Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Tội hành hạ người khác trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

VÕ HỒNG TỒN

TỘI HÀNH HẠ NGƢỜI KHÁC
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

VÕ HỒNG TỒN

TỘI HÀNH HẠ NGƢỜI KHÁC
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Anh Tuấn

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi
với sự hướng dẫn của Ts. Phan Anh Tuấn. Các kết quả trình bày trong Luận
văn này là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất cứ cơng trình
khoa học nào trước đây.
Tơi cũng xin cam đoan các thơng tin trích dẫn trong Luận văn đã được
nêu rõ nguồn gốc.
Tác giả

Võ Hồng Toàn


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Bộ luật hình sự
2. Hội đồng xét xử
3. Tòa án nhân dân
4. Trách nhiệm hình sự
5. Thành phố Hồ Chí Minh

BLHS
HĐXX
TAND
TNHS
TP. HCM


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI HÀNH HẠ NGƢỜI KHÁC
TRONG LUẬT HÌNH SỰ ........................................................................................ 8
1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội hành hạ ngƣời khác .......................... 8

1.1.1. Khái niệm .......................................................................................................... 8
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội hành hạ người khác (Điều 110 BLHS) ............ 10
1.2. Phân biệt tội hành hạ ngƣời khác trong luật hình sự Việt Nam với một số
tội phạm khác .......................................................................................................... 18
1.2.1. Phân biệt tội hành hạ người khác với tội ngược đãi hoặc hành hạ ơng bà,
cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có cơng ni dưỡng mình (Điều 151 BLHS) .. 18
1.2.2. Phân biệt tội hành hạ người khác với tội bức tử (Điều 100 BLHS) ............. 20
1.2.3. Phân biệt tội hành hạ người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 104 BLHS) ................................................ 22
1.2.4. Phân biệt tội hành hạ người khác với tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn
nhân tự nguyện, tiến bộ (Điều 146 BLHS) ................................................................ 23
1.3. Lƣợc sử hình thành và phát triển của tội hành hạ ngƣời khác từ năm 1945
đến nay ..................................................................................................................... 24
1.3.1. Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS năm 1985 ............................. 24
1.3.2. Tội hành hạ người khác trong BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999 ............ 27
1.4. Pháp luật hình sự một số nƣớc về tội hành hạ ngƣời khác .......................... 30
1.4.1. Pháp luật hình sự Liên bang Nga ................................................................... 30
1.4.2. Pháp luật hình sự Cộng hịa Liên bang Đức................................................... 34
1.4.3. Pháp luật hình sự Trung Quốc ........................................................................ 36
KẾT LUẬN CHƢƠNG I ........................................................................................ 38
CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ TỘI HÀNH HẠ NGƢỜI KHÁC TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................................................................ 39
2.1. Thực trạng áp dụng các quy định của BLHS hiện hành về tội hành hạ
ngƣời khác ................................................................................................................ 39
2.2. Một số bất cập trong quy định và áp dụng tội hành hạ ngƣời khác trong
BLHS hiện hành ...................................................................................................... 44
2.2.1. Bất cập trong quy định và áp dụng một số dấu hiệu định tội của tội hành hạ
người khác ................................................................................................................. 44



2.2.2. Bất cập trong quy định và áp dụng một số dấu hiệu định khung tăng nặng
TNHS của tội hành hạ người khác ............................................................................ 51
2.2.3. Bất cập trong việc quy định và áp dụng hình phạt ......................................... 57
2.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoàn thiện quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam về tội hành hạ ngƣời khác ................................................................ 59
2.3.1. Các nhu cầu và yêu cầu hoàn thiện quy định của luật hình sự Việt Nam về tội
hành hạ người khác. .................................................................................................. 59
2.3.2 Một số kiến nghị nhằm hồn thiện qui định của luật hình sự Việt Nam về tội
hành hạ người khác. .................................................................................................. 64
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................ 79
KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................................. 80


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Hiến pháp năm 2013 của nước ta quy định “Mọi người có quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và
nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình
thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm” (Điều 20). Quy định này của Hiến pháp nhằm bảo vệ quyền con người
nói chung, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cơng dân nói
riêng, phù hợp với Tun ngơn nhân quyền của Liên hiệp quốc năm 1948,
Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị năm 1966 đã được Việt
Nam cam kết thực hiện khi gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị ngày 24/9/1982.

Hiện nay nước ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân; một nhà nước mà ở đó các quyền con người,
quyền cơ bản của công dân được ghi nhận đầy đủ trong các quy định của Hiến
pháp, pháp luật và được Nhà nước đảm bảo thực hiện trong thực tế. Để bảo vệ
quyền con người thì pháp luật là công cụ pháp lý hữu hiệu nhất để ngăn chặn
và trừng trị những hành vi xâm phạm quyền con người trong thực tiễn. Trong
hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền con người thì BLHS là cơng cụ sắc bén
nhất để bảo vệ có hiệu quả các quyền con người, quyền cơ bản của cơng dân
và đấu tranh phịng, chống các loại tội phạm xâm phạm quyền con người.
BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã cụ thể hoá việc bảo vệ
quyền con người bằng những quy định rõ ràng, cụ thể về các tội phạm xâm
phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con người tại
Chương XII của Phần các tội phạm.
Trong những năm gần đây, những tác động của mặt trái nền kinh tế thị
trường đã có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến một bộ phận của đời sống xã hội,
điều này đã và đang làm cho những giá trị đạo đức cơ bản bị xói mịn; các
chuẩn mực đạo đức cơ bản của xã hội đang có dấu hiệu xuống cấp và sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm con người đang bị xem nhẹ. Biểu hiện của thực
trạng này là tình hình tội phạm xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm con người mà điển hình là tội hành hạ người khác đang xảy ra
thường xuyên và có chiều hướng ngày càng gia tăng với mức độ phạm tội
ngày càng nghiêm trọng đã gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an của xã hội,


