BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
PHẠM TRÂN NHẬT THẢO
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
TỔ CHỨC GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP CÔNG LẬP
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – THÁNG 10 NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
TỔ CHỨC GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP CÔNG LẬP
Chuyên ngành: Luật hiến pháp và Luật hành chính
Mã số:60380102
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Cửu Việt
Học viên: Phạm Trân Nhật Thảo
Lớp Cao học Luật Khánh Hịa, Khóa 2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ luật học “Quản lý nhà nước đối với
tổ chức giám định tư pháp công lập” là kết quả của quá trình tổng hợp và
nghiên cứu nghiêm túc của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt. Các thơng tin, báo cáo được trích dẫn trong luận
văn là trung thực, chính xác.
Người cam đoan
Phạm Trân Nhật Thảo
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
GS
: Giáo sư
Luật GĐTP 2012 : Luật giám định tư pháp năm 2012
NXB
: Nhà xuất bản
TAND
: Tòa án nhân dân
TS
: Tiến sĩ
UBND
: Ủy ban nhân dân
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1.
Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................................. 2
3.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ................................................................ 3
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 4
5.
Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 4
6.
Các điểm mới, các đóng góp của luận văn .......................................................... 4
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI
VỚI TỔ CHỨC GIÁM ĐỊNH TƢ PHÁP CÔNG LẬP ............................................... 6
1.1. Khái niệm tổ chức giám định tƣ pháp cơng lập, q trình hình thành
phát triển và các loại tổ chức giám định tƣ pháp công lập ...................................... 6
1.1.1
Khái niệm tổ chức giám định tư pháp cơng lập............................................ 6
1.1.2 Q trình hình thành và phát triển của các loại tổ chức giám định tư
pháp công lập........................................................................................................... 11
1.1.3
Vai trị của tổ chức giám định tư pháp cơng lập ........................................ 18
1.2. Khái niệm, đặc điểm quản lý nhà nƣớc đối với tổ chức giám định tƣ
pháp công lập ............................................................................................................. 19
1.2.1
lập
Khái niệm quản lý nhà nước đối với tổ chức giám định tư pháp công
..................................................................................................................... 19
1.2.2
Đặc điểm quản lý nhà nước đối với tổ chức giám định tư pháp công lập . 21
1.3. Nội dung quản lý nhà nƣớc đối với tổ chức giám định tƣ pháp công
lập ........................................................................................................................... 23
1.3.1 Ban hành quy hoạch, kế hoạch về thiết lập mạng lưới tổ chức giám
định tư pháp công lập .............................................................................................. 24
1.3.2 Ban hành và hướng dẫn thi hành các văn bản quy phạm pháp luật về tổ
chức giám định tư pháp công lập ............................................................................ 25
1.3.3
Thành lập tổ chức giám định tư pháp công lập .......................................... 26
1.3.4 Bổ nhiệm, miễn nhiệm giám định viên tư pháp; lập và công bố danh
sách giám định viên tư pháp .................................................................................... 28
1.3.5 Bảo đảm kinh phí, trang thiết bị, phương tiện giám định và điều kiện
vật chất cần thiết khác cho tổ chức giám định tư pháp công lập ............................ 31
1.3.6 Xây dựng chương trình bồi dưỡng chun mơn, nghiệp vụ và kiến thức
pháp luật cho giám định viên tư pháp ..................................................................... 33
1.3.7
Chi phí giám định tư pháp; chế độ đối với giám định viên tư pháp ........... 33
1.3.8
Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo ........................................ 35
1.3.9
Hợp tác quốc tế về giám định tư pháp ........................................................ 35
1.4. Quản lý nhà nƣớc đối với tổ chức giám định tƣ pháp công lập trên thế
giới ........................................................................................................................... 36
1.4.1
Quan niệm về giám định tư pháp ở Pháp ................................................... 36
1.4.2
Mơ hình tổ chức và cách thức quản lý nhà nước........................................ 36
1.4.3 Bổ nhiệm, miễn nhiệm giám định viên tư pháp; lập và công bố danh
sách giám định viên tư pháp .................................................................................... 38
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................................. 40
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI TỔ CHỨC
GIÁM ĐỊNH TƢ PHÁP CÔNG LẬP VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN ............................................................................................................................ 41
2.1. Thực trạng quy hoạch, kế hoạch về thiết lập mạng lƣới tổ chức giám
định tƣ pháp cơng lập và giải pháp hồn thiện ...................................................... 41
2.1.1
Kết quả đạt được ......................................................................................... 41
2.2.1
Hạn chế, vướng mắc và giải pháp hoàn thiện ............................................ 41
2.2. Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật về giám định tƣ
pháp cơng lập và giải pháp hồn thiện .................................................................... 42
2.2.1
Kết quả đạt được ......................................................................................... 42
2.2.2
Hạn chế, vướng mắc và giải pháp hoàn thiện ............................................ 43
2.3. Thực trạng thành lập tổ chức giám định tƣ pháp công lập và giải pháp
hoàn thiện ........................................................................................................................ 45
2.3.1
Kết quả đạt được ......................................................................................... 45
2.3.2
Hạn chế, vướng mắc và giải pháp hoàn thiện ............................................ 46
2.4. Thực trạng bổ nhiệm, miễn nhiệm giám định viên tƣ pháp và giải pháp
hoàn thiện ................................................................................................................... 49
2.4.1
Kết quả đạt được ......................................................................................... 49
2.4.2
Hạn chế, vướng mắc và giải pháp hoàn thiện ............................................ 49
2.5. Thực trạng về kinh phí, trang thiết bị, phƣơng tiện giám định, các điều
kiện vật chất cần thiết khác cho tổ chức giám định tƣ pháp công lập và giải
pháp hoàn thiện ......................................................................................................... 51
2.5.1
Kết quả đạt được ......................................................................................... 51
2.5.2
Hạn chế, vướng mắc và giải pháp hoàn thiện ............................................ 52
2.6. Thực trạng xây dựng chƣơng trình bồi dƣỡng chun mơn, nghiệp vụ,
kiến thức pháp luật cho giám định viên tƣ pháp và giải pháp hoàn thiện ........... 54
2.6.1
Kết quả đạt được ......................................................................................... 54
2.6.2
Hạn chế, vướng mắc và giải pháp hoàn thiện ............................................ 55
2.7. Thực trạng chi phí giám định tƣ pháp; chế độ đối với giám định viên
tƣ pháp và giải pháp hoàn thiện............................................................................... 56
2.7.1
Kết quả đạt được ......................................................................................... 56
2.7.2
Hạn chế, vướng mắc và giải pháp hoàn thiện ............................................ 57
2.8. Thực trạng kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và giải
pháp hoàn thiện ......................................................................................................... 59
2.8.1
Kết quả đạt được ......................................................................................... 59
2.8.2
Hạn chế, vướng mắc và giải pháp hoàn thiện ............................................ 60
2.9. Thực trạng hợp tác quốc tế về giám định tƣ pháp và giải pháp hoàn
thiện ........................................................................................................................... 62
2.9.1
Kết quả đạt được ......................................................................................... 62
2.9.2
Hạn chế, vướng mắc và giải pháp hoàn thiện ............................................ 63
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................................. 64
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 66
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Tổ chức giám định tư pháp xuất hiện và tồn tại do nhu cầu phát triển của xã
hội, phục vụ cho các hoạt động tố tụng nênkhông thể thiếu trong bất kỳ xã hội nào.
Bằng những kiến thức, phương tiện, phương pháp kỹ thuật, tổ chức giám định tư
pháp giúp cơ quan điều tra; truy tố; xét xử được đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật một cách công bằng, khách quan, vô tư.
Quán triệt vai trò đặc biệt quan trọng của tổ chức giám định tư pháp, từ năm
1997, Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII xác
định: “Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động giám định tư pháp. Củng cố các
cơ quan giám định tư pháp để hỗ trợ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử”. Tiếp đó,
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2001 của Bộ Chính trị nêu: “Từng bước hồn
thiện các tổ chức giám định tư pháp. Sớm hoàn thiện pháp luật về giám định tư
pháp”. Đại hội đại biểu Đảng X (18/04 - 25/04/2006) khẳng định quyết tâm: “Xây
dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo
vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020”. Đặc biệt, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005
của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 chỉ rõ: “Hoàn thiện
chế định giám định tư pháp. Nhà nước cần đầu tư cho một số lĩnh vực giám định để
đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố tụng. Thực hiện xã hội hóa đối với
các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên”.
Những chủ trương trên là động lực chính để Quốc hội nước Cộng hịa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII thơng qua Luật giám định tư pháp ngày 20 tháng 06
năm 2012 có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2013 (từ đây viết tắt là: Luật
GĐTP 2012).Tại Chương III của Luật này, lần đầu tiên tổ chức giám định tư pháp
được chia thành hai mơ hình tổ chức, đó là mơ hình tổ chức giám định tư pháp cơng
lập và mơ hình tổ chức giám định tư pháp ngồi cơng lập. Điều đó khẳng định Nhà
nước thực hiện đúng chủ trương, Nghị quyết của Đảng về chế định đối với tổ chức
giám định tư pháp.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện quản lý nhà nước đối với tổ
chức giám định tư pháp công lập đã bộc lộ nhiều điểm bất cập, chưa phù hợp với
thực tế. Thêm vào đó, so với pháp luật quốc tế quy định về tổ chức giám định tư
pháp, quy định của Việt Nam cịn tồn tại nhiều khác biệt.Việc hồn thiện pháp
2
luậtvề quản lý nhà nước đối với tổ chức giám định tư pháp công lập nhằm đảm bảo
hiệu quả, chất lượng quản lý nhà nước và trọng tâm là bảo đảm quyền con người,
quyền công dân là một trong những mục tiêu quan trọng của Hiến pháp năm 2013.
Chính vì những lý do trên, tác giả chọn vấn đề “Quản lý nhà nước đối với tổ
chức Giám định tư pháp công lập” làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học tại Trường
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Lĩnh vực giám định tư pháp nói chung đã và đang nhận được sự quan tâm và
nghiên cứu của các nhà khoa học pháp lý dưới nhiều góc độ khác nhau. Các đề tài
nghiên cứu trước đã chọn những lĩnh vực nghiên cứu đặc thù để đi sâu vào từng
khía cạnh riêng trong giám định tư pháp.Đối với nội dung chủ yếu về quản lý nhà
nước đối với tổ chức giám định tư pháp, có thể kể đếncơng trình nghiên cứu: “Quản
lý nhà nước về giám định tư pháp (từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh)”, Hồ Thị
Quyên (2010), Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh,
việc nghiên cứu của cơng trình nêu trên tập trung vào các nội dung quản lý nhà
nước đối với tổ chức giám định tư pháp chủ yếu theo quy định của Pháp lệnh giám
định tư pháp 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Bên cạnh đó cócơng trình nghiên cứu tổng thể và sâu sắc về giám định tư
pháp trong tố tụng hình sự, những bất cập, vướng mắc liên quan đến vấn đề đồng bộ
và thống nhất các quy định của pháp luật về giám định tư pháp trong tố tụng hình sự
cũng được đề cập để đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm tháo gỡ các bất cập đó, có
thể kể đến là: “Giám định tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Nguyễn Thị
Loan (2015), Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội Hà Nội. Và đối với cơng
trình nghiên cứu khoa học cấp bộ, nội dung về giám định tư pháp cũng được quan
tâm, nghiên cứu sâu sắc, có thể kể đến là: “Xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Trần Mạnh Đạt (2010), Đề tài khoa học cấp Bộ,
Bộ Tư pháp.
Ngồi ra, cịn có nhiều bài báo khoa học đăng trên các Tạp chí Khoa học
pháp lý, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Luật học và nhiều cơng trình nghiên cứu khác đã
phân tích làm rõ những bất cập liên quan đến chủ đề nghiên cứu này. Có thể tìm
thấy các bài viết trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật;Tạp chí Nghề luật - Học viện tư
pháp (được liệt kê trong danh mục tài liệu). Những tài liệu này đề cập đến các nội
dung chủ yếu như: khái quát quá trình phát triển của hoạt động giám định và tổ
chức giám định trong một số lĩnh vực của Việt Nam từ năm 1945 đến Pháp lệnh
3
giám định tư pháp 2004; nêu các khái niệm về giám định tư pháp; đánh giá khái
quát thực trạng các quy định pháp luật về giám định tư pháp và việc áp dụng các
quy định đó trên thực tiễn đến Pháp lệnh giám định tư pháp 2004. Một số công trình
đã đưa ra được các bất cập của hoạt động giám định tư pháp và bước đầu đưa ra
những kiến nghị để khắc phục.
Liên quan đến các lĩnh vực nghiên cứu của đề tài, có một số cơng trình
nghiên cứu của các chuyên gia nước ngoài và một số tài liệu hội thảo, hội nghị quốc
tế mà tác giả có điều kiện tiếp cận, trong đó đáng chú ý là: Hội thảo về giám định tư
pháp - Tài liệu tham khảo, lưu hành nội bộ - NXB Tư pháp, 2003; Professional
resposiblity standards, rules and statutes (Các tiêu chuẩn trách nhiệm nghề nghiệp,
các quy định và địa vị pháp lý), selected and edited by John Dzienkowski Proffessor of Law and S. Redditt - Proffesor in State and Local GovernmentUniversity of Texas- West Publishing Co- St Paul Minn-1995, những tài liệu này đề
cập đến các nội dung chủ yếu như khái quát hoạt động giám định tư pháp của Pháp,
Thụy Điển, Trung Quốc; giới thiệu kinh nghiệm quản lý hoạt động giám định tư
pháp của một số nước.
Những cơng trình khoa học trên là tài liệu vô cùng quý báu giúp tác giả có
thêm nhiều thơng tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn. Nhìn chung,
tác giả nhận thấy các đề tài nghiên cứu hầu hết có đề cập đến tổ chức giám định tư
pháp nói chung, nhưng chưa có sự phân tích cụ thể về quản lý nhà nước đối với tổ
chức giám định tư pháp công lập. Theo tài liệu tác giả tìm hiểu được, chưa có một
đề tài nghiên cứu độc lập về quản lý nhà nước đối với tổ chức giám định tư pháp
công lập, và trong những năm gần đây chưa có có luận văn thạc sĩ nghiên cứu về đề
tài “Quản lý nhà nước đối với Tổ chức Giám định tư pháp công lập” tại Trường
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
3.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sởphân tích những vấn đề lý luận - pháp lý và
thực trạng quản lý nhà nước đối với tổ chức giám định tư pháp công lập,đưa ra
những kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật GĐTP 2012 để tạo ra hành lang pháp lý cho
công tác quản lý nhà nước đối với tổ chức giám định tư pháp công lập chặt chẽ hơn.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích nêu trên, nhiệm vụ của
luận văn là:
4
Thứ nhất,hệ thống những cơ sở lý luận về khái niệm, q trình hình thành và
phát triển, vai trị của tổ chức giám định tư pháp công lập.
Thứ hai, làm rõ khái niệm, đặc điểm và nội dung quản lý nhà nước đối với tổ
chức giám định tư pháp công lập.
Thứ ba, xem xét một số kinh nghiệm nước ngoài về tổ chức giám định tư
pháp.
Thứ tư, nghiên cứu phân tích thực trạng, từ đó đánh giá những hạn chế,
ngun nhân, đưa ra những kiến nghị về quản lý nhà nước đối với tổ chức giám
định tư pháp công lập.
4.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn chủ yếu là những vấn đề lý luận và pháp
lý về quản lý nhà nước đối với tổ chức giám định tư pháp công lập và thực trạng
quản lý nhà nước đối với tổ chức giám định tư pháp công lập.
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: tổ chức giám định tư pháp công lập tại Việt Nam.
Vềthời gian: từ năm 1945 cho đến nay.
5.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Bên cạnh phương pháp nghiên cứu chung là phương pháp biện chứng duy
vật và duy vật lịch sử, tại Chương 1, tác giả vận dụng phương pháp phân tích, đánh
giá, tổng hợp, so sánh luật để làm sáng tỏ các quy định của pháp luật Việt Nam với
pháp luật các nước tiên tiến để rút ra được những ưu, khuyết điểm của pháp luật các
nước, chọn lọc những điểm tiến bộ phù hợp cần được tiếp thu và đưa vào kiến nghị
cụ thể nhằm góp phần hồn thiện các quy định về quản lý nhà nước đối với tổ chức
giám định tư pháp công lập.
Trong Chương 2 của luận văn, tác giả sử dụng chủ yếu phương pháp khảo
sát, đánh giá thực tiễn, đối chiếu với các vấn đề đã phân tích, tổng hợp tại Chương
1, từ đó tổng hợp để đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện đề tài đang nghiên cứu.
6.
Các điểm mới, các đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận, tìm
ra mối liên hệ giữa thực tiễn áp dụng và các quy định của pháp luật hiện hành về
quản lý nhà nước đối với tổ chức giám định tư pháp công lập để thấy được sự phù
5
hợp và bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành và sự cần thiết phải tiếp
tục hoàn thiện việc nghiên cứu. Từ đó, tác giả đưa ra những đề xuất, phương hướng
và giải pháp hoàn thiện.
Về mặt lý luận: Đề tài làm rõ các khái niệm, quá trình hình thành, vai trị tổ
chức giám định tư pháp công lập; khái niệm, đặc điểm, nội dung và vai trò quản lý
nhà nước đối với tổ chức giám định tư pháp cơng lập.
Về mặt thực tiễn: Đề tài góp phần đưa ra những thực trạng, đồng thời có một
số kiến nghị mong muốn được quan tâm trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật
GĐTP 2012. Kết quả nghiên cứu đề tài có thể được sử dụng làm nguồn tài liệu tham
khảo cho các sinh viên chuyên ngành luật.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung đề tài gồm 2 chương, như sau:
Chương 1:Cơ sở lý luận và pháp lý về quản lý nhà nước đối với tổ chức giám
định tư pháp công lập.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với tổ chức giám định tư pháp
công lập và một số giải pháp hoàn thiện.
6
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI TỔ CHỨC GIÁM ĐỊNH TƢ PHÁP CƠNG LẬP
1.1.
Khái niệm tổ chức giám định tƣ pháp cơng lập,quá trình hình thành
phát triển và các loại tổ chức giám định tƣ phápcông lập
1.1.1
Khái niệm tổ chức giám định tư pháp công lập
1.1.1.1
Khái niệmgiám định tư pháp
Hiểu và ý thức được khái niệm giám định tư pháp là một vấn đề lý luận cơ
bản có ý nghĩa quan trọng trong việc hồn thiện thể chế, xây dựng mơ hình tổ chức,
cơ chế quản lý phù hợp, nhằm bảo đảm phát huy được vai trò của giám định tư pháp
trong hoạt động tố tụng cũng như đáp ứng yêu cầu của đời sống xã hội. Có nhiều
quan điểm khác nhau về khái niệm giám định tư pháp.
Theo tiếng La-tinh cổ,“tƣ pháp” – Justitia, cịn theo tiếng Anh – Justition,
có nghĩa là “công lý”, “pháp chế”, tức là thuật ngữ bao hàm tồn bộ các cơ quan tịa
án và hoạt động thực hiện quyền xét xử của chúng1.Theo Từ điển Tiếng Việt của
Viện Ngơn ngữ học do GS. Hồng Phê chủ biên, thuật ngữ “tư pháp” được hiểu là
“việc xét xử các hành vi phạm pháp và các vụ kiện tụng trong nhân dân”2. Theo
quan điểm của GS.TS. Nguyễn Đăng Dung và tập thể tác giả: “Tư pháp là một lĩnh
vực quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua hoạt động phân xử và phán xét
tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định pháp luật khi có sự
tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật”3.Ngoài ra, theo TS.
Đinh Văn Ân, TS. Võ Trí Thành và tập thể tác giả, quan niệm “tư pháp” được hiểu
theo ba khía cạnh: “Về khía cạnh pháp lý, được quan niệm như là một ý tưởng cao
đẹp về một nền công lý, giải quyết các tranh chấp trong xã hội đúng với pháp luật,
hợp lẽ công bằng; các biểu hiện của một giá trị về lịng tin của nhân dân vào pháp
luật. Về khía cạnh thể chế Nhà nước, tư pháp được sử dụng để chỉ một quyền lực
trong ba quyền lực: quyền lập pháp, quyền hành pháp, và quyền tư pháp. Trong việc
xác định ba quyền, quyền tư pháp được xem là đồng nghĩa với quyền xét xử, một
hoạt động duy nhất chỉ do Tịa án thực hiện. Và theo khía cạnh khoa học tổ chức, tư
1
Lê Cảm (2003), “Cơ chế kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong nhà nước
pháp quyền”, Tạp chí khoa học pháp luật(01).
2
Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học,tr.1071.
3
Nguyễn Đăng Dung (2005), Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.11.
7
pháp được sử dụng để nói về tổ chức tư pháp, một tập hợp của nhiều cơ quan, nhiều
tổ chức, nhiều chức danh liên hệ đến công tác xét xử”4.
Như vậy, “tƣ pháp” được hiểu khái quát là công việc của các tổ chức nhà
nước được trao quyền lực nhất định để kết luận hoặc phán xét tính đúng đắn, hợp
pháp của vấn đề.
Thuật ngữ“giám định” có nguồn gốc từ tiếng La-tinh là “Expertus”, có
nghĩa là “kinh nghiệm”, “hiểu biết”5.Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “giám định” là
“kiểm tra bằng phương pháp nghiệp vụ để có kết luận cụ thể”6.Theo từ điển bách
khoa Việt Nam, “giám định” là “kiểm tra và kết luận về một hiện tượng hoặc một
vấn đề mà cơ quan nhà nước cần tìm hiểu và xác định. Cơng việc giám định có thể
do một giám định viên tư pháphoặc một nhóm người có kiến thức, trình độ về lĩnh
vực cần giám định và được cơ quan chuyên môn chỉ định”7.
Như vậy, “giám định” hiểu một cách khái quát là hoạt động khoa học, sử
dụng những kiến thức chuyên môn, phương tiện kỹ thuật để nghiên cứu, xem xét, so
sánh một hiện tượng, một sự vật giúp cho con người có nhận thức khách quan để
giải quyết vấn đề nào đó một cách chính xác trên cơ sở khoa học.
Quan niệm về giám định tư pháp ở nước ta được đề cập đến trong một số văn
bản pháp luật, cụ thể:
Điều 1 Nghị định số 117/HĐBT ngày 21/07/1988 của Hội đồng Bộ trưởng
và mục I Thông tư số 78/TT-GĐ ngày 26/01/1989 của Bộ Tư pháp về giám định tư
pháp quy định: “Giám định tư pháplà sử dụng những kiến thức, phương pháp khoa
học kỹ thuật, nghiệp vụ chun mơn để kết luận những vấn đề có liên quan đến các
vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân và gia đình, các tranh chấp lao động theo quyết
định trưng cầu của cơ quan công an, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân (gọi
chung là cơ quan tiến hành tố tụng) nhằm phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét
xử.” Tuy nhiên, khái niệm nêu trên mới chỉ xác định được chủ thể trưng cầu giám
định (là cơ quan tiến hành tố tụng), và mục đích của hoạt động giám định tư pháp
mà chưa xác định chủ thể của hoạt động giám định tư pháp.
4
Đinh Văn Ân, Võ Trí Thành (2002), Thể chế - cải cách thể chế và phát triển: Lý luận và thực tiễn ở nước
ngoài và Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội, tr.276.
5
Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1991), Một số cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện tổ chức
giám định tư pháp, tr.6.
6
Hội đồng Quốc gia (2002), Từ điển bách khoa Việt Nam, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2002, tr.110.
7
Nguyễn Như Ý (2010) (chủ biên), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Đại học quốc gia Tp.HCM.
8
Điều 1 Pháp lệnh giám định tư pháp2004 quy định “Giám định tư pháp là
việc sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để
kết luận về chun mơn những vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự, hành chính,
vụ việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ án) do người giám định tư pháp thực hiện
theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhằm phục
vụ cho việc giải quyết các vụ án”.
Pháp lệnh giám định tư pháp2004 là văn bản pháp lý có ý nghĩa quan trọng
đặt nền móng cho sự đổi mới về giám định tư pháp. Khái niệm về giám định tư
pháp theo Pháp lệnh đã thể hiện sự đổi mới tư duy pháp lý về giám định tư pháp,
nhận thức về giám định tư pháp đã đầy đủ hơn, đã xác định rõ chủ thể của hoạt
động giám định tư pháp, chủ thể trưng cầu giám định tư pháp và mục đích của hoạt
động giám định tư pháp. Tuy nhiên, khái niệm trên có những hạn chế nhất định.
Thứ nhất, chủ thể trưng cầu giám định chỉ là các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng. Thứ hai, việc sử dụng thuật ngữ “người giám định tư pháp” trong
khái niệm trên dẫn đến cách hiểu về chủ thể thực hiện giám định chỉ là cá nhân,
theo đó, khi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chỉ được trưng
cầu cá nhân là người thực hiện giám định chứ khơng trưng cầu tổ chức.
Chính hạn chế trên là một trong những nguyên nhân dẫn đến một số bất cập
trong quá trình triển khai thực hiện giám định tư pháp.Nhằm khắc phục hạn chế đó,
ngày 02/06/2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49/NQ-TW để đẩy mạnh
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, lấy Tịa án và cơng tác xét xử làm trung
tâm, lấy tranh tụng và mở rộng dân chủ trong hoạt động tố tụng là khâu đột phá, nên
giám định tư pháp phải trở thành công cụ, phương tiện hữu hiệu, thiết thực cho các
bên tố tụng sử dụng, phục vụ đắc lực cho việc tranh tụng của mình. Với tinh thần
này, việc cho phép các bên đương sự có quyền tự mình trực tiếp yêu cầu tổ chức, cá
nhân chuyên mơn thực hiện giám định như một phương cách tìm kiếm chứng cứ để
thực hiện nghĩa vụ chứng minh của đương sự.
Trên cơ sở đó, ngày 20/06/2012Quốc hội thơng qua Luật GĐTP 2012có hiệu
lực kể từ ngày 01/01/2013. Theo đó, khái niệm về giám định tư pháp là “việc người
giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật,
nghiệp vụ để kết luận về chun mơn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành
chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc
9
theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật này” (khoản 1
Điều 2 Luật GĐTP 2012).
Khái niệm này đã mở rộng chủ thể được yêu cầu giám định. Ngoài chủ thể là
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, Luật bổ sung thêm “người
yêu cầu giám định”; cụ thể là đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ
án hình sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ, trừ trường hợp việc yêu cầu giám
định liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo (khoản 3
Điều 2 Luật GĐTP 2012).
Qua phân tích trên, khái niệm “giám định tƣ pháp”được hiểu là việc sử
dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp, kỹ thuật nghiệp vụ để kết luận về một sự
việc, một hiện tượng xảy ra theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định và được chính các
cơ quan tiến hành tố tụng, xem xét, chấp nhận, sử dụng kết luận đó theo quy định
của pháp luật về giám định tư pháp và pháp luật tố tụng.
1.1.1.2
Khái niệm giám định tư pháp công lập và tổ chức giám định tư pháp công
lập
“Công lập” được hiểu là “do Nhà nước lập ra, và để phân biệt với dân lập”8.
Hay còn được hiểu là “do Nhà nước dựng lên để phục vụ cho ích chung”9. Khái
niệm giám định tư pháp công lập được hiểu là hoạt động do Nhà nước (Trung ương
hoặc địa phương) lập ra, đầu tư về cơ sở vật chất và hoạt động chủ yếu bằng nguồn
ngân sách nhà nước và khoản thu khác (nếu có).
Thuật ngữ “tổ chức” được nhiều ngành khoa học sử dụng với ý nghĩa không
giống nhau. Tổ chức là khái niệm dùng để chỉ một tập hợp gồm từ hai người trở lên
cùng làm việc với nhau theo những cách thức nhất định nhằm đạt tới những mục
tiêu chung nào đó10. Triết học định nghĩa: “Tổ chức, nói rộng là cơ cấu tồn tại của
sự vật. Sự vật khơng thể tồn tại mà khơng có một hình thức liên kết nhất định các
yếu tố thuộc nội dung. Tổ chức vì vậy là thuộc tính của bản thân các sự vật”11.Ngay
trong những chuyên ngành khoa học có giao thoa về đối tượng, phạm vi nghiên cứu,
cũng tồn tại những cách tiếp cận, cắt nghĩa khác nhau về thuật ngữ “tổ chức”. Theo
8
Theo ngày truy cập 18/03/2016.
Theo ngày truy cập 18/03/2016.
10
Nguyễn Hữu Hải (2010), Giáo trình Lý luận hành chính nhà nước,Học viện hành chính, Hà Nội, tr.40.
11
Mấy vấn đề về cán bộ và về tổ chức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, NXB Sự thật, Hà Nội, 1973, tr.28.
9
10
Chester I. Barnard, tổ chức là một hệ thống những hoạt động hay nỗ lực của hai hay
nhiều người được kết hợp với nhau một cách có ý thức12.
Như vậy, theo lý thuyết này, để hình thành tổ chức, phải có từ hai người trở
lên (điều kiện về chủ thể) và các hoạt động của họ được kết hợp với nhau một cách
có ý thức. Lý thuyết này cũng đã nhấn mạnh đến hai yếu tố là chủ thể và nguyên tắc
hoạt động của tổ chức (sự kết hợp có ý thức của các chủ thể) khi nhận thức về khái
niệm tổ chức.
Bản thân thuật ngữ “tổ chức” có nghĩa là xây dựng các mối quan hệ giữa
người với người nhằm thực hiện những mục đích nhất định. Bởi vậy, mục đích là cơ
sở để thiết lập ra tổ chức.Như vậy, hiểu một cách khái quát, khái niệm về “tổ chức”
là tập hợp một số người lại với nhau, cùng hình thành, tồn tại và phát triển theo
những nguyên tắc hoặc quy tắc được quy định nhằm thực hiện mục tiêu chung đã
được xác định.
Nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là: “Nhà nước cần đầu
tư cho một số lĩnh vực giám định để đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động
tố tụng. Thực hiện xã hội hóa đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định khơng lớn,
khơng thường xun”,Luật GĐTP 2012 quy định có hai loại tổ chức giám định tư
pháp, tổ chức giám định tư pháp công lập và tổ chức giám định tư pháp ngồi cơng
lập. Cụ thể, Điều 12 Luật này quy định, tổ chức giám định tư pháp công lập được
thành lập trong ba lĩnh vực giám định có tính “truyền thống” là pháp y, pháp y tâm
thần và kỹ thuật hình sự.
Bàn về khái niệm “tổ chức giám định tư pháp cơng lập”, có ý kiến cho rằng
không nên quy định cụ thể tên gọi, mơ hình tổ chức, chỉ nên quy định ngun tắc tổ
chức. Tuy nhiên, “tổ chức giám định tư pháp cơng lập” khơng phải là tổ chức hành
chính đơn thuần mà là tổ chức bổ trợ tư pháp, hoạt động của các tổ chức này phục
vụ cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nên trong Luật cần phải xác
định rõ ràng hệ thống tổ chức. Vì vậy, Luật GĐTP 2012 quy định mang tính nguyên
tắc về mơ hình tổ chức của hệ thống tổ chức giám định tư pháp cơng lập13.
Như vậy,từ phân tích trên, theo tác giả,“tổ chức giám định tư pháp công
lập”là một tập hợphai hay nhiều người, do Nhà nước lập ra,đầu tư về cơ sở vật
chất, hoạt động chủ yếu bằng nguồn ngân sách nhà nước và khoản thu khác (nếu
12
Chester Barnard and the Systems Approach to Nurturing Organization.
Bảng thuyết minh về Dự án Luật giám định tư pháp, tr7.
13
11
có),thực hiện theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
để kết luận về một sự việc, một hiện tượng xảy ra bằng việc sử dụng kiến thức,
phương tiện, phương pháp, kỹ thuật nghiệp vụ theo quy định của pháp luật.
1.1.2
Quá trình hình thành và phát triển của các loại tổ chức giám định tư
pháp công lập
Điều 12 của Luật GĐTP 2012 quy định tổ chức giám định tư pháp công lập
được thành lập trong ba lĩnh vực giám định là pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật
hình sự. Ba lĩnh vực này sẽ được thảo luận cụ thể lần lượt dưới đây.
1.1.2.1
Tổ chức giám định tư pháp công lập về pháp y
Theo Giáo trình Y Pháp, khái niệm pháp ylà từ viết tắt của Y học – Pháp
luật. Đây là một chuyên khoa của ngành y, dùng kiến thức y học phục vụ cho luật
pháp, hỗ trợ đắc lực cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc điều tra, truy tố và xét
xử đảm bảo tính khoa học, cơng bằng14.Điểm 4 Thông tư liên tịch bộ Y tế - Tư pháp
số 2795-HCTP ngày 12/12/1956 quy định giám định viên tư pháp pháp y và cơ
quan điều tra phải quan niệm giám định pháp y là “đem sự hiểu biết chuyên mơn
của mình đóng góp vào việc điều tra, khám phá các vụ phạm pháp để bảo vệ trật tự
an ninh trấn áp bọn phá hoại”, “khi nào cần đến nhà chun mơn pháp y để giúp
đỡ cơng an và tịa án nhận xét trong những trường hợp tình nghi có sự phạm pháp
hoặc nhận xét trách nhiệm của can phạm để định tội, lượng hình cho đúng”.Thơng
tư liên bộ số 166/TT-LB ngày 10/03/1988 của Bộ Y tế - Tư pháp hướng dẫn và quy
định về công tác giám định pháp y: “Giám định pháp y sử dụng kiến thức y học vào
mục đích tư pháp theo quyết định trưng cầu giám định của cơ quan tiến hành tố
tụng” (khoản 1, phần 1).
Theo Bài giảng giám định pháp y và quan niệm hiện nay ở nước ta về giám
định pháp y là “giám định sức khỏe, bệnh tật thương tích đối với cơng dân có liên
quan đến pháp luật hoặc khám tử thi các trường hợp chưa rõ nguyên nhân”15.
Về mô hình tổ chức giám định tư pháp cơng lập về pháp y có sự khác biệt
theo thời gian. Sự khác biệt này có thể được chia thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: Trước khi ban hành Pháp lệnh giám định tư pháp năm
2004:
14
15
Lê Trọng Lân (2008), Giáo trình y pháp, trường Đại học Y dược Huế, Huế, tr1.
Nguyễn Đăng Chiêu (2008), Bài giảng giám định pháp y, Trường Đại học Luật TPHCM, tr2.
12
Qua nghiên cứu giai đoạn này, có thể tóm tắt nội dung như sau (sơ đồ ở Phụ
lục 1):
Ở nước ta, pháp y lần đầu tiên được biết đến khi đưa vào giảng dạy ở trường
Y Hà Nội từ năm 1919. Hơn 2 tháng sau ngày tuyên bố độc lập 02/09/1945, Nhà
nước ta đã có Sắc lệnh 68/SL ngày 30/11/1945 (Điều 1) và Sắc lệnh số 162/SL ngày
25/06/1946 (điều V) quy định về việc “trưng tập người để dùng vào việc cần thiết
cho quốc gia”. Do điều kiện hoàn cảnh lịch sử đất nước lúc bấy giờ, lực lượng của
Nhà nước cịnnon yếu, vận mệnh của đất nước trước tình thế “ngàn cân treo sợi
tóc”, tất cả vì sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất đất nước nên cơng tác tổ
chức pháp y thời bấy giờ chưa được triển khai trọn vẹn, chỉ dừng lại ở việc “trưng
tập” những người có chun mơn để phục vụ Nhà nước khi cần thiết và hầu hết làm
công tác kiêm nhiệm16.
Ngày 14/05/1962 theo đề nghị của Cục quân y, Tổng cục hậu cận đã ra quyết
định thành lập Phòng pháp y thuộc Cục quân y. Quyết định này đã tạo cho pháp y
quân đội có cơ sở pháp y chuyên nghiệp đầu tiên phục vụ quân đội, đảm nhận các
công tác giám định, nghiên cứu, huấn luyện và chỉ đạo nghiệp vụ pháp y trong toàn
quân. Đến ngày 09/04/1988 Bộ tổng tham mưu ra quyết định 142/QĐ-TM về việc
tổ chức hệ thống pháp y trong tồn qn, gồm 2 cấp: có Viện pháp y quân độivà các
bộ phận pháp y chuyên nghiệp ở các quân khu.
Phòng pháp y thuộc Viện khoa học hình sự thuộc Bộ Cơng an được thành lập
năm 1980.
Đến ngày 21/07/1988, Hội đồng Bộ trưởng (hiện nay là Chính phủ) đã ban
hành Nghị định số 117/HĐBT (sau đây gọi là Nghị định 117/HĐBT) về giám định
tư pháp và giám định viên tư pháp. Nghị định 117/HĐBT đánh dấu sự hình thành
của tổ chức giám định tư pháp cơng lập về pháp y, theo đó, ngày 30/11/1990, Bộ Y
tế đã ra Quyết định 1059/BYT-QĐ chính thức thành lập tổ chức giám định pháp y
Trung ương trực thuộc Bộ y tế. Sau đó, ngày 17/01/2001, Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định số 11/2001/QĐ-TTg chuyển đổi tổ chức giám định pháp y Trung
ương thành Viện y học tư pháp Trung ương (gọi tắt là Viện y pháp Trung ương)
thuộc Bộ y tế. Ở các tỉnh, thành, Ủy ban nhân dân ra quyết định thành lập tổ chức
giám định pháp y và bổ nhiệm giám định viên pháp y ở địa phương theo đề nghị của
Sở Y tế và Sở Tư pháp.
16
Trần Văn Liễu (2002), Bài giảng y pháp học, NXB Y học, Hà Nội, tr10.
13
Giai đoạn thứ hai:Theo Pháp lệnh giám định tư pháp năm 2004:
Qua nghiên cứu giai đoạn này, có thể tóm tắt nội dung như sau (sơ đồ ở Phụ
lục 2):
Pháp lệnh giám định tư pháp 2004 ra đời là bước quan trọng trong việc hoàn
thiện pháp luật về giám định tư pháp, đặt nền tảng cho việc củng cố, hoàn thiện và
phát triển tổ chức giám định tư pháp. Điều 15 Pháp lệnh quy định tổ chức giám định
tư pháp được thành lập trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự.
Và từ đây hệ thống tổ chức giám định tư pháp được xác lập từ Trung ương đến địa
phương thay thế cho cơ cấu tổ chức trước đây. Theo đó:
Ngày 27/02/2004, Trung tâm pháp y thuộc viện khoa học hình sự (Bộ Cơng
an) được thành lập, ở cấp tỉnh có giám định viên tư pháp pháp y (Công an tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương).
Ngày 23/03/2006, Viện pháp y quốc gia (Bộ Y tế) được Thủ tướng Chính phủ
ra Quyết định thành lập số 451/QĐ-TTg ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương có Trung tâm pháp y (Sở Y tế).
Đối với ngành quốc phòng vẫn giữ hệ thống tổ chức giống giai đoạn thứ
nhất: Viện Pháp y quân đội (Bộ Quốc phòng); giám định viên tư pháp pháp y ở
Bệnh viện cấp quân khu (nếu có).
Giai đoạn thứ ba: Theo Luật GĐTP 2012:
Qua nghiên cứu giai đoạn này, có thể tóm tắt nội dung như sau (sơ đồ ở Phụ
lục 3):
Ngày 20/06/2012, Luật GĐTP 2012 được ban hành, có hiệu lực kể từ
01/01/2013.Khoản 2 Điều 12 Luật GĐTP 2012 quy định hệ thống tổ chức giám
định tư pháp về pháp y về cơ bản giống giai đoạn thứ hai, ở Trung ươnggồm
có:Viện pháp y quốc gia (Bộ Y tế), Viện Pháp y quân đội (Bộ Quốc phòng), Trung
tâm Pháp y thuộc Viện khoa học hình sự (Bộ Cơng an); ở địa phươngcó: Trung tâm
pháp y cấp tỉnh (Sở Y tế) và giám định viên tư pháp về pháp y thực hiện giám định
pháp y tử thi ở Phịng kỹ thuật hình sự (Cơng an cấp tỉnh).
1.1.2.2
Tổ chức giám định tư pháp công lập về pháp y tâm thần
Thuật ngữ “tâm thần học” được dịch từ chữ gốc Hy Lạp
psychiatria. Psyche- nghĩa là tâm thần, -iatria nghĩa là chữa bệnh. Tâm thần học có
14
nhiệm vụ nghiên cứu các biểu hiện lâm sàng, nguyên nhân và các biện pháp phòng
chữa các rối loạn tâm thần17.
Theo tập bài giảng Tâm thần học, giám định pháp y tâm thần là một bộ phận
của ngành tâm thần học, là khoa học của y học, nhằm mục đích hỗ trợ để đưa ra kết
luận một người có bị bệnh tâm thần hay không; khả năng điều khiển hành vi của đối
tượng được giám định, từ đó xác định trách nhiệm của các bị can, bị cáo đối với các
hành vi vi phạm pháp luật có liên quan18.
Ở nước ta, giám định pháp y tâm thần thực chất là giúp cho cơ quan pháp
luật xét xử đúng người, đúng tội, đặc biệt trong loại trừ giả bệnh tâm thần19.
Mô hình tổ chức giám định tư pháp cơng lập về pháp y tâm thần chia 3 giai
đoạn.
Giai đoạn thứ nhất: Trước khi ban hành Pháp lệnh giám định tư pháp 2004:
Qua nghiên cứu giai đoạn này, có thể tóm tắt nội dung như sau (sơ đồ ở Phụ
lục 4):
Trước năm 1975,ở nước ta chỉ có Bệnh viện tâm thần Trung ương 1; Bệnh
viện tâm thần Trung ương 2; và Viện Sức khỏe Tâm thần được thành lập. Chức
năng chủ yếu của những tổ chức này là điều trị và chăm sóc người bị tâm thần. Sau
năm 1975, theo Thơng tư liên bộ số 166/TT-LB ngày 10/03/1988 hướng dẫn và quy
định về tổ chức giám định pháp y tâm thần, ở Trung ương thành lập Hội đồng giám
định pháp y tâm thần;ở địa phương nơi nào có Bệnh viện tâm thần thì thành lập Hội
đồng giám định pháp y tâm thần;ở tuyến huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
không thành lập Hội đồng giám định pháp y tâm thần.
Giai đoạn thứ hai:Theo Pháp lệnh giám định tư pháp 2004:
Qua nghiên cứu giai đoạn này, có thể tóm tắt nội dung như sau (sơ đồ ở Phụ
lục 5):
Theo Pháp lệnh giám định tư pháp 2004, ngày 16/07/2007 Viện giám định
pháp y tâm thần Trung ương được thành lập theo Quyết định số 2576/QĐ- BYT của
Bộ trưởng Bộ Y tế. Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ươngcó Bệnh viện tâm
thần cấp tỉnh thành lập Trung tâm giám định pháp y tâm thần trực thuộc Bệnh viện
17
ngày truy cập 03/4/2016.
Bùi Đức Trình (2008) (chủ biên), Tập bài giảng tâm thần học, Trường đại học y khoa, Thái nguyên, tr1.
19
Trần Văn Cường (1998), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và các nhân tố thúc đẩy hành vi phạm tội ở bệnh
nhân tâm thần phân liệt trong giám định pháp y tâm thần”, Nội san tâm thần học, Hà Nội(1), tr24 – 32.
18
15
đó;các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khơng có Bệnh viện tâm thần cấp tỉnh
thì Trung tâm Phịng chống các bệnh xã hội hoặc khoa tâm thần thuộc Bệnh viện đa
khoa cấp tỉnh thực hiện giám định pháp y tâm thần khi được trưng cầu. Bên cạnh
đó, các Bệnh viện cấp quân khu thuộc Bộ Quốc phòng sẽ tiến hành bổ nhiệm giám
định viên tư pháp pháp y tâm thần.
Giai đoạn thứ ba: Theo Luật GĐTP 2012 (sơ đồ ở Phụ lục 6):
Để tránh đầu tư dàn trải, đầu tư kém hiệu quả như mơ hình tổ chức giám định
pháp y tâm thần của Pháp lệnh giám định tư pháp 2004, khoản 3 Điều 12 Luật
GĐTP 2012 quy định tổ chức giám định pháp y tâm thần bao gồm: Viện Pháp y tâm
thần Trung ương và các Trung tâm pháp y tâm thần khu vực. Theo đó, ngày
17/06/2015, Bộ Y tế công bố Quyết định thành lập 5 Trung tâm pháp y tâm thần
khu vực trực thuộc Bộ, gồm:
Thứ nhất: Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Miền núi phía Bắc tại tỉnh
Phú Thọ, thực hiện nhiệm vụ giám định pháp y tâm thần cho 9 tỉnh, gồm: Phú Thọ,
Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang và Vĩnh
Phúc.
Thứ hai: Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Miền Trung tại tỉnh Thừa
Thiên Huế. Trung tâm này thực hiện giám định pháp y tâm thần cho 7 tỉnh, thành
phố gồm: Thừa Thiên Huế, Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng
Ngãi và Bình Định.
Thứ ba: Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tây Nguyên tại tỉnh Đắk Lắk
thực hiện giám định pháp y tâm thần cho 7 tỉnh, gồm: Đắk Lắk, Đắk Nơng, Gia Lai,
Kon Tum, Khánh Hịa, Phú n và Lâm Đồng.
Thứ tư: Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Thành phố Hồ Chí Minh thực
hiện giám định pháp y tâm thần cho Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu, Long An.
Thứ năm: Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ tại thành phố
Cần Thơ, thực hiện giám định pháp y tâm thần cho 8 tỉnh, thành phố gồm: thành
phố Cần Thơ và các tỉnh: Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng,
Đồng Tháp và An Giang.
Các Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực trực thuộc Bộ Y tế sẽ đi vào hoạt
động kể từ ngày 01/07/2015. Các Trung tâm Giám định pháp y tâm thần tỉnh, thành
phố và các tổ chức giám định pháp y tâm thần khác của tỉnh, thành phố trực thuộc
16
Trung ương được thành lập trước đây không đƣợc tiếp tục hoạt động giám định
pháp y tâm thần.
Ngoài năm Trung tâm khu vực, Bộ Y tế cịn có: Viện Pháp y tâm thần Trung
ương (Hà Nội), thực hiện công tác giám định pháp y tâm thần cho 19 tỉnh, thành
phố, gồm: Hà Nội, Hịa Bình, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc
Giang, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phịng, Quảng Ninh, Hà Nam, Nam
Định, Thái Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh; Viện Pháp y tâm thần
Trung ương Biên Hịa (Đồng Nai) thực hiện cơng tác giám định pháp y tâm thần
cho 10 tỉnh: Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Phước, Bình Dương, Tây Ninh, Đồng
Nai, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long.
1.1.2.3
Tổ chức giám định tư pháp cơng lập về kỹ thuật hình sự
Kỹ thuật hình sự là một trong bốn bộ phận cấu thành của khoa học điều tra
hình sự. Kỹ thuật điều tra hình sự có đối tượng nghiên cứu là hệ thống tri thức,
phương pháp khoa học tự nhiên, kỹ thuật và những phương tiện kỹ thuật được xây
dựng trên cơ sở áp dụng và sử dụng những thành tựu của khoa học tự nhiên và kỹ
thuật đó để phục vụ cơng tác đấu tranh và phịng ngừa tội phạm.Giám định kỹ thuật
hình sự là một lĩnh vực của giám định tư pháp, đồng thời là biện pháp khoa học –
kỹ thuật, nghiệp vụ của ngành Công an do giám định viên tư pháp hoặc người tiến
hành giám định kỹ thuật hình sự thực hiện tại cơ quan giám định kỹ thuật hình sự
hoặc tại nơi tiến hành điều tra vụ án dựa trên cơ sở kiến thức chuyên môn về kỹ
thuật hình sự và các ngành khoa học khác có liên quan, sử dụng các phương tiện
giám định chuyên dụng và các phương tiện giám định phù hợp, để nghiên cứu, xem
xét và đưa ra các kết luận có tính khoa học phục vụ cho công tác đấu tranh và phịng
ngừa tội phạm.Các lĩnh vực giám định kỹ thuật hình sự gồm 10 lĩnh vực: giám định
dấu vết đường vân; giám định dấu vết cơ học; giám định kỹ thuật; giám định âm
thanh; giám định sinh học; giám định hóa học; giám định dấu vết, súng, đạn; giám
định tài liệu; giám định ảnh; giám định cháy, nổ.
Mơ hình tổ chức giám định tư pháp cơng lập về kỹ thuật hình sự chia 3 giai
đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: Trước khi ban hành Pháp lệnh giám định tư pháp 2004:
Qua nghiên cứu giai đoạn này, có thể tóm tắt nội dung như sau (sơ đồ ở Phụ
lục 7):
17
Tháng 08/1945, cùng với việc ra đời của chính quyền cách mạng, các tổ chức
đầu tiên của Công an Việt Nam ra đời trong đó có các đơn vị tiền thân của lực
lượng kỹ thuật hình sự là các Ban Căn cước. Ngày 21/02/1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký Sắc lệnh số 23/SL, sát nhập các tổ chức Công an đầu tiên thành Việt Nam
Công an vụ. Ngày 19/05/1978, Bộ trưởng kí Quyết định số 77 và 78/NV/QĐ về
việc tách Phịng kỹ thuật hình sự ra khỏi Cục kỹ thuật, ở Trung ương thành lập Viện
Khoa học hình sự (D44), ở cấp tỉnh, thành phố thành lập Phòng kỹ thuật hình sự
(mật danh là PC21). Đến ngày 15/05/1990, theo Chỉ thị số 08/CT-BNV Bộ Nội vụ,
Công an các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh lập Tổ kỹ thuật hình sự
chuyên trách, biên chế từ 02-04 cán bộ; các địa phương có ít vụ việc bố trí 01 cán
bộ kỹ thuật hình sự chun trách kiêm thêm cơng tác khác.
Giai đoạn thứ hai: Theo Pháp lệnh giám định tư pháp 2004 (sơ đồ ở Phụ lục
8):
Theo Pháp lệnh giám định tư pháp 2004, ở cấp huyện, xã khơng cịn tổ kỹ
thuật hình sự như mơ hình của giai đoạn thứ nhất. Lý do của việc khơng cịn tồn tại
mơ hình này là vì theo Pháp lệnh giám định tư pháp 2004quy định về tiêu chuẩn bổ
nhiệm giám định viên tư pháp: “Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam;có
trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế hoạt động chuyên môn theo ngành đã học
từ năm năm trở lên; có phẩm chất đạo đức tốt; có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”,
người có đủ tiêu chuẩn quy định sẽ được bổ nhiệm để thực hiện cơng tác giám định
tư pháp về kỹ thuật hình sự, nếu không chỉ thực hiện công tác sơ bộ về khám
nghiệm hiện trường. Tuy nhiên, tại hoàn cảnh thời điểm đó, số lượng cán bộ cơng
an tại các huyện, xã đáp ứng đủ điều kiện như vậy là rất ít, vì vậy, theo mơ hình của
Pháp lệnh giám định tư pháp 2004, ở Trung ương:Viện Khoa học hình sự thuộc Bộ
Cơng an, tổ chức kỹ thuật hình sự thuộc Bộ Quốc phịng; ở địa phương: Phịng kỹ
thuật hình sự thuộc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Giai đoạn thứ ba: Theo Luật GĐTP 2012 (sơ đồ ở Phụ lục 8):
Theo Điều 12 Luật GĐTP 2012 hệ thống tổ chức giám định tư pháp về kỹ
thuật hình sự giống giai đoạn thứ hai, ở Trung ươnggồm có Viện khoa học hình sự
thuộc Bộ Cơng an, Phịng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Bộ Quốc phịng; ở địa
phương có Phịng kỹ thuật hình sự thuộc Cơng an cấp tỉnh.