Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
PHẠM THỊ THANH TRÚC
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN
CỦA DỊCH VỤ LOGISTICS
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật thương mại
TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2008
1
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
-----
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN
CỦA DỊCH VỤ LOGISTICS
SINH VIÊN THỰC HIỆN: Phạm Thị Thanh Trúc
Khóa 29 MSSV: 2920232
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. Nguyễn Thị
Thanh Lê
TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2008
2
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của
riêng mình, nội dung khóa luận khơng phải là sự sao chép
những cơng trình nghiên cứu hay tác phẩm của người
khác.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm trước nhà trường về sự
cam đoan này.
Tp.Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 7 năm 2008
Tác giả
Phạm Thị Thanh Trúc
3
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ......................................................................................... trang
01
CHƯƠNG 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LOGISTICS................ ...... 04
1.1 Khái quát về logistics ............................................................................ ...... 04
1.1.1 Một số nét sơ lược về thuật ngữ “logistics” .......................................... ...... 04
1.1.2 Những quan điểm về ý nghĩa của thuật ngữ “logistics” ........................ ...... 06
1.1.3 Một số đặc điểm của dịch vụ logistics hiện đại .................................... ...... 09
1.1.4 Các loại dịch vụ logistics ..................................................................... ...... 10
1.2 Vai trò của logistics ............................................................................... ...... 12
1.2.1 Vai trò của logistics trong lĩnh vực quân sự ........................................ ...... 13
1.2.2 Vai trò của logistics trong lĩnh vực kinh tế ......................................... ...... 14
1.2.2.1 Vai trị đối với kinh tế nói chung ....................................................... ...... 14
1.2.2.2 Vai trò đối với sản xuất và tiêu dùng ................................................. ...... 17
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ
LOGISTICS THEO LUẬT THƯƠNG MẠI 2005 .................................... ...... 20
2.1 Định nghĩa dịch vụ logistics.................................................................. ...... 20
2.2 Phân loại dịch vụ logistics theo điều 4 Nghị định 140/2007/NĐ-CP ngày
05/9/2007 của Chính phủ ............................................................................ ...... 27
2.3 Điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics ................................................ ...... 28
2.3.1 Điều kiện đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics chủ yếu ... ...... 29
2.3.2 Điều kiện đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics liên quan đến
vận tải........................................................................................................... ...... 31
2.3.3 Điều kiện đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics liên quan khác....
2.4 Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics .... ...... 36
2.4.1 Các quyền và nghĩa vụ thông thường ................................................... ...... 36
2.4.2 Quyền và nghĩa vụ khi cầm giữ, định đoạt hàng hóa ............................ ...... 40
2.5 Quyền và nghĩa vụ của khách hàng ..................................................... ...... 44
2.6 Giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics ...... 46
4
34
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
2.7 Các trường hợp miễn trách nhiệm....................................................... ...... 51
2.7.1 Các trường hợp chung theo điều 294 Luật Thương mại........................ ...... 51
2.7.2 Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics theo điều 237 Luật Thương mại ...................................................... ...... 52
2.8 Thực trạng ngành dịch vụ logistics Việt Nam và một số vấn đề phát sinh
từ thực tiễn cần được pháp luật điều chỉnh............................................... ...... 55
KẾT LUẬN ................................................................................................. ...... 62
5
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
LỜI NĨI ĐẦU
Ngày nay, nhờ có sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự hỗ trợ đắc lực
của khoa học kĩ thuật, con người ngày càng tạo ra được nhiều sản phẩm vật chất
hơn. Số lượng sản phẩm vật chất đó khơng chỉ đáp ứng nhu cầu sử dụng nội tại
của từng vùng, từng quốc gia mà còn phục vụ cho việc mua bán, trao đổi trên
phạm vi toàn cầu. Thương mại đã trở thành một hoạt động thiết yếu trong cuộc
sống hiện đại. Và do vậy mà hoạt động lưu chuyển hàng hóa đã là một nhu cầu
không thể thiếu trong một xã hội luôn vận động và phát triển. Vấn đề được đặt ra
là hoạt động lưu chuyển đó phải nhanh chóng, chính xác và khơng bị giới hạn bởi
bất kì một khoảng cách địa lý nào.
Cũng trong q trình phát triển sản xuất nói trên, số lượng chủ thể tham gia
hoạt động cung ứng hàng hóa ln tăng khơng ngừng. Từ đó tạo nên sự cạnh tranh
trên thị trường chung, nơi mà mỗi nhà sản xuất nếu muốn chiếm được thị phần thì
phải đem đến cho khách hàng những hàng hóa có chất lượng cao với giá cả hợp lý
nhất. Muốn như vậy, họ phải có được những yếu tố đầu vào vừa tốt vừa có giá cả
cạnh tranh. Song để đạt được điều này là rất khó, vì những nguồn tài ngun trên
thế giới vốn hữu hạn và lại phân bố không đồng đều; nguồn nhân lực ở các vùng
địa lý cũng có nhiều khác biệt về trình độ và số lượng. Do vậy, nhà sản xuất phải
tìm cách xóa bỏ những trở ngại về không gian địa lý để tận dụng tốt nhất những
nguồn lực từ khắp nơi trên thế giới vào hoạt động của mình.