2

gây dư luận bất bình trong nhân dân nhưng các quy định của pháp luật hình
sự về tội phạm này chưa thực sự rõ ràng và còn nhiều bất cập, vướng mắc
như: quy định chủ thể và đối tượng tác động của tội phạm chưa phù hợp, chưa
ghi nhận đầy đủ các hành vi khách quan, chưa quy định một số tình tiết làm

tình tiết định khung tăng nặng, hình phạt quy định đối với tội hành hạ người
khác chưa có sự phân hóa cũng như mức hình phạt chưa tương xứng với tính
chất nguy hiểm của hành vi phạm tội và điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta
hiện nay. Điều này dẫn đến hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử trong thực tiễn
chưa cao, chưa đủ tính chất răn đe và trừng trị đối với loại tội phạm này.
Do đó, việc nghiên cứu, phân tích về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự về tội hành hạ người khác là yêu cầu cấp thiết và mang tính
thời sự nhằm làm rõ những vấn đề còn hạn chế, vướng mắc trong quy định
của pháp luật hình sự đồng thời đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định pháp
luật về tội phạm này để góp phần hồn thiện pháp luật hình sự trong thời gian
tới. Qua đó đáp ứng yêu cầu đấu tranh phịng, chống tội hành hạ người khác
trong tình hình mới và góp phần nâng cao hiệu quả xử lý đối với loại tội phạm
này trong thực tiễn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, trật tự
an tồn xã hội. Với những lí do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Tội hành hạ
người khác trong luật hình sự Việt Nam” làm Luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:

Qua khảo sát, tìm hiểu dưới góc độ luật hình sự có các cơng trình
nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến đề tài“Tội hành hạ người khác trong luật
hình sự Việt Nam” như sau:
- Các Giáo trình của Đại học Luật Hà Nội (1), Đại học Luật TP.HCM (2),
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam- Phần các tội phạm của Khoa Luật, Trường
Đại học Quốc gia Hà Nội (3), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Phần các tội
phạm của tác giả Võ Khánh Vinh (Chủ biên). (4)
1

Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam- Phần Các tội phạm, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
2
Trường Đại học Luật TP.HCM (2013), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Các tội phạm, Nxb Hồng

Đức- Hội Luật gia Việt Nam, TP.HCM.
3
Lê Cảm (Chủ biên) (2007), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam-Phần Các tội phạm, Khoa Luật, Trường Đại
học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
4
Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam- Phần Các tội phạm, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.


3

Những giáo trình nêu trên chủ yếu phân tích về mặt lý luận của tội hành
hạ người khác và nêu rõ dấu hiệu pháp lý của tội phạm trong BLHS nói chung
và tội hành hạ người khác nói riêng. Tuy nhiên, nội dung các giáo trình này
chưa làm rõ được lịch sử hình thành và phát triển của các quy định pháp luật
hình sự về tội hành hạ người khác và không đề cập đến thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự về tội phạm này, vì vậy chưa nêu ra được hạn chế, bất cập
trong quy định và thực trạng áp dụng tội hành hạ người khác và phương
hướng hồn thiện.
- Về bình luận khoa học và sách thì có một số cơng trình tiêu biểu như:
+ Bình luận khoa học BLHS, Phần các tội phạm, Tập 1 (Bình luận
chuyên sâu) của tác giả Đinh Văn Quế (Chủ biên) (5).
Trong sách bình luận này thì tác giả Đinh Văn Quế chủ yếu phân tích
và bình luận về dấu hiệu pháp lý của các tội phạm trong đó có tội hành hạ
người khác, đồng thời nêu ra quan điểm của tác giả về các quy định chứ
không làm rõ lịch sử hình thành quy định và vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng pháp luật hay phương hướng hoàn thiện về tội hành hạ người khác.
+ Bình luận khoa học BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, tác
giả Nguyễn Đức Mai (Chủ biên) (6).
Trong sách bình luận này tác giả Nguyễn Đức Mai chủ yếu phân tích

các dấu hiệu pháp lý của tội hành hạ người khác chứ không đi sâu vào phân
tích lịch sử hình thành, khơng đề cập đến những vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng pháp luật hay phương hướng hoàn thiện quy định về tội phạm này.
+ Luật hình sự Việt Nam, Quyển 2 (Phần các tội phạm) của tác giả
Phạm Văn Beo (Chủ biên) (7).
Trong cuốn sách này, tác giả Phạm Văn Beo chủ yếu phân tích các dấu
hiệu pháp lý của tội phạm nói chung và tội hành hạ người khác nói riêng; chỉ
có một phần nội dung trong sách này liên quan đến đề tài Luận văn đó là phân
tích các quy định pháp luật hiện hành về tội hành hạ người khác, cịn các vấn
đề khác có liên quan thì tác giả không đề cập đến.
5

Đinh Văn Quế (Chủ biên) (2002), Bình luận khoa học BLHS- Phần Các tội phạm, Tập I (Bình luận chuyên
sâu), Nxb TP.HCM, TP.HCM.
6
Nguyễn Đức Mai (Chủ biên) (2010), Bình luận khoa học BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7
Phạm Văn Beo (2010), Luật hình sự Việt Nam - Phần Các tội phạm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


4

- Về khóa luận tốt nghiệp cử nhân thì chỉ có khóa luận tốt nghiệp về đề
tài “Tội hành hạ người khác trong BLHS Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Huỳnh Lệ Uyên.(8)
Trong khóa luận này tác giả Nguyễn Huỳnh Lệ Uyên đã phân tích được
một số vấn đề về mặt lý luận của tội hành hạ người khác và nguyên nhân dẫn
đến tội phạm hành hạ người khác. Tuy nhiên, khóa luận này chỉ tiếp cận tội
hành hạ người khác dưới góc độ tội phạm học nên chưa đầy đủ và toàn diện,

