BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THU THỦY
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số: 8380104
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Tƣờng Vy
Học viên: Nguyễn Thị Thu Thủy
Lớp: Cao học luật, khóa 28
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình
sự Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu do tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học
của TS. Lê Tƣờng Vy. Kết quả nghiên cứu và những nội dung trong luận văn này là
trung thực và chưa từng được công bố trong những cơng trình nghiên cứu liên quan.
Trong q trình nghiên cứu, luận văn có tham khảo, tiếp thu những quan điểm, ý kiến
khoa học của những nhà nghiên cứu đi trước đã thực hiện. Những thơng tin này đều
được trích dẫn nguồn một cách đầy đủ và trung thực trong luận văn.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày
tháng
năm 2020
Tác giả luận văn
NGUYỄN THỊ THU THỦY
DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
BLDS
BLHS
BLTTHS
CĐTS
TAND
TANDTC
TNHS
TP. HCM
XHCN
: Bộ luật Dân sư
: Bộ luật Hình sự
: Bộ luật tố tụng Hình sự
: Chiếm đoạt tài sản
: Tịa án nhân dân
: Tịa án nhân dân tối cao
: Trách nhiệm hình sự
: Thành phố Hồ Chí Minh
: Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ .......................................................................9
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ...... 9
1.1.1. Khái niệm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản .................................................9
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản .............................12
1.1.3. Các dấu hiệu định khung hình phạt .........................................................15
1.2. Phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam với
một số tội phạm khác ........................................................................................... 17
1.2.1. Phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS) với Tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS) ........................................17
1.2.2. Phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS) với Tội lạm
dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 355 BLHS) .........................18
1.2.3. Phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS) với Tội lừa
dối khách hàng (Điều 198 BLHS) ......................................................................19
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ
năm 1945 đến nay ................................................................................................ 20
1.3.1. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam từ sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành bộ luật Hình sự năm 198520
1.3.2. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật Hình sự năm 1985 ............25
1.3.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật Hình sự năm 1999 ............27
1.3.4. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật Hình sự năm 2015 ............29
1.4. Pháp luật hình sự một số nƣớc về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ........... 30
1.4.1. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật Hình sự Liên Bang Nga .........30
1.4.2. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật Hình sự Cộng hịa Liên bang Đức....
............................................................................................................................32
1.4.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật Hình sự Cộng hịa nhân dân
Trung Hoa ..........................................................................................................34
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................36
CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ ViỆT NAM .................................................................37
2.1. Thực trạng áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về Tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản................................................................................... 37
2.2. Một số bất cập, vƣớng mắc trong quy định và áp dụng Tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự hiện hành .................................................... 40
2.2.1. Bất cập trong việc quy định và áp dụng một số dấu hiệu định tội danh đối
với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản .....................................................................40
2.2.2. Bất cập trong việc quyết định hình phạt đối với Tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản .................................................................................................................49
2.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ............................................................... 51
2.3.1. Cơ sở và yêu cầu hồn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ...........................................................................51
2.3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của luật Hình sự Việt Nam về
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ...........................................................................57
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................66
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (CĐTS) được quy định tại Điều 139 Bộ luật
hình sự (BLHS) 1999, trước đó là Tội lừa đảo CĐTS của công dân quy định tại
Điều 157, Tội lừa đảo CĐTS xã hội chủ nghĩa (XHCN) quy định tại Điều 134 và
Tội lợi dung chức vụ, quyền hạn lừa đảo CĐTS XHCN quy định tại Điều 134a
BLHS 1985. Tới BLHS 2015, Tội lừa đảo CĐTS vẫn giữ nguyên tên gọi như BLHS
1999 và được quy định tại Điều 174.
Từ lần đầu tiên được quy định đến nay, điều luật quy định Tội lừa đảo CĐTS
đã góp một phần cơng sức vào cơng cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm, bảo vệ
các quan hệ xã hội có nguy cơ bị xâm phạm.
Nhưng như chúng ta đã biết, sự phát triển của kinh tế, xã hội đến một gia
đoạn nhất định sẽ làm cho những quy định của pháp luật khơng cịn phù hợp nữa,
buộc phải có sự thay đổi. Điều 174 BLHS Việt Nam năm 2015 không nằm ngồi
quy luật đó.
Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, để xử lý loại tội phạm này còn nhiều khó
khăn, vướng mắc và bất cập giữa cơ sở pháp lý và thực tiễn. Vẫn còn tồn tại nhiều
quan điểm đánh giá vận dụng khác nhau, do dấu hiệu định tội chưa được cụ thể,
hướng dẫn chưa rõ ràng, có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng
không thống nhất, gây nhiều tranh cãi. Do đó khơng đảm bảo hiệu quả xét xử
đúng người, đúng tội, không đảm bảo cơng bằng khi quyết định hình phạt đối với
người phạm tội.
Với tình hình đất nước đang phát triển như hiện nay, việc xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN là một nhiệm vụ quan trọng, mà trong đó việc áp dụng pháp luật
đúng đắn, phù hợp, đem lại hiệu quả là một yêu cầu tất yếu. Để xây dựng được nhà
nước pháp quyền XHCN đòi hỏi sự đồng bộ trong việc quy định các quy phạm pháp
luật, theo đó việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, hoàn thiện những điều luật cịn bất
cập là một nhiệm vụ vơ cùng cấp bách.
Để kịp thời đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ các quan hệ xã hội có
nguy cơ bị xâm phạm, để việc áp dụng pháp luật được chính xác, mang lại hiệu
quả trên thực tế, không bỏ lọt tội phạm, cũng không làm oan sai người vô tội; để
2
kịp thời hoàn thiện những khiếm khuyết của pháp luật; để tìm ra giải pháp khắc
phục những khó khăn, vướng mắc của điều luật trong thực tiễn áp dụng hiện nay,
cần thiết phải làm rõ nội dung và những vướng mắc của Tội lừa đảo CĐTS,
thơng qua đó sẽ tìm ra giải pháp hoàn thiện điều luật. Từ những lý do đã nêu
trên, tác giả xin được lựa chọn đề tài này để làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Luật Hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thơng qua q trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy liên quan trực tiếp đến Tội
lừa đảo CĐTS đã có một số cơng trình nghiên cứu sau đây:
2.1. Nhóm các luận án, luận văn.
Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Nguyễn Ngọc Chí “Trách nhiệm hình sự
đối với các tội xâm phạm sở hữu”, Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, 2001.