Logistics ra đời đã giải quyết được những nhu cầu nói trên, nó tạo ra những
dịng lưu thơng của nhân lực, vật lực, tài lực, hàng hóa,… và quản lý tính hiệu quả
của dịng lưu thơng đó trên toàn cầu, đảm bảo những yếu tố cần thiết cho đời sống
cũng như sản xuất sẽ được cung ứng đúng nơi, đúng lúc, đúng giá cả, đúng điều
kiện và đúng chủng loại.
Không chỉ là một phương thức kinh doanh mang lại hiệu quả cao cho các
doanh nghiệp, logistics đã khẳng định vị thế của mình như một ngành dịch vụ
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của nhiều quốc gia và trong giao thương
quốc tế. Trong vài thập niên gần đây, logistics đã trở thành một thế mạnh thực sự
6
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
của nhiều quốc gia như: Hà Lan, Thụy Điển, Đan Mạch, Mỹ… Tại khu vực châu
Á nói chung và Đơng Nam Á nói riêng, Singapore đã nổi lên như một điển hình
trong việc phát triển hiệu quả dịch vụ logistics. Việt Nam có những điều kiện rất
thuận lợi như: nằm trên đường giao thương quốc tế, trong một khu vực phát triển
kinh tế năng động, có bờ biển dài thích hợp cho xây dựng cảng. Việc tận dụng
những thuận lợi đó để phát triển logistics thành một ngành kinh tế mũi nhọn là rất
cần thiết, nhất là khi nhu cầu hội nhập kinh tế toàn cầu đang được đặt ra như một
điều tất yếu trong quá trình phát triển hiện nay.
Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thức rõ rằng, ngành dịch vụ logistics Việt
Nam vẫn đang còn rất non trẻ và chỉ thật sự nhận được sự chú ý trong vài năm gần
đây. Do vậy, những nền tảng mà logistics Việt Nam đang có, bao gồm năng lực,
kinh nghiệm, khoa học công nghệ, nhân lực, cơ sở hạ tầng vẫn còn rất hạn chế. Và
một trong những yêu cầu bức thiết nhất đối với những doanh nghiệp kinh doanh
loại hình dịch vụ này ở nước ta hiện nay là một môi trường pháp lý rõ ràng và
thuận lợi.
Luật Thương mại 2005 và Nghị định 140/2007/NĐ-CP ngày 05/9/2007 của
Chính phủ là những qui định cơ bản điều chỉnh hoạt động kinh doanh dịch vụ
logistics. Sự ra đời của những qui định trên đã phần nào đáp ứng được nhu cầu
của dịch vụ logistics về một hành lang pháp lý. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển
không ngừng của hoạt động thương mại, sự thay đổi trong hoạt động dịch vụ
logistics cũng diễn ra từng ngày từng giờ. Vì vậy, để thích ứng với những đổi thay
đó địi hỏi chúng ta phải không ngừng điều chỉnh những kiến thức về logistics.
Trong thời gian qua, một số cơng trình nghiên cứu về logistics đã được tiến
hành, song phần lớn đều nghiên cứu logistics dưới góc độ kinh tế và quản trị.
Những nghiên cứu về logistics dưới góc độ pháp lý vẫn cịn tương đối hạn chế.
Do vậy, việc thực hiện nghiên cứu khoa học về những vấn đề pháp lý liên quan
đến logistics sẽ đem lại một cái nhìn cụ thể hơn về những qui định pháp luật hiện
hành về loại hình dịch vụ này. Từ đó giúp chúng ta nhận ra những bất cập đang
tồn tại và đưa ra những giải pháp thích hợp cho việc xây dựng pháp luật trong thời
gian tới.
7
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
Trong khoá luận này, với đối tượng nghiên cứu được xác định là dịch vụ
logistics tại Việt Nam và hành lang pháp lý của hoạt động kinh doanh dịch vụ này,
tác giả chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu của mình trong khn khổ những qui định
của Luật Thương mại 2005 về dịch vụ logistics.
Xuất phát từ đó, tác giả đã tiến hành tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản về
logistics cũng như một số nét sơ thảo về ngành dịch vụ này tại Việt Nam. Từ đó,
thơng qua việc phân tích những qui định của Luật Thương mại 2005 kết hợp với
những kiến thức mà tác giả đã được các thầy cơ truyền đạt, khố luận sẽ góp phần
làm rõ về khung pháp lý của dịch vụ logistics ở nước ta hiện nay và đưa ra một số
nhận định về những qui định hiện hành cũng như những kiến nghị cho việc hồn
thiện pháp luật có liên quan trong tương lai.
Khoá luận này sẽ tập trung đề cập đến khía cạnh pháp lý của dịch vụ
logistics, song vì logistics là một lĩnh vực cịn tương đối mới mẻ và phức tạp nên
tác giả xin dành chương 1 của khoá luận để làm rõ một số vấn đề lý luận về
logistics. Việc nghiên cứu những vấn đề pháp lý của hoạt động kinh doanh dịