Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

VILAYVONG SONEPHET

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Anh Tuấn
Học viên: Vilayvong Sonephet
Lớp: Cao học Luật, khóa 30

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi.
Các số liệu và tư liệu trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN



VILAYVONG SONEPHET


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của khoa Sau Đại học - Trường Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh và sự đồng ý của giảng viên hướng dẫn TS Phan Anh Tuấn tôi
đã thực hiện đề tài “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Luật hình sự nước Cộng
hịa Dân chủ Nhân dân Lào”.
Để hồn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giáo
đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
Tác giả xin chân thành cảm ơn sâu sắc nhất đến TS Phan Anh Tuấn đã tận
tình, chu đáo hướng dẫn tôi thực hiện Luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn ban Lãnh đạo Tòa án Nhân dân Tối cao nước
CHDCND Lào, Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Savannakhet, Tòa án nhân dân tỉnh
Savannakhet cùng bạn bè và gia đình đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện và
giúp đỡ tơi trong suốt q trình thực hiện và hồn thành luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất,
song thiếu sót là điều khơng thể tránh khỏi. Rất mong nhân được sự đóng góp
của q Thầy, Cơ và đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

VILAYVONG SONEPHET


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS


Bộ luật hình sự

CHDCND

Cộng hịa Dân chủ Nhân dân

LĐCĐTS

Lừa đảo chiếm đoạt tài sa

QH

Quốc hội

VAHS

Vụ án hình sự

VKSND

Viện Kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG


Bảng 2.1: Thực trạng của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản giai
đoạn 2015 – 2019 trong tình hình tội phạm chung ở CHDCND Lào ........34
Bảng 2.2: Hệ số tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh
SaVanNaKhet .................................................................................................35
Bảng 2.3: Tình hình truy tố và xét xử các vụ án về lừa đảo chiếm đoạt tài
sản tại tỉnh SaVanNakhet từ năm 2015 - 2019 ............................................35


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐẾ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN
CHỦ NHÂN DÂN LÀO.......................................................................................9
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ....9
1.1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ........................................... 9
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự
nước Cộng hịa dân chủ nhân dân Lào ....................................................... 11
1.1.3. Hình phạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Cộng
hịa dân chủ nhân dân Lào ......................................................................... 18
1.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Lào với
một số tội phạm khác .....................................................................................18
1.2.1. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản ....................................................................................... 19
1.2.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội trộm cắp tài sản .... 20
1.2.3. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng quyền lực
chiếm đoạt tài sản ....................................................................................... 21
1.3. Quy định của pháp luật hình sự Lào về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trong các Bộ luật hình sự ..............................................................................23
1.3.1. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật Hình sự Lào năm 1990..
.................................................................................................................... 23

1.3.2. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Bộ luật Hình sự Lào năm 2005 ...
.................................................................................................................... 25
1.3.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Bộ luật Hình sự Lào năm 2017 ...
.................................................................................................................... 27


1.4. So sánh quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật hình
sự Lào với Bộ luật hình sự của Việt Nam ....................................................29
Kết luận Chương 1 .............................................................................................33
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI
LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ NƯỚC
CỘNG HỊA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ....................................................34
2.1. Tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào giai đoạn 2015 - 2019......................................................34
2.2. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản .......................36
2.3. Thực tiễn định khung hình phạt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản .........40
2.4. Thực tiễn quyết định hình phạt và áp dụng các biện pháp xử lý hình
sự khác đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản .............................................45
2.5. Những vướng mắc, bất cập trong quy định và thực tiễn áp dụng pháp
hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự Lào ........47
Kết luận Chương 2 .............................................................................................51
CHƯƠNG 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ CỘNG HỊA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ................................................52
3.1. Các yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự Cộng hịa
Dân chủ nhân dân Lào về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ...........................52
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự Cộng hòa
Dân chủ nhân dân Lào về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ...........................55
3.2.1. Biện pháp về pháp luật hình sự ........................................................ 56
3.2.2. Các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình

sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ........................................................... 61
Kết luận Chương 3 .............................................................................................68
KẾT LUẬN .........................................................................................................69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Tài sản và quyền sở hữu về tài sản là một trong những quyền quan trọng
ln được pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng bảo vệ và tránh sự
xâm hại của các hành vi phạm tội. Trong các hình thái xã hội khác nhau, Nhà
nước đều sử dụng các biện pháp để bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của
con người và hành vi xâm hại đến quyền sở hữu của con người đều bị áp dụng
những hình thức trách nhiệm pháp lý nhất định như: Trách nhiệm bồi thường,
trách nhiệm hoàn trả vật, tài sản trong pháp luật dân sự hay điều tra, truy tố, xét
xử một người khi họ có hành vi xâm phạm quyền sở hữu ở mức độ nghiêm
trọng. Thời gian qua các tội phạm xâm phạm sở hữu diễn ra rất phức tạp, gây
thiệt hại nghiêm trọng cho tài sản nhà nước, tài sản của công dân, ảnh hưởng đến
trật tự chung của xã hội. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội
xâm phạm sở hữu diễn biến theo chiều hướng gia tăng, đây là loại tội phạm xảy
ra thường xuyên, với nhiều thủ đoạn tinh vi xảo quyệt, từ chủ thể thực hiện tội
phạm đến các đối tượng bị xâm hại đều rất đa dạng. Trong giai đoạn nền kinh tế
của đất nước đang phát triển theo cơ chế thị trường với định hướng xã hội chủ
nghĩa, cơ chế quản lý và chính sách pháp luật không phải lúc nào cũng ngay lập
tức phù hợp với thực trạng nền kinh tế, do đó tình hình tội phạm có nhiều biến
đổi, đặc biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được thực hiện với nhiều thủ đoạn
tinh vi, xảo quyệt, chiếm đoạt tài sản có giá trị rất lớn, có những vụ án chiếm
đoạt hàng chục tỷ kíp của nhà nước, có nhiều trường hợp lợi dụng việc giao kết
hợp đồng đầu tư, hợp đồng vay vốn hoặc sử dụng công nghệ khoa học tiên tiến

về vi tính, tin học để làm thẻ tín dụng giả, tìm kiếm mật mã số tài khoản của
người khác… nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bộ luật hình sự do Nhà nước ban
hành quy định các hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm và quy định
các chế tài tương ứng nhằm trừng trị và giáo dục đối với người phạm tội cũng
như răn đe phịng ngừa chung đối với tồn xã hội nhằm đấu tranh phịng chống
tội phạm bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của mọi tổ chức và lợi ích của cơng
dân, góp phần duy trì trật tự trị an xã hội. Tuy nhiên trong từng điều luật cụ thể
các nhà làm luật chỉ có thể quy định các dấu hiệu đặc trưng cơ bản nhất của một
cấu thành tội phạm, trong khi trên thực tế tội phạm xảy ra với mn hình mn


2
vẻ, vô cùng đa dạng và phức tạp, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng vậy, chỉ
được quy định trong Bộ luật hình sự bởi những dấu hiệu đặc trưng nhất. Mặt
khác, về phương diện lập pháp, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
hình sự CHDCND Lào cũng đã qua nhiều lần sửa đổi, gần đây nhất được quy
định thống nhất tại Điều 233 Bộ luật hình sự năm 2017, quy định về các tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản của công dân, lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa
và lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa. Do
đó việc nghiên cứu làm sáng rõ nội dung pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản theo Điều 233 Bộ luật hình sự năm 2017, thực trạng và các biện pháp đấu
tranh phịng ngừa thích hợp là điều rất quan trọng, nhằm góp phần áp dụng pháp
luật một cách đúng đắn khi xử lý người phạm tội, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi
và tiến tới loại bỏ tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng
trong xã hội hiện nay.
Từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: "Tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản theo luật hình sự nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào " để làm luận
văn cao học luật.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan
* Về các tài liệu liên quan đến đề tài ở Việt Nam có thể kể đến như:

- Nhóm thứ nhất: Các Giáo trình Luật hình sự của các cơ sở đào tạo như:
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật hình sự Việt NamPhần Các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật
TP.HCM (2013), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Các tội phạm, Nxb
Hồng Đức- Hội Luật gia Việt Nam, TP.HCM; Lê Cảm (Chủ biên) (2007), Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam-Phần Các tội phạm, Khoa Luật, Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (Chủ biên)
(2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam- Phần Các tội phạm, Nxb Cơng an
nhân dân, Hà Nội...
Những giáo trình nêu trên có nội dung chủ yếu chỉ dừng lại ở việc phân
tích các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo tài sản. Đây là tài liệu quan trọng cho
luận văn tham khảo khi nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản
trong luật hình sự nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào.


3
- Nhóm thứ hai, các luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ có liên quan đến đề
tài như:
Phạm Quang Phúc (2008), “Hoạt động của lực lượng Cảnh sát nhân dân
trong phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, Luận án Tiến sỹ luật
học, NXB Công an nhân dân, Hà Nội;
Nguyễn Giang Nam (2005), “Điều tra tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản
thơng qua hồn thuế giá trị gia tăng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh của
lực lượng cảnh sát nhân dân và một số giải pháp nâng cao hiệu quả”, Luận văn
Thạc sỹ luật học, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân;
Trương Thị Đông (2015), Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk
Lắk), luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Trường Đại học quốc gia Hà Nội;
Trần Thị Phương Hiên (2007), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản – Những
vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Trường Đại
học quốc gia Hà Nội;

Dương Thị Ngọc Thủy (2008), Đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản tại thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật
Tp. Hồ Chí Minh ...
Các luận án, luận văn này, nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới các
góc độ khác nhau và ở các địa phương khác nhau ở Việt Nam là tài liệu quan trọng
cho tác giả tham khảo xây dựng phần lý luận cũng như cách thức thực hiện nghiên
cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại nước Cộng hịa Dân chủ nhân dân Lào.
- Nhóm thứ ba, các bài báo có liên quan đến đề tài có thể kể đến như: (1) Lê
Đăng Doanh (2004), “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản liên quan đến lĩnh vực hoàn
thuế giá trị gia tăng”, Tòa án nhân dân, Số 22, tr.27-29; (2) Lê Đăng Doanh
(2004), “Tội lừa dối khách hàng (điều 162) trong mối quan hệ với tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản (điều 139 BLHS)”, Tòa án nhân dân, Số 22, tr.11-14; (3) Lê
Đăng Doanh (2005), “Phân biệt tội trốn thuế (Đ 161) (trong lĩnh vực thuế giá trị
gia tăng) với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Đ139 BLHS)”, Tòa án nhân dân, Số
16, tr.28-31; (4) Lê Đăng Doanh (2005), “Sự khác nhau giữa tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản( Đ139 BLHS ) với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều


4
140 BLHS)”, Tòa án nhân dân, Số 24, tr.06-10; (5) Phạm Dương Thu, Dương
Tuyết Miên (2005), “Hành vi mua và bán hóa đơn thuế giá trị gia tăng phạm tội
gì”, Tịa án nhân dân, Số 13, tr.23-28; (6) Trần Cơng Phàn (2006), “Phân biệt tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong các
trường hợp có liên quan đến vi phạm hợp đồng”, Kiểm sát, Số 20, tr. 3 – 8; (7)
Mai Bộ (2007), “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, Tòa án nhân dân, 6/2007, Số 12,
Tr.6-12; (8) Phan Văn Lãng (2009), “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong hoạt
động ngân hàng”, Ngân hàng, Số 20, tr.30-36; (9) Lê Quang Thành (2015), “Hồn
thiện pháp luật trong phịng ngừa đấu tranh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
do người nước ngoài thực hiện ở Việt Nam”, Nhà nước và Pháp luật, Số 7 (327),
tr. 53-58; (10) Phạm Thị Hồng Đào (2015), “Nguyễn Văn V chỉ phạm tội "lừa đảo

chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại điểm e khoản 2 điều 139 BLHS”, Tòa án
nhân dân, Số 16, tr.40-43; (11) Võ Hải Phương (2015), “Một số ý kiến nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm liên quan đến
nhóm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và tội " lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản" trên địa bàn tỉnh Tiền Giang”, Kiểm sát, Số 19, tr. 14-18; (12) Lê Quang
Thắng (2018), “Bình luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại điều 174
Bộ luật hình sự năm 2015”, Kiểm sát, Số 11, tr. 47 – 51 .v.v…
Các bài viết trên các tạp chí đã nêu lên nội dung là dấu hiệu pháp lý của
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, những vấn đề đặt ra trong thực tiễn áp dụng quy
định của luật hình sự Việt Nam về tội này. Các tài liệu này có ý nghĩa tham khảo
cho luận văn để làm rõ hơn những vấn đề lý luận và pháp lý của Tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự nước CHDCND Lào.
* Các tại liêu liên quan đến đề tài tại nước CHDCND Lào có thể kể đến như:
- Trường Cao đẳng Luật khu vực miền Trung (2005), Giáo trình Luật hình
sự Lào-phần các tội phạm, NXB Bộ Tư pháp, Viêng Chăn. Tài liệu này phân
tích các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như khách thể, chủ
thể, mặt chủ quan, mặt khách quan giúp cho tác giả hiểu một cách khái quát về
dấu hiệu pháp lý tội này để làm nền tảng cho việc nghiên cứu Luận văn.
- Một số cơng trình nghiên cứu, bài viết khoa học, trong các tập Bình luận
khoa học về luật hình sự, các Luận văn Thạc sĩ của nhiều tác giả như: PS.
ViengVi Lay Thiêng Chan Xay, SutTaChom MaNiChan.


5
- Kham May PhimMaSane (2016), Phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản công dân trên địa bàn tỉnh Champasak, Luận văn Thạc sĩ Luật học, trường
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
Qua nghiên cứu cho thấy, nhìn chung, các tác giả đã đề cập khá sâu sắc và
toàn diện về các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong BLHS
của CHDCND Lào.

Những kết quả nghiên cứu trên đây đã gợi mở, cung cấp thông tin tham
khảo phong phú, hỗ trợ học viên trong quá thực thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu
đề tài của luận văn. Mặc dù vậy, kết quả nghiên cứu liên quan trực tiếp đến tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự của nước CHDCND Lào cịn rất
hạn chế.
Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề nêu trên, luận văn sẽ xây
dựng hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất, kiến nghị các quan điểm
và giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở CHDCND Lào trong thời gian tới, bảo vệ tốt hơn tài
sản của nhân dân và xã hội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng rõ các dấu hiệu pháp lý
hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Bộ luật hình sự của CHDCND
Lào, đánh giá thực trạng phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Lào trong thời
gian qua, từ đó đề ra một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả quả áp dụng
các quy định của Bộ luật hình sự Lào nhằm đấu tranh, phòng chống tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nêu trên, đề tài luận văn có các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Phân tích và làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội "Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản" theo Điều 233 Bộ luật hình sự năm 2017 của nước CHDCND
Lào; đồng thời phân tích và so sánh các dấu hiệu pháp lý của tội phạm này với
một số tội phạm khác có liên quan như: tội trộm cắp tài sản, tội lợi dụng quyền


6
hạn chiếm đoạt tài sản, tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản…để làm rõ
thêm cách nhận biết các dấu hiệu pháp lý của tội phạm
- Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự của Lào từ năm 1990 đến nay, qua

đó để có một cách nhìn khái qt về quá trình phát triển của quy định này, phục
vụ cho các đề xuất sửa đổi, bổ sung tội phạm này và các tội phạm khác có liên
- Đánh giá áp dụng pháp luật hình sự tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của
các cơ quan tiến hành tố tụng. Làm rõ những thiếu sót, vướng mắc trong hoạt
động của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội là nguyên nhân và điều kiện phạm tội
nói trên.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành về
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định của Bộ luật hình sự Lào về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, qua đó góp
phần đấu tranh có hiệu quả hơn đối với loại hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
tìm ra những giải pháp hữu hiệu để đấu tranh phòng chống loại tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, bảo vệ lợi ích của nhà nước, của công dân và của mọi tổ chức xã
hội, xây dựng một xã hội an tồn, lành mạnh mang tính nhân văn cao.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của Bộ luật hình sự
Lào về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và thực tiễn xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản ở CHDCND Lào
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy
định, áp dụng về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Lào dưới góc
độ luật hình sự.
- Phạm vi về thời gian: Khảo sát thực tiễn áp dụng quy định về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản từ năm 2015 đến năm 2019.
- Về địa bàn nghiên cứu: Khảo sát, nghiên cứu thông qua các bản án đã
xét xử tại các tòa án của nước CHDCND Lào.


7
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận:
Đề tài này được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin với phép duy vật biện chứng, các quan điểm của Đảng và Nhà nước
về tội phạm, hình phạt, về cải cách tư pháp, về đấu tranh phòng chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu Luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể như:
- Phương pháp lịch sử: phương pháp này được sử dụng để làm rõ sự hình
thành và phát triển của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Lào từ
năm 1990 đến nay.
- Phương pháp thống kê: phương pháp này được sử dụng để làm rõ tình
hình xử lý hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng để làm rõ những
vấn đề chung và những hạn chế, vướng mắc về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Phương pháp so sánh: được tác giả sử dụng để làm rõ những điểm giống
và khác nhau giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các tội phạm khác có liên
quan và đối chiếu quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự
Lào với luật hình sự của Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận:
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn
về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, từ đó, đưa ra những kiến nghị nhằm hồn thiện
pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Các kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể là tài liệu tham khảo có giá trị
cho các cơ quan nhà nước thực hiện việc hoàn thiện hơn quy định về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, và góp phần giải quyết những vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng quy định của Bộ luật Hình sự về tội phạm này tại tỉnh SaVanNaKhet



8
Những đề xuất giải pháp nêu trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả của cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản nói riêng. Ngồi ra, đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho các lực lượng tham gia phịng, chống loại tội phạm này khơng những ở
CHDCND Lào nói chung mà cịn có thể áp dụng trên địa bàn tỉnh, thành phố có
điều kiện tương tự nói riêng.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn đạt được cịn có thể làm tài liệu
tham khảo cho các cơng trình nghiên cứu tiếp theo và cho những người quan tâm
trong q trình cơng tác, học tập và nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đế lý luận và pháp luật hình sự về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản ở nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào.
Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản theo Luật hình sự nước Cộng hịa Dân chủ nhân dân Lào.
Chương 3. Các yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
hình sự Cộng hịa Dân chủ nhân dân Lào về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản


9
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐẾ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN Ở
NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Bộ luật hình sự Lào năm 2017 quy định 17 điều tại Chương V về các tội
xâm phạm sở hữu. Khoa học luật hình sự đã đưa ra khái niệm chung đối với các

tội xâm phạm sở hữu như sau: "Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi của người
có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến
quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân"1.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong các tội phạm này, vì vậy khái
niệm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải thỏa mãn khái niệm chung của các
tội xâm phạm sở hữu, đồng thời phải thỏa mãn các dấu hiệu đặc thù riêng. Khoa
học luật hình sự đã đưa ra khái niệm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản người khác bằng thủ đoạn
gian dối. Tuy nhiên khái niệm trên mới chỉ để cập đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản ở khía cạnh khái quát nhất.
Theo quy định tại Điều 233 Bộ Luật Hình sự Lào năm 2017 thì tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản được quy định như sau:
“Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác thì
bị phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm và bị phạt tiền từ 5.000.000 kíp đến
20.000.000 kíp.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp: vi phạm nhiều lần, có tổ chức
hay gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 03 năm đến 08 năm và bị phạt
tiền từ 10.00.000 kíp đến 50.000.000 kíp
Phạm tội chưa đạt cũng phải chịu trách nhiệm hình sự”2
Chúng ta thấy tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội xâm
phạm sở hữu, với mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác, người phạm tội
Trường Cao đẳng Luật khu vực miền Trung (2005), Giáo trình Luật hình sự Lào - phần các tội phạm, NXB
Bộ Tư pháp, Viêng Chăn, tr.128.
2
Điều 233 Bộ luật hình sự nước CHDCND Lào năm 2017, tr. 74.
1


10
phải sử dụng thủ đoạn gian dối, làm cho người bị hại tưởng giả là thật, tự nguyện

đưa tài sản cho kẻ phạm tội.
Như vậy, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội xâm phạm
sở hữu, với mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác, người phạm tội đã dùng
những thủ đoạn gian dối, đưa ra những thơng tin sai sự thật, có thể lời bằng nói
hoặc hành động khiến người có tài sản hoặc người có trách nhiệm trong giữ tài
sản vì tin nhầm, tưởng giả là thật, tự nguyện giao tài sải cho người phạm tội.
Điều 11 BLHS Cộng hòa Dân chủ nhân Lào quy định về khái niệm tội
phạm như sau:
“Mọi hành động hoặc không hành động gây nguy hiểm cho chế độ chính
trị, kinh tế hoặc xã hội CHDCND Lào; cho sở hữu của nhà nước, tổ chức hoặc cá
nhân, tính mạng, sức khỏe, danh dự, quyền, tự do công dân, sự bình n của đất
nước hoặc trật tự an tồn xã hội được quy định trong luật hình sự hoặc các luật
khác của CHDCND Lào mà được quy định hình phạt được coi là tội phạm”3
Từ qui định tại Điều 233 và Điều 6 Bộ luật hình sự Lào, có thể hiểu khái
niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội bằng thủ
đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến quan hệ sở hữu của người khác.
Từ khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản này, có thể nhận thấy tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự CHDCND Lào có một số đặc điểm
chung của tội phạm như sau:
- Thứ nhất, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội
xâm phạm quan hệ sở hữu của người khác.
- Thứ hai, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định trong luật hình sự
CHDCND Lào.
- Thứ ba, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý.
- Thứ tư, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị có thể bị áp dụng hình phạt
Tuy nhiên khái niệm trên chỉ khái quát về tội phạm, muốn hiểu cặn kẽ về
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải xem xét qua các dấu hiệu pháp lý đặc trưng
3


Điều 11 Bộ luật hình sự nước CHDCND Lào năm 2017


11
bao gồm: Khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội
phạm và mặt chủ quan của tội phạm.
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình
sự nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
Tội phạm là một hiện tượng xã hội – pháp lý. Xét về bản chất pháp lý, tội
phạm là một loại vi phạm pháp luật, là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp
luật hình sự coi là tội phạm. Để có thể nhận thức được sự tồn tại của tội phạm và
những ảnh hưởng của nó đối với xã hội, hay nói cách khác là để đánh giá diễn
biến của tình hình tội phạm, cũng như để phân biệt và xác định ranh giới giữa
hành vi phạm tội và hành vi không phạm tội, chúng ta cần dựa vào các quy định
chuẩn mực của pháp luật hình sự về tội phạm. Như vậy, cơ sở đầu tiên để xác
định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chính là các quy định pháp luật hình sự Lào
về ở phần các tội phạm, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
* Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu về tài sản,
đây là quan hệ xã hội mà hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản xâm hại.
Do đặc điểm của hành vi nên tội này chỉ xâm hại đến một khách thể là
quan hệ sở hữu tài sản. Đây là điểm khác giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
với một số tội xâm phạm sở hữu khác xâm hại đồng thời nhiều khách thể khác
nhau như tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản… vì các tội phạm
này ngoài khách thể là quan hệ sở hữu, người phạm tội còn nhằm đến khách
thể quan trọng khác đó là quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe của
người bị hại.
Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là các quyền sở hữu về tài sản
khơng phân biệt tài sản đó thuộc hình thức sở hữu nào. Đây là quan điểm mới
trong Bộ luật hình sự năm 2017 thể hiện quan điểm của nhà nước sẽ bảo vệ cơng

bằng đối với các hình thức sở hữu khác nhau. Bộ luật dân sự năm 2005 quy định
các hình thức sở hữu gồm: (1) Sở hữu nhà nước; (2) Sở hữu tập thể; (3) Sở hữu
tư nhân; (4) Sở hữu chung; (5) Sở hữu của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
- xã hội; (6) Sở hữu của các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp.


12
Các quyền sở hữu mà tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xâm phạm bao gồm
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với tài sản
Với hành vi phạm tội của mình, người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
đã làm cho người có trách nhiệm quản lý đối với tài sản mất hẳn khả năng thực
hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản và tạo cho người chiếm đoạt có
thể thực hiện được những quyến đó đối với tài sản. Như vậy, tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản chỉ xâm hại đến quan hệ sở hữu, còn trong trường hợp người phạm
tội lừa đảo gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe người khác thì tùy từng
trường hợp cụ thể người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo hành
vi tương ứng đó.
Như vậy pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng ln bảo vệ
quyền sở hữu hợp pháp và chỉ bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp nên về nguyên tắc
tài sản được luật hình sự bảo vệ phải là tài sản hợp pháp. Nhưng hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản bất hợp pháp của người khác vẫn bị coi là trái pháp luật và có
thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản sở hữu có đối tượng tác động cụ thể đó là
tài sản. Tài sản gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Tài sản là đối
tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể thuộc bất cứ hình thức sở hữu nào
được pháp luật thừa nhận và phải được thể hiện dưới dạng vật chất, vì những gì
khơng thuộc về vật chất thì khơng thể là đối tượng của hành vi chiếm đoạt. Vì
thế, khơng phải mọi trường hợp của quyền tài sản đều là đối tượng tác động của

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng, xuất phát từ tính
năng, cơng dụng đặc biệt của tài sản mà một số tài sản không thể được coi là đối
tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà là đối tượng của hành vi phạm tội
khác: Ví dụ: tài nguyên rừng, cơng trình, phương tiện giao thơng vận tải, thơng
tin liên lạc, các chất ma túy, các loại vũ khí quân dụng...
* Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố của tội phạm, khơng
có mặt khách quan thì cũng khơng có các yếu tố khác của tội phạm, do vậy cũng
không có tội phạm. Mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện ra bên ngoài của


13
tội phạm, trong đó hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản nhất, các biểu hiện
khác như hậu quả của tội phạm, công cụ, phương tiện… cũng chỉ thể hiện khi có
hành vi khách quan. Vì vậy việc nghiên cứu những yếu tố thuộc mặt khách quan
của tội phạm có ý nghĩa thực tiễn rất lớn.
Mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện bên ngoài của tội phạm, trong
đó hành vi khách quan là dấu hiệu ln bắt buộc phải có trong mọi tội phạm. Các
biểu hiện khác như hậu quả của tội phạm, công cụ, phương tiện… cũng chỉ thể
hiện khi có hành vi khách quan.
Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có các dấu hiệu đặc
trưng sau:
- Hành vi khách quan
Hành vi khách quan tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt
tài sản được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối (biểu hiện cụ thể dưới hình thức
hành vi lừa dối).
+ Thủ đoạn gian dối là (hành vi) cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật
nhằm để người khác tin đó là sự thật, tự nguyện trao tài sản cho người phạm tội.
Trên thực tế hành vi gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hợp thành
bởi hai yếu tố: Thứ nhất, đó là hành vi đưa ra những thông tin gian dối. Hành vi