chưa chỉ ra được những hạn chế trong quy định của pháp luật và vướng mắc
trong thực tiễn áp dụng pháp luật về tội hành hạ người khác dưới góc độ luật
hình sự.
- Về tài liệu nước ngồi có một số sách và bài viết có liên quan đến đề
tài như sau:
+ Bài viết “Russian Legislation Now Features the Definition of
Torture” của tác giả Olga Shepeleva (9) về tội nhục hình trong BLHS Liên
bang Nga.
Trong bài viết này, tác giả Olga Shepeleva đã phân tích về khái niệm
tội nhục hình trong BLHS Liên bang Nga, đây là tội phạm được quy định
tương tự với tội hành hạ người khác trong BLHS Việt Nam. Tác giả Olga
Shepeleva không phân tích tồn diện tội nhục hình trong BLHS Liên bang
Nga mà chỉ tiếp cận dưới góc độ so sánh khái niệm nhục hình với khái niệm
tra tấn trong Cơng ước chống tra tấn và Công ước quốc tế về các quyền dân
sự và chính trị của Liên hiệp quốc. Tuy nhiên tác giả Olga Shepeleva cho rằng
việc quy định khái niệm nhục hình là hành vi gây đau đớn về thể xác và tinh
thần trong BLHS Liên bang Nga như hiện nay đã tăng cường được sự bảo vệ
các cá nhân bị nhục hình, đây là điều chúng ta có thể tiếp thu khi đưa ra khái
niệm về tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam.
+ Sách “The Fundamental Concept of Crime in International Criminal
Law: A Comparative Law Analysis” của tác giả Iryna Marchuk (10)
8

Nguyễn Huỳnh Lệ Uyên (2013), Tội hành hạ người khác trong BLHS Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp Cử
nhân, Trường Đại học Cần Thơ.
9

Olga

Shepeleva,


“Russian

Legislation

Now

Features

the

Definition

of

Torture” ,

[ (truy cập ngày 09/5/2015 lúc 15 giờ)
10

Iryna Marchuk, “The Fundamental Concept of Crime in International Criminal Law: A Comparative Law
Analysis”,[ />e&q&f=false], (truy cập ngày 05/6/2015 lúc 14 giờ 30 phút).


5

Trong sách này, tác giả Iryna Marchuk đã cung cấp một cái nhìn tổng
quan của khoa học pháp lý về khái niệm tội phạm trong luật hình sự của các
quốc gia và luật hình sự quốc tế, đồng thời chỉ ra nguồn gốc của sự nhầm lẫn
trong pháp luật hình sự quốc tế về khái niệm tội phạm thông qua sự phân tích

và so sánh luật hình sự của các quốc gia và luật hình sự quốc tế. Việc nghiên
cứu những khái niệm tội phạm trong luật hình sự của các quốc gia và luật
hình sự quốc tế trong sách này sẽ là cơ sở để chúng tôi xây dựng khái niệm về
tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam.
Nhìn chung, có thể nhận thấy nhiều cơng trình nghiên cứu và giáo trình
có nội dung liên quan đến quy định của pháp luật hình sự về tội hành hạ
người khác nhưng chưa có Luận văn Thạc sĩ nào nghiên cứu về tội hành hạ
người khác dưới góc độ luật hình sự. Vì vậy Luận văn là cơng trình đầu tiên
nghiên cứu tồn diện về tội hành hạ người khác cả về mặt lý luận và thực tiễn
dưới góc độ luật hình sự ở cấp độ Luận văn Thạc sĩ.
3. Mục đích, đối tƣợng và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:

Mục đích nghiên cứu: trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý
luận của luật hình sự và thực tiễn áp dụng của tội hành hạ người khác ở Điều
110 BLHS, đề tài sẽ đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện điều luật này
trong BLHS Việt Nam và đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
quy định pháp luật hình sự về tội hành hạ người khác trong thực tiễn.
Đối tượng nghiên cứu: quy định của luật hình sự Việt Nam và thực tiễn
áp dụng pháp luật hình sự về tội hành hạ người khác.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
- Nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận chung về tội hành hạ người khác
- Đánh giá thực tiễn tình hình xử lý hình sự về tội hành hạ người khác
trên phạm vi cả nước
- Chỉ ra những vướng mắc, hạn chế trong việc quy định và áp dụng các
quy định của luật hình sự về tội hành hạ người khác
- Đề ra các giải pháp trên các phương diện pháp lý nhằm hoàn thiện
Điều 110 BLHS Việt Nam và tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc mà thực
tiễn áp dụng pháp luật hình sự đang gặp phải trong thực tiễn.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài


Luận văn nghiên cứu nội dung quy định của tội “Hành hạ người khác”
tại Điều 110 BLHS. Đồng thời, đề tài cũng được nghiên cứu dưới góc độ thực


6

tiễn điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm này trên phạm vi cả nước để làm rõ
những bất cập, vướng mắc hiện nay của điều luật.
Về thời gian, Luận văn nghiên cứu các số liệu về tội hành hạ người
khác từ năm 2010 đến năm 2014
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Phƣơng pháp luận: đề tài này được nghiên cứu trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin với phép duy vật biện chứng, các quan
điểm của Đảng và Nhà nước về hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm
Phƣơng pháp nghiên cứu: để nghiên cứu Luận văn, tác giả đã sử dụng
các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp lịch sử: phương pháp này được sử dụng để làm rõ sự
hình thành và phát triển của tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt
Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay.
- Phương pháp thống kê, tổng hợp: phương pháp này được sử dụng để
làm rõ tình hình xử lý hình sự đối với tội phạm hành hạ người khác.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng để làm rõ
những vấn đề chung và những hạn chế, vướng mắc về tội hành hạ người khác.
- Phương pháp so sánh: được tác giả sử dụng để làm rõ những điểm
giống và khác nhau giữa tội hành hạ người khác với các tội phạm khác có liên
quan và đối chiếu quy định về tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt
Nam với luật hình sự của một số quốc gia (Liên bang Nga, Cộng hòa Liên
bang Đức, Trung Quốc).
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài:


Đề tài Luận văn đã đưa ra được những nhận thức lý luận đầy đủ, rõ
ràng về tội hành hạ người khác, phát hiện và làm rõ những hạn chế, vướng
mắc trong quy định của Điều 110 BLHS khi áp dụng vào xử lý các hành vi
phạm tội trong thực tế, thơng qua đó sẽ có những đề xuất mới nhằm hồn
thiện quy định của điều luật để áp dụng hiệu quả trong thực tiễn trước tình
hình mới.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn về lý luận cũng như thực tiễn có ý
nghĩa về mặt khoa học pháp lý, đóng góp một phần vào lý luận về tội hành hạ
người khác dưới góc độ pháp lý hình sự, là cơ sở giúp cho các cơ quan xây
dựng pháp luật hoàn thiện hơn các quy định của BLHS về tội hành hạ người
khác; đồng thời Luận văn cũng là nguồn tài liệu tham khảo đối với những cán


