Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (915.79 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

VÕ THỊ THU LAN

TỘI GÂY Ơ NHIỄM MƠI TRƢỜNG TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự - Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ PHƢƠNG HOA

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN

Xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi.
Khơng có sự sao chép gian lận ở bất kỳ cơng trình nào khác.
Các số liệu nêu trong khóa luận là trung thực.
Người cam đoan

Võ Thị Thu Lan


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

- Bộ luật dân sự:
- Bộ luật hình sự:
- Bảo vệ mơi trường:


- Quy chuẩn Việt Nam:
- Thông tư liên tịch:

BLDS
BLHS
BVMT
QCVN
TTLT


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1

Thống kê danh mục các văn bản liên quan đến công tác BVMT giai đoạn
trước BLHS năm 1985 được ban hành

Bảng 1.2

Thống kê số vụ vi phạm pháp luật về môi trường do lực lượng Cảnh sát

Bảng 1.3

môi trường phát hiện từ năm 2010 đến tháng 6/2013
Thống kê số vụ vi phạm pháp luật về nước thải, khí thải, chất thải nguy
hại do lực lượng Cảnh sát môi trường phát hiện từ năm 2010 đến tháng
6/2013

Bảng 1.4

Thống kê số vụ khởi tố tội phạm về môi trường từ năm 2010 đến tháng

6/2013

Bảng 1.5

Thống kê số vụ đã xử phạt VPHC và tổng số tiền phạt, truy thu phí
BVMT từ năm 2010 đến tháng 6/2013

Bảng 1.6
Bảng 1.7
Bảng 1.8

Các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường
Thống kê danh mục văn bản hướng dẫn tình tiết “gây hậu quả nghiêm
trọng” trong một số tội của BLHS
Mẫu phiếu điều tra xã hội học

Bảng 1.9

Tổng hợp kết quả điều tra xã hội học


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1. NHẬN THỨC VỀ TỘI GÂY Ô NHIỄM MƠI
TRƢỜNG…..................................................................................................
1.1. Khái niệm mơi trƣờng và tội gây ơ nhiễm môi trƣờng………………
1.1.1. Khái niệm môi trường………………………………………………....
1.1.2. Khái niệm tội gây ô nhiễm môi trường………………………………..
1.2. Lịch sử quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây ơ

nhiễm mơi trƣờng...........................................................................................
1.2.1. Các quy định trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985………………...
1.2.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1985………………………………
1.3. Pháp luật hình sự của một số nƣớc về tội gây ơ nhiễm mơi
trƣờng………………………………………………………………………..
1.3.1. Pháp luật hình sự của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về tội gây ơ
nhiễm mơi trường…………………………………………………………….
1.3.2. Pháp luật hình sự của Liên bang Nga về tội gây ô nhiễm môi
trường...............................................................................................................
1.3.3. Pháp luật hình sự của Cộng hịa Liên bang Đức về tội gây ô nhiễm
môi trường……………………………………………………………………
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ
LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA BỘ LUẬT HÌNH
SỰ NĂM 2009 VỀ TỘI GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT…………………………………………….
2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng pháp
luật…………………………………………………………………………...
2.1.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999………………………………
2.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật…………………………………………..
2.1.3. Những hạn chế trong quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các
tội gây ơ nhiễm mơi trường…………………………………………………..
2.2. Quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình
sự năm 2009 và thực tiễn áp dụng pháp luật……………………………...
2.2.1. Quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự
năm 2009……………………………………………………………………..

Trang
01
07
07

07
11
14
15
16
19
20
22
26

32
32
32
36
39
40
40


2.2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật…………………………………………..
2.2.3. Những hạn chế trong quy định của pháp luật hình sự hiện hành……..

47
49

CHƢƠNG 3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ
GIỚI VÀ KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG……………..

55


3.1. Kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới liên quan đến những
hạn chế trong quy định hiện hành của pháp luật hình sự Việt Nam về
tội gây ô nhiễm môi trƣờng………………………………………………...
3.1.1. Quy định về mặt khách quan của tội phạm……………………………
3.1.2. Quy định về chủ thể của tội phạm…………………………………….
3.1.3. Quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự…………….
3.1.4. Quy định về hình phạt…………………………………………………
3.2. Kiến nghị hồn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây ô
nhiễm môi trƣờng………………………………...........................................
3.2.1. Kiến nghị hồn thiện quy định của Bộ luật hình sự về chủ thể của tội
phạm …………………………………………………………………………
3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về hình phạt……..
3.2.3. Kiến nghị ban hành văn bản hướng dẫn thi hành về khái niệm cơ
bản, các dấu hiệu hậu quả trong cấu thành cơ bản và tình tiết tăng nặng …
KẾT LUẬN ………………………………………………………………..

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

55
55
56
57
57
59
60
62
66
70



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm về mơi trường có những diễn
biến phức tạp. Trên thế giới đã biểu hiện rõ hiện tượng dịch chuyển ô nhiễm xuyên
biên giới từ các nước phát triển sang các nước đang và kém phát triển, thông qua
các hoạt động đầu tư, chuyển giao công nghệ, xuất nhập khẩu... Lợi dụng chủ
trương mở cửa, chính sách thu hút vốn đầu tư của Nhà nước cùng với những sơ hở
về pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường của Việt Nam, nhiều nhà đầu tư trong
và ngoài nước đã đầu tư các dự án sản xuất, kinh doanh, nhưng không chú trọng
việc xây dựng các hệ thống xử lý chất thải hoặc có hệ thống xử lý chất thải nhưng
cố tình vi phạm. Vi phạm pháp luật môi trường đã, đang và sẽ diễn ra trong nhiều
lĩnh vực kinh tế, xã hội, ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển bền vững của đất nước,
xâm phạm nghiêm trọng đến đời sống của nhân dân.
Kể từ khi thành lập (11/2006) đến tháng 6 năm 2013, lực lượng Cảnh sát
phịng, chống tội phạm về mơi trường đã phát hiện, điều tra, khám phá hơn 30.0001
vụ vi phạm pháp luật và tội phạm về môi trường (kết quả phát hiện, xử lý năm sau
đều cao hơn năm trước, tăng khoảng 20% - 27%); trong đó, có nhiều vụ án lớn,
tính chất nghiêm trọng, đe dọa tính mạng, sức khỏe của nhân dân, gây bức xúc kéo
dài trong xã hội, điển hình như: Cơng ty cổ phần Vedan, Cơng ty Tungkuang, Công
ty cổ phần thuộc da Hào Dương...
Sự nghiệp BVMT hiện nay đã trở thành nhu cầu cấp thiết của mỗi quốc gia,
mỗi khu vực và mang tính tồn cầu. Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam năm 1985
đã tội phạm hóa các hành vi gây ơ nhiễm mơi trường tại Điều 195 quy định về tội vi
phạm các quy định về bảo vệ môi trường (BVMT) gây hậu quả nghiêm trọng. Song
vấn đề BVMT của nước ta được quan tâm thực sự từ những năm 90 của thế kỷ XX
và được đánh dấu bằng sự ra đời của Luật BVMT năm 1993. Tiếp theo đó là sự ra

đời của Chương XVII – các tội phạm về môi trường – của BLHS năm 1999 với 10
điều luật (từ Điều 182 đến Điều 191) đã đánh dấu sự thay đổi cơ bản nhận thức về
vấn đề BVMT của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như của các nhà lập pháp.
Nhằm nhấn mạnh vai trò ngày càng quan trọng của vấn đề môi trường đối với sự
1

Cục Cảnh sát phịng, chống tội phạm về mơi trường – Bộ Cơng an (2013), Báo cáo tổng kết 7 năm (2006 –
2013) cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, tr.8.


2

phát triển của con người, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định đường
lối tiếp tục đổi mới nền kinh tế Việt Nam theo hướng “Tăng trưởng kinh tế đi liền
với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường… Mọi
hoạt động kinh tế được đánh giá bằng hiệu quả tổng hợp về kinh tế, tài chính, xã
hội, mơi trường, quốc phịng và an ninh2”. Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày
15/11/2004 của Bộ Chính trị về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước cũng đã khẳng định: “BVMT vừa là mục tiêu, vừa là một
trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững, phải được thể hiện trong các
chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và
từng địa phương. Khác phục tư tưởng chỉ chú trọng phát triển kinh tế - xã hội mà
coi nhẹ BVMT. Đầu tư cho BVMT là đầu tư cho phát triển bền vững”.
Để các quy định về tội phạm môi trường có khả năng được áp dụng trong
thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLHS 2009 đã tiếp tục sửa đổi bổ sung một số điều trong chương các tội phạm về
môi trường trong BLHS 1999. Theo đó, tội gây ơ nhiễm môi trường được quy định
lần đầu tiên tại Điều 182 BLHS sửa đổi (có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2010), là sự
hợp nhất của 03 tội danh về ô nhiễm môi trường trong BLHS năm 1999 gồm: tội

gây ô nhiễm khơng khí (điều 182), tội gây ơ nhiễm nguồn nước (điều 183) và tội
gây ô nhiễm đất (điều 184). Tuy nhiên, từ khi BLHS sửa đổi có hiệu lực cho đến
nay, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn chưa thể khởi tố được một vụ án, một bị can
nào về tội gây ô nhiễm môi trường. Việc chưa thể khởi tố được tội phạm gây ô
nhiễm môi trường là do: BLHS hiện hành đang quy định cấu thành vật chất đối với
tội gây ô nhiễm môi trường. Trong khi đó, các yếu tố của cấu thành cơ bản và cấu
thành tăng nặng như “vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải ở mức độ
nghiêm trọng”, “làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng” hoặc “gây hậu quả
nghiêm trọng khác”, “làm môi trường bị ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng” hoặc “gây
hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng khác” đều chưa có văn bản hướng
dẫn.
Ngồi ra, BLHS hiện hành chỉ quy định cá nhân (con người cụ thể) là chủ thể
của tội phạm, nhưng đối với các vi phạm pháp luật về BVMT thì các tổ chức có tư
cách pháp nhân và các tổ chức kinh tế khơng có tư cách pháp nhân lại là chủ thể
phổ biến thực hiện hành vi vi phạm. Vì vậy, không thể khởi tố vụ án để xử lý hình
sự trong trường hợp các chủ thể này có dấu hiệu của tội gây ô nhiễm môi trường.

2

Văn kiện Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 89, 92.


3

Chính từ những cơ sở thực tiễn nêu trên, tơi đã chọn nghiên cứu đề tài “Tội
gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm về mơi trường nói chung và
tội gây ơ nhiễm mơi trường nói riêng cịn khá mới mẻ nên những nghiên cứu liên
quan về tội gây ô nhiễm mơi trường vẫn cịn rất ít.

Trước hết phải kể đến là Giáo trình Luật hình sự của Trường Đại học Luật
Hà Nội và Bình luận khoa học BLHS phần Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành
chính, các tội phạm về mơi trường đã phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội gây ơ
nhiễm mơi trường, tiếp đó là các cơng trình nghiên cứu cá nhân như:
Tài liệu chuyên khảo của Tiến sĩ Phạm Văn Lợi (2004), “Tội phạm về môi
trường một số vấn đề lý luận và thực tiễn” đã đi sâu phân tích những luận cứ khoa
học và thực tiễn của việc quy định trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về mơi
trường; đặc điểm đặc trưng của các yếu tố cấu thành tội phạm của các tội phạm môi
trường trong BLHS 1999; thực trạng tội phạm mơi trường và cơng tác đấu tranh
phịng, chống; dự báo khoa học và kiến nghị các biện pháp hồn thiện pháp luật
hình sự và các chun ngành có liên quan, cũng như các biện pháp khác nhằm đấu
tranh phịng, chống tội phạm mơi trường đạt hiệu quả.
Tài liệu chuyên khảo “Pháp luật môi trường Việt Nam – Thực trạng và định
hướng hồn thiện” của Phó Giáo sư – Tiến sĩ Hoàng Thế Liên (2009) nghiên cứu,
đánh giá hoàn thiện về hệ thống pháp luật BVMT hiện hành ở Việt Nam, đề xuất
các giải pháp tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật môi
trường. Tài liệu đã dành 08 trang để khái quát về các tội phạm về môi trường được
quy định trong BLHS năm 1999 và một số điểm mới của Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của BLHS phần các tội phạm về môi trường.
Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Phan Thị Tường Vy (2006), “Pháp
luật mơi trường Việt Nam trong xu hướng thương mại hóa môi trường”, đã nghiên
cứu về pháp luật về môi trường nói chung, thiên về hệ thống các văn bản quản lý
nhà nước và xử phạt vi phạm hành chính.
Nhìn chung, những nghiên cứu trên chỉ đề cập đến các quy định của pháp
luật về BVMT, các tội phạm về môi trường nói chung. Cho đến nay vẫn chưa có
cơng trình nào nghiên cứu chuyên sâu về tội gây ô nhiễm mơi trường. Khóa luận
này đã đi sâu tìm hiểu tồn diện về tội gây ơ nhiễm mơi trường, tìm ra những dấu
hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm, những vấn đề cơ bản về trách nhiệm hình sự
của người phạm tội, đồng thời phát hiện những điểm bất hợp lý trong các quy định



4

đó, đưa ra những kiến cá nhân nhằm hồn thiện quy định pháp luật hình sự về tội
gây ơ nhiễm mơi trường.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm đưa ra những kiến nghị hoàn thiện
quy định của BLHS hiện hành về tội gây ơ nhiễm mơi trường.
Để đạt được mục đích trên, Luận văn sẽ thực hiện các nhiệm vụ:
- Làm rõ khái niệm về môi trường, ô nhiễm môi trường, gây ô nhiễm môi
trường và tội gây ô nhiễm môi trường.
- Phân tích nội dung quy định hiện hành về tội gây ơ nhiễm mơi trường theo
luật hình sự Việt Nam và luật hình sự của một số quốc gia (Trung Quốc, Nga và
Đức) để thấy được những ưu điểm và hạn chế trong quy định của luật hình sự Việt
Nam, cũng như những ưu điểm trong quy định của các quốc gia.
- Tìm hiểu và đánh giá thực trạng xử lý hình sự đối với tội gây ơ nhiễm môi
trường của các cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra.
- Trên cơ sở nghiên cứu nền tảng lý luận, quy định của luật hình sự Việt Nam
hiện hành về tội gây ô nhiễm môi trường, thực tiễn áp dụng pháp luật của các cơ
quan có thẩm quyền cũng như những ưu điểm trong quy định của luật hình sự của
một số quốc gia (Trung Quốc, Nga và Đức), đề tài đưa ra một số kiến nghị nhằm
góp phần hồn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây ô nhiễm
môi trường.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định của luật hình sự Việt Nam và
luật hình sự của một số nước về tội gây ô nhiễm môi trường; thực tiễn áp dụng các
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây ô nhiễm môi trường.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:

Do các quốc gia Liên bang Nga, Cộng hòa nhân dân Trung Quốc và Cộng
hịa liên bang Đức đều hình sự hóa các hành vi gây ơ nhiễm mơi trường bằng quy
định cụ thể trong BLHS của quốc gia mình và các quốc gia này đều quy định BLHS
là nguồn quan trọng và cơ bản của luật hình sự như Việt Nam. Vì vậy nghiên cứu
quy định của luật hình sự của các quốc gia này trong sự so sánh với quy định của
luật hình sự Việt Nam về tội gây ô nhiễm môi trường sẽ thấy được những ưu điểm
cũng như hạn chế của quy định của BLHS Việt Nam hiện hành về tội gây ô nhiễm
môi trường.


5

Cho đến nay, các cơ quan tiến hành tố tụng của nước ta vẫn chưa thể khởi tố
vụ án, khởi tố bị can nào về tội gây ô nhiễm môi trường. Vì vậy, luận văn nghiên
cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây ơ
nhiễm mơi trường từ khi BLHS hình sự hóa các hành vi gây ơ nhiễm mơi trường
đến tháng 6 năm 2013.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên nền tảng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác
– Lênin.
Về phương pháp nghiên cứu cụ thể, Luận văn sử dụng các phương pháp như:
+ Phương pháp lịch sử: Nhằm làm rõ sự hình thành quy định về tội gây ơ
nhiễm mơi trường trong luật hình sự Việt Nam, thấy được sự thay đổi của các quy
định của BLHS qua các đợt sửa đổi, bổ sung BLHS.
+ Phương pháp phân tích, so sánh: nhằm thấy được quy định hiện hành của
luật hình sự Việt Nam về tội gây ô nhiễm môi trường và ưu điểm trong quy định về
tội gây ơ nhiễm mơi trường trong luật hình sự của một số quốc gia (Trung Quốc,
Nga và Đức).
+ Phương pháp thu thập, thống kê, phân tích, tổng hợp, đánh giá số liệu về
xử lý đối với vi phạm pháp luật về BVMT, cơng tác xử lý hình sự đối với tội phạm

gây ô nhiễm môi trường.
+ Phương pháp chuyên gia: tham khảo ý kiến của những người có kinh
nghiệm trong cơng tác đấu tranh, phịng chống vi phạm pháp luật về BVMT.
+ Phương pháp điều tra xã hội học: tham khảo ý kiến của những người công
tác trong lực lượng Cảnh sát phịng chống tội phạm về mơi trường và lực lượng
Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ trực thuộc Bộ Công
an.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Luận văn là cơng trình lần đầu tiên nghiên cứu đi sâu vào phân tích một cách
tồn diện, đầy đủ và có hệ thống quy định về tội gây ô nhiễm môi trường của BLHS
qua các thời kỳ.
Đồng thời luận văn cũng tiếp thu có chọn lọc những quy định tiến bộ của
pháp luật một số quốc gia trên thế giới phù hợp với pháp luật của nước ta, để từ đó
tìm ra những giải pháp nhằm góp phần hồn thiện quy định của BLHS Việt Nam về
tội gây ô nhiễm môi trường và một số chế định có liên quan.
7. Bố cục của luận văn
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn bao
gồm 3 chương với kết cấu như sau:


6

Chương 1. Nhận thức về tội gây ô nhiễm môi trường
Chương 2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật hình sự năm 2009 về tội gây ơ nhiễm môi trường và thực
tiễn áp dụng pháp luật
Chương 3. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và kiến nghị hồn
thiện pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây ô nhiễm môi trường.



7

CHƢƠNG 1
NHẬN THỨC VỀ TỘI GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG
1.1. Khái niệm môi trƣờng và tội gây ô nhiễm môi trƣờng
1.1.1. Khái niệm môi trường
Trong Tiếng Việt, môi trường được hiểu là “tồn bộ nói chung những điều
kiện tự nhiên và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong
mối quan hệ với con người hay sinh vật ấy”3. Đây là cách hiểu gắn với nội hàm về
ngữ nghĩa của một từ vựng trong Tiếng Việt, phản ánh những sắc thái chung của hệ
thống các mối liên hệ được biểu đạt trong nhiều phạm vi khác nhau, như môi trường
xã hội, môi trường sư phạm, môi trường giáo dục, môi trường lao động… Môi
trường chỉ được hiểu với nghĩa hẹp là môi trường sống riêng lẻ của con người hay
môi trường sống của sinh vật chứ khơng phải là mơi trường sống nói chung của cả
con người và sinh vật; chưa thể hiện được mối quan hệ biện chứng giữa con người
với sinh vật, giữa con người với môi trường sống, giữa các môi trường sống với
nhau mà chỉ giới hạn mối quan hệ giữa các đối tượng (con người, sinh vật) trong
cùng một mơi trường sống.
Quan điểm trên đã được cụ thể hóa trong Bách khoa tồn thư về mơi trường:
“Mơi trường là tổng thể các thành tố tự nhiên, xã hội – nhân văn và các điều kiện
tác động trực tiếp hay gián tiếp lên phát triển, lên đời sống và hoạt động của con
người trong thời gian bất kỳ”. Theo định nghĩa này, môi trường được giới hạn là
các yếu tố tác động trực tiếp hay gián tiếp lên sự phát triển, đời sống và hoạt động
của con người trong bất kỳ thời gian nào.
Trong khoa học xã hội, khái niệm mơi trường được tiếp cận dưới nhiều góc
độ với các quan điểm khác nhau. Một số quan điểm rất khái lược như quan điểm
của Albert Einstein: “Môi trường là những gì ngồi tơi ra” hay “Mơi trường là sự
kết hợp tồn bộ hồn cảnh hoặc điều kiện bên ngồi có ảnh hưởng tới sự tồn tại,
phát triển của một thực thể hữu cơ”4. Có quan điểm chỉ ra các bộ phận theo khuynh
hướng phân tích thành phần như định nghĩa của Chương trình mơi trường Liên hiệp

quốc (UNEP): “Mơi trường là tập hợp các yếu tố vật lý, hóa học, sinh học, kinh tế
xã hội, tác động lên từng các cá thể hay cả cộng đồng”, đồng thời cũng có quan
niệm chỉ ra các bộ phận theo khuynh hướng phân tích vị trí của sinh vật đối với mơi
trường đó như cách tiếp cận của Gurdei Rej: “Hoàn cảnh vật lý, hóa học và sinh

3
4

Hồng Phê (2000), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 618.
The American Heritage Dictionary, Boston, 1992, tr.616.


8

học bao quanh sinh vật gọi là môi trường bên ngồi, cịn các điều kiện, hồn cảnh
vật lý, hóa học, sinh học trong cơ thể gọi là môi trường bên trong”5.
Thuật ngữ Trung Quốc gọi mơi trường là “hồn cảnh” đó là từ chính
xác chỉ điều kiện sống của cá thể hoặc quần thể sinh vật. Sinh vật và con người
khơng thể tách rời khỏi mơi trường của mình. Mơi trường nhân văn (Human
environment - môi trường sống của con người) bao gồm các yếu tố vật lý, hóa học
của đất, nước, khơng khí, các yếu tố sinh học và điều kiện kinh tế - xã hội tác động
hàng ngày đến sự sống của con người.
Quan điểm phổ biến hiện nay cho rằng môi trường là sinh quyển, hệ sinh thái
cần thiết cho sự sống tự nhiên của con người; là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên
làm thành đối tượng của lao động sản xuất và hình thành các nguồn lực cần thiết
cho việc sản xuất ra của cải vật chất của con người. Quan điểm này được sử dụng
rộng rãi kể từ sau Hội nghị Stockholm năm 1972 với cách hiểu “Môi trường là
khung cảnh tự nhiên, là ngôi nhà chung của giới sinh vật, là nơi con người sinh
sống, lao động, nghỉ ngơi và giải trí, là nơi hình thành và tích lũy nguồn tài ngun
thiên nhiên”6. Quan điểm này nhấn mạnh vai trị của mơi trường tự nhiên, tính

khơng gian và chức năng của nó đối với sự tồn tại và phát triển của con người, song
lại chưa thể hiện được mối liên hệ giữa con người với thế giới tự nhiên, đặc biệt là
quan hệ có tính xã hội của con người chi phối sự phát triển của tự nhiên, tác động
ảnh hưởng đến sự biến đổi của môi trường tự nhiên.
Một quan điểm gắn với cách nhìn nhận thế giới một cách biện chứng của chủ
nghĩa Mác – Lênin, đó là “mơi trường là khái niệm dùng để chỉ tổng thể các yếu tố
vật chất, tự nhiên và nhân tạo bao quanh con người có quan hệ mật thiết với nhau
và quan hệ đến đời sống của con người”7. Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin cho rằng sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người chịu sự tác động bởi
điều kiện địa lý, dân số và phương thức sản xuất trong điều kiện cụ thể nhất định,
quan điểm như trên về môi trường chia thành ba nhân tố cấu thành là môi trường tự
nhiên, môi trường xã hội và kinh tế.
+ Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hóa học,
sinh học, tồn tại ngồi ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu sự tác động
của con người. Môi trường tự nhiên cho ta khơng khí để thở, đất để xây dựng nhà
cửa, trồng cây, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản
5

Lê Huy Bá (2010), Giáo trình mơi trường học cơ bản, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM, tr.02.
Học viện Hành chính quốc gia (2006), Giáo trình quản lý Nhà nước về khoa học cơng nghệ và tài nguyên
môi trường, NXB Giáo dục, Hà Nội, trang 81.
7
Nguyễn Văn Ngừng (2004), Một số vấn đề về BVMT với phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội, tr.17.
6


9

cần thiết cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải, cung
cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú. Một

bộ phận đặc biệt của môi trường tự nhiên là môi trường nhân tạo, bao gồm tất cả
các nhân tố do con người tạo nên hoặc biến đổi môi trường tự nhiên ở một mức độ
nhất định phục vụ cho nhu cầu của con người. Nói đến mơi trường nhân tạo là nói
đến hệ thống vật chất đã có sự tác động của con người một cách trực tiếp ở những
mức độ khác nhau, có sự thay đổi hình thái, cấu trúc so với dạng tồn tại trong thiên
nhiên của nó và từ mức độ vật thể đến mức độ nguyên tử, song đều mang đặc trưng
chung là gắn bó với sự tồn tại của con người và tác động đến sự phát triển của họ.
+ Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ giữa con người với con người.
Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định… ở các cấp khác nhau.
Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất
định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của
con người khác với sinh vật khác.
+ Môi trường kinh tế là một bộ phận đặc thù của môi trường xã hội, được đặc
trưng bởi các quan hệ giữa con người và tự nhiên cũng như quan hệ giữa con người
và con người nhằm khai thác tự nhiên, cải tạo thế giới khách quan phục vụ cho sự
tồn tại của con người. Môi trường kinh tế gắn liền với vấn đề đảm bảo và duy trì lợi
ích của con người trong mối quan hệ với tự nhiên và giữa con người với nhau, trong
đó sự hài hịa lợi ích là cơ sở để mơi trường kinh tế tồn tại bền vững. Tuy nhiên,
môi trường kinh tế thường không được xem là bộ phận tách rời khỏi môi trường xã
hội, do mối quan hệ giữa con người với nhau ln bao gồm yếu tố lợi ích, chịu sự
chi phối chặt chẽ bởi lợi ích mà lợi ích kinh tế là yếu tố cốt lõi.
Trong khoa học pháp lý, các quan điểm về khái niệm môi trường khá đa
dạng, song phần lớn các quan điểm đều thống nhất ở nội dung khái niệm môi
trường được hiểu như là mối liên hệ giữa con người và tự nhiên, trong đó mơi
trường được hiểu như là những yếu tố, hồn cảnh và điều kiện tự nhiên bao quanh
con người.
Điều 1 và Điều 2 Luật BVMT của Việt Nam năm 1993 quy định: môi trường
bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có quan hệ mật thiết với
nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời
sống,

sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên. Thành phần môi
trường là một thể thống nhất bao gồm nhiều yếu tố tạo thành môi trường: khơng
khí, nước, đất, âm thanh, ánh sáng, lịng đất, núi, rừng, sông hồ, biển, sinh vật, các
hệ sinh thái, các khu dân cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, cảnh quang
thiên nhiên, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử và các hình thái vật chất khác Các


10

yếu tố của mơi trường có quan hệ với nhau hết sức chặt chẽ. Bất kỳ một sự thay đổi
nào của một yếu tố trong môi trường đều ảnh hưởng đến các yếu tố khác và biến đổi
đến toàn bộ môi trường, đến cân bằng sinh thái.
Điều 3 Luật BVMT Việt Nam năm 2005 quy định: môi trường bao gồm các
yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời
sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật. So với khái niệm về
môi trường theo Luật BVMT Việt Nam năm 1993, khái niệm này lược bỏ đi cụm từ
“có quan hệ mật thiết với nhau” và thay thế cụm từ “thiên nhiên” bằng cụm từ
“sinh vật”.Theo định nghĩa này, con người và môi trường (các yếu tố tự nhiên và
vật chất) có mối quan hệ mật thiết với nhau, con người trở thành trung tâm trong
mối quan hệ với môi trường. Quan điểm này đề cập đến môi trường sống của con
người một cách khá rộng, trong đó nhấn mạnh đến mơi trường tự nhiên (bao gồm
mơi trường thiên nhiên và môi trường nhân tạo), thể hiện thái độ tích cực trong việc
giải quyết mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, góp phần thúc đẩy sự phát
triển bền vững của con người hài hòa với quy luật vận hành của tự nhiên. Song quan
điểm này hạn chế ở chỗ dùng cụm từ “yếu tố tự nhiên” chưa thật rõ nghĩa, vì bản
thân những yếu tố có nguồn gốc tự nhiên cũng chính là vật chất, chứ không phải là
yếu tố phi vật chất. Hơn nữa, cụm từ “có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn
tại, phát triển của con người và sinh vật” bản thân nó đã bao hàm ý nghĩa “bao
quanh con người” và mơ tả rất chi tiết vai trị của môi trường đối với sự tồn tại và
phát triển của con người nhưng chưa làm rõ được sự tác động của con người lên

mơi trường.
Từ những phân tích trên, dưới khía cạnh nghiên cứu tội phạm gây ơ nhiễm
mơi trường, theo quan điểm tác giả “môi trường bao gồm các yếu tố vật chất tự
nhiên và nhân tạo, có tác động qua lại đối với sự tồn tại và phát triển của con
người”.
Như vậy, môi trường là một hệ thống các yếu tố có mối liên hệ chặt chẽ với
sự tồn tại và phát triển của con người. Đây là một hệ thống có cấu trúc rất phức tạp
bao gồm nhiều thành phần với bản chất khác biệt và chịu sự chi phối bởi các quy
luật vận động khác nhau; là một hệ thống vận động liên tục, luôn thay đổi trong cấu
trúc, trong quan hệ tương tác giữa các thành phần cũng như trong từng thành phần,
vừa có tính cân bằng song vừa có tính biến đổi khơng ngừng. Mơi trường cịn là
một hệ thống được đặc trưng bởi “tính mở”, liên tục đón nhận và trao đổi năng
lượng, thông tin giữa những không gian và thời gian khác nhau, chuyển hóa khơng
ngừng giữa các trạng thái, đồng thời giao lưu liên tục với các hệ thống có liên quan.


11

Đặc biệt là, mơi trường có khả năng tự tổ chức và tự điều chỉnh rất cao để thích nghi
với những tác động nếu có nhằm duy trì sự ổn định (một cách tương đối).
Đối với sự tồn tại và phát triển của con người, mơi trường có ba chức năng
cơ bản. Thứ nhất, môi trường là không gian sống của con người. Thứ hai, môi
trường cung cấp nguồn tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất
của con người. Thứ ba, môi trường chứa đựng và phân hủy các chất thải do con
người tạo ra trong cuộc sống và hoạt động sản xuất của mình. Các chức năng này
của môi trường đảm bảo sự tồn tại của con người một cách bình thường và tích cực,
góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của con người. Nếu các chức năng này
không được đảm bảo, con người sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc duy trì và
phát triển sự sống của mình. Thậm chí có nguy cơ suy thoái và đi đến diệt vong.
1.1.2. Khái niệm tội gây ô nhiễm môi trường

Để làm rõ khái niệm tội gây ơ nhiễm mơi trường có hai vấn đề cần phải làm
sáng tỏ đó là khái niệm tội phạm và khái niệm ô nhiễm môi trường.
Khoản 1 Điều 8 BLHS đã nêu định nghĩa pháp lý về tội phạm. Từ quy định
mang tính định hướng này có thể rút ra các đặc điểm của tội phạm một cách khái
quát như sau: “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình
sự và phải chịu hình phạt”8.
Trên thế giới, ơ nhiễm mơi trường được hiểu là việc chuyển các chất thải
hoặc năng lượng vào mơi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức khoẻ con
người, đến sự phát triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường. Các tác
nhân ô nhiễm bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải), lỏng (nước thải), rắn
(chất thải rắn) chứa hố chất hoặc tác nhân vật lý, sinh học và các dạng năng lượng
như nhiệt độ, bức xạ. Tuy nhiên, môi trường chỉ được coi là bị ơ nhiễm nếu trong
đó hàm lượng, nồng độ hoặc cường độ các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng
tác động xấu đến con người, sinh vật và vật liệu.
Dưới các góc độ nghiên cứu khác nhau, các ngành khoa học có các khái niệm
khác nhau về ơ nhiễm mơi trường.
+ Dưới góc độ sinh học, ơ nhiễm mơi trường chỉ tình trạng của mơi trường
trong đó những chỉ số hóa học, lý học của nó bị thay đổi theo chiều hướng xấu đi9.
+ Dưới góc độ kinh tế học, ơ nhiễm mơi trường là sự thay đổi khơng có lợi
cho mơi trường sống về các tính chất vật lý, hóa học, sinh học, mà qua đó có thể

8

Nguyễn Ngọc Hồ (2000), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, NXB Cơng an nhân dân, Hà Nội, tr.33.
Chu Thu Hiền (2011), Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường theo pháp luật dân sự Việt Nam,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.8.
9


12


gây tác hại tức thời hoặc lâu dài đến sức khỏe của con người, các loài động thực vật
và các điều kiện sống khác10.
+ Dưới góc độ pháp lý, tại khoản 6 Điều 3 Luật BVMT năm 2005 quy định:
ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp
với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật . Trong đó,
tiêu chuẩn mơi trường là giới hạn cho phép của các thông số về chất lượng môi
trường xung quanh, về hàm lượng của chất gây ô nhiễm (là chất hoặc yếu tố vật lý
khi xuất hiện trong môi trường thì làm cho mơi trường bị ơ nhiễm) trong chất thải
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định làm căn cứ để quản lý và BVMT.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 92 Luật BVMT, căn cứ để xác định khu vực
môi trường bị ô nhiễm là trường hợp hàm lượng một hoặc nhiều chất gây ô nhiễm
vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường. Mặt khác, theo quy định tại khoản 2
mục II Thông tư số 07/2007/TT-BTNMT ngày 03/7/2007 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường hướng dẫn phân loại và quyết định danh mục cơ sở gây ơ nhiễm mơi
trường cần phải xử lý thì tiêu chí để phân loại cơ sở gây ơ nhiễm mơi trường là cơ
sở không thuộc một trong các trường hợp nêu tại khoản 1 mục II (tiêu chí phân loại
cơ sở gây ơ nhiễm mơi trường nghiêm trọng) mà có 01 (một) thông số môi trường
trở lên về nước thải, khí thải, tiếng ồn, độ rung vượt tiêu chuẩn Việt Nam về mơi
trường.
Như vậy, ơ nhiễm mơi trường có thể được hiểu là sự biến đổi của các thành
phần của mơi trường (đất, nước, khơng khí) khi có ít nhất một thông số của chúng
vượt tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường. Môi trường bị ô nhiễm do các hành vi vi
phạm pháp luật của các tổ chức, cá nhân gây nên và có thể bị xử lý hành chính theo
Nghị định 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 của Chính phủ về xử lý vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực BVMT (có hiệu lực đến hết ngày 29/12/2013) và xử lý VPHC
theo Nghị định 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT (có hiệu lực kể từ ngày 30/12/2013)
hoặc xử lý hình sự khi đủ dấu hiệu cấu thành tội gây ô nhiễm môi trường theo quy
định của BLHS.

Theo quy định tại Điều 92 Luật BVMT năm 2005 thì có ba mức độ ô nhiễm
môi trường:
+ Môi trường bị ô nhiễm trong trường hợp hàm lượng một hoặc nhiều chất
gây ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường.

10

Chu Thu Hiền (2011), Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường theo pháp luật dân sự Việt Nam,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.8.


13

+ Môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng khi hàm lượng của một hoặc nhiều
hoá chất, kim loại nặng vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường từ 3 lần trở
lên hoặc hàm lượng của một hoặc nhiều chất gây ô nhiễm khác vượt quá tiêu chuẩn
về chất lượng môi trường từ 5 lần trở lên.
+ Môi trường bị ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng khi hàm lượng của một hoặc
nhiều hoá chất, kim loại nặng vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường từ 5 lần
trở lên hoặc hàm lượng của một hoặc nhiều chất gây ô nhiễm khác vượt quá tiêu
chuẩn về chất lượng môi trường từ 10 lần trở lên.
Dưới góc độ của pháp luật hình sự, ơ nhiễm mơi trường có thể được hiểu là
sự biến đổi của các thành phần môi trường (đất, nước, khơng khí) khơng phù hợp
với quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường gây ảnh hưởng xấu đến con người
và sinh vật.
Để hiểu rõ khái niệm tội gây ô nhiễm môi trường sau khi đã phân tích khái
niệm về tội phạm và về ô nhiễm môi trường, tác giả xin trao đổi một số quan điểm
về các tội phạm về mơi trường.
Theo Giáo trình giảng dạy của trường Đại học Luật Hà Nội: “Các tội phạm
về môi trường là các hành vi nguy hiểm cho xã hội vi phạm các quy định của Nhà

nước về môi trường, qua đó gây thiệt hại cho mơi trường”11. Khái niệm này có ưu
điểm là rất ngắn gọn, tuy nhiên cũng cịn có một số hạn chế đó là chưa chỉ rõ khách
thể bị xâm hại giúp phân biệt với các tội phạm khác; chưa tạo ra được sự khác biệt
giữa tội phạm về môi trường và hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi
trường, vì hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trường cũng là những
hành vi nguy hiểm cho xã hội vi phạm các quy định của Nhà nước về mơi trường và
có khả năng gây hậu quả bất lợi cho môi trường. Điều này có thể dẫn tới sự hiểu
lầm là tất cả tội phạm về mơi trường đều có cấu thành vật chất do cụm từ “gây thiệt
hại cho môi trường”. Trên thực tế, một số tội phạm về mơi trường có cấu thành
hình thức như: Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người (Điều 186), Tội vi
phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm (Điều 190).
Theo Bình luận khoa học BLHS của Nhà xuất bản Cơng an nhân dân thì “tội
phạm về mơi trường là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do những người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện, xâm hại đến sự ổn định và bền vững của môi trường;
xâm hại đến các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực bảo vệ và quản lý môi
trường, gây ra những hậu quả xấu đối với môi trường sinh thái”12. Trong khái niệm
này có một số hạn chế. Thứ nhất, khái niệm này chưa chỉ ra một đặc trưng hết sức
11
12

Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (2000), NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr.463.
Đinh Văn Quế (2001), Bình luận khoa học BLHS 1999, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr.320.


14

quan trọng của tội phạm nói chung, tội phạm về mơi trường nói riêng, mà được tất
cả các nhà luật học công nhận: “tội phạm là hành vi vi phạm pháp luật hình sự”.
Khái niệm đã nêu có thể bao gồm cả những hành vi vi phạm pháp luật hành chính
trong lĩnh vực mơi trường vì “hành vi nguy hiểm cho xã hội” là đặc trưng chung của

các hành vi vi phạm pháp luật như: vi phạm hành chính, tội phạm. Thứ hai, khái
niệm này có thể gây sự hiểu nhầm giữa đối tượng và khách thể của tội phạm vì “sự
bền vững và ổn định của mơi trường” là đối tượng chung của các tội phạm về môi
trường và việc đưa đối tượng này vào khái niệm là chưa hồn tồn xác đáng vì có
thể dẫn tới đồng nhất với khách thể “các quan hệ xã hội về quản lý và bảo vệ môi
trường”.
Theo Tiến sĩ Phạm Văn Lợi, “Các tội phạm về môi trường là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự quy định, xâm phạm đến các quan hệ xã hội
liên quan đến việc bảo vệ mơi trường tự nhiên thuận lợi, có chất lượng, đến việc sử
dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và việc đảm bảo an ninh sinh thái đối với
dân cư”13. Khái niệm này đã phân biệt được hành vi vi phạm hành chính và hành vi
phạm tội về môi trường, chỉ ra được khách thể bị xâm hại giúp phân biệt với các tội
phạm khác; song định nghĩa này mang tính liệt kê các đối tượng mà tội phạm tác
động và còn phụ thuộc vào phạm vi các tội danh về môi trường mà BLHS đã quy
định.
BLHS Việt Nam không quy định khái niệm tội gây ô nhiễm môi trường, căn
cứ quy định tại Điều 182 BLHS sửa đổi năm 2009 về tội gây ô nhiễm môi trường
thì có thể đưa ra khái niệm “Tội gây ơ nhiễm môi trường là hành vi cố ý thải vào
không khí, nguồn nước, đất các chất gây ơ nhiễm mơi trường, phát tán bức xạ,
phóng xạ vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm trọng
hoặc làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng
khác”.
1.2. Lịch sử quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây ô nhiễm môi
trƣờng
Là công cụ điều tiết xã hội, pháp luật luôn luôn phải chịu sự chi phối của nhu
cầu xã hội. Nhiệm vụ của luật hình sự Việt Nam cũng được xác định trên cơ sở
nhiệm vụ chung của đất nước trong từng giai đoạn cách mạng. Vấn đề môi trường
chỉ thực sự được quan tâm khi Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện đường lối đổi
mới phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Q trình hình
thành quy định tội gây ơ nhiễm mơi trường trong pháp luật hình sự gắn liền với quá

13

Phạm Văn Lợi (2004), Tội phạm về môi trường – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tr.95.


15

trình hình thành quy định các tội phạm về mơi trường, có thể được chia thành các
giai đoạn chính sau
1.2.1. Các quy định trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985
Từ năm 1945 đến năm 1954, dân tộc Việt Nam vừa trải qua 80 năm tranh
đấu giành độc lập, thốt khỏi vịng áp bức của chính sách thực dân, gạt bỏ chế độ
vua quan để khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bước vào cuộc kháng
chiến chống Pháp giải phóng miền Bắc. Ngay trong lời nói đầu của Hiến pháp 1946
đã khẳng định: “Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ,
giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”. Pháp luật
hình sự nước ta trong giai đoạn này đã có những quy định về tội phạm và sử dụng
hình phạt để trừng trị những hành vi xâm phạm đến những lợi ích thiêng liêng đã
được Hiếp pháp quy định, nhưng chưa có quy định nào về tội gây ô nhiễm môi
trường.
Từ năm 1954 đến năm 1975, cách mạng ở hai miền Nam, Bắc diễn ra khác
nhau về nội dung và hình thức. Với chiến thắng Điện Biên Phủ và Hội nghị
Giơnevơ thắng lợi, miền Bắc được hồn tồn giải phóng và bước vào xây dựng chủ
nghĩa xã hội, song đất nước vẫn còn chia cắt làm hai miền nên Đại hội lần thứ III
của Đảng họp năm 1960 đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện thống
nhất nước nhà”14. Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước,
mối quan tâm lớn nhất của Đảng ta lúc này là hàn gắn vết thương chiến tranh, phát
triển kinh tế xã hội và thoát ra những khủng hoảng kinh tế xã hội đang hồnh hành

đến năm 1986, khi chính sách đổi mới được khởi xướng. Mặt khác, tình trạng ơ
nhiễm trong các đơ thị và vùng nông thôn chưa đến mức báo động, do các ngành
công nghiệp chưa được phát triển mạnh, chưa áp dụng cơng nghiệp hóa hiện đại hóa
vào sản xuất nên tình trạng ơ nhiễm mơi trường, suy thối mơi trường chưa phổ
biến và chưa ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân. Vì vậy vấn đề BVMT
trong giai đoạn này chưa được quan tâm nhiều.
Do hoàn cảnh kinh tế xã hội, vấn đề môi trường chưa được nhận thức một
cách đầy đủ, chưa đặt ra yêu cầu BVMT. Mặc dù Nhà nước đã có những ý tưởng về
việc BVMT song việc thể chế hóa các ý tưởng này chưa được toàn diện. Đã xuất
hiện các quy định liên quan đến một số khía cạnh của cơng tác BVMT và chúng
được ban hành chủ yếu trong các văn bản dưới luật như trong các Nghị quyết, Nghị
định, Thông tư, Chỉ thị của Chính phủ (xem phụ lục 1.1). Đến năm 1980, Hiến pháp
đã bước đầu đặt cơ sở pháp lý quan trọng và cơ bản nhất cho sự điều chỉnh của pháp
14

Văn kiện Đại hội Đảng lao động Việt Nam (1960), Hà Nội, tr.35.


16

luật đối với vấn đề BVMT bởi quy định tại Điều 36: Cơ quan nhà nước, xí nghiệp,
hợp tác xã, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân đều có nghĩa vụ thực hiện chính
sách bảo vệ, cải tạo và tái sinh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và cải
thiện môi trường sống.
Như vậy, trước khi BLHS năm 1985 được ban hành đã có những quy định về
tội phạm và sử dụng hình phạt để trừng trị những hành vi xâm phạm đến an ninh
quốc gia và chủ quyền lãnh thổ, nhưng chưa có quy định nào về tội gây ô nhiễm
môi trường.
1.2.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1985
Ở trong nước, khủng hoảng kinh tế xã hội cuối những năm 70 và đầu những

năm 80 đã dẫn đến những cuộc cải cách kinh tế sâu sắc bằng việc xóa bỏ cơ chế tập
trung bao cấp và chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Cùng với sự phục hồi và phát triển của nền kinh tế - xã hội, q trình đơ thị
hóa ngày càng mạnh mẽ, q trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa diễn ra trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội nên mơi trường bắt đầu bị hủy hoại. Tình trạng
chặt phá rừng tràn lan làm đe dọa đến cân bằng sinh thái, tình trạng thải chất thải
chưa qua xử lý trong q trình sản xuất làm cho mơi trường bị ô nhiễm nghiêm
trọng… Những tình trạng trên đã ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân
không chỉ ở hiện tại mà hậu quả còn để lại cho các thế hệ sau.
Hiến pháp 1992 đã đưa việc BVMT thành nghĩa vụ hiến định, làm nền tảng
của các văn bản pháp luật khác. Tại điều 17 Hiến pháp quy định chế độ sở hữu toàn
dân đối với các thành phần môi trường quan trọng: Đất đai, rừng núi, sông hồ,
nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng
trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, cơng trình thuộc
các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hố, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc
phịng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều
thuộc sở hữu toàn dân. Quy định này đã có ảnh hưởng sâu sắc tới địa vị pháp lý của
các chủ thể trong quan hệ pháp luật môi trường, một doanh nghiệp nhà nước hay
doanh nghiệp tư nhân khi thực hiện các hành vi tác động vào một số thành phần môi
trường quan trọng cần phải hiểu rằng họ đang tác động tới sở hữu nhà nước; đồng
thời cũng xác định các thành phần của môi trường bao gồm: đất đai, rừng núi, sông
hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và
vùng trời.
Mặt khác, Điều 29 Hiến pháp 1992 cũng đã xác định nghĩa vụ của các chủ
thể trong việc BVMT: Cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý


17


tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy
kiệt tài nguyên và hủy hoạt mơi trường. Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm
1992, Quốc hội đã ban hành một đạo luật riêng về môi trường là Luật BVMT vào
ngày 27 tháng 12 năm 1993, đã đánh dấu một bước phát triển mới trong nhận thức
của Đảng và Nhà nước về vấn đề BVMT.
Trên thế giới vấn đề BVMT đã vượt qua ranh giới của một quốc gia, một dân
tộc và trở thành vấn đề mang tính tồn cầu. Trong giai đoạn này Việt Nam cũng đã
ký kết và tham gia nhiều Công ước quốc tế về môi trường như: Công ước Viên về
bảo vệ tầng Ozone15 và Nghị định thư Montreal16 (Việt Nam chính thức phê chuẩn
vào ngày 26/1/1994); Cơng ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu17
(Việt Nam đã ký kết tham gia vào ngày 16/11/1994). Việc ký kết và tham gia các
Công ước quốc tế về mơi trường đã thể hiện chính sách hội nhập quốc tế và trách
nhiệm của Việt Nam trong giải quyết vấn đề mơi trường, giúp có thêm cơ sở và
nguồn lực cho công tác BVMT nhưng cũng đặt ra vấn đề nội luật hóa các quy định
để thực hiện được các nội dung về BVMT đã ký kết.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc BVMT bằng pháp luật, đặc biệt là
pháp luật hình sự nhằm xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường
nên lần đầu tiên BLHS năm 1985 đã quy định tội vi phạm các quy định về bảo vệ
môi trường gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 195):
1. Người nào vi phạm các quy định về giữ gìn vệ sinh cơng cộng, về phịng
ngừa và chống dịch bệnh, về bảo vệ môi trường gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị
phạt cải tạo khơng giam giữ đến một năm hoặc bị phạt từ từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ một năm đến
năm năm.
Tội vi phạm các quy định về bảo vệ mơi trường gây hậu quả nghiêm trọng có
các dấu hiệu pháp lí đặc trưng sau:
Khách thể, tội vi phạm các quy định về BVMT gây hậu quả nghiêm trọng
xâm phạm đến các quy định về giữ gìn vệ sinh cơng cộng, về phòng ngừa và chống
dịch bệnh và về BVMT. Đối tượng tác động của tội phạm này tương đối rộng, bao
gồm: vệ sinh cơng cộng, phịng ngừa và chống dịch bệnh và công tác BVMT.

15

Được các quốc gia cùng ký kết vào ngày 22/3/1985, với mục đích nhằm hạn chế sự phát thải của các chất
khí có hại đối với tầng Ozone, đã thiết lập sự kiểm sốt khơng đặc thù về các chất làm suy giảm tầng Ozone.
Đến nay đã có hơn 170 quốc gia phê chuẩn Cơng ước.
16
Được ban hành năm 1987 và được bổ sung nhiều lần vào các năm 1990, 1992, 1995 và 1997, nội dung đề
cập đến các chất làm suy giảm tầng Ozone.
17
Được các quốc gia ký kết tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển ở Rio
de Janeiro, Braxin vào tháng 6/1992. Mục tiêu chính của Công ước nhằm đạt được sự ổn định các nồng độ
khí nhà kính trong khí quyển ở mức có thể, ngăn chặn được sự can thiệp nguy hiểm của con người đối với hệ
thống khí hậu nhằm bảo vệ hệ thống khí hậu cho hơm nay và thế hệ mai sau của nhân loại.


18

Mặt khách quan được thể hiện ở các dấu hiệu sau:
+ Hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về BVMT sống, phịng ngừa
dịch bệnh, giữ gìn vệ sinh công cộng như việc thải ra sông, hồ và những nơi chứa
nước, các nguồn nước, các nơi công cộng những chất độc hại với số lượng lớn hơn
nhiều so với liều lượng quy định trong các quy phạm đó. Các hình thức làm bẩn
nguồn nước và bầu khí quyển bằng các chất độc hại có thể là: trực tiếp thải vào
sông, hồ và những nguồn nước khác các thứ bẩn, các phế vật của sản xuất công
nghiệp không được làm sạch hoặc chưa làm sạch một cách triệt để, khơng trang bị
cho ống khói những bộ phận lọc bụi, không thường xuyên làm sạch và sửa chữa
những bộ phận này nên không làm sạch các chất thải của sản xuất cơng nghiệp vào
khơng khí, vứt xác súc vật chết, phân, rác ra nơi công cộng với một số lượng lớn
làm ô nhiễm nặng môi trường.
+ Hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nếu

hành vi khách quan chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng như lây lan truyền những
dịch bệnh hoặc làm ô nhiễm mơi trường sống, gây tổn hại đến tính mạng và sức
khỏe của con người… thì người thực hiện hành vi đó chưa phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm này mà tùy trường hợp họ có thể bị xử phạt vi phạm hành
chính.
Mặt chủ quan, tội phạm này được thực hiện do lỗi cố ý. Theo quy định tại
Điều 9 BLHS thì cố ý phạm tội là phạm tội trong trường hợp nhận thức rõ hành vi
của mình có tính chất gây nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó
và mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Người phạm tội nhận
thức rõ hành vi vi phạm các quy định về giữ gìn vệ sinh cơng cộng, về phịng ngừa
và chống dịch bệnh, về bảo vệ mơi trường là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực
hiện.
Chủ thể của tội phạm: Theo quy định tại Điều 58 BLHS thì người từ 14 tuổi
trở lên những chưa đủ 16 tuổi phải trách nhiệm hình sự về những tội phạm nghiêm
trọng do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm. Tội vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường gây hậu quả nghiêm trọng có
mức cao nhất của khung hình phạt là 5 năm tù nên là tội phạm ít nghiêm trọng (theo
quy định tại khoản 2 Điều 8) nên người thực hiện tội phạm là bất kỳ người nào có
năng lực trách nhiệm hình sự và đủ 16 tuổi trở lên.
Tùy trường hợp phạm tội cụ thể mà người thực hiện hành vi phạm tội bị phạt
cải tạo không giam giữ đến một năm, hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm
(khoản 1); phạm tội trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt
tù từ một năm đến năm năm (khoản 2).


19

Căn cứ những phân tích trên cho thấy, ở BLHS năm 1985 quy định tội vi
phạm các quy định về BVMT gây hậu quả nghiêm trọng còn khá chung chung, với
phạm vi đối tượng tác động rộng đã gây khó khăn cho việc hiểu và áp dụng pháp

luật; điều luật không quy định hành vi gây ô nhiễm môi trường bao gồm những
hành vi cụ thể nào, hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về
BVMT bao gồm những hậu quả nào… Nguyên nhân của tình trạng trên là do,
BLHS năm 1985 chưa phân biệt rõ giữa ranh giới giữa tính chất kinh tế và tính chất
môi trường của một số hành vi được quy định trong BLHS, dẫn đến tình trạng cùng
một nhóm các hành vi gây hại cho môi trường nhưng lại được quy định ở các
chương về tội phạm kinh tế và các tội phạm xâm phạm an tồn, trật tự cơng cộng và
trật tự quản lý hành chính đã khơng gợi cho người đọc một ý tưởng nào về mơi
trường. Điển hình như: tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ tài nguyên đất
đai (Điều 180 BLHS) nhưng các hành vi phạm tội được mô tả trong điều luật chủ
yếu nhấn mạnh đến khía cạnh kinh tế của tài nguyên đất như các hành vi mua, bán,
lấn chiếm đất đai…, cịn các hành vi gây ơ nhiễm đất đai lại chưa được pháp luật
hình sự đề cập một cách đầy đủ.
Đất nước sau hơn 10 năm thực hiện đường lối mở cửa, phát triển nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế phát triển mạnh mẽ cũng
đồng nghĩa với vấn đề ô nhiễm môi trường. Hoạt động của con người là tác nhân
chính gây ơ nhiễm và suy thối mơi trường nhưng chính con người cũng có thể
ngăn chặn hoặc làm giảm mức độ tai hại do sự ô nhiễm và suy thối đó gây ra. Mơi
trường bị ơ nhiễm gây ra hậu quả rất nghiêm trọng và lâu dài, chi phí cho việc khắc
phục hậu quả sẽ lớn hơn rất nhiều so với chi phí để ngăn ngừa ơ nhiễm mơi trường.
Trải qua gần 15 năm thi hành với bốn lần sửa đổi, bổ sung (vào các năm 1989,
1991, 1992 và 1997) BLHS năm 1985 đã đóng một vai trị to lớn trong đời sống xã
hội, góp phần bảo vệ vững chắc chế độ chính trị - xã hội, trật tự, an tồn cơng cộng
và đời sống của nhân dân. Do địi hỏi của cơng cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế
thị trường có điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng
giao lưu và hợp tác quốc tế, thúc đẩy cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu cho
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”, BLHS năm 1985 đã
được thay thế bằng BLHS năm 1999.
1.3. Pháp luật hình sự của một số nƣớc về tội gây ô nhiễm môi trƣờng
Hiện nay nhiều quốc gia trên thế giới đã dùng luật hình sự làm cơng cụ hữu

hiệu để BVMT. Pháp luật hình sự của Việt Nam, Trung Quốc, Nga và Đức đều quy
định các tội phạm về môi trường, trong đó có tội gây ơ nhiễm mơi trường. Bên cạnh
những thành công về mặt lập pháp, quy định về tội phạm gây ô nhiễm môi trường


×