1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Mai Phước
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH DU LỊCH
Chuyên ngành: Luật Hành chính
Mã số:
60.38.20
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
Tiến só Nguyễn Đức Chính
Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2007
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Quản lý nhà nước đối với hoạt đông kinh doanh du
lịch” là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Cơng trình này chưa từng được cơng bố trước
ngày bảo vệ chính thức Tốt nghiệp Thạc sĩ Luật học, năm 2007.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 10 năm 2007
Tác giả
Trần Thị Mai Phước
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB
:
Ngân hàng Phát triển châu Á
APEC
:
Tổ chức hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (the Asia
Pacific Economic Cooperation).
AICST
:
Trung tâm APEC Quốc tế về Du lịch bền vững
ATXH
:
An toàn xã hội
ASEAN
:
Hiệp hội các nước Đông Nam Á (Association of South- East Asian
Nations)
ASEM
:
Cuộc gặp gỡ Á - Âu, hay Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu (Asia Europe
Meeting)
BBC
:
Đài BBC - Công ty phát thanh Anh quốc (British Broadcasting
Corporation ).
CP
:
Chính phủ
Ch
:
Chương
Đ
:
Điều (luật)
đ
:
điểm
ĐTM
:
Đánh giá tác động môi trường
EC
:
Cộng đồng châu Âu (từ 01/01/1994 đổi tên thành Liên minh châu
Âu EU, European Community).
FDI
:
Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (Foreign Direct Invested)
KT-XH
:
Kinh tế - Xã hội
KDDL
:
Kinh doanh du lịch
M
:
mục
NĐ
:
Nghị định
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
4
PATA
:
Hiệp hội du lịch châu Á- Thái Bình Dương (Pacific and Asia Travel
Association).
PLDL
:
Pháp lệnh Du lịch
SNV
:
Tổ chức Phát triển Hà Lan
TAND
:
Tịa án nhân dân
TCDL
:
Tổng cục Du lịch
TP.HCM
:
Thành phố Hồ Chí Minh
TT
:
Thông tư
tr
:
trang
TW
:
Trung ương
UBND
:
Ủy ban nhân dân
UNWTO
:
Tổ chức du lịch thế giới
USD
:
Đô la, tên đồng tiền của nước Mĩ (United States Dollar).
VAT
:
Thuế Giá trị gia tăng (Value- added tax)
VKSND
:
Viện Kiểm sát nhân dân
WTO
:
Tổ chức Thương mại thế giới (World Trade Organization)
WTTC
:
Hội đồng lữ hành và du lịch thế giới
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
5
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Sơ đồ 1.1. Bộ máy quản lý nhà nước về du lịch trong giai đoạn áp dụng Pháp lệnh
Du lịch (01/5/1999 - 30/12/2005)…………………………………trang 27
Sơ đồ 1.2. Bộ máy quản lý nhà nước về du lịch từ ngày 31/7/2007...……....trang 28
Sơ đồ 1.3.Cơ cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch khi chưa được hợp nhất vào Bộ Văn
hóa- Thể thao và Du lịch...…………………………………..….trang 59
Sơ đồ 2.1: Mơ hình tổ chức Hội thảo, tập huấn về du lịch hiện nay………...trang 76
Sơ đồ 2.2. Mơ hình tổ chức Hội thảo, tập huấn ngành du lịch theo hướng đề xuất
của Luận văn ……………………………………………..…….trang 93
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
6
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Cơ cấu kinh tế VN, phân theo nhóm ngành (giá so sánh), từ 1991 - 2005 (đơn
vị tính: %) ………………………………………… ………..trang 18
Bảng 2.1: Lượng khách DL và thu nhập của ngành từ 2001-2006………....trang 64
Bảng 2.2: Bảng thống kê thời điểm có hiệu lực của các văn bản pháp luật du lịch
….……………………………………………………………….trang 70
Bảng 2.3: Bảng thống kê tên Website của các Sở DL Việt Nam…………... trang 84
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
MỤC7 LỤC
Mục
Nội dung
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng biểu
Danh mục các hình vẽ
MỞ ĐẦU
1-4
Chương 1:
CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
5 - 59
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DU LỊCH
Vài nét tổng quan về Du lịch và hoạt động Kinh doanh Du lịch
Việt Nam
1.1.1. Vài nét tổng quan về du lịch
1.1.
5 - 19
5 - 14
1.1.2 Vài nét tổng quan về hoạt động kinh doanh du lịch Việt Nam
14 - 19
1.2
19 -59
Tổng quan về Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh du lịch
Về khái niệm quản lý nhà nước và quản lý nhà nước đối với hoạt động
1.2.1. kinh doanh du lịch
1.2.2. Bộ máy quản lý nhà nước về du lịch
1.2.3. Các hoạt động quản lý nhà nước đối với kinh doanh du lịch
1.2.4. Vai trò của việc quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh du lịch
19 - 25
25 - 32
32 - 56
56 - 59
Chương 2:
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DU LỊCH
2.1.
Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh du lịch
2.1.1.
Những thành tựu đạt được
Những hạn chế trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động
2.1.2 kinh doanh du lịch
Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với
hoạt động du lịch
Những cơ hội và thách thức đối với quản lý nhà nước về kinh doanh du
2.2.1. lịch trong thời kỳ hội nhập
2.2.2. Một số giải pháp kiến nghị
2.2.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
60- 103
60 - 84
60 - 67
67 - 84
84 - 99
84 - 85
88 - 98
100-103
104-112
PHỤ LỤC
1 LuậMột
n văn số
Thạmơ
c só hình
Luật tổ
họcchức bộ máy du lịch trên thế giới
Cam kết về dịch vụ du lịch Việt Nam trong WTO
2
Trần Thị Mai Phước
8
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do, mục đích chọn đề tài
Du lịch được coi là “con gà đẻ trứng vàng”, là “ngành cơng nghiệp khơng
khói”… Người ta nói “khi Chính phủ bỏ ra một đồng để đầu tư vào ngành du lịch
thì sẽ thu về một ngàn đồng lợi nhuận”[42]. Từ khi đất nước đổi mới, Việt Nam xác
định du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn với nhiều tiềm năng phát triển. Với vị
trí, địa lý thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, dồi dào; với bề dày
lịch sử, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc, du lịch Việt Nam chắc chắn sẽ còn
tiến xa hơn nữa, và ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân.
Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO, đó là bước đột phá, tạo đà cho du
lịch nước nhà thăng hoa. Hoạt động kinh doanh du lịch ngày càng vận hành đa dạng
theo nhu cầu cuộc sống và xã hội. Vì thế, cơng tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động này cần được nghiên cứu và hướng tới việc vận dụng vào thực tiễn một cách
nghiêm túc, nhằm góp phần khắc phục những hạn chế, đồng thời nâng tầm quản lý
nhà nước trên trường quốc tế.
Vì lẽ đó, tác giả chọn đề tài “Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh
du lịch” làm đề tài tốt nghiệp Thạc sĩ Luật, chuyên ngành Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu
Mặc dù đây là đề tài mang tính thời sự nhưng cịn khá mới mẻ đối với giới
nghiên cứu, vì hầu như chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách tồn diện
về vấn đề này.
- Dưới góc độ nghiên cứu về Quản lý nhà nước, có:
Bộ giáo trình Quản lý hành chính nhà nước (gồm 4 tập) do Học viện Hành
chính quốc gia biên soạn và giảng dạy trong chương trình trình đào tạo học sinh,
sinh viên chuyên ngành; và nhiều Tài liệu bồi dưỡng về Quản lý hành chính nhà
nước, dùng cho các Chuyên viên…, có đề cập đến rất nhiều lĩnh vực trong đời sống
xã hội. Một số lĩnh vực được nghiên cứu tưởng chừng gần gũi với đề tài này, như:
Quản lý nhà nước về kinh tế; Quản lý nhà nước về Văn hóa; Quản lý nhà nước đối
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
9
với Doanh nghiệp;…nhưng thực chất chỉ khai thác vấn đề dưới một góc độ rất
khiêm tốn về vai trị, đặc điểm, chức năng và nội dung quản lý nhà nước, trong
khoảng chừng 2060 trang sách.
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân và Thạc sĩ Hành chính tại các Học viện Hành
chính quốc gia cũng rất phong phú với nhiều đề tài về quản lý nhà nước nhưng cũng
chưa thấy xuất hiện một tên đề tài nào tương tự hoặc gần gũi với Quản lý nhà nước
đối với hoạt động kinh doanh du lịch.
Tại trường Đại học Luật TP.HCM có một vài Luận văn Thạc sĩ Luật hành
chính nghiên cứu về Quản lý nhà nước, gần gũi nhất có Quản lý nhà nước về đầu tư
nước ngồi của chính quyền địa phương ở nước ta; Quản lý nhà nước về di tích lịch
sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh- thực trạng và giải pháp; Quản lý nhà nước
trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa trên địa bàn Tp. Hồ Chí
Minh;… Hầu hết đều chưa nghiên cứu đến lĩnh vực quản lý nhà nước về du lịch, lại
càng chưa đề cập đến công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh du
lịch - đúng như tên gọi của Luận văn này.
- Dưới góc độ nghiên cứu về du lịch:
Tại một số cơ sở đào tạo có chuyên ngành du lịch, các đề tài tốt nghiệp đều
thuần túy mang tính chuyên ngành (kinh doanh lữ hành hay khách sạn…), thực hiện
trong phạm vi vùng, miền, địa phương trong nước hoặc đối với một khách sạn, một
công ty nào đó. Chẳng hạn, Đánh giá thực trạng và xây dựng định hướng hoạt động
kinh doanh của khách sạn Quê hương 4 -cụm khách sạn Quê hương; Một số biện
pháp nhằm quản lý môi trường tại khách sạn Rex; hay Đánh giá tiềm năng và định
hướng phát triển loại hình du lịch Spa trong một số khách sạn tại TP.HCM… Nhìn
chung, các đề tài nêu trên được nghiên cứu dưới góc độ du lịch, với phạm vi hẹp,
chưa được nghiên cứu dưới góc độ pháp luật hay quản lý nhà nước với phạm vi bao
qt.
Ngồi ra, cịn có một số bài báo, tạp chí viết về những hạn chế, bất cập trong
công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh du lịch nhưng được đăng
tản mạn dưới dạng ý kiến, phản ánh, xã luận…
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
10
Vì vậy, tác giả cho rằng đây là một đề tài khá mới mẻ và rất rộng, đòi hỏi
người viết phải kết hợp giữa kiến thức quản lý nhà nước với kiến thức kinh doanh
du lịch - một lĩnh vực đang được thế giới quan tâm nhưng chưa từng được đề cập
đến trong chương trình đào tạo Cử nhân và Thạc sĩ Luật tại Việt Nam.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
- Đề tài được giới hạn trong phạm vi nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với
hoạt động kinh doanh du lịch tại Việt Nam.
Quản lý nhà nước được nghiên cứu trong luận văn này được hiểu theo nghĩa
hẹp, là quản lý hành chính nhà nước- một trong ba hoạt động (lập pháp, hành pháp,
tư pháp) trong nội hàm khái niệm Quản lý nhà nước theo nghĩa rộng.
Kinh doanh du lịch được nghiên cứu trong đề tài này không chỉ là các hoạt
động đang diễn ra trong quá trình kinh doanh du lịch mà cịn bao gồm các giai đoạn
đầu (thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh).
Luận văn đi sâu nghiên cứu công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động
kinh doanh du lịch trong giai đoạn hiện hành để lấy làm cơ sở đưa ra các kiến nghị,
đề xuất. Các giai đoạn quản lý trước đó chỉ được đề cập đơi nét khi cần liên hệ đến.
- Tác giả tập trung nghiên cứu hai vấn đề chính:
+ Lý luận chung về cơng tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh
du lịch tại Việt Nam.
+ Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh du lịch - Đề
xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
Như vậy, đối tượng được nghiên cứu chính là cơng tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động kinh doanh du lịch tại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin và các phương pháp khác, như: phương pháp
nghiên cứu lý luận, nghiên cứu thực tiễn, phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê…
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
11
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Về mặt khoa học: Giúp người đọc tiếp cận và đánh giá hoạt động kinh
doanh du lịch dưới góc độ quản lý nhà nước, một cách có hệ thống. Trên cơ sở đó,
góp phần giúp các cơ quan nhà nước đưa ra những quy định và cách quản lý mạnh
dạn, phù hợp với yêu cầu cuộc sống.
- Về mặt thực tiễn: Góp phần điều chỉnh nhận thức của người làm công tác
quản lý, nâng cao ý thức pháp luật cho người tham gia vào hoạt động du lịch.