này thể hiện là hành động có chủ đích của người phạm tội. Hành vi này có thể
được thực hiện bằng lời nói, hành động hoặc những biểu hiện khác nhằm cung
cấp những thông tin sai lệch về sự việc như nói có thành khơng, ít thành nhiều,
xấu thành tốt, giả thành thật... Thứ hai, chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản đã
nhầm lẫn, tin tưởng vào những thông tin không đúng sự thật ấy mà trao tài sản
cho người phạm tội. Khi giao tài sản, chủ tài sản khơng biết mình bị lừa dối. Họ
có thể phát hiện ra ngay sau khi trao tài sản nhưng bản chất của hành vi chiếm
đoạt vẫn dựa trên thủ đoạn lừa dối thì vẫn xử lý về tội này.
Trong trường hợp người phạm tội có hành vi gian dối nhưng chủ sở hữu
hoặc người quản lý tài sản không bị nhầm lẫn, không tự nguyện trao tài sản, mà
người phạm tội phải dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác để chiếm đoạt tài sản thì
khơng cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà sẽ cấu thành tội chiếm đoạt có
hành vi tương ứng. Nếu chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không bị nhầm


14
lẫn, không tự nguyện trao tài sản và người phạm tội cũng khơng có hành động
chiếm đoạt nào khác thì có thể người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở giai đoạn phạm tội chưa đạt.
Xét về mặt khách quan thủ đoạn gian dối là (hành vi) đưa ra những thông
tin giả. Về mặt chủ quan, người phạm tội biết đó là thơng tin giả nhưng mong
muốn người khác tin đó là sự thật. Thủ đoạn để thực hiện rất đa dạng có thể qua
lời nói, sử dụng giấy tờ giả, hoặc qua những việc làm cụ thể…
+ Hành vi chiếm đoạt tài sản
Hành vi chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản. Đó là hành vi cố ý dịch chuyển một cách trái pháp luật tài sản của người
khác thành tài sản của mình hoặc cho người khác mà mình quan tâm.
Hành vi chiếm đoạt tài sản có các đặc điểm sau: (1) Chiếm đoạt tài sản là
hành vi làm cho chủ tài sản mất khả năng thực tế thực hiện quyền chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt đồng thời làm cho người chiếm đoạt có được các quyền này; (2) Tài

sản là đối tượng tác động của các hành vi chiếm đoạt phải còn nằm trong sự quản ý
của chủ sở hữu; (3) Hành vi chiếm đoạt được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.
- Hậu quả của tội phạm
Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ
xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Thiệt hại gây ra cho khách thể được
thể hiện thông qua sự biến đổi tình trạng bình thường của các bộ phận cấu thành
quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có cấu thành vật chất, nghĩa là trong
cấu thành tội phạm có phản ánh dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc tội phạm chưa đạt, hậu quả của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản cơng dân chưa xảy ra vẫn có thể xử lý hình sự về tội này.
Hậu quả của tội phạm được phản ánh trong cấu thành tội phạm thông qua
thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt, chính vì vậy việc xác
định tài sản là đối tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc,
đây là dấu hiệu định lượng để xác định cấu thành cơ bản của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản.


15
Điều 233 BLHS năm 2017 của CHDCND Lào không quy định hậu quả
của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thiệt hại bao nhiêu. Tuy nhiên, dựa vào quy
định tại khoản 2 Điều 11 BLHS quy định về khái niệm tội phạm:
“Mọi hành động hoặc không hành động mà có đủ dấu hiệu của một tội
phạm nhưng gây thiệt hại dưới một triệu kíp sẽ khơng bị coi là tội phạm trừ
trường hợp tái phạm hoặc mang tính chuyên nghiệp”4
Vì vậy, có thể suy ra trong cấu thành tội phạm cơ bản của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản thì giá trị tài sản bị thiệt hại ở mức 1 triệu kíp là mức nguy
hiểm đáng kể làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể nếu tài sản bị thiệt
hại có giá trị từ 1 triệu kíp trở lên ln cấu thành tội phạm, cịn nếu tài sản bị
thiệt hại có giá trị dưới 1 triệu kíp thì phải kèm dấu hiệu tái phạm hoặc phạm tội

có tính chất chun nghiệp
Việc xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt đối với hành vi lừa đảo chiếm
đoạt tài sản cơng dân có ý nghĩa rất quan trọng việc xác định trường hợp nào bị
truy cứu trách nhiệm hình sự, cũng như việc quyết định hình phạt.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm
Việc định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không chỉ phải xác định hậu quả
là giá trị tài sản bị chiếm đoạt mà còn đòi hỏi làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản với hậu quả đó. Bởi vì, con người chỉ phải
chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả nguy hiểm cho xã hội khi hậu quả nguy
hiểm đó do chính hành vi khách quan của mình gây ra.
Mối quan hệ giữa hành vi vi phạm và hậu quả tội phạm có đặc điểm như
sau: (1) Hành vi chiếm đoạt phải diễn ra trước hậu quả; (2) Hành vi chiếm đoạt
với thủ đoạn gian dối là cơ sở chủ yếu để quyết định việc chiếm đoạt được tài
sản của người phạm tội.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có cấu thành tội phạm vật chất. Tội phạm
hồn thành khi người phạm tội chiếm đoạt được được tài sản, tức là và thời điểm
chủ sở hữu hay người quản lý tài sản đã giao tài sản và người phạm tội đã nhận
được tài sản và có khả năng thực tế chiếm giữ, sử dụng hoặc định đoạt tài sản đó.
4

Điều 11 khoản 2 BLHS nước CHDCND Lào năm 2017


16
* Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi
luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.
Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. Theo luật

hình sự nước CHDCND Lào, người có năng lực trách nhiệm hình sự là người đã
đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và khơng thuộc trường hợp ở trong tình
trạng khơng có năng lực trách nhiệm hình sự.
Theo qui định tại Điều 40 Bộ luật hình sự năm 2017 thì độ tuổi bắt đầu
chịu trách nhiệm hình sự là từ đủ 18 tuổi trở lên (không phân biệt loại tội phạm).
Do đó, chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải thỏa mãn độ tuổi là từ đủ
18 tuổi trở lên và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng khơng có năng lực
trách nhiệm hình sự.
Người dưới 18 tuổi dù có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng khơng bị
truy cứu trách nhiệm hình sự vì chưa đến tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự, tuy
nhiên có thể phải chịu những biện pháp khác ngồi các chế tài hình sự để giáo dục.
Do chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường nên khơng
có sự ngoại lệ đối với người nước ngồi, người khơng quốc tịch khi thực hiện
hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên lãnh thổ nước CHDCND Lào. Trừ một số
người được hưởng quyền miễn trừ tư pháp, trách nhiệm hình sự của họ được giải
quyết bằng con đường ngoại giao.
Khi nghiên cứu về chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cần phải chú ý
đến đặc điểm nhân thân của người phạm tội như: nghề nghiệp, hồn cảnh gia đình,
trình độ văn hóa, đời sống kinh tế, ý thức pháp luật, tiền án, tiền sự… Điều này có
ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội
cũng như các biện pháp xử lý hình sự phù hợp với nhân thân người phạm tội.
* Mặt chủ quan
Tội phạm là một thể thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan. Nếu
mặt khách quan là biểu hiện bên ngồi của tội phạm thì mặt chủ quan là hoạt động
tâm lý bên trong của người phạm tội, bao gồm: lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.


17
Điều 233 BLHS năm 2017 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
nhưng không nêu dấu hiệu lỗi của người phạm tội, tuy nhiên xét theo bản chất và

tính chất của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì về mặt chủ quan của tội
phạm được thể hiện do lỗi cố ý trực tiếp.
Trong luật hình sự nước CHDCND Lào, nguyên tắc có lỗi được coi là
nguyên tắc cơ bản. Theo nguyên tắc này, luật hình sự nước Lào không chấp nhận
việc “quy tội khách quan”, nghĩa là truy cứu trách nhiệm hình sự con người chỉ
trên cơ sở hành vi khách quan mà không xét đến lỗi của họ.
Lỗi cố ý trực tiếp trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được biểu hiện:
- Về lý trí:
Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
mà mình thực hiện là xâm phạm sở hữu của người khác, nhận thức rõ những thủ
đoạn đưa ra là hồn tồn khơng có thật, nhằm làm người khác tin đó là sự thật.
Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trước khi thực hiện hành vi lừa dối
đã có ý thức chiếm đoạt tài sản của người khác5.
- Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hành vi lừa dối đưa đến kết quả là
chiếm đoạt được tài sản của người khác.
Dấu hiệu động cơ, mục đích phạm tội:
Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội
đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội. Mục đích của người phạm
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Mục đích
này bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi phạm tội. Có thể nói mục đích
chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản. Tuy nhiên, người phạm tội có thể có những mục đích khác cùng với mục
đích chiếm đoạt hay chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác
thì người phạm tội cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản. Động cơ phạm tội được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy người
phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
có thể có nhiều động cơ khác nhau khi thực hiện hành vi phạm tội, có thể để thỏa
mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân, do tham lam… và đó là động cơ tư lợi.
5


Trường Đại học CSND (1990), Giáo trình luật hình sự Lào phần chung, Nxb Bộ Tư pháp, Viêng Chăn, tr 29.


×