Cơng trình đã ngun cứu về tội xâm phạm sở hữu một cách tồn diện có hệ thống,
trên hai bình diện: tội phạm học và luật hình sự. Luận án đã nhận xét, đánh giá về
đặc điểm tình hình các tội xâm phạm sở hữu, phân tích một cách có hệ thống chính
sách hình sự, ngun tắc xử lý và các hình thức TNHS đối với các tội này trong đó
có Tội lừa đảo CĐTS.
Luận án tiến sĩ “Đấu tranh, phòng chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở
Việt Nam” của tác giả Lê Đăng Danh, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2008. Đây
là cơng trình được nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học. Trên cơ sở nghiên cứu
một cách đầy đủ có hệ thống về tình hình Tội lừa đảo CĐTS từ năm 1996 đến 2006,
tác giả đã đánh giá thực trạng, cơ cấu và tính chất cũng như xu hướng, diễn biến của
loại Tội lừa đảo CĐTS trong giai đoạn hiện nay. Phải thừa nhận rằng tác giả đã đưa
ra một bức tranh khá sống động về tình hình diễn biến của loại tội phạm lừa đảo
trên cơ sở đó nhằm đưa ra các giải pháp đấu tranh, phòng chống tội phạm này. Tuy
nhiên, luận án này được nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học nên tác giả chỉ tập
trung nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện phạm tội cũng như các giải pháp đấu tranh
phòng chống tội phạm.
Luận văn thạc sĩ “Phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
lĩnh vực ngân hàng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”, của tác giả Phạm Văn
Tuân, Trường Đại học luật TP. Hồ Chí Minh, năm 2014. Đây là cơng trình nghiên
cứu, bình luận về vấn đề phịng ngừa tội phạm lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực ngân
3
hàng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM). Trong đó có nêu lên các đặc
điểm pháp lý của Tội lừa đảo CĐTS, tình hình tội phạm, nguyên nhân, điều kiện
của tình hình tội phạm và đề ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực ngân hàng trên địa bàn TP.HCM. Tuy nhiên, nội dung của tác phẩm
chỉ dừng lại ở góc độ nghiên cứu Tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực ngân hàng và
giới hạn trong địa bàn TP.HCM chứ không nghiên cứu bao quát, cụ thể Tội lừa đảo
CĐTS nói chung. Trên tinh thần tiếp thu các kết quả nghiên cứu trong tác phẩm
này, tác giả sẽ tiếp tục phát triển, mở rộng để phân tích, đánh giá một cách đầy đủ,
chi tiết hơn quy định của luật Hình sự về Tội lừa đảo CĐTS.
Luận văn thạc sĩ “Đấu tranh phòng chống tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn”, của tác giả
Nguyễn Thị Kim Dung, Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, năm 2007. Đây là
cơng trình nghiên cứu đi sâu vào vấn đề lý luận và pháp lý về tội phạm lừa đảo
CĐTS trong lĩnh vực hoàn thế giá trị gia tăng giới hạn phạm vi trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn, đồng thời cũng trình bày thực trạng và đưa ra những kiến nghị và giải
pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm này. Tuy nhiên nội dung
của tác phẩm chỉ giới hạn trong phạm vi địa bàn tỉnh Lạng Sơn và đi sâu nghiên cứu
Tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực hồn thuế, khơng nghiên cứu tổng qt Tội lừa
đảo CĐTS nói chung. Trên tinh thần tiếp thu các kết quả nghiên cứu trong tác phẩm
này, tác giả sẽ tiếp tục phát triển, mở rộng để phân tích, đánh giá một cách đầy đủ,
tồn diện hơn quy định của luật Hình sự về Tội lừa đảo CĐTS, từ đó tìm ra những
bất cập và đề xuất phương án khắc phục.
Luận văn thạc sĩ “Đấu tranh phòng chống tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài
sản tại thành phố Hồ Chí Minh”, của tác giả Dương Thị Ngọc Thủy, Trường Đại
học Luật Tp Hồ Chí Minh, năm 2008. Đây là cơng trình nghiên cứu tập trung vào
phân tích làm rõ những vấn đề lý luận liên qua đến Tội lừa đảo CĐTS, đánh giá
được kết quả cũng như quá trình áp dụng các biện pháp phòng, chống Tội lừa đảo
CĐTS của các cơ quan bảo vệ pháp luật từ đó rút ra được những kinh nghiệm, hạn
chế, thiếu sót của hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm lừa đảo CĐTS trên địa
bàn TP.HCM. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh
phịng, chống tội phạm. Có thể thấy luận văn này tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu vấn
đề đấu tranh phòng chống tội phạm giới hạn trong địa bàn TP.HCM, chưa nghiên
cứu bao quát về Tội lừa đảo CĐTS trên địa bàn cả nước. Trên cơ sở tiếp thu thành
4
tựu nghiên cứu của luận văn này tác giả sẽ đi sâu vào nghiên cứu tổng quát về Tội
lừa đảo CĐTS trên phạm vi cả nước.
Luận văn thạc sĩ “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam
trên cơ sở số liệu xét xử địa bàn thành phố Đà Nẵng”, của tác giả Ngô Thị Hạnh,
Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2016. Luận văn đi vào nghiên cứu vấn đề lý luận
liên quan đến Tội lừa đảo CĐTS, đồng thời đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp
luật trên cơ sở thực trạng, thực tiễn xét xử Tội lừa đảo CĐTS trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng. Có thể thấy luận văn đã đi vào nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn liên quan đến Tội lừa đảo CĐTS nhưng chỉ dựa trên số liệu trên địa bàn Thành
phố Đà Nẵng. Vì sự khác nhau về nguyên nhân và điều kiện phạm tội ở mỗi tỉnh
trên cả nước nên việc giới hạn nghiên cứu trên một địa bàn nhất định khiến cho kết
quả nghiên cứu chưa được bao quát, toàn diện.
Luận văn thạc sĩ “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự
Việt Nam” của tác giả Đặng Thị Thanh Huyền, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm
2016. Luận văn này đã nghiên cứu và đưa ra những đánh giá tồn diện có hệ thống
về lý luận cũng như thực tiễn Tội lừa đảo CĐTS trên cơ sở BLHS 1999, đồng thời
cũng đưa ra một số biện pháp đảm bảo thi hành quy định của BLHS về Tội lừa
đảo CĐTS.
Luận văn thạc sĩ “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản những vấn đề lý luận và
thực tiễn” của tác giả Trần Thị Phương Hiền, khoa Luật Đại học Quốc Gia, năm
2007. Luận văn đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về Tội lừa
đảo CĐTS theo BLHS 1999 trong giai đoạn 1998 đến 2006, từ đó chỉ ra những bất
cập, thiếu sót trong quy định của BLHS 1999 và đưa ra những biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả phòng chống Tội lừa đảo CĐTS trong giai đoạn tiếp theo. Do tình hình
kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay có nhiều thay đổi, BLHS 2015 đã được ban
hành thay thế cho BLHS 1999 nên cơng trình nghiên cứu này khơng cịn phù hợp
nữa. Trên tinh thần tiếp thu thành tựu nghiên cứu của luận văn này, tác giả sẽ tiếp
tục nghiên cứu làm rõ các dấu hiệu pháp lý cũng như nguyên nhân làm phát sinh tội
phạm lừa đảo CĐTS trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhóm các sách chun khảo, giáo trình.
Những cơng trình nghiên cứu này mang tính chất phổ biến, cung cấp những
tri thức, lý luận cơ bản nhất liên quan đến đề tài nghiên cứu như:
5
Sách chuyên khảo: “Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt
Nam” do GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994;
“Tìm hiểu luật hình sự Việt Nam” của PGS.TS Kiều Đình Thụ, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh, 1996; “Cấu thành tội phạm, Chương VII” và “Chủ thể của tội phạm,
Chương X” Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Phần Chung do GS.TSKH Lê Cảm
chủ biên, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001;
“Cấu thành tội phạm – lý luận và thực tiễn” của GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, Nxb Tư
pháp, Hà Nội, 2004; “Những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm hình sự” Các
nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự, Tập III, của GS. TSKH Lê
Cảm, Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần
các tội phạm) của Trường Đại học Huế xuất bản năm 2003 do GS.TS Võ Khánh
Vinh chủ biên; Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội,
tái bản năm 2009, NXB Công an nhân dân của tập thể tác giả; Giáo trình luật hình sự
Việt Nam của Học viện Cảnh sát nhân dân, năm 2009. Gần đây nhất, nhà xuất bản
Khoa học xã hội đã xuất bản cuốn Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần chung và
phần các tội phạm) do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên; Giáo trình luật hình sự Việt
Nam, tập II, của Trường Đại học Luật Hà Nội, nhà xuất bản Công an nhân dân 2012; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm – quyển 1) của Đại học
Luật TP. Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Hồng Đức - 2013.
2.3. Nhóm các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành.
- Bài viết “Một số nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trên địa bàn miền Đông Nam Bộ” của tác giả Bùi Thị Lan Hương,
Khoa học Kiểm sát, Trường đại dọc Kiểm sát Hà Nội, 2017, số 04 (17) , tr.42 -51.
- Bài viết “G phạm tội gì, lừa đảo hay lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản?” của tác giả Trần Quang Dương, tạp chí TAND điện tử ngày 16/11/2019.
- Bài viết “Vờ mất xe để chiếm đoạt xe của người gửi, tội gì?” của tác giả
Phan Thành Nhân đăng trên Tạp chí TAND điện tử ngày 25/3/2020.
- Bài viết “Bùi Văn A phạm tội gì?” của tác giả Phạm Quốc Kiệt đăng trên
Tạp chí TAND điện tử ngày 28/3/2020.
- Bài viết “Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm xâm
phạm sở hữu khác” của tác giả Triệu Thị Tuyết đăng trên Tạp chí TAND điện tử
ngày 3/10/2019.
6
- Bài viết “Bàn về yếu tố chiếm đoạt tài sản trong các tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản và lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của tác giả Nguyễn Thị Phương
Thảo, Kiểm sát. Số 9/2012, tr.52-54.
- Bài viết “Tội lừa dối khách hàng (Điều 162) trong mối quan hệ với tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS)” của tác giả Lê Đăng Doanh, Tạp chí
TAND, 2004, Số 22, tr. 11-14.
- Bài viết “Hoàn thiện pháp luật trong phòng ngừa đấu tranh đối với tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản do người nước ngoài thực hiện ở Việt Nam” của tác giả Lê
Quang Thành, Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam,
2015, số 7, tr.53-58.
- Quyết định giám đốc thẩm số 02/2020/HS-GĐT ngày 13/2.2012 của hội
đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao (TAND TC) về vụ án Võ Minh Chiến phạm
tội “ Lừa đảo, chiếm đoạt tài sản”, TAND TC, 2012, số 17, tr46-48.
Các bài viết trên có ý nghĩa quan trọng trong việc làm rõ các yếu tố cấu thành
tội phạm, phân biệt Tội lừa đảo CĐTS với các tội khác, nêu lên một phần nguyên
nhân và điều kiện của tội phạm.
Trên tinh thần tiếp thu các kết quả nghiên cứu trên đây, tác giả sẽ đi sâu vào
phân tích làm sáng tỏ lý do tại sao nhà làm luật lại quy định dấu hiệu pháp lý và
hình phạt cho Tội lừa đảo CĐTS và từ đó rút ra kết luận về sự phù hợp của quy định
pháp luật với tình hình thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Phân tích, làm rõ những vấn đề mang tính chất lý luận về Tội lừa đảo CĐTS.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về Tội lừa đảo CĐTS và
chỉ ra những vấn đề còn tồn tại trong việc thực thi trên thực tế.
- Đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về Tội lừa đảo CĐTS.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật Việt Nam về Tội lừa đảo CĐTS
cụ thể là các vấn đề:
- Những vấn đề lý luận cơ bản về Tội lừa đảo CĐTS;
7
- Thực trạng quy định cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về Tội lừa
đảo CĐTS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu những quy định của BLHS Việt Nam năm 2015 về Tội lừa
đảo CĐTS. Ngồi ra, tác giả cịn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định về tội này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp sau: phương pháp phân
tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử, phương
pháp thống kê.
Thứ nhất, phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp là hai phương
pháp chủ đạo, được sử dụng để phân tích các vấn đề lý luận cũng như quy định của
pháp luật liên quan đến Tội lừa đảo CĐTS; tổng hợp, phân tích các vấn đề pháp lý
có liên quan. Ngoài ra, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp để tóm tắt nội dung
của mỗi chương và đưa ra kết luận chung cho toàn luận văn.
Thứ hai, phương pháp so sánh: được sử dụng để đánh giá các quy định pháp
luật về Tội lừa đảo CĐTS qua các thời kỳ cũng như đối chiếu với pháp luật của một
số quốc gia liên quan đến tội này để rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam.
Thứ ba, phương pháp lịch sử: Phương pháp này được sử dụng để làm rõ sự
hình thành và phát triển của Tội lừa đảo CĐTS trong luật hình sự Việt Nam từ sau
Cách mạng Tháng Tám đến nay.
Thứ tư, phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng để làm rõ
tình hình xử lý hình sự đối với Tội lừa đảo CĐTS.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Các kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là một tài liệu có giá trị cho những ai
muốn nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn về Tội lừa đảo CĐTS. Quá trình nghiên cứu, tác
giả sẽ phân tích và làm rõ trong đề tài những vấn đề pháp lý về Tội lừa đảo CĐTS.
Bên cạnh đó, tác giả sẽ chỉ ra những bất cập, nguyên nhân cũng như đề xuất các giải
pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về tội này. Do đó, nội dung của đề tài
cịn là một cơ sở dữ liệu có giá trị tham khảo, góp phần phổ biến kiến thức pháp lý
cho sinh viên, học viên, nhà nghiên cứu cũng như những người làm công tác thực
tiễn khi áp dụng tội này trong thực tế.
8
7. Bố cục của Luận văn
Bên cạnh phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được chia làm hai chương:
Chƣơng 1: Một số vấn đề chung về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
Luật hình sự
Chƣơng 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy
định của pháp luật về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
9
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Để có thể đưa ra một khái niệm đầy đủ, chính xác về Tội lừa đảo CĐTS, chúng
ta cần làm rõ định nghĩa về tội này trong các tài liệu khoa học. Theo từ điển bách
khoa toàn thư Việt Nam: “Lừa đảo là dùng thủ đoạn gian dối đánh lừa người khác
để mưu lợi. Thủ đoạn gian dối rất đa dạng, nhằm giấu giếm nội dung sai thật (ít,
nhiều hoặc hoàn toàn) làm cho người khác tin, nhầm, tưởng giả là thật để chiếm đoạt
tài sản, tiền bạc, thu lợi vật chất hoặc che giấu một việc làm xấu. Sự lừa đảo được
thực hiện trước hoặc liền ngay với hành động chiếm đoạt, nó thể dưới nhiều hình
thức khác nhau: nói dối, dùng giấy tờ giả mạo, giả danh người có chức có quyền.”1
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh
“Lừa đảo CĐTS hành vi CĐTS của người khác bằng thủ đoạn gian dối… ”2
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa:
“Lừa đảo CĐTS là hành vi CĐTS của người khác bằng thủ đoạn gian dối…”3
Tội lừa đảo CĐTS được quy định tại Điều 139, tại Chương các tội phạm xâm
phạm sở hữu (Chương XIV) BLHS 1999 và được quy định tại Điều 174 BLHS
2015. Tội phạm này là tội phạm có tính chất chiếm đoạt, nghĩa là người có hành vi
lừa đảo đã cố ý chuyển dịch bất hợp pháp tài sản (là đối tượng tác động của tội
phạm) từ người khác thành tài sản của mình. Thủ đoạn của việc chiếm đoạt đó là
hành vi gian dối.
Có thể thấy các định nghĩa nêu trên và quy định tại Điều 174 BLHS 2015 đều
thống nhất đặc trưng của Tội lừa đảo CĐTS là sử dụng thủ đoạn gian dối để CĐTS
của người khác.
Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam />Nghia/timkiem.aspx?TuKhoa=l%E1%BB%ABa%20%C4%91%E1%BA%A3o&ChuyenNganh=0&DiaLy=0
Xem ngày 3/4/2020.
2
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm),
Quyển 1, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr 195.
3
Trường Đại học Lật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Quyển 1, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội, tr 214.
1
10
Để đưa ra được khái niệm đầy đủ về Tội lừa đảo CĐTS, trước hết phải đảm
bảo khái niệm Tôi lừa đảo CĐTS phải thỏa mãn được các dấu hiệu của khái niệm
tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS. Trong khoa học pháp lý hình sự, “tội
phạm được hiểu là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và
phải chịu hình phạt”4
Trên cơ sở đó, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về Tội lừa đảo CĐTS như sau:
Tội lừa đảo CĐTS là hành vi dùng thủ đoạn gian dối CĐTS thuộc quyền sở
hữu của người khác, do người có năng lực chịu TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực
hiện dưới hình thức lỗi cố ý.
Với tư cách là mội tội phạm, Tội lừa đảo CĐTS có đầy đủ các dấu hiệu đặc
trưng của tội phạm:
- Thứ nhất, Tội lừa đảo CĐTS có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội.
Hành vi đó sở dĩ bị quy định trong luật hình sự là tội phạm và phải chịu
TNHS vì nó có tính nguy hiểm cho xã hội. Có thể thấy tính nguy hiểm cho xã hội
là dấu hiệu đầu tiên và quan trọng nhất, chi phối những dấu hiệu khác của tội
phạm. Xét về mặt khách quan, hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội là hành vi đã
gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hoại cho các quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ. Tính nguy hiểm của Tội lừa đảo CĐTS được thể hiện ở chỗ nó gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu tài sản. Tính
nguy hiểm cho xã hội được xác định qua các yếu tố như: Động cơ, mục đích, thủ
đoạn phạm tội, thiệt hại về tài sản do hành vi phạm tội gây ra, nhân thân của người
phạm tội…
Để bị coi là tội phạm thì một hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội thơi là
chưa đủ mà phải xem xét đến mức độ nguy hiểm của hành vi đó. Khoản 2 Điều 8
BLHS 2015 quy định: “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính
chất nguy hiểm cho xã hội khơng đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử
lý bằng các biện pháp khác”. Chính vì vậy hành vi lừa đảo CĐTS phải thỏa mãn
tính nguy hiểm đáng kể mà BLHS quy định thì mới bị coi là tội phạm. Nếu khơng
thì chỉ bị xử lý theo quy định của pháp luật Hành chính, Dân sự hoặc được coi là
vơ tội.
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần chung, NXB
Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam, tr. 60.
4
11
Đặc điểm này có ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận là khi hoàn thiện các
dấu hiệu định tội của Tội lừa đảo CĐTS phải đảm bảo yêu cầu là cấu thành cơ bản
Tội lừa đảo CĐTS phải có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội.
- Thứ hai, Tội lừa đảo CĐTS phải có lỗi.
Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của
mình đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc
vơ ý.5 Một hành vi được coi là có lỗi khi thảo mãn 2 điều kiện. Thứ nhất, hành vi trái
pháp luật hình sự xâm phạm tới khách thể mà luật hình sự bảo vệ. Thứ 2 hành vi đó
là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của người thực hiện hành vi, trong một
trường hợp cụ thể người thực hiện hành vi có điều kiện lựa chọn và quyết định xử sự
khác không trái pháp luật nhưng lại không lựa chọn đúng mà quyết định thực hiện
hành vi trái pháp luật hình sự. Để xác định một người có đang thực hiện hành vi
phạm tội hay khơng ta phải xác định tính có lỗi của tội phạm. Lỗi là một yếu tố quan
trọng để phân biệt tội phạm, là yếu tố bên trong, nguyên nhân chủ quan của tội phạm.
Đặc điểm này địi hỏi khi hồn thiện các dấu hiệu định tội của Tội lừa đảo
CĐTS phải đảm bảo yêu cầu là phải thể hiện cho được lỗi của Tội lừa đảo CĐTS
trong cấu thành cơ bản chỉ là lỗi cố ý trực tiếp; trường hợp hỗ hợp lỗi (nếu có) chỉ
có trong cấu thành tội phạm tăng nặng.
- Thứ ba, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính trái pháp luật.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 của BLHS năm 2015 thì hành vi nguy hiểm
cho xã hội chỉ có thể bị coi là tội phạm nếu hành vi đó “được quy định trong
BLHS…” và Điều 2 BLHS 2015 quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được
BLHS quy định mới phải chịu TNHS”. Để tuân thủ nguyên tắc pháp chế thì tính trái
pháp luật của Tội lừa đảo CĐTS phải quy định trong luật hình sự. Tội lừa đảo
CĐTS là một tội phạm được quy định trong BLHS, Điều 174 BLHS năm 2015, nên
khi một người thực hiện hành vi lừa đảo CĐTS gây nguy hiểm đáng kể cho xã hội
thì hành vi đó là trái pháp luật hình sự và người thực hiện hành vi phải chịu TNHS.
- Thứ tư, Tội lừa đảo CĐTS có tính phải chịu hình phạt
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất được luật hình
sự quy định và do Tịa án áp dụng có nội dung tước bỏ một số quyền hoặc tài sản
5
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), tlđd (4), tr. 153.
12
của người phạm tội nhằm trừng trị, giáo dục, răn đe người phạm tội không tái phạm
và giáo dục những người khác tơn trọng pháp luật. Chỉ có những hành vi vi phạm
những quy định của BLHS mới phải chịu hình phạt. Tính chịu hình phạt của Tội lừa
đảo CĐTS thể hiện ở chỗ nó ln bị đe dọa phải chịu hình phạt khi hành vi vi phạm
pháp luật hình sự được thực hiện. Tội lừa đảo CĐTS là một tội phạm được quy định
tại Điều 174 BLHS năm 2015 nên khi một người phạm Tội lừa đảo CĐTS thì phải
chịu hình phạt theo quy định của BLHS đã ghi nhận. Hình phạt đối với hành vi lừa
đảo CĐTS chính là hình thức thể hiện bản chất nguy hiểm của Tội lừa đảo CĐTS,
thể hiện tính cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất nhằm răn đe và phòng ngừa đối
với loại hành vi nguy hiểm đáng kể này.
Như vậy, Tội lừa đảo CĐTS có đầy đủ các dấu hiệu chung của tội phạm, đây
là tiền đề quan trọng để Luận văn phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội này.
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.1.2.1. Khách thể của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Khách thể của tội phạm nói chung “là hệ thống các quan hệ xã hội được luật
hình sự bảo vệ và bị các tội phạm xâm hại”6. Khách thể của tội phạm là yếu tố bắt
buộc, không thể thiếu trong cấu thành tội phạm. Khách thể trực tiếp của Tội lừa đảo
CĐTS là quyền sở hữu tài sản, cụ thể là các quyền: chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt tài sản của chủ sở hữu tài sản đối với tài sản bị chiếm đoạt.
Khi nghiên cứu khách thể của Tội lừa đảo CĐTS không thể không đề cập đến
đối tượng tác động của tội phạm. Đối tượng tác động của Tội lừa đảo CĐTS là tài
sản. Tài sản theo quy đinh của Bộ luật dân sự gồm: Tiền, vật, giấy tờ có giá và
quyền về tài sản.
Tiền là một công cụ dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại
hàng hóa khác. Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định tiền là một loại tài sản
nhưng lại khơng có quy định để làm rõ bản chất pháp lý của tiền. Chỉ có loại tiền có
giá trị đang được lưu hành trên thực tế, tức là được pháp luật thừa nhận, mới được
coi là tài sản.
Vật là bộ phận của thế giới vật chất, nó tồn tại khách quan khơng phụ thuộc
vào ý chí của con người, con người có thể cảm nhận bằng giác quan của mình. Tuy
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung, NXB Hồng Đức –
Hội luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.
6
13
nhiên không phải bất cứ bộ phận nào của thế giới vật chất đều được coi là vật trong
dân sự. Đối tượng của Tội lừa đảo CĐTS là vật có giá trị, nhưng tồn bộ hay một
phần giá trị đó đã được đầu tư sức lao động của con người, là thước đo giá trị lao
động con người kết tinh, đồng thời phải thỏa mãn được nhu cầu về vật chất và tinh
thần của con người. Vật muốn trở thành tài sản trong luật dân sự phải thỏa mãn
những điều kiện sau: (1) là bộ phận của thế giới vật chất; (2) con người chiếm hữu
được; (3) mang lại lợi ích cho chủ thể; (4) có thể đang tồn tại hoặc sẽ hình thành
trong tương lai.
Giấy tờ có giá: Giấy tờ có giá được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và
chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Giấy tờ có giá hiện nay tồn tại dưới nhiều
dạng khác nhau như séc, cổ phiếu, tín phiếu, hồi phiếu, kỳ phiếu, cơng trái… Xét về
mặt hình thức giấy tờ có giá là một chứng chỉ được lập theo hình thức, trình tự luật
định. Giấy tờ có giá chỉ là đối tượng của tôi xâm phạm sở hữu khi nó vơ danh.
Quyền tài sản: Quyền tài sản theo định nghĩa tại Điều 115 BLDS năm 2015
thì quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối
tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. Quyền tài
sản hiểu theo nghĩa rộng là quyền của tổ chức, cá nhân được pháp luật công nhận,
cho phép thực hiện hành vi xử sự đối với tài sản của mình. Xét theo ý nghĩa này,
quyền tài sản cũng là một loại tài sản.
1.1.1.2. Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của Tội lừa đảo CĐTS là hành vi dùng thủ đoạn gian dối
để CĐTS mà ngay lúc đó người bị chiếm đoạt khơng nhận ra hành vi gian dối.
Dùng thủ đoạn gian dối là việc đưa ra một thơng tin giả nhưng người khác lại tin đó
là thật. Việc đưa ra thơng tin giả có thể bằng nhiều cách khác nhau như thể hiện
bằng lời nói, chữ viết, văn bản giấy tờ, hình ảnh, hành động hoặc kết hợp nhiều
cách với nhau.
Do đặc điểm riêng của Tội lừa đảo CĐTS, nên người phạm tội chỉ có một
hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng việc chiếm đoạt phải bằng thủ
đoạn gian dối chứ không phải bằng thủ đoạn lén lút hay nhanh chóng tẩu thốt. Thủ
đoạn gian dối phải biểu hiện ra hành vi thực tế chứ không dừng lại trong suy nghĩ.
Đặc điểm nổi bật của Tội lừa đảo CĐTS chính là thủ đoạn gian dối của
người phạm tội phải có trước hành vi chiếm đoạt và là nguyên nhân trực tiếp khiến
14
người bị hại tin tưởng mà giao tài sản cho người phạm tội. Thủ đoạn gian dối ln
ln phải có trước việc CĐTS, nếu thủ đoạn gian dối được sử dụng sau khi CĐTS
thì tùy từng trường hợp sẽ cấu thành các tội phạm khác không phải Tội lừa đảo
CĐTS. Thực tế, để xác định hành vi gian dối, thường căn cứ vào các chứng từ, tài
liệu, giấy tờ giả (như Hợp đồng mua bán, Giấy chứng nhận sở hữu nhà, đất, giấy
vay tiền…) mà đối tượng dùng để tạo niềm tin cho chủ tài sản, làm cho chủ tài sản
tin và giao tài sản. Ví dụ: Trong các vụ án lừa đảo tín dụng Ngân hàng, đối tượng
phạm tội thường làm giả giấy tờ như: chứng minh nhân dân, hộ khẩu, giấy phép
kinh doanh, bằng lái xe, hợp đồng lao động, giấy tờ chứng minh thu nhập khác, để
được vay vốn sau đó CĐTS.
Đây cũng là đặc điểm để phân biệt Tội lừa đảo CĐTS và Tội lạm dụng tín
nhiệm CĐTS. Người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối, chiếm được lòng tin để
chủ tài sản hoặc người quản lý tài sản tin tưởng tự nguyện giao tài sản cho người
phạm tội. Còn đối với Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS người phạm tội có được tài
sản một cách ngay thẳng do người sở hữu hoặc quản lý tài sản giao cho nhưng sau
đó dùng thủ đoạn gian dối để không trả lại tài sản.
Hậu quả của tội phạm là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ hai triệu đồng trở
lên hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt
hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội CĐTS chưa được xóa án
tích mà còn vi phạm. Giữa hành vi lừa đảo CĐTS và hậu quả về vật chất bắt buộc
phải tồn tại mối quan hệ nhân quả.
1.1.1.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm Tội lừa đảo CĐTS có lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi họ
ý thức được hậu quả của hành vi của mình và mong muốn hậu quả đó xảy ra mặc dù
trong điều kiện có thể lựa chọn cách thức xử sự khác không vi phạm pháp luật
nhưng lại cố tình lựa chọn thực hiện hành vi phạm tội. Mục đích và động cơ phạm
tội khơng được coi là dấu hiệu định tội của Tội lừa đảo CĐTS.
1.1.1.4. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của Tội lừa đảo CĐTS phải thảo mãn cả hai điều kiện đó là đủ tuổi
chịu TNHS và có năng lực TNHS. Theo quy định tại điều 12 BLHS 2015 về tuổi
chịu TNHS thì đối với Tội lừa đảo CĐTS, chủ thể của tội phạm không phải là người
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Tức là nếu từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì khơng
15
phải chịu TNHS về Tội lừa đảo CĐTS mà chỉ có người trên 16 tuổi mới phải chịu
TNHS về tội này.
1.1.3. Các dấu hiệu định khung hình phạt
Điều 174 BLHS quy định bốn khung hình phạt cụ thể:
Khoản 1 Điều 174 BLHS quy định hình phạt cải tạo khơng giam giữ đến ba
năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, áp dụng cho người phạm phạm tội ở
khung cơ bản, khơng có tình tiết định khung tăng nặng TNHS.
Tại điểm d Khoản 1 Điều 174 BLHS quy định “tài sản là phương tiện kiếm
sống chính của người bị hại và gia đình họ” đây là một quy định mới được đưa vào
BLHS 2015. Theo như Từ điển Tiếng Việt định nghĩa, phương tiện là: “cái dùng để
làm một việc gì, để đạt một mục đích nào đó”7. Một phương tiện được xem là
phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ khi thu nhập chủ yếu
của người bị hại và gia đình có được là do sử dụng phương tiện này tạo ra. Ví dụ:
phương tiện kiếm sống chính của người chạy xe taxi là chiếc ô tô của họ; của người
chạy xe ôm là chiếc xe máy; phương tiện của người bán bánh mỳ dạo là chiếc xe
đẩy bán bánh mỳ; phương tiện của người thợ may là chiếc máy may,... khi một tài
sản được xem là phương tiện kiếm sống chính thì tài sản đó phải có một vai trị rất
quan trọng đối với người bị hại và gia đình họ bởi vì nguồn thu nhập chính cho cuộc
sống của họ và gia đình đều từ phương tiện này mà ra. Các nhà làm luật cho rằng
hành vi lừa đảo CĐTS này không chỉ tác động đến mối quan hệ sở hữu mà cịn tác
động đến nguồn thu nhập chính, làm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của người bị
hại khiến cho họ lâm vào tình trạng đặc biệt khó khăn khi mất đi phương tiện tạo ra
nguồn thu nhập chính. Do đó pháp luật đã quy định trường hợp này thành trường
hợp đặc biệt không bị lệ thuộc vào định lượng tối thiểu.
Khoản 2 Điều 174 BLHS quy định phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt tù từ hai đến bảy năm: Có tổ chức; có tính chất chun nghiệp;
chiếm đoạt tài sản có trị giá từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
tái phạm nguy hiểm; lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ
quan, tổ chức; dùng thủ đoạn xảo quyệt.
Điểm đ khoản 2 Điều 174 BLHS quy định tình tiết định khung tăng nặng “lợi
dụng chức vụ, quyền hạn, lợi dụng danh nghĩa cơ quan tổ chức”. Hành vi dùng thủ
7
Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1992), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm Từ điển ngơn ngữ học, TP. Hồ Chí Minh.
16
đoạn gian dối CĐTS được thực hiện dựa trên chức vụ, quyền hạn của người phạm
tội làm người khác tin tưởng rồi đưa ra thông tin gian dối, làm người khác tin là thật
nhằm CĐTS của người khác. Việc lợi dụng chức vụ quyền hạn trong trường hợp
này khơng địi hỏi người phạm tội sử dụng đến chức vụ, quyền hạn của mình trong
khi thi hành cơng vụ để lừa dối người khác nhằm CĐTS, mà chỉ cần người phạm tội
dựa trên uy tín của chức vụ quyền hạn làm người khác tin tưởng giao tài sản cho
người phạm tội thì đã đủ cấu thành Tội lừa đảo CĐTS với tình tiết định khung tăng
nặng lợi dụng chức vụ, quyền hạn,lợi dụng danh nghĩa cơ quan tổ chức.
Điểm e khoản 2 Điều 174 BLHS quy định tình tiết định khung tăng nặng
“dùng thủ đoạn xảo quyệt”. Thủ đoạn xảo quyệt ở đây có thể hiểu là “cách thức
thực hiện hành vi phạm tội gian dối, thâm hiểm khiến người khác khó lường trước
để đề phịng”8. Người phạm tội chỉ bị áp dụng tình tiết định khung tăng nặng dùng
thủ đoạn xảo quyệt khi thủ đoạn xảo quyệt được sử dụng trong khi thực hiện tội
phạm. Còn nếu sau khi thực hiện hành vi phạm tội người phạm tội mới dùng thủ
đoạn xảo quyệt thì áp dụng tình tiết tăng nặng tại điểm t khoản 1 Điều 52 BLHS
2015: “Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm che dấu tội phạm”. Vì khơng
thể lấy thủ đoạn xảo quyệt được thực hiện sau khi tội phạm hoàn thành để định
khung cho hành vi khơng được thực hiện bằng thủ đoạn đó
Khoản 3 Điều 174 BLHS quy định: Chiếm đoạt tài sản trị giá từ hai trăm
triệu đến dưới năm trăm triệu đồng hoặc lợi dụng thiên tai dịch bệnh thì bị phạt tù
từ bảy đến mười lăm năm.
Điểm c khoản 3 Điều 174 BLHS quy định tình tiết định khung tăng nặng:
“Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh”. Theo từ điển tiếng việt dịch bệnh được hiểu là:
“Sự xuất hiện và lây lan bệnh truyền nhiễm với số người mắc bệnh vượt q với số
người mắc bệnh dự tính bình thường trong một khoảng thời gian xác định ở một
khu vực nhất định”9. Tình tiết định khung này là một quy định mới so với BLHS
1999 bởi thiên tai, dịch bệnh là hồn cảnh đặc biệt khó khăn, việc lợi dụng hồn
cảnh này để phạm tội là một hành vi đáng lên án về mặt đạo đức và phải nghiêm trị
về mặt pháp luật. Để có thể xác định được hành vi có thuộc tình tiết định khung
tăng nặng này hay khơng cần xem xét hoàn cảnh thực hiện hành vi lừa đảo khi lừa
Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học BLHS năm 1999 – Phần chung, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh
9
Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam (1992), Từ điển Tiếng Việt, Trung Tâm từ điển ngơn ngữ học, Thành phố
Hồ Chí Minh.
8
17
đảo CĐTS có trong thời điểm thiên tai dịch bệnh hay khơng và người phạm tội có ý
thức lợi dụng những khó khăn của hồn cảnh thiên tai dịch bệnh để thực hiện hành
vi phạm tội hay không. Nếu người phạm tội ở trong hoàn cảnh thiên tai dịch bệnh
nhưng khơng lợi dụng tình huống này để lừa đảo CĐTS thì khơng phải tình tiết định
khung tăng nặng tại điểm c khoàn 3 Điều 174 BLHS 2015. Mức độ tăng nặng trách
nhiệm hình sự phụ thuộc vào mức độ lợi dụng hoàn cảnh thiên tai dịch bệnh để
phạm tội và giá trị tài sản chiếm đoạt được
Khoản 4 Điều 174 BLHS quy định: Chiếm đoạt tài sản trị giá từ năm trăm
triệu đồng trở lên hoặc lợi dụng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp thì bị phạt tù từ
mười hai đến hai mươi năm tù hoặc tù chung thân.
Ngoài ra, người phạm tội cịn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền
từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm hoặc tịch thu một
phần hoặc toàn bộ tài sản.
1.2. Phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt
Nam với một số tội phạm khác
1.2.1. Phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS) với Tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS)
Lạm dụng tín nhiệm CĐTS là hành vi chiếm đoạt toàn bộ hoặc một phần tài
sản sau khi đã vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của
người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để
CĐTS đó, hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến khơng có
khả năng trả lại tài sản bị chiếm đoạt10. Tội lừa đảo CĐTS với Tội lạm dụng tín
nhiệm CĐTS có yếu tố khách thể, mặt chủ quan và chủ thể giống nhau, chỉ khác
nhau ở mặt khách quan. Do vậy chỉ có thể phân biệt hai tội này thơng qua mặt
khách quan, cụ thể là hành vi khách quan.
Hành vi của 2 tội đều là hành vi dùng thủ đoạn "gian dối" và "CĐTS" (dựa
trên sự tín nhiệm) của nạn nhân. Tuy nhiên, thời điểm xuất hiện thủ đoạn gian dối là
khác nhau: Đối với Tội lừa đảo CĐTS (Điều 174): Thủ đoạn gian dối diễn ra ngay
từ đầu, người phạm tội đưa ra những thông tin không đúng để làm cho người sở hữu
10
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2013), tlđd (2), tr. 198
18
hoặc quản lý tài sản tin tưởng mà giao tài sản cho người phạm tội. Hành vi dùng thủ
đoạn gian dối xuất hiện trước hành vi chiếm đoạt. Đối với Tội lạm dụng tín nhiệm
(Điều 175): Việc giao nhận tài sản giữa người phạm tội và người sở hữu hoặc quản
lý tài sản dựa trên hợp đồng (vay, mượn, thuê…) và sự tín nhiệm (người quen
biết…). Sau khi có được tài sản mới dùng thủ đoạn gian dối như đánh tráo, gian dối
là bị mất hoặc bỏ trốn để không phải trả lại tài sản do khơng có khả năng trả lại tài
sản hoặc có khả năng trả nhưng cố tình khơng muốn trả.
1.2.2. Phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS) với Tội lạm
dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 355 BLHS)
Tội lạm dụng chức vụ quyền hạn CĐTS là hành vi của người có chức vụ
quyền hạn đã vượt ra ngồi phạm vi quyền hạn của mình CĐTS của người khác.11
Tội lạm dụng chức vụ quyền hạn CĐTS được quy định tại Điều 355 BLHS 2015.
Hành vi khách quan của tội này là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn thực
hiện hành vi vượt ra khỏi khả năng, phạm vi quyền hạn của mình trong q trình thi
hành cơng vụ nhằm CĐTS của người khác thể hiện bằng các thủ đoạn như: Lạm
dụng chức vụ quyền hạn uy hiếp, đe dọa người khác để CĐTS, lạm dụng chức vụ
quyền hạn làm cho người khác tin tưởng giao tài sản nhưng sau đó cố tình khơng trả
lại tài sản.Tội lạm dụng chức vụ quyền hạn CĐTS và Tội lừa đảo CĐTS giống nhau
về những điểm đều thực hiện dưới lỗi cố ý, chủ thể của hai tội trên đều là người có
năng lực chịu TNHS và đủ tuổi chịu TNHS. Tuy nhiên hai tội này lại có những
điểm khác nhau như.
Thứ nhất, khác nhau về khách thể, trong khi khách thể của Tội lừa đảo CĐTS
xâm phạm quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu tài sản đối với tài sản của họ thì Tội
lạm dụng chức vụ quyền hạn CĐTS lại xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ
quan, tổ chức, gây thiệt hại về tài sản cho người khác.
Thứ hai, khác nhau về hành vi khách quan, thực chất việc phân biệt Tội lừa
đảo CĐTS với Tội lạm dụng chức vụ quyền hạn CĐTS là việc phân biệt trường hợp
“lợi dụng chức vụ quyền hạn” lừa đảo CĐTS quy định tại điểm đ, khoản 2 Điều 174
BLHS 2015 với Tội lạm dụng chức vụ quyền hạn CĐTS quy định tại Điều 355
BLHS 2015. Cả 2 trường hợp người phạm tội đều CĐTS bằng hành vi gian dối, tuy
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm – Quyển 2
NXB Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam, tr. 234
11
19
nhiên hành vi gian dối ở hai trường hợp này lại khác nhau ở cách thức thực hiện
hành vi phạm tội. Cụ thể đối với trường hợp “lợi dụng chức vụ quyền hạn” lừa đảo
CĐTS sản tại điểm đ, khoản 2 Điều 174 BLHS 2015. Hành vi dùng thủ đoạn gian
dối CĐTS được thực hiện dựa trên chức vụ, quyền hạn mà người phạm tội làm
người khác tin tưởng rồi đưa ra thông tin gian dối, làm người khác tin là thật nhằm
CĐTS của người khác. Việc lợi dụng chức vụ quyền hạn trong trường hợp này
khơng địi hỏi người phạm tội sử dụng đến quyền hạn của mình trong khi thi hành
công vụ để lừa dối người khác nhằm CĐTS mà chỉ cần người phạm tội có chức vụ
quyền hạn dựa trên uy tín của chức vụ quyền hạn đó làm người khác tin tưởng làm
cơ sở để thực hiện được hành vi phạm tội.
Ví dụ: A là cơng an huyện B, biết được vụ án H cố ý gây thương tích do cơng
an huyện C thụ lý giải quyết. A đã liên hệ với người thân của H nói là mình được
phân cơng giải quyết vụ án đó nên có thể lo lót giảm nhẹ tội cho H với điều kiện
phải giao cho A 20 triệu đồng. Người nhà H đã tin tưởng do biết A là công an nên
giao cho A số tiền 20 triệu đồng.
Trong trường hợp trên A phạm Tội lừa đảo CĐTS với tình tiết định khung là
“lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội”
Ở trường hợp lạm dụng chức vụ quyền hạn CĐTS, người phạm tội có được tài
sản bằng cách lạm dụng chức vụ quyền hạn của người phạm tội có trong khi thi hành
công vụ để lừa dối CĐTS của người khác. Đây là một trong số những tội phạm về
chức vụ nên hành vi phạm tội phải được thực hiện khi đang thi hành cơng vụ.
Ví dụ: H và N là lãnh đạo tại cơng ty A, có quyền hạn trong việc gửi tiền của
công ty tại ngân hàng, H và N đã sử dụng quyền hạn của mình ký nhiều hợp đồng
gửi tiền của công ty A với ngân hàng C và nhận nhiều lần tiền chi ngoài hợp đồng
(cịn gọi là tiền chăm sóc khách hàng) của Tổng giám đốc ngân hàng C gửi để sử
dụng vào mục đích cá nhân khơng báo cáo với cơng ty. Trong trường hợp này H và
N phạm Tội lạm dụng chức vụ quyền hạn CĐTS.
1.2.3. Phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS) với Tội lừa
dối khách hàng (Điều 198 BLHS)
Tội lừa dối khách hàng được quy định tại Điều 198 BLHS 2015, theo đó Tội lừa
dối khách hàng là trường hợp người phạm tội có hành vi gian dối trong cân đo, đong
đếm, tính gian, đánh tráo hàng hóa hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác trong việc mua