Hướng đến việc giảm thiểu những vụ việc, những hành vi trái pháp luật, làm ô
nhiễm môi trường tự nhiên và xã hội trong kinh doanh du lịch, đồng thời tạo hình
ảnh tốt đẹp, thân thiện, an toàn cho du khách và nhà kinh doanh du lịch trong và
ngoài nước.
Ngoài ra, Luận văn ra đời như một ý tưởng gợi mở, “đánh thức” những
người quan tâm đến cơng tác quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước đối
với kinh doanh du lịch nói riêng, sớm có những nghiên cứu sâu hơn, dày công hơn
để vận dụng thành công vào việc quản lý trong tình hình mới- tình hình hội nhập
quốc tế.
∞∞∞∞∞∞
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
12
Chương 1:
CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DU LỊCH
1.1. Vài nét tổng quan về Du lịch và KDDL tại Việt Nam
1.1.1. Vài nét tổng quan về Du lịch
1.1.1.1. Khái niệm về Du lịch
Từ xa xưa, trong lịch sử nhân loại, du lịch (DL) đã được ghi nhận như một sở
thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay, DL trở thành một
nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hóa- xã hội của các nước. Du lịch
được xem là một trong những ngành kinh tế quan trọng - ngành công nghiệp DL của nhiều quốc gia. Hiện nay, ngành “công nghiệp” này chỉ đứng sau cơng nghiệp
dầu khí và ơtơ. Đối với các nước đang phát triển, DL được xem là cứu cánh để vực
dậy nền kinh tế nhỏ bé của quốc gia.
a). Khái niệm Du lịch
Tiến sĩ Berkener, nhà nghiên cứu về DL người Anh, nổi tiếng thế giới, đã
viết “Đối với DL, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa” [26,
tr.12]. Nguyên nhân cơ bản là do cách nhìn nhận khác nhau đối với hiện tượng DL.
Cách nhìn đó bị chi phối bởi hồn cảnh khác nhau và dưới mỗi góc độ nghiên cứu
khác nhau.
Theo quan điểm của hai học giả người Thụy Sĩ [53, tr.9] thì “DL là tồn bộ
những quan hệ và hiện tượng xảy ra trong quá trình di chuyển và lưu trú của con
người tại nơi không phải là nơi ở thường xuyên hoặc nơi làm việc của họ” (Kaspar).
Hay “DL là tổng hợp các mối quan hệ và hiện tượng bắt nguồn từ cuộc hành trình
và lưu trú tạm thời của các cá nhân tại những nơi không phải là nơi ở thường xuyên
của họ” (Kraff). Về sau, quan điểm này được Hiệp hội các chuyên gia khoa học về
DL thừa nhận.
Về phương diện ngôn ngữ, thuật ngữ “DL” trong tiếng Việt được dịch thơng
qua tiếng Hán. “Du” có nghĩa là đi chơi, “lịch” có nghĩa là từng trải. Từ điển tiếng
Việt cũng cho rằng: “DL là đi đến những nơi xa lạ để giải trí và hiểu thêm về đất
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
13
nước, con người và cuộc sống” [85, tr.230]. Như thế, bản thân của từ “du” đã có
“đi” trong đó rồi. Nhưng trên thực tế, chúng ta thường nói theo thói quen là “đi du
lịch” (thừa từ “đi”). Do vậy, xét về mặt ngơn từ thì nói như trên là khơng chính xác,
nhưng cách nói đó dường như rất thuận ngay cả trong văn nói hoặc văn viết.
Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam cho rằng thuật ngữ “DL” chứa đựng
hai nghĩa:
Một là dạng nghỉ dưỡng sức tham quan tích cực của con người ngồi nơi cư
trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh, di tích
lịch sử, cơng trình văn hóa, nghệ thuật… Hai là một ngành kinh doanh
tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên,
truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm
tình yêu đất nước; đối với người nước ngồi là tình hữu nghị với dân tộc
mình; về mặt kinh tế, DL là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất
lớn; có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tại chỗ [87].
Theo đó, “DL” cần được hiểu theo nghĩa rộng, tránh hiểu đơn thuần là một
ngành kinh tế. Vì hiểu như thế dễ dẫn đến tình trạng người tham gia vào hoạt động
DL sẽ đặt mối quan tâm hàng đầu vào mục tiêu kinh tế, tận dụng triệt để mọi nguồn
tài nguyên thiên nhiên, mọi cơ hội để đạt được hiệu quả kinh doanh.
Trong việc thực hiện đề tài này, chúng tôi nghiên cứu từ “du lịch” dưới góc
độ pháp luật, DL cần được hiểu theo nghĩa rộng, và việc sử dụng từ ngữ có khi cũng
cần thiết phải dùng từ thừa như trên.
Pháp luật hiện hành nước ta quy định: “DL là các hoạt động có liên quan đến
chuyến đi của con người ngồi nơi cư trú thường xun của mình nhằm đáp ứng
nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất
định” [49, Đ4].
Khái niệm này có sự điều chỉnh đơi chỗ về từ ngữ so với Pháp lệnh Du lịch
năm 1999 (các cụm từ được in nghiêng). Nội hàm của từ “du lịch” vì thế mà rộng
hơn trước. Thiết nghĩ, sự điều chỉnh này là hết sức hợp lý và cần thiết.
b). Khách du lịch
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
14
Cũng như DL, khái niệm khách DL được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Trong đó, nhà Kinh tế học người Áo, Lozep Stander cho rằng: “Khách DL là hành
khách xa hoa, ở lại theo ý thích ngồi nơi cư trú thường xuyên để thỏa mãn những
nhu cầu cao cấp mà khơng theo đuổi mục đích kinh tế” [39, tr.95]. Còn nhà Kinh tế
học người Anh, Odgilvi phát biểu: “Để trở thành khách DL cần phải có hai điều
kiện là phải đi xa nhà trong thời gian dưới một năm và phải chi tiêu ở nơi nghỉ lại
bằng tiền kiếm được ở nơi khác” [39, tr.95].
Hội nghị của Tổ chức DL thế giới họp tại Rôma (Italia) vào tháng 9/1968, đã
xác định phạm trù khách DL là “Bất cứ ai ngủ một đêm tại nơi khơng phải là nhà
của mình và mục đích chính của cuộc hành trình khơng nhằm mục đích kiếm tiền
đều được coi là khách DL” [26, tr.15].
Pháp luật hiện hành nước ta quy định: “Khách DL là người đi DL hoặc kết
hợp đi DL, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi
đến” [49, Đ4].
Như vậy, khách DL được xác định thống nhất rằng đó khơng phải là người
thực hiện những chuyến đi thuần túy nhằm vào mục đích kinh doanh hoặc vì cơng
việc hay học tập. Chuyến đi ấy phải đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí,
nghỉ dưỡng của con người trong một thời gian nhất định.
Kết luận của Hội nghị của Tổ chức Du lịch quốc tế, tại Otawa (Canada) vào
năm 1991 đã đề cập đến sự phân biệt hai phạm trù khách tham quan và du khách.
Khách tham quan còn gọi là khách du ngoạn hay khách ở trong ngày (Day visitors),
là những người hành trình với mục đích tham quan ở một nơi nào đó dưới 24 giờ
đồng hồ và khơng ở lại qua đêm ở đó. Du khách cịn gọi là khách ở lại qua đêm
(Overnight visitors)- là những người hành trình với mục đích tham quan nhưng phải
nghỉ lại ít nhất một đêm tại cơ sở tham quan. Như vậy, cần có sự phân biệt hai phạm
trù này để xác định được thuật ngữ “khách DL” rộng hơn “du khách”, vì nó bao
hàm cả du khách và khách tham quan. Nhưng trên thực tế, nhiều khi chúng được sử
dụng như nhau, vì hiểu theo nghĩa rộng thì “du khách” là khách đi du lịch. Trong
luận văn này, chúng tôi thống nhất sử dụng là “khách DL” hoặc “du khách” theo
Luaän văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
15
nghĩa rộng để phạm vi đề cập tới bao hàm luôn cả những người tham gia vào hoạt
động DL, dù có ngủ lại hay khơng ngủ lại tại điểm đến tham quan.
c). Kinh doanh du lịch
Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các cơng đoạn
của q trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên
thị trường nhằm mục đích sinh lợi [48, Đ4].
Kinh doanh du lịch (KDDL) lần đầu tiên được xuất hiện trong văn bản pháp
luật Việt Nam là năm 1992. Đó chính là “việc thực hiện một, một số hoặc toàn bộ
các dịch vụ DL nhằm mục đích sinh lợi” [8, Đ2].
Năm 1999, theo Pháp lệnh DL ra đời, DL “là việc thực hiện một, một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình hoạt động DL hoặc thực hiện dịch vụ DL
trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” [80, Đ10].
Luật DL 2005 ra đời, mặc dù có 21 thuật ngữ (Pháp lệnh DL chỉ có 10) được
đưa vào phần giải thích tại Điều 4, nhưng trong đó khơng có “KDDL”. Phải chăng
đây là điều đáng tiếc, cần được quan tâm hơn sau này?
Chúng tôi cho rằng KDDL theo cách giải thích của Pháp lệnh DL là tương
đối hợp lý. Và cần hiểu quá trình hoạt động DL là hoạt động của khách DL, tổ
chức, cá nhân KDDL, cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
đến DL [49, Đ4], nhưng hoạt động đó phải nhằm mục đích sinh lợi thì khái niệm
KDDL nêu trên mới thật đúng nghĩa.
1.1.1.2. Tình hình và xu thế phát triển du lịch
DL chỉ phát triển trong những điều kiện thuận lợi về nhiều mặt trong đời
sống xã hội, như điều kiện chính trị hịa bình và ổn định, mơi trường trong sạch, cơ
sở hạ tầng được cải thiện, cơ chế quản lý nhà nước tốt… Vì thế, trên thế giới, mãi
đến năm 1800, DL vẫn còn được coi là một hiện tượng trong xã hội mang tính tự
phát, khái niệm du lịch và khách du lịch mới bắt đầu được sử dụng vào thời kỳ này.
Điều đó cũng thật dễ hiểu, vì rằng lúc này, “DL quốc tế hầu như rất hãn hữu vì thiếu
phương tiện và vì chính sách cấm đốn, hạn chế của chính quyền” [53, tr.22].
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
16
Tình hình và xu thế phát triển du lịch trên thế giới nói chung, có thể được
giới thiệu vắn tắt qua các thời kỳ sau:
a). Thời kỳ cổ đại
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng hoạt động DL chỉ có thể được hình thành khi
con người thốt ra khỏi giai đoạn hái lượm. Sau lần phân công lao động thứ 3 của
xã hội loài người, sự xuất hiện của ngành thương nghiệp, của đồng tiền xu (năm 680
TCN) đã gián tiếp thúc đẩy sự ra đời và phát triển của ngành DL. Các lĩnh vực thể
thao, văn hóa, tín ngưỡng… cũng góp một phần rất lớn vào hoạt động DL trong thời
kỳ này.
b). Thời kỳ trung đại
Nhà nước La Mã suy sụp làm ảnh hưởng sâu sắc đến DL. Các tiện nghi DL
bị phá hủy, mãi đến 10 thế kỉ sau vẫn chưa khắc phục được. Chiến tranh xảy ra liên
miên, nhà cầm quyền thay đổi, biên giới biến động khiến cho việc đi lại hết sức khó
khăn. Thời kì này, DL tơn giáo hoạt động rất mạnh mẽ, vì Thiên chúa đã trở thành
thống sối và tích cực ủng hộ những cuộc chiến tranh. Rất nhiều quán trọ mọc lên,
các dịch vụ bán hàng lưu niệm cũng ra đời và hoạt động mạnh mẽ nhưng khơng
nhằm mục đích kinh doanh mà với tinh thần ủng hộ cho tôn giáo.
c). Thời kỳ cận đại
Vào thời kỳ này, DL đã bước sang một trang mới. Năm 1772, trên những
chuyến tàu thủy chở khách và hàng hóa đầu tiên ở Anh đã có phòng café phục vụ
cho khách. Dấu hiệu của ngành KDDL đã dần dần xuất hiện. Sau đó, hàng loạt phát
minh ra đời. Trong đó sự xuất hiện của ơtơ, tàu hỏa, điện tín, điện thoại, rađio.…đã
có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của ngành DL.
Và đặc biệt, trong thời kì này đã xuất hiện ơng Tổ của ngành kinh doanh lữ
hành- Thomas Cook- đánh dấu sự ra đời và phát triển của ngành KDDL [53, tr.29].
d). Thời kì hiện đại
Sau thế chiến thứ hai, kinh tế thế giới phát triển làm tăng nguồn thu nhập cho
mọi tầng lớp dân cư, tạo ra nhiều thời gian nghỉ dưỡng để phục hồi sức lao động,
đồng thời tạo điều kiện cho mọi người tham gia vào hoạt động DL. Theo nhiều
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
17
chuyên gia thuộc Tổ chức DL thế giới, “sự bùng nổ của hoạt động DL chỉ mới bắt
đầu từ thế kỷ này và các số liệu về các hoạt động DL mới bắt đầu được quan tâm từ
những năm 50 trở lại đây” [53, tr.1].
Nếu như năm 1950, trên thế giới có 25,3 triệu lượt khách đi DL quốc tế, thu
nhập từ DL đạt 2,1 tỉ USD thì năm 2000 (50 năm sau) đã tăng lên 698 triệu lượt
người (tăng gấp 27,6 lần), thu nhập đạt 476 tỉ USD (tăng gấp 227 lần). Theo dự báo
của WTO, vào năm 2010, các con số trên ước đạt 1.006 triệu lượt người và 900 tỉ
USD [54, tr.161, 162].
Bên cạnh việc phát triển DL quốc tế, các quốc gia cũng không ngừng đẩy
mạnh việc phát triển DL nội địa. Các nhà kinh tế đã chứng minh rằng: “nếu xét về tỉ
lệ, số người đi DL ra nước ngồi là 1 người thì số người đi DL trong nước là 6
người” [26, tr.19].
Để tạo điều kiện cho DL phát triển, mỗi quốc gia đều có chính sách và chiến
lược của riêng mình. Xu hướng chung cho thấy Chính phủ các nước rất chú trọng
đến các yếu tố có khả năng tác động đến sự phát triển DL, như: nâng cao giáo dục,
cải cách chế độ làm việc để tăng thì giờ nhàn rỗi, cải tiến phương tiện giao thông,
đầu tư cho hạ tầng cơ sở, hỗ trợ để giảm giá các dịch vụ vận chuyển, lưu trú, vé
tham quan… Đặc biệt, hầu hết các quốc gia đều đã, đang và sẽ luôn coi trọng vai trị
của hội nhập và tồn cầu hóa.
“Ngày nay, DL được coi như hộ chiếu của hịa bình và hữu nghị” [26, tr.18].
Hàng năm, ngành DL đã đem về cho mỗi quốc gia một số tiền khổng lồ, doanh thu
trong ngành, số lượng khách DL trong và ngoài nước ngày càng gia tăng “chóng
mặt”.
Trước sức cầu quá lớn của xã hội về vui chơi, giải trí, tham quan, nghiên
cứu, KDDL là một ngành đầy triển vọng. “Con gà đẻ trứng vàng” sẽ ngày càng đẻ
thêm nhiều trứng, và “ngành công nghiệp khơng khói” có thể sẽ chiếm lĩnh vị trí
hàng đầu, đứng trên cả ngành “cơng nghiệp có khói” trong tương lai. “Xu hướng
mang tính quy luật của cơ cấu kinh tế thế giới chỉ ra rằng tỷ trọng nông nghiệp từ vị
thế quan trọng đã dần nhường chỗ cho cơng nghiệp và cuối cùng vai trị của kinh tế
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
18
dịch vụ sẽ chiếm vai trị thống sối” [53, tr.46].
Và sự phát triển của ngành DL- một ngành tổng hợp mang tính chính trị,
kinh tế, văn hóa xã hội sẽ kéo theo sự phát triển của nhiều ngành nghề khác.
1.1.1.3.
Lược sử hình thành và phát triển ngành DL Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia có nguồn tài nguyên DL phong phú và đa dạng. Ba
phần tư lãnh thổ là đồi núi với nhiều cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn và ngoạn mục.
Đây chính là sức hút mãnh liệt của thiên nhiên đối với con người, là cơ sở tốt nhất
để ngành DL ra đời và phát triển. Có thể chia thành 3 giai đoạn sau:
a). Giai đoạn từ 1960 đến năm 1975
Ngành DL Việt Nam ra đời bằng Nghị định số 26/CP, ngày 09/7/1960 của
Hội đồng Chính phủ. Theo đó, Cơng ty DL Việt Nam lần đầu tiên được thành lập,
do Bộ Ngoại thương trực tiếp quản lý, với nhiệm vụ cơ bản là phục vụ các đoàn
khách của Đảng và Chính phủ. Lúc đó, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, đội ngũ
cán bộ, nhân viên DL hạn chế cả về mặt số lượng lẫn chất lượng, ngành DL Việt
Nam đã gặp phải những khó khăn nhất định. Dù vậy, “tổ chức này đã đặt nền móng
cho sự hình thành một ngành kinh tế mới mẻ của đất nước. Chính vì vậy, ngày 09
tháng 7 được coi là ngày thành lập ngành DL Việt Nam” [53, tr.49].
Ngày 16/3/1963, Bộ Ngoại thương ban hành Quyết định số 164-BNT-TCCB
quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Công ty DL Việt Nam. Cũng theo
Quyết định này, công ty được giao làm nhiệm vụ kinh doanh nhằm phục vụ nhu cầu
tham quan, DL và thu thêm ngoại tệ cho đất nước.
Năm 1964, miền Bắc bước vào giai đoạn vừa có hịa bình, vừa có chiến
tranh. Ngày 18/8/1969, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 145-CP chuyển
giao Cơng ty DL Việt Nam sang cho Phủ Thủ tướng quản lý. Để bảo đảm an ninh
quốc gia và an toàn cho du khách, ngày 12/9/1969, Thủ tướng Chính phủ đã ra
Quyết định số 94-TTg giao cho Bộ Công an nhiệm vụ tham gia quản lý ngành DL.
b). Giai đoạn từ năm 1976 đến năm 1990
Sau giải phóng miền Nam, cơng ty DL Việt Nam được giao nhiệm vụ tiếp
quản các khách sạn lớn ở các tỉnh, thành phố phía Nam để đưa vào KDDL.
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
19
Ngày 27/6/1978, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 262
NQ/QHK6 phê chuẩn việc thành lập Tổng cục DL Việt Nam trực thuộc Hội đồng
Chính phủ.
Hoạt động KDDL ngày càng phong phú, đa dạng và là một lĩnh vực không
thể thiếu được trong ngành DL. Trước thực tế đó, ngày 03/01/1983, Hội đồng Bộ
trưởng đã ra Quyết định 01/HĐBT, giao cho Tổng cục DL nhiệm vụ trực tiếp
KDDL trong cả nước. Do chưa có sự tách biệt giữa hoạt động kinh doanh và quản
lý, và do yếu kém trong chỉ đạo kinh doanh và cơ chế quản lý chung, ngành DL
trong giai đoạn này thực sự chưa có gì nổi bật.
Trước tình hình trên, ngày 15/8/1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị
định số 120-HĐBT quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Tổng cục
DL, nhằm thống nhất chỉ đạo hệ thống KDDL trong phạm vi cả nước. Từ đây, chức
năng của hệ thống tổ chức quản lý DL Việt Nam được chia thành 3 khối: Khối các
đơn vị Hành chính sự nghiệp (gồm Văn phòng Tổng cục và các Vụ chức năng),
khối các đơn vị đào tạo và nghiên cứu khoa học, và khối các đơn vị trực tiếp kinh
doanh (gồm: các công ty lữ hành, các khách sạn, và các công ty vận chuyển khách).
Năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI diễn ra, đánh dấu sự khởi sắc
trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đất nước mở cửa, Việt Nam
muốn làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới. DL nước ta cũng bắt đầu có điều
kiện phát triển từ đây. Tuy nhiên, vào lúc này, DL vẫn đang còn là một ngành thứ
yếu nên mãi đến bốn năm sau (năm 1990), chúng ta mới thấy được hết bước chuyển
mình của DL nước nhà.
c). Giai đoạn từ năm 1990 tới nay
Ngày 31/3/1990, căn cứ Quyết định số 224 của Hội đồng nhà nước, Tổng
cục DL Việt Nam được sáp nhập với một số cơ quan khác thành Bộ Văn hóa Thơng tin - Thể thao và DL. Mục đích của việc sáp nhập này nhằm tinh giản biên
chế, rút gọn bộ máy nhà nước. Kinh tế đất nước trong giai đoạn này bắt đầu chuyển
đổi và có những bước phát triển đáng kể. Năm 1990 được chọn làm Năm Du lịch
Việt Nam, sự kiện này đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của DL nước nhà. Đồng
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
20
thời, kéo theo sự phát triển của nhiều ngành nghề kinh doanh khác ở cả các thành
phần kinh tế trong và ngoài quốc doanh. DL từ đây được coi là một ngành kinh tế
quan trọng của đất nước.
Do được xem là một ngành kinh tế dịch vụ nên ngày 12/8/1991, ngành DL
được tách ra khỏi Bộ Văn hóa - Thơng tin - Thể thao và DL.
Bản chất của DL không chỉ là một ngành kinh tế nên khi được tổ chức và
quản lý như một ngành kinh tế rõ ràng đã khơng đem lại hiệu quả nhất định. Vì lẽ
đó, ngày 26/10/1992, Chính phủ ban hành Nghị định số 05-CP thành lập Tổng cục
DL Việt Nam- một cơ quan độc lập, thuộc Chính phủ.
Ngày 27/12/1992, Chính phủ ban hành Nghị định số 20-CP về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục DL. Các cơ quan quản lý nhà
nước về DL ở địa phương cũng được thành lập từ giai đoạn này. Đến nay, mười lăm
tỉnh, thành phố có tài nguyên DL phong phú và hoạt động DL sôi nổi nhất được
thành lập Sở DL, số còn lại là Sở Thương mại-DL, Sở DL-Thương mại hoặc Sở
Ngoại vụ- DL (xin được gọi chung là Sở quản lý DL ở địa phương).
Ngày 22/6/1993, Chính phủ ban hành Nghị định 45/CP về đổi mới và phát
triển ngành DL. Nghị quyết Hội nghị lần VII của BCH TW Đảng khóa 7, ngày
30/7/1994 chỉ rõ “Phát triển mạnh DL, hình thành ngành cơng nghiệp DL có quy
mơ ngày càng cao, tương xứng với tiềm năng DL to lớn của đất nước”. Và Chỉ thị
46/CT/TW về “lãnh đạo đổi mới và phát triển DL trong tình hình mới” của Ban Bí
thư TW Đảng ra đời ngay sau đó, đã cho thấy rõ xu hướng đổi mới DL nước ta.
Ngày 31/7/2007, Quốc hội khóa XII ban hành Nghị quyết số 01/2007/QH12.
Theo đó, hợp nhất Bộ Văn hóa thơng tin và Ủy ban Thể dục thể thao thành Bộ Văn
hóa- Thể thao và DL, giao cho Bộ này quản lý Tổng cục DL. Sự sáp nhập này cũng
có những ưu điểm của nó nhưng đó chưa hẳn là một quyết định tối ưu, vì rằng nước
ta đang rất cần một cơ quan quản lý nhà nước về DL ở TW đủ mạnh, đủ chuyên để
theo kịp với nhu cầu phát triển DL trong nước và hội nhập DL quốc tế.
Cho đến nay, DL Việt Nam không chỉ lớn mạnh trong việc thu hút khách DL
trong và ngồi nước mà cịn thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác. Trong lĩnh vực
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
21
nghiên cứu khoa học, Viện Nghiên cứu và Phát triển DL đã kiện toàn và thực sự trở
thành cơ sở nghiên cứu, tư vấn khoa học lớn nhất nước. Trong lĩnh vực đào tạo,
ngoài những trường đào tạo nghiệp vụ DL (ở Hà Nội, Vũng Tàu, TP.HCM), cịn có
rất nhiều trường Đại học, Cao đẳng và Trung cấp chuyên nghiệp trên cả nước có
đào tạo khoa DL. Nổi bật, có các trường: Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội (1988),
Đại học Kinh tế TP.HCM (1988), Đại học Tổng hợp Hà Nội (1992), Đại học Văn
hóa (1993), Đại học Thương mại (1992),… và một số Đại học ngồi cơng lập, như:
Đông Đô, Phương Đông, Hồng Bàng, Hùng Vương, Văn Hiến…
Thực tiễn cho thấy Du lịch là một trong những ngành chiếm vị trí hàng đầu
trong việc thu hút học sinh, sinh viên theo học, nở rộ ở tất cả các hệ đào tạo: Trung
cấp, Cao đẳng và Đại học, và ở tất cả các trường có khoa này.
1.1.2. Vài nét tổng quan về hoạt động kinh doanh du lịch Việt Nam
1.1.2.1. Các ngành nghề kinh doanh du lịch
Lược lại lịch sử của ngành DL Việt Nam, ta thấy đến năm 1983, Hội đồng
Bộ trưởng mới ra Quyết định, giao cho Tổng cục DL nhiệm vụ trực tiếp KDDL
trong cả nước. Có thể nói rằng đến thời điểm này thì hoạt động KDDL mới thực sự
có “chính danh” trên thương trường. Đây là một loại hình kinh doanh đa dạng, với
sản phẩm kinh doanh một phần là hàng hóa, cịn dịch vụ là chủ yếu.
Trên thế giới, theo kinh nghiệm quản lý của một số nước phát triển DL,
người ta thường tách DL thành hai ngành: lữ hành và khách sạn. Ngành Lữ hành
gồm các nghề: Đại lý DL và Hướng dẫn viên. Ngành Khách sạn gồm các nghề: Lễ
tân, Phục vụ buồng, Phục vụ bàn, Chế biến món ăn và Pha chế đồ uống.
Ở Việt Nam, từ năm 1992, văn bản đầu tiên quy định về KDDL1 không
hướng dẫn “các ngành nghề KDDL” bao gồm những ngành nghề nào. Nhưng khi
hướng dẫn về việc cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp DL thì có năm ngành nghề
được quy định mức vốn tối thiểu, đó là: Vận tải hành khách; Đại lý mua, bán, ký
1
Nghị định số 37-HĐBT, ngày 28/01/1992 của Hội đồng Bộ trưởng quy định về việc ban hành Quy chế
quản lý kinh doanh du lịch.
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
22
gửi hàng hóa; Các cửa hàng dịch vụ; Cửa hàng ăn, giải khát và Khách sạn [6, m.II,
đ1.3]. Cũng tại Phụ lục 1A của Thơng tư này, lại có tám “ngành nghề kinh doanh
trong DL” để người xin thành lập Doanh nghiệp DL nhà nước lựa chọn, đó là: Lữ
hành; Khách sạn; Vận tải; Ăn uống; Hướng dẫn DL, phiên dịch; Dịch vụ thơng tin;
Vui chơi giải trí và Các loại dịch vụ khác [6, Phụ lục 1A].
Sau đó, “Các ngành nghề KDDL” lại được gọi là “Các loại hình KDDL”,
bao gồm: Lữ hành, Khách sạn, Vận chuyển khách và Các dịch vụ khác [70, Đ3].
Như vậy, vấn đề này tưởng chừng đơn giản nhưng vẫn thấy có sự lúng túng
và thiếu thống nhất giữa các cơ quan ban hành văn bản và giữa các thời điểm khác
nhau.
Đến năm 1999, Pháp lệnh DL quy định: “Các ngành nghề KDDL bao gồm:
Kinh doanh lữ hành nội địa và kinh doanh lữ hành quốc tế; Kinh doanh cơ sở lưu
trú DL; Kinh doanh vận chuyển khách DL và Kinh doanh các dịch vụ khác” (Đ25).
Luật DL năm 2005 xác định: KDDL là “kinh doanh dịch vụ”, bao gồm
năm ngành, nghề: Kinh doanh lữ hành; Kinh doanh lưu trú DL; Kinh doanh vận
chuyển khách DL; Kinh doanh phát triển khu DL, điểm DL; và Kinh doanh dịch vụ
DL khác (Điều 38).
So với Pháp lệnh DL thì quy định tại Luật DL rõ ràng có độ chuẩn xác cao
hơn, khắc phục được sự thiếu chính xác và những thiếu sót trước đó. Chẳng hạn,
dùng từ “kinh doanh lưu trú DL” là hoàn toàn đúng, không thể dùng từ “kinh doanh
cơ sở lưu trú…” được. Vì cơ sở lưu trú khơng thể là đối tượng kinh doanh của
ngành DL. Và “Kinh doanh phát triển khu DL, điểm DL” cũng được Luật bổ sung
vào danh mục các ngành nghề KDDL. Điều này hoàn toàn phù hợp với tình hình
phát triển DL hiện nay ở Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung.
a). Kinh doanh lữ hành (quy định tại M.2, Ch.V, Luật DL)
Pháp luật hiện hành quy định: Kinh doanh lữ hành là hoạt động xây dựng và
bán các chương trình DL hoặc tổ chức các chuyến DL theo yêu cầu của khách hoặc
làm đại lý bán các chương trình DL, tổ chức thực hiện các chuyến DL theo chương
trình đã bán cho khách.
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
23
Tổ chức, cá nhân kinh doanh lữ hành phải thành lập doanh nghiệp. Doanh
nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế được kinh doanh lữ hành nội địa, nhưng doanh
nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa lại không được kinh doanh lữ hành quốc tế.
- Để được kinh doanh lữ hành nội địa, tổ chức, cá nhân phải hội đủ các điều
kiện do Luật DL quy định: “Có đăng ký kinh doanh lữ hành nội địa tại cơ quan đăng
ký kinh doanh có thẩm quyền; có phương án kinh doanh lữ hành nội địa, có chương
trình DL cho khách DL nội địa; và người điều hành hoạt động kinh doanh lữ hành
nội địa phải có thời gian ít nhất ba năm hoạt động trong lĩnh vực lữ hành” [49,
Đ44].
- Đối với kinh doanh lữ hành quốc tế, tổ chức, cá nhân phải: “Có giấy phép
kinh doanh lữ hành quốc tế do cơ quan quản lý nhà nước về DL ở TW cấp; Có
phương án kinh doanh lữ hành, có chương trình DL cho khách DL quốc tế theo
phạm vi kinh doanh; Người điều hành hoạt động kinh doanh lữ hành nội địa phải có
thời gian ít nhất bốn năm hoạt động trong lĩnh vực lữ hành; Có ít nhất ba hướng dẫn
viên DL quốc tế; và Có tiền ký quỹ theo quy định của Chính phủ” [49, Đ46].
“Phạm vi kinh doanh” nói trên bao gồm: kinh doanh lữ hành đối với khách
DL vào Việt Nam; kinh doanh lữ hành đối với khách DL ra nước ngoài; và kinh
doanh lữ hành đối với khách DL vào Việt Nam và khách DL ra nước ngoài.
Mức tiền ký quỹ của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế được Chính
phủ quy định là hai trăm năm mươi triệu đồng [19, Đ15].
b) Kinh doanh lưu trú DL (quy định tại M.4, Ch.V, Luật DL)
Kinh doanh lưu trú DL là hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú của khách
DL. Dịch vụ này được thực hiện tại các cơ sở lưu trú DL, gồm: Khách sạn; Làng
DL; Biệt thự DL; Căn hộ DL; Bãi cắm trại DL; Nhà nghỉ DL; Nhà ở có phịng cho
khách DL thuê; và Các cơ sở lưu trú DL khác [49, Đ62].
Chủ thể kinh doanh lưu trú DL có thể kinh doanh tại một hoặc nhiều cơ sở
lưu trú DL, và phải đáp ứng được điều kiện đăng ký kinh doanh được quy định tại
Điều 64 Luật DL:
- Có đăng ký kinh doanh lưu trú DL;
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
24
- Có biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự, vệ sinh mơi trường, an tồn, phịng
cháy, chữa cháy theo quy định của pháp luật đối với cơ sở lưu trú DL;
- Đối với khách sạn, làng DL phải bảo đảm yêu cầu tối thiểu về xây dựng,
trang thiết bị, dịch vụ, trình độ chun mơn, ngoại ngữ của người quản lý và nhân
viên phục vụ theo tiêu chuẩn xếp hạng tương ứng với mỗi loại, hạng;
- Đối với biệt thự và căn hộ DL phải bảo đảm yêu cầu tối thiểu về trang thiết
bị và mức độ phục vụ theo tiêu chuẩn xếp hạng tương ứng với mỗi loại, hạng;
- Đối với bãi cắm trại DL, nhà nghỉ DL, nhà ở có phịng cho khách DL th,
cơ sở lưu trú DL khác phải bảo đảm trang thiết bị tối thiểu đạt tiêu chuẩn kinh
doanh lưu trú DL.
c).Kinh doanh vận chuyển khách DL (quy định tại M.3,Ch.V, Luật DL)
Kinh doanh vận chuyển khách DL là việc cung cấp dịch vụ vận chuyển cho
khách DL theo tuyến DL, theo chương trình DL và tại các khu DL, điểm DL, đô thị
DL.
Chủ thể kinh doanh phải đăng ký kinh doanh và tuân thủ các điều kiện về
kinh doanh vận chuyển khách theo quy định của pháp luật:
- Có phương tiện vận chuyển khách DL đạt tiêu chuẩn và được cấp biển hiệu
riêng;
- Sử dụng người điều khiển và người phục vụ trên phương tiện vận chuyển
khách DL có chun mơn, sức khỏe phù hợp, được bồi dưỡng về nghiệp vụ DL;
- Có biện pháp bảo đảm an tồn tính mạng, sức khỏe và tài sản của khách DL
trong quá trình vận chuyển; mua bảo hiểm hành khách cho khách DL theo phương
tiện vận chuyển [49, Đ57, 58].
d). Kinh doanh phát triển khu DL, điểm DL (M.5, Ch.V, Luật DL)
Kinh doanh phát triển khu DL, điểm DL bao gồm đầu tư bảo tồn, nâng cấp
tài nguyên DL đã có; đưa các tài nguyên DL tiềm năng vào khai thác; phát triển khu
DL, điểm DL mới; kinh doanh xây dựng kết cấu hạ tầng DL, cơ sở vật chất- kỹ
thuật DL. Chủ thể kinh doanh phát triển khu DL, điểm DL phải xây dựng dự án phù
hợp với quy hoạch phát triển DL, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước
25
đ). Kinh doanh dịch vụ DL khác (quy định tại M.6, Ch.V, Luật DL)
Kinh doanh các dịch vụ DL khác là kinh doanh dịch vụ trong khu DL, điểm
DL, đô thị DL. Bao gồm: kinh doanh lữ hành, lưu trú DL, vận chuyển khách DL, ăn
uống, mua sắm, thể thao, giải trí, thơng tin và các dịch vụ khác phục vụ khách DL.
1.1.2.2. Vị trí của các ngành nghề KDDL trong nền kinh tế quốc dân
Nền kinh tế quốc dân được cấu tạo bởi nhiều ngành nghề kinh doanh nhất
định. Cơ cấu kinh tế Việt Nam được chia thành ba nhóm ngành chính là: Nơng-lâm
nghiệp- Thủy sản, Cơng nghiệp - Xây dựng, và Dịch vụ. Trong đó, nhóm ngành
Dịch vụ ln đóng giữ vị trí quan trọng và dẫn đầu trong nền kinh tế. Điều đó thể
hiện rõ nét qua các số liệu thống kê 1.1:
Bảng 1.1. Cơ cấu kinh tế VN, phân theo nhóm ngành (giá so sánh), từ 1991 2005 (đơn vị tính: %)
Nơng, Lâm nghiệp Cơng nghiệp và
Dịch vụ
Năm Tổng số
và Thủy sản
Xây dựng
30.74
1991
100
25.63
43.64
1992
100
30.22
26.59
43.19
1993
100
28.88
27.71
43.41
1994
100
27.43
28.87
43.70
1995
100
26.24
29.94
43.82
1996
100
25.06
31.34
43.60
1997
100
24.17
32.64
43.20
1998
100
23.66
33.43
43.91
1999
100
23.76
34.36
41.88
2000
100
23.28
35.41
41.30
2001
100
22.43
36.57
41.00
31.82
2002
100
37.39
40.79
2003
100
21.06
38.48
40.45
2004
100
20.39
39.35
40.25
2005
100
19.57
40.16
40.27
Nguồn: Tổng cục Thống kê, trích dẫn lại từ [41, tr.91]
Trong khi đó, tỷ trọng của các ngành dịch vụ quan trọng, có khả năng tạo ra
nhiều giá trị tăng thêm (như dịch vụ tài chính, bảo hiểm, ngân hàng) lại chiếm một
vị trí rất nhỏ bé trong GDP. “Ví dụ: cả ba ngành Tài chính, Ngân hàng, Bảo hiểm
chiếm chưa tới 2% GDP năm 2005. Ngoài ra, nhiều lĩnh vực như tư vấn xúc tiến
Luận văn Thạc só Luật học
Trần Thị Mai Phước