7

bộ làm công tác thực tiễn cũng như học viên, sinh viên ngành luật và những
người làm công tác giảng dạy.
7. Bố cục của Luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn gồm 2 chương:
Chương 1. Một số vấn đề chung về tội hành hạ người khác trong luật
hình sự
Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật và kiến nghị nhằm hoàn thiện
quy định về tội hành hạ người khác trong Luật hình sự Việt Nam


8

CHƢƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ TỘI HÀNH HẠ NGƢỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội hành hạ ngƣời khác
1.1.1. Khái niệm

Trước khi tìm hiểu khái niệm về tội hành hạ người khác chúng ta cần
tìm hiểu khái niệm tội phạm nói chung trong luật hình sự Việt Nam. Tội phạm
là một chế định quan trọng và chủ yếu của luật hình sự và theo quy định tại
khoản 1 Điều 8 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an
ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa.
Từ quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS chúng ta có thể rút ra định nghĩa
tội phạm một cách khái quát như sau: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt (11).
Tội hành hạ người khác là một tội phạm cụ thể được quy định trong
BLHS, vì vậy theo Luật hình sự Việt Nam thì tội hành hạ người khác phải
thoả mãn đầy đủ bốn dấu hiệu, đó là tính nguy hiểm cho xã hội, tính trái
pháp luật, tính có lỗi, tính chịu hình phạt (12). Tuy nhiên, Điều 110 BLHS
cũng khơng giải thích cụ thể khái niệm tội hành hạ người khác mà chỉ quy
định khái quát như sau: “Người nào đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình, thì
bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba
tháng đến hai năm”.
Theo Từ điển Tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý thì hành hạ nghĩa
là làm cho đau đớn, khổ sở hoặc nhục nhã, ê chề (13), còn theo từ điển Tiếng

Việt của Ban biên soạn Từ điển Vietnambooks, thì hành hạ là làm cho đau
11

Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd (1), tr. 42.
Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd (1), tr. 42.
13
Nguyễn Như Ý (1999), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội, tr. 780.
12


9

đớn, khổ sở (14). Như vậy, trong các từ điển Tiếng Việt thì hành hạ được hiểu
là làm cho người khác đau đớn, khổ sở.
Về mặt pháp lý hình sự thì một số tác giả cũng có quan điểm khác nhau
về khái niệm tội hành hạ người khác như sau:
Theo quan điểm của tác giả Trần Văn Luyện cho rằng: “hành hạ người
khác là hành vi đối xử tàn ác như: gây đau đớn về thể xác, đè nén, áp bức về
tinh thần người bị lệ thuộc” (15).
Trong khi đó, theo Bình luận khoa học BLHS của tác giả Đinh Văn
Quế thì: “hành hạ người khác là hành vi của một người đối xử tàn ác với
người lệ thuộc mình một cách có hệ thống (lặp đi lặp lại nhiều lần) gây đau
đớn về thể xác và tinh thần cho người bị hành hạ” (16).
Theo giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật
TP.HCM thì: “Tội hành hạ người khác được hiểu là hành vi đối xử tàn ác với
người lệ thuộc mình” (17).
Như vậy, nhìn chung thì vẫn có những quan điểm khác nhau khi định
nghĩa tội hành hạ người khác. Đối chiếu với quy định tại Điều 110 BLHS thì
các quan điểm nêu trên đều chỉ ra được hành vi khách quan của tội hành hạ
người khác là đối xử tàn ác với người lệ thuộc. Tuy nhiên, chúng tôi nhận

thấy khái niệm của tác giả Đinh Văn Quế về tội hành hạ người khác là chưa
hợp lý khi cho rằng hành vi đối xử tàn ác với người lệ thuộc phải lặp đi lặp lại
nhiều lần một cách có hệ thống thì mới phạm tội hành hạ người khác, điều
này hồn tồn khơng phù hợp với Điều 110 BLHS vì theo quy định của Điều
110 BLHS hiện hành thì chỉ cần chủ thể thực hiện hành vi đối xử tàn ác với
người lệ thuộc là đã phạm tội hành hạ người khác mà không cần phải đợi
hành vi đối xử tàn ác lặp đi lặp lại nhiều lần. Khái niệm của tác giả Trần Văn
Luyện cũng có điểm hạn chế khi mơ tả hành vi đối xử tàn ác là: gây đau đớn
về thể xác, đè nén, áp bức về tinh thần người bị lệ thuộc, việc liệt kê các thủ
đoạn này là chưa bao hàm hết các trường hợp đối xử tàn ác bởi vì hành vi đối
xử tàn ác trong thực tế rất đa dạng, phong phú nên không thể liệt kê hết trong
14

Ban biên soạn Từ điển Vietnambooks, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Thanh niên, Hà Nội, tr. 263.
Trần Văn Luyện (2001), Bình luận khoa học BLHS 1999- Phần Các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 101.
16
Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học BLHS- Phần Các tội phạm- Quyển 1, Nxb TP.HCM, TP.HCM,
tr. 171.
17
Trường Đại học Luật TP.HCM, tlđd (2), tr. 68.
15


10

điều luật, vì vậy Điều 110 BLHS chỉ quy định hành vi đối xử tàn ác mà không
liệt kê các hành vi cụ thể.
Theo quan điểm của chúng tơi thì hành hạ người khác là hành vi đối xử
tàn ác với người lệ thuộc làm cho họ đau đớn về thể xác và tinh thần. Hành vi

đối xử tàn ác này khơng nhằm để gây thương tích nặng hay tổn hại sức khỏe
cho người lệ thuộc mà chỉ làm cho họ đau đớn về thể xác và tinh thần. Nói
một cách khái quát là hành vi đối xử tàn ác này chỉ mang tính chất hành hạ
chứ khơng nhằm mục đích gây thương tích hay tổn hại sức khỏe cho người bị
lệ thuộc, nếu hành vi đối xử tàn ác gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho
người lệ thuộc thì sẽ chuyển hóa thành hành vi gây thương tích hoặc gây tổn
hại sức khỏe của người khác. Hành vi đối xử tàn ác với người lệ thuộc có thể
là hành vi của một người hoặc nhiều người vì một người có thể có quan hệ lệ
thuộc vào nhiều người và cùng bị những người này hành hạ.
Chúng tôi cho rằng khái niệm tội hành hạ người khác theo Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật TP. HCM vừa cụ thể hóa
được điều luật vừa nêu ra được khái quát bản chất của tội hành hạ người khác.
Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi thì để thể hiện rõ hơn bản chất của
tội hành hạ người khác, cần đưa ra khái niệm về tội hành hạ người khác đầy
đủ như sau:“Tội hành hạ người khác là hành vi đối xử tàn ác làm cho người
lệ thuộc mình đau đớn về thể xác và tinh thần”.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội hành hạ người khác (Điều 110 BLHS)
1.1.2.1. Dấu hiệu pháp lý chung của tội hành hạ người khác

Tội hành hạ người khác là tội phạm được quy định tại Điều 110 BLHS
vì vậy phải thoả mãn đầy đủ bốn dấu hiệu của tội phạm, đó là: tính nguy hiểm
cho xã hội, tính trái pháp luật, tính có lỗi, tính chịu hình phạt.
- Tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất, quyết
định những dấu hiệu khác của tội phạm. Hành vi nào đó sở dĩ bị quy định
trong luật hình sự là tội phạm và phải chịu TNHS vì nó có tính nguy hiểm cho
xã hội (18). Xét về mặt khách quan thì tính nguy hiểm cho xã hội có nghĩa là
hành vi của chủ thể đã gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Điều 8 BLHS 1999 đã xác định rõ
các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ bao gồm: độc lập, chủ quyền,
18


Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd (1), tr. 44


11

thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền
văn hố, quốc phịng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân…. Hành vi hành hạ người khác đã
xâm phạm đến một trong các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ là sức
khoẻ của con người, vì vậy, hành hạ người khác là một hành vi nguy hiểm
cho xã hội.
- Tính có lỗi: lỗi là thái độ chủ quan của con người đối với hành vi nguy
hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả của hành vi đó thể hiện dưới
dạng cố ý hoặc vô ý. Người bị coi là có lỗi khi người đó thực hiện hành vi gây
thiệt hại cho xã hội nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định
của chủ thể trong khi có đủ điều kiện lựa chọn và quyết định một xử sự khác
phù hợp với đòi hỏi của xã hội (19). Người thực hiện hành vi phạm tội hành hạ
người khác phải chịu TNHS vì họ nhận thức rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội và trái với quy định của luật hình sự, do đó hành hạ người
khác là hành vi có lỗi.
- Tính trái pháp luật: theo quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS thì hành vi
nguy hiểm cho xã hội chỉ có thể bị coi là tội phạm nếu “... được quy định
trong Bộ luật hình sự...” và Điều 2 BLHS quy định: “chỉ người nào phạm một
tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Như
vậy, tính trái pháp luật theo quy định của luật hình sự Việt Nam hiện hành là
hành vi làm trái với quy định của BLHS. Tội hành hạ người khác là một tội
phạm được quy định tại Điều 110 BLHS, do đó khi một người thực hiện hành
vi hành hạ người khác thì hành vi đó là trái pháp luật và người thực hiện hành

vi phải chịu TNHS.
- Tính phải chịu hình phạt: tính phải chịu hình phạt được coi là dấu hiệu
của tội phạm vì nó được xác định bởi chính những thuộc tính khách quan bên
trong của tội phạm. Chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt, khơng
có tội phạm thì khơng có hình phạt (20). Như vậy, có thể hiểu rằng mọi hành vi
phạm tội đều phải chịu hình phạt. Tội hành hạ người khác là một tội phạm
được quy định tại Điều 110 BLHS, vì vậy người phạm tội hành hạ người khác
19
20

Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd (1), tr. 47
Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd (1), tr. 50.


12

phải chịu hình phạt theo khung hình phạt được quy định tại Điều 110 BLHS.
1.1.2.2. Các dấu hiệu pháp lý riêng của tội hành hạ người khác

Bên cạnh các dấu hiệu pháp lý chung của tội phạm như đã nêu trên thì
tội hành hạ người khác cịn có một số dấu hiệu pháp lý riêng, phân biệt với
các tội phạm khác trong BLHS. Theo luật hình sự Việt Nam thì tội phạm là sự
hợp thành của bốn yếu tố cấu thành bao gồm: khách thể, mặt khách quan, chủ
thể, mặt chủ quan; bốn yếu tố này có tầm ảnh hưởng khác nhau, nội dung biểu
hiện của mỗi yếu tố cũng khác nhau, do đó mỗi hành vi phạm tội có tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Tội hành hạ người khác là một
tội phạm cụ thể nên cũng có đầy đủ bốn yếu tố cấu thành tội phạm là khách
thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Các dấu hiệu pháp lý của tội
hành hạ người khác được thể hiện như sau:
- Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại (21). Khách thể của tội hành hạ người khác là quyền được
tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người bị lệ thuộc. Tội hành hạ người khác
đã xâm phạm tới khách thể trực tiếp là sức khoẻ của người có quan hệ lệ
thuộc vào người phạm tội, xâm phạm tới quyền được pháp luật bảo hộ về sức
khoẻ của công dân. Đây là một trong các quyền cơ bản của con người được
ghi nhận tại Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hiệp quốc năm 1948, Công ước
quốc tế về những quyền dân sự và chính trị năm 1966 và đã được Việt Nam
cam kết thực hiện khi gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị ngày 24/9/1982.
Trong Hiến pháp năm 2013 thì quyền bất khả xâm phạm về thân thể
được quy định như là một quyền tự nhiên, quyền bẩm sinh của con người,
Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định:“Mọi người có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm;
không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào
khác xâm phạm thân thể, sức khoẻ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm….”. Việc
Hiến pháp quy định rõ ràng, cụ thể nguyên tắc này có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng nhằm ngăn cấm mọi hành vi tuỳ tiện xâm phạm về thân thể, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm con người.
21

Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd (1), tr. 86


13

Điều 110 BLHS quy định: “Người nào đối xử tàn ác với người lệ thuộc
mình...”, như vậy với cách quy định này thì chúng ta hiểu rằng đối tượng tác
động của tội hành hạ người khác phải thỏa mãn hai điều kiện sau:
+ Thứ nhất: đối tượng tác động của tội hành hạ người khác phải là con

người cụ thể, đang sống và đang hiện hữu. “Thời điểm bắt đầu sự sống của
con người dưới góc độ pháp lý hình sự là từ khi họ sinh ra và tồn tại độc lập
với người mẹ. Thời điểm kết thúc sự sống là thời điểm chết sinh học đã xảy
ra”(22). Như vậy, thai nhi trong bụng mẹ không phải là đối tượng tác động của
tội hành hạ người khác.
+ Thứ hai: đối tượng tác động của tội hành hạ người khác phải là người
có quan hệ lệ thuộc về vật chất hoặc tinh thần vào người phạm tội, nếu người
bị hành hạ khơng có quan hệ lệ thuộc với người thực hiện hành vi hành hạ về
vật chất hoặc tinh thần thì người thực hiện hành vi đối xử tàn ác không bị truy
cứu TNHS về tội hành hạ người khác mà sẽ bị truy cứu TNHS về tội phạm
khác trong BLHS tương ứng với hành vi phạm tội. Mối quan hệ lệ thuộc giữa
người phạm tội và nạn nhân có thể là quan hệ lệ thuộc về mặt vật chất hoặc
tinh thần xuất phát do quan hệ về mặt xã hội như: quan hệ cơng tác, quan hệ
thầy trị, quan hệ giữa người làm thuê với chủ hoặc quan hệ về tín ngưỡng,
tơn giáo… Nếu người thực hiện hành vi đối xử tàn ác có quan hệ lệ thuộc về
mặt hơn nhân, gia đình, huyết thống hoặc quan hệ ni dưỡng đối với nạn
nhân thì hành vi đối xử tàn ác sẽ cấu thành một tội phạm khác quy định tại
Điều 151 BLHS. Tội hành hạ người khác đã tác động tới con người cụ thể là
người đang sống và bị lệ thuộc vào người phạm tội bằng cách xâm hại tới sức
khỏe qua các hành vi đối xử tàn ác như: đánh đập, bắt nhịn đói, nhịn khát...
- Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm diễn ra
và tồn tại trong thế giới khách quan. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của
tội phạm bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã
hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên ngoài
của việc thực hiện tội phạm như: thời gian, địa điểm, phương tiện, công cụ
phạm tội, hoàn cảnh phạm tội... (23).
22
23


Trường Đại học Luật TP.HCM, tlđd (2), tr. 62.
Trường Đại học Luật TP.HCM, tlđd (2), tr. 114.


14

Tội hành hạ người khác có cấu thành hình thức nên mặt khách quan
của tội phạm chỉ có một dấu hiệu là hành vi khách quan. Hành vi khách quan
của tội hành hạ người khác là hành vi đối xử tàn ác gây đau đớn về thể xác và
tinh thần cho người bị lệ thuộc nhưng chưa gây thương tích hoặc tổn hại cho
sức khỏe hoặc có hậu quả thương tích, tổn hại cho sức khỏe của người lệ
thuộc nhưng tỷ lệ tổn hại khơng đáng kể. Xét về hình thức thì hành vi hành hạ
người lệ thuộc thể hiện dưới dạng hành động phạm tội, nghĩa là hành vi đối
xử mang tính chất độc ác, tàn bạo đối với người lệ thuộc làm cho họ đau đớn
về mặt thể xác, đau khổ về mặt tinh thần. Trong thực tế thì hành vi hành hạ
thường kéo dài, có thể được lặp lại nhiều lần trong ngày, kéo dài trong nhiều
ngày, nhiều tuần hoặc thậm chí kéo dài hàng tháng, hàng năm. Điều 110
BLHS không quy định thời gian hành hạ kéo dài trong bao lâu và cũng chưa
có văn bản cụ thể nào của các cơ quan tố tụng Trung ương hướng dẫn về tội
này nên trong thực tiễn một số tác giả nghiên cứu khoa học luật hình sự
thường cho rằng hành vi hành hạ phải diễn ra và lặp lại nhiều lần trong một
thời gian nhất định thì mới truy cứu TNHS về tội hành hạ người khác (24).
Hành vi đối xử tàn ác với người lệ thuộc chỉ mang tính chất hành hạ,
khơng gây thương tích hay tổn hại về sức khỏe của người bị hại, nếu hành vi
hành hạ làm cho người bị hại bị thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe thì
người phạm tội sẽ bị truy cứu TNHS về tội gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe người khác theo Điều 104 BLHS, nếu hành vi hành hạ làm cho
người bị hại tự sát thì người phạm tội sẽ bị truy cứu TNHS về tội bức tử theo
Điều 100 BLHS.
Tội hành hạ người khác có cấu thành hình thức vì vậy thời điểm tội

phạm hoàn thành là khi người phạm tội có hành vi đối xử tàn ác với người lệ
thuộc mình mà khơng cần phải có hậu quả xảy ra. Tội hành hạ người khác có
cấu thành khá đơn giản, khơng có các biểu hiện của cơng cụ, phương tiện
cũng như phương pháp, thủ đoạn phạm tội... vì vậy khi truy cứu TNHS một
người nào đó về tội hành hạ người khác thì các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ
cần chứng minh người phạm tội có hành vi đối xử tàn ác với người lệ thuộc
mình cịn việc họ có sử dụng cơng cụ, phương tiện hoặc thủ đoạn gì để thực
24

Xem: Đinh Văn Quế (2006) Bình luận khoa học BLHS - Phần Các tội phạm,Quyển 1, Nxb TP.HCM, tr.
171; Nguyễn Mạnh Hùng (2011), Thuật ngữ pháp lý, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.76.


15

hiện tội phạm chỉ là tình tiết để đánh giá tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi chứ khơng phải là tình tiết định tội hay định khung hình phạt.
Việc nghiên cứu và làm rõ mặt khách quan của tội hành hạ người khác
sẽ giúp chúng ta đánh giá đầy đủ, chính xác tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội, điều này có ý nhĩa quyết định trong việc định tội danh
và định khung hình phạt. Do đó, nhận thức đúng mặt khách quan của tội hành
hạ người khác sẽ giúp cho việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn đấu tranh
phòng, chống tội phạm này đạt hiệu quả cao.
- Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định
và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể (25).
Chủ thể đặc biệt của tội phạm là người ngoài các dấu hiệu của chủ thể
thường cịn có thêm các dấu hiệu chủ thể đặc biệt khác mà chỉ khi có các dấu
hiệu này họ mới có thể trở thành chủ thể của các tội phạm tương ứng (26).
Chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam là con người cụ thể,

tuy nhiên khơng phải bất kỳ người nào cũng có thể trở thành chủ thể của tội
phạm khi thực hiện hành vi được quy định trong BLHS. Theo quy định của
luật hình sự Việt Nam thì tội phạm phải có tính có lỗi và phải do người có đủ
năng lực TNHS thực hiện. Mặc dù trong luật hình sự Việt Nam khơng quy
định cụ thể như thế nào là người có năng lực TNHS nhưng thông qua những
quy định tại Phần Chung của BLHS thì chúng ta có thể hiểu rằng người có
năng lực TNHS là người phải đạt độ tuổi chịu TNHS theo quy định tại Điều
12 BLHS và không thuộc các trường hợp trong tình trạng khơng có năng lực
TNHS theo quy định tại khoản 1 Điều 13 BLHS.
Tội hành hạ người khác là một tội phạm cụ thể, vì vậy chủ thể của tội
hành hạ người khác phải thỏa mãn các dấu hiệu của chủ thể thơng thường, đó
là: người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, ngồi hai dấu hiệu chung nêu trên thì tội hành hạ người khác là
một trong những tội phạm đòi hỏi chủ thể thực hiện tội phạm phải là chủ thể
đặc biệt đó là: chủ thể của tội phạm phải là người mà nạn nhân bị lệ thuộc về
mặt vật chất hoặc tinh thần, chỉ khi nào người phạm tội thoả mãn dấu hiệu
này mới trở thành chủ thể của tội hành hạ người khác. Mối quan hệ lệ thuộc
25
26

Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd (1), tr. 114.
Trường Đại học Luật TP.HCM, tlđd (2), tr. 146.


16

giữa nạn nhân và người phạm tội thường xuất phát do quan hệ xã hội như:
quan hệ công tác, quan hệ thầy trò, quan hệ giữa người làm thuê với chủ hoặc
quan hệ về tín ngưỡng, tơn giáo…. Các quan hệ lệ thuộc khác do hơn nhân,
gia đình, huyết thống, nuôi dưỡng hoặc quan hệ phụ thuộc giữa cấp trên với

cấp dưới trong lực lượng vũ trang không thuộc phạm vi điều chỉnh của điều
luật này.
Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi hành hạ người lệ
thuộc được quy định tại Điều 110 BLHS thì mức cao nhất của khung hình
phạt áp dụng đối với tội hành hạ người khác là đến ba năm tù, đối chiếu với
quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS thì tội hành hạ người khác là tội phạm ít
nghiêm trọng, vì vậy chỉ có người từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu TNHS
khi phạm tội hành hạ người khác.
- Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người
phạm tội liên quan tới việc thực hiện tội phạm. Mặt chủ quan của tội phạm
bao gồm: lỗi, động cơ phạm tội, mục đích phạm tội(27). Trong đó lỗi được
phản ánh trong tất cả các tội phạm và là dấu hiệu bắt buộc trong mọi cấu
thành tội phạm, còn mục đích phạm tội và động cơ phạm tội chỉ là dấu hiệu
đặc trưng của một số tội phạm cụ thể chứ không phải là dấu hiệu bắt buộc
trong mọi cấu thành tội phạm.
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của tội hành hạ người khác là
dấu hiệu lỗi. Đây là tội phạm được thực hiện hoàn toàn do lỗi cố ý, người
phạm tội thực hiện hành vi đối xử tàn ác với người lệ thuộc để hành hạ, làm
cho họ đau đớn về mặt thể xác, đau khổ về mặt tinh thần vì vậy lỗi của người
phạm tội ln là lỗi cố ý. Động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc
và khơng có ý nghĩa định tội đối với tội hành hạ người khác vì trong thực tế
thì người phạm tội có thể bị thúc đẩy bởi nhiều động cơ khác nhau.
Như vậy, việc xác định dấu hiệu pháp lý của tội hành hạ người khác
đóng vai trị rất quan trọng vì nó sẽ là cơ sở để xác định được tội danh trên
thực tế.

27

Trường Đại học Luật TP.HCM, tlđd (2), tr. 152



17

1.1.2.3. Các dấu hiệu định khung hình phạt.

Điều 110 BLHS quy định 02 khoản, khoản 1 là cấu thành tội phạm cơ
bản quy định các dấu hiệu định tội còn khoản 2 là cấu thành tăng nặng. Khoản
2 là khoản quy định các tình tiết định khung tăng nặng như: phạm tội đối với
người già, trẻ em, phụ nữ có thai hoặc người tàn tật; hoặc phạm tội đối với
nhiều người. Theo quy định tại Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12-052006 thì:
Người già được xác định là người từ 70 tuổi trở lên;
Trẻ em được xác định là người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 1
của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em;
Phụ nữ có thai được xác định bằng các chứng cứ chứng minh là người
phụ nữ đó đang mang thai, như: bị cáo và mọi người đều nhìn thấy được hoặc
bị cáo nghe được, biết được từ các nguồn thông tin khác nhau về người phụ
nữ đó đang mang thai. Trong trường hợp thực tế khó nhận biết được người
phụ nữ đó đang mang thai hay không hoặc giữa lời khai của bị cáo và người
bị hại về việc này có mâu thuẫn với nhau thì để xác định người phụ nữ đó có
thai hay không hải căn cứ vào kết luận của cơ quan chuyên môn y tế hoặc kết
luận giám định (28).
Hiện nay chưa có văn bản chính thức nào của các cơ quan tư pháp
Trung ương hướng dẫn cụ thể về người tàn tật. Tuy nhiên, theo quy định tại
khoản 1 Điều 2 Luật người khuyết tật năm 2010 thì: “Người khuyết tật là
người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức
năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động sinh hoạt, học tập gặp
khó khăn”. Như vậy, chúng ta có thể hiểu người khuyết tật là người bị khiếm
khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể, không đủ khả năng tự vệ...
Người già, trẻ em, phụ nữ có thai và người tàn tật là những đối tượng

có thể trạng yếu nên dễ bị tội phạm xâm hại vì khơng có khả năng tự vệ hoặc
khả năng tự vệ bị hạn chế, do đó pháp luật nói chung và luật hình sự nói riêng
ln có chính sách ưu tiên để bảo vệ đặc biệt đối với những đối tượng này. Vì
vậy, những hành vi phạm tội đối với người già, trẻ em, phụ nữ có thai hoặc
người tàn tật được đánh giá là nghiêm trọng hơn và được quy định thành tình
tiết tăng nặng TNHS.
28

Mục 2, Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/05/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng
dẫn áp dụng một số quy định của BLHS.


18

Tội hành hạ người khác được thực hiện với lỗi cố ý, vì vậy đối với
các trường hợp phạm tội nêu trên đều khơng phải là tình tiết thuộc ý thức chủ
quan của người phạm tội nên Điều 110 BLHS chỉ quy định là người nào
phạm tội đối với một trong những đối tượng nêu trên thì sẽ bị truy cứu
TNHS theo điểm a khoản 2 Điều 110 BLHS mà không phụ thuộc vào ý thức
chủ quan của người phạm tội có nhận thức hay khơng nhận thức được
người mà họ hành hạ là người già, trẻ em, phụ nữ có thai, người tàn tật.
Phạm tội đối với nhiều người là trường hợp người phạm tội thực hiện
hành vi đối xử tàn ác với từ hai người lệ thuộc trở lên trong cùng một
khoảng thời gian hoặc trong những khoảng thời gian khác nhau.
1.1.2.4. Hình phạt của tội hành hạ người khác

Điều 110 BLHS quy định 03 loại hình phạt: cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ và phạt tù, cụ thể như sau:
Đối với cấu thành cơ bản ở khoản 1 thì điều luật quy định mức hình
phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng

đến hai năm.
Đối với các trường hợp phạm tội với người già, trẻ em, phụ nữ có thai
hoặc người tàn tật hoặc phạm tội đối với nhiều người thuộc cấu thành tăng
nặng tại khoản 2 thì điều luật quy định hình phạt tù từ một năm đến ba năm.
Căn cứ vào mức hình phạt tù được quy định tại Điều 110 BLHS cho
thấy quan điểm của các nhà làm luật coi tội hành hạ người khác là một tội
phạm ít nghiêm trọng và có mức độ nguy hiểm khơng lớn cho xã hội, vì vậy
mức hình phạt quy định đối với tội phạm này cũng ít nghiêm khắc hơn so với
các tội phạm khác.
1.2. Phân biệt tội hành hạ ngƣời khác trong luật hình sự Việt Nam với
một số tội phạm khác
1.2.1. Phân biệt tội hành hạ người khác với tội ngược đãi hoặc hành hạ ông
bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có cơng ni dưỡng mình (Điều 151 BLHS)

Điều 151 BLHS quy định về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha
mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có cơng ni dưỡng mình như sau:
Người nào ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con,
cháu hoặc người có cơng ni dưỡng mình gây hậu quả nghiêm trọng hoặc
đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà cịn vi phạm, thì bị phạt cảnh


19

cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba
năm.
Như vậy, nội dung Điều 151 BLHS quy định bao gồm hai tội:
+ Tội ngược đãi ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có cơng
ni dưỡng mình;
+ Tội hành hạ ơng bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có cơng
ni dưỡng mình;

Giữa tội hành hạ người khác và tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha
mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có cơng ni dưỡng mình có những điểm
giống nhau và khác nhau như sau:
- Điểm giống nhau: hành vi hành hạ ở cả hai tội phạm này đều do chủ
thể có năng lực chịu TNHS và từ đủ 16 tuổi trở lên thực hiện, mặt chủ quan
của tội phạm đều được thực hiện với lỗi cố ý. Hình phạt của hai tội này trong
BLHS cũng được quy định tương đương nhau với mức cao nhất là phạt tù
đến ba năm.
- Điểm khác nhau:
Về khách thể: khách thể của tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha
mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có cơng ni dưỡng mình là chế độ hôn
nhân tiến bộ được pháp luật quy định và nghĩa vụ giữa các thành viên trong
gia đình. Đối tượng tác động của tội phạm này là những người có quan hệ với
người phạm tội về mặt hôn nhân, gia đình, huyết thống, ni dưỡng; trong khi
đó khách thể của tội hành hạ người khác là sức khỏe của người có quan hệ lệ
thuộc vào người phạm tội. Như vậy, khách thể của tội ngược đãi hoặc hành hạ
ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có cơng ni dưỡng mình khác
với khách thể của tội hành hạ người khác.
Về mặt khách quan: hành vi ngược đãi hoặc hành hạ ơng bà, cha mẹ, vợ
chồng, con, cháu, người có cơng ni dưỡng mình phải gây ra hậu quả
nghiêm trọng hoặc người thực hiện hành vi trước đó đã bị xử phạt hành chính
về hành vi này mà cịn vi phạm thì mới cấu thành tội phạm, cịn đối với tội
hành hạ người khác thì chỉ cần chủ thể thực hiện hành vi đối xử tàn ác với
người lệ thuộc là đã cấu thành tội phạm.
Về mặt chủ thể: chủ thể của tội hành hạ người khác là những người
mà nạn nhân bị lệ thuộc về vật chất hoặc tinh thần trong quan hệ cơng
tác, quan hệ thầy trị, quan hệ giữa người làm thuê với chủ hoặc quan hệ về tín



×