án này là tội nhận hối lộ, vì
trong trường hợp này, theo hồ sơ vụ án thì chức vụ của Nguyễn Thành Nam và
Nguyễn Thanh Tuấn được giao qua “hợp đồng ủy nhiệm” của NHCSXH huyện
Hàm Thuận Nam (có chức vụ do một hình thức khác) và là người “được giao
thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện
cơng vụ đó”.
Vụ án thứ hai27:
Đỗ Văn K (là cha ruột của Đỗ Hữu Q, sinh năm 1998) và Hoàng Thị Thu H
(là mẹ ruột của Nguyễn Thành C, sinh năm 1993) cùng cư trú tại ấp B, xã G, huyện
T, tỉnh Đồng Nai. Q và C đều là thanh niên trong độ tuổi khám nghĩa vụ quân sự
năm 2017, do khơng muốn con mình nhập ngũ nên Đỗ Văn K và Hoàng Thị Thu H
đã đến gặp Nguyễn Văn L nhờ giúp đỡ và được L nhận lời.
Nguyễn Văn L liên hệ với Nguyễn Vũ Hữu Đ - là Phó Chỉ huy trưởng Ban
Chỉ huy quân sự xã G để đặt vấn đề về việc giúp đỡ C và Q tìm cách thức trốn nghĩa
vụ quân sự, Đ đồng ý giúp đỡ và thỏa thuận mỗi trường hợp là 3.000.000 đồng (ba
triệu đồng). Sau đó, Đỗ Văn K và Hoàng Thị Thu H đã trực tiếp đến nhà L, mỗi
25
Điều 13 Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và
các đối tượng chính sách khác.
26
Điều 4, Điều 5 Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ về tín dụng đối với người
nghèo và các đối tượng chính sách khác.
27
Bản án số 222/2017/HSPT ngày 06/9/2017 của Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Nai.
16
người đưa cho L số tiền 3.000.000 đồng nhằm mục đích thơng qua L nhờ Đ tìm
cách giúp C và Q khám sức khỏe không đạt yêu cầu để trốn thực hiện nghĩa vụ quân
sự. Đ gọi điện thoại cho Nguyễn Thanh L, sinh năm 1985 - là nhân viên của Trung
tâm y tế huyện T nhờ giúp đỡ cho C và Q tìm cách trốn nghĩa vụ quân sự thông qua
việc khám sức khỏe. Thanh L đồng ý.
Sau khi nhận được sự đồng ý của Thanh L, vào khoảng tháng 11/2016
(không xác định rõ ngày cụ thể), tại quán Cà phê 7, thuộc ấp B, xã G, bị cáo Đ đã
nhận được từ bị cáo L số tiền 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng) để giúp C và Q trốn
nghĩa vụ quân sự.
Vào ngày 02/12/2016, khám tuyển sức khỏe nghĩa vụ quân sự cho thanh
niên xã G, tại Ban Chỉ huy quân sự huyện T, Nguyễn Thanh L gọi điện thoại vào
số điện thoại của Q và C yêu cầu không đi khám nghĩa vụ quân sự và hẹn sẽ bố
trí khám lại sau; đồng thời, hướng dẫn về việc khi bác sỹ hỏi thì nói khơng đúng
sự thật về tình trạng sức khỏe để khơng trúng tuyển nghĩa vụ quân sự. Sau đó,
Thanh L tiếp tục gọi điện thoại cho Q và C đi khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự
vào ngày 08/12/2016.
Tuy nhiên, do nghi ngờ có gian dối, Hội đồng nghĩa vụ quân sự xã G đã kiểm
tra và phát hiện nên báo Cơ quan CSĐT để xác minh làm rõ. Sau đó, Hội đồng
khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự huyện T đã tiến hành khám lại đối với C và Q, các
thanh niên này đã trúng tuyển nghĩa vụ quân sự và nhập ngũ.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2017/HSST ngày 20/6/2017 và Thơng báo
đính chính bản án số 01/TB-TA ngày 12/7/2017 của TAND huyện T đã quyết định
tuyên phạt bị cáo Nguyễn Vũ Hữu Đ phạm tội “Nhận hối lộ” theo quy định tại
Khoản 1 Điều 279 của BLHS năm 1999; bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Làm môi
giới hối lộ”; các bị cáo Hoàng Thị Thu H và Đỗ Văn K phạm tội “Đưa hối lộ”.
Quan điểm của tác giả:
Mặc dù, bị cáo Nguyễn Vũ Hữu Đ có hành vi nhận tiền của Hoàng Thị Thu
H và Đỗ Văn K thơng qua Nguyễn Văn L, sau đó nhờ Nguyễn Thanh L là nhân viên
của Trung tâm Y tế huyện T để tìm cách gian dối trong quá trình khám tuyển sức
khỏe nhằm giúp Q và C trốn nghĩa vụ quân sự. Tuy nhiên, bị cáo Nguyễn Vũ Hữu
Đ không phải là thành viên trong Hội đồng nghĩa vụ quân sự xã G. Vì theo quy định
thì Hội đồng nghĩa vụ quân sự cấp xã gồm: Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Chỉ huy
trưởng Ban Chỉ huy quân sự; Trưởng Công an; người đứng đầu các đoàn thể và một
17
số thành viên khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân quyết định, nhưng khơng có Phó
Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự28.
Như vậy, trong trường hợp này bị cáo Nguyễn Vũ Hữu Đ khơng có chức vụ,
quyền hạn để làm một việc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, do đó TAND huyện
T tuyên phạt bị cáo Nguyễn Vũ Hữu Đ về tội “Nhận hối lộ” theo quy định tại
Khoản 1 Điều 279 của BLHS năm 1999 là không đúng. Bởi lẻ, bị cáo Nguyễn Vũ
Hữu Đ không thỏa mãn dấu hiệu chủ thể của tội phạm này.
Vụ án thứ ba29:
Khoảng đầu tháng 3 năm 2017, Đội Thanh tra giao thông số 3 thuộc Thanh
tra Sở Giao thơng vận tải tỉnh Quảng Bình gồm: Trần Thanh H làm Đội trưởng,
Nguyễn Thanh H, Hoàng Phú Y và Trần Hoàng L là nhân viên thực hiện nhiệm vụ
thanh tra, kiểm tra, đảm bảo an tồn giao thơng trên tuyến Quốc lộ 12A thuộc địa
bàn hai huyện T và huyện M đã bắt gặp Hoàng Văn T, Nguyễn Văn T và Nguyễn
Thế B đều ở xã N, huyện T đang điều khiển xe “Máy cày tự chế” lưu thông trên
Quốc lộ 12A. Trần Hoàng L đã trực tiếp nhắc nhở Hồng Văn T, Nguyễn Văn T và
Nguyễn Thế B khơng được đưa loại xe này lưu thông trên Quốc lộ vì xe khơng có
giấy tờ, nguồn gốc hợp pháp và bị cấm lưu thông, nếu bắt gặp sẽ tịch thu xe, sau đó
L và Hồng Văn T trao đổi số điện thoại với nhau.
Tuy nhiên, vì lo sợ bị Đội Thanh tra giao thơng xử lý nên Hồng Văn T gọi
điện cho L xin gặp đội Thanh tra giao thông để đưa tiền nhằm mục đích xin Đội
thanh tra khơng xử lý khi điều khiển xe máy cày lưu thông trên đường và được L
đồng ý. Sáng ngày 09/3/2017, Hoàng Văn T gọi điện cho L xin gặp và được L cho
biết Đội Thanh tra giao thông số 3 đang làm nhiệm vụ trên Quốc lộ 12A thuộc địa
phận xã N, huyện T. Hồng Văn T nói cho L biết là sẽ đến đưa cho Đội Thanh tra
giao thông số tiền 2.000.000 đồng và có 02 người bạn đi cùng. Sau khi nghe điện
thoại của Hồng Văn T thì L đã báo lại nội dung này cho Trần Thanh H, Nguyễn
Thanh H và Y cùng nghe thì Trần Thanh H, Nguyễn Thanh H và Y đều im lặng,
không ai phản đối gì. Khoảng 10 giờ 20 phút cùng ngày, Hồng Văn T bỏ vào một
phong bì 2.000.000 đồng, Nguyễn Văn T bỏ vào một phong bì 2.000.000 đồng và
Nguyễn Thế B bỏ vào một phong bì 1.500.000 đồng, rồi cả ba cùng đến gặp Đội
Thanh tra giao thông số 3. Lúc này L đứng trước đầu xe ô tô biển kiểm sốt 73B0288 của Thanh tra Sở Giao thơng vận tải Quảng Bình, Trần Thanh H ngồi ở phía
28
29
Theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 36 Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015.
Bản án số 06/2018/HS-PT ngày 29/01/2018 của Tịa án Nhân dân tỉnh Quảng Bình.
18
trước bên phải trong xe, Y ngồi ghế sau bên phải và Nguyễn Thanh H ngồi ghế sau
bên trái. Hoàng Văn T cầm cả ba phong bì đến đưa cho L, L bảo Hoàng Văn T,
Nguyễn Văn T và Nguyễn Thế B ghi tên và số điện thoại từng người lên phong bì
và đưa cho mấy người ngồi trong xe ô tô. Sau khi ghi tên và số điện thoại của từng
người lên phong bì, Hồng Văn T cầm cả ba phong bì kèm theo gói thuốc lá đến
đưa qua cửa xe cho Trần Thanh H và nói “Mời anh hút thuốc”, Trần Thanh H bảo
Hoàng Văn T “Anh đi ra chỗ khác”. Hoàng Văn T đi ra cửa sau bên phụ phía phải
chỗ Y đang ngồi mời Y hút thuốc rồi nói “Em có chút quà gửi Đội uống nước và
nhờ mấy anh trong đội giúp đỡ bọn em với”, sau đó Hồng Văn T đặt ba chiếc
phong bì lên đùi của Y và bỏ đi, Y cầm lấy ba chiếc phong bì cất vào túi áo đang
mặc người thì bị Cơng an huyện Tun Hóa bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật.
Theo Cáo trạng số 31/THQCT-KSĐT-KT ngày 05/10/2017 của VKSND
huyện Tuyên Hóa đã truy tố Trần Hoàng L và Hoàng Phú Y về tội “Nhận hối lộ”
theo Khoản 1 Điều 279 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Tại bản án hình sự sơ thẩm
số 30/2017/HSST ngày 01/11/2017 của TAND Tuyên Hóa đã tuyên phạt bị cáo
Trần Hoàng L và Hoàng Phú Y phạm tội “Nhận hối lộ”, mỗi bị cáo 24 tháng tù.
Riêng các đối tượng Trần Thanh H và Nguyễn Thanh H không bị truy cứu trách
nhiệm hình sự; bị cáo Trần Hồng L kháng cáo, trong đó có nội dung cho rằng mình
là nhân viên hợp đồng nên khơng có chức vụ, quyền hạn, do đó khơng phạm tội
nhận hối lộ…
Nhận xét, đánh giá:
Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử; bị cáo Trần Hoàng L và
Luật sư bào chữa của Trần Hoàng L đều cho rằng Trần Hoàng L là nhân viên hợp
đồng của Thanh tra Sở, hợp đồng có thời hạn đến ngày 01/5/2015 nhưng Thanh tra
Sở chưa gia hạn hợp đồng với Trần Hoàng L. Đặc biệt, bị cáo chỉ là nhân viên hợp
đồng nên không có chức vụ, quyền hạn để giải quyết cơng việc theo yêu cầu của
người đưa hối lộ; việc thực hiện hành vi phạm tội khi đó đã được sự đồng ý của Đội
Trưởng và các thành viên trong Đội, bị cáo L cũng không phải là người trực tiếp
nhận tiền nên không phạm tội “Nhận hối lộ”.
Quan điểm tác giả30:
30
Phần này tác giả không đề cập đến các đối tượng Trần Thanh H và Nguyễn Thanh H có phạm tội hay
khơng vì tác giả chỉ nêu quan điểm cá nhân đối với bị cáo Trần Hồng L có phải là chủ thể của tội nhận hối
lộ hay không?
19
Theo hồ sơ vụ án, Trần Hoàng L được Thanh tra Sở Giao thơng vận tải
Quảng Bình tại ký hợp đồng vào làm việc tại Thanh Tra Sở từ ngày 01/5/2013, với
chức danh chuyên môn là “Chuyên viên thanh tra giao thông”, đến ngày 29/4/2014
ký lại hợp đồng lần thứ hai với thời hạn làm việc 01 năm (từ ngày 01/5/2014 đến
ngày 01/5/2015). Sau ngày 01/5/2015, tuy Thanh tra Sở Giao thông vận tải không
ký tiếp hợp đồng lao động với Trần Hoàng L, nhưng thực tế Trần Hoàng L vẫn tiếp
tục làm việc tại Thanh Tra Sở và hàng tháng vẫn được hưởng lương từ ngân sách
Nhà nước, thực hiện chức trách nhiệm vụ theo quyết định của Chánh Thanh tra Sở;
vì vậy, theo quy định31 thì hợp đồng lao động xác định thời hạn giữa Thanh tra Sở
Giao thơng vận tải với Trần Hồng L đương nhiên trở thành hợp đồng lao động
không xác định thời hạn, với chức danh chuyên môn “Chuyên viên thanh tra” của
Thanh tra Sở như hợp đồng trước đây.
Do đó, bị cáo Trần Hồng L có đầy đủ các dấu hiệu của chủ thể tội phạm về
chức vụ32; cụ thể trong trường hợp này chức vụ của bị cáo có được là do hợp đồng,
được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước và được Thanh tra Sở Giao thơng vận tải
Quảng Bình phân công nhiệm vụ, quyền hạn nhất định theo chức danh chuyên môn
“Chuyên viên thanh tra”. Như vậy, trong vụ án này bị cáo Trần Hoàng L phạm tội
nhận hối lộ Điều 279 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm
2009) là đúng người, đúng tội.
Vụ án thứ tư33:
Ngày 18/12/2018, Công an tỉnh Bắc Giang đã bắt quả tang Đào Thị Thanh
Bình (Phóng viên Báo Thương hiệu và Công luận) về hành vi nhận 70.000 USD của
Cơng ty TNHH Luxshare - Ici Việt Nam có trụ sở ở Bắc Giang, tại một địa chỉ trên
đường Hoàng Quốc Việt, Hà Nội.
Theo kết quả điều tra ban đầu, Công ty Luxshare - Ici Việt Nam là công ty
nước ngồi có vốn đầu tư rất lớn ở tỉnh Bắc Giang, với khoảng 4.000 công nhân làm
việc. Công ty này đã được UBND tỉnh Bắc Giang cho phép xây dựng khu giải trí,
nghiên cứu, thể thao cho cơng nhân. Tuy nhiên, Công ty Luxshare - Ici Việt Nam
31
Khoản 2 Điều 22 Bộ luật Lao động năm 2012.
Điều 277 Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009).
33
(ngày truy cập 19/12/2018 - 15:45).
(ngày truy cập 22/12/2018 - 09:43).
/>(ngày truy cập 28/12/2018 - 21:01).
32
20
khơng xây dựng các hạng mục cơng trình trên mà tự ý thay đổi thiết kế, xây nhà ở
cho công nhân, đồng thời có văn bản đề nghị UBND tỉnh Bắc Giang cho phép
chuyển đổi mục đích, cơng năng sử dụng.
Phát hiện được vi phạm trên, vào tháng 10/2018, Đào Thị Thanh Bình đã liên
hệ với Cơng ty Luxshare - Ici Việt Nam làm việc, nói rõ các vi phạm và yêu cầu
công ty này phải đưa tiền để bỏ qua, nếu khơng thì sẽ đưa vụ việc lên báo. Công ty
Luxshare - Ici Việt Nam đã đề nghị nữ phóng viên này bỏ qua vụ việc và hỏi chi phí
để bỏ qua là bao nhiêu, thì Đào Thị Thanh Bình u cầu phía cơng ty làm việc với
người mơi giới là Nguyễn Thị Nhâm. Sau đó, Nhâm đã yêu cầu Công ty Luxshare Ici Việt Nam phải đưa 100.000 USD để không đưa vi phạm lên báo.
Sau gần hai tháng mặc cả qua lại, Bình đã đồng ý với mức chi phí khơng
đăng bài viết là 70.000 USD và hẹn Công ty Luxshare - Ici Việt Nam giao tiền tại
Hà Nội. Đồng thời Công ty Luxshare - Ici Việt Nam đã báo cáo tồn bộ vụ việc cho
Cơng an tỉnh Bắc Giang.
Khi Đào Thị Thanh Bình và ơng Tăng Duệ Bằng, 51 tuổi, quốc tịch Trung
Quốc, trú tại phường Lê Lợi, thành phố Bắc Giang, là Giám đốc đối ngoại Cơng ty
Luxshare-Ici Việt Nam đang trao tiền thì Phịng Cảnh sát hình sự Cơng an tỉnh Bắc
Giang phối hợp với Công an Quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội bắt quả tang đối
tượng Đào Thị Thanh Bình đang nhận 70.000 USD của doanh nghiệp.
Liên quan đến vụ việc này, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt
Nam Hồ Quang Lợi cho biết, qua kiểm tra xác định, phóng viên Đào Thị Thanh
Bình khơng phải là Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam và khơng có thẻ nhà báo. Tuy
nhiên, theo ơng Lợi, phóng viên Đào Thị Thanh Bình lại mang danh nghĩa nhà báo
đi hành nghề và có hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín
và danh dự của người làm báo Việt Nam. Tổng Biên tập Báo Thương hiệu và Công
luận Vũ Đức Thuận cũng xác nhận, nữ phóng viên Đào Thị Thanh Bình sinh năm
1978, bắt đầu thử việc ở báo từ tháng 4/2018 và mới được ký hợp đồng từ tháng
10/2018. Nữ phóng viên chưa có thẻ nhà báo cũng như chưa phải Hội viên Hội nhà
báo Việt Nam.
Hiện tại, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đã khởi tố bị can
đối với Đào Thị Thanh Bình về hành vi “Cưỡng đoạt tài sản” để phục vụ điều tra.
Quan điểm của tác giả:
Theo thông tin ban đầu như báo chí đã nêu thì hành vi của Đào Thị Thanh
Bình có thể có dấu hiệu của tội “Nhận hối lộ” theo Điều 354 BLHS 2015. Bởi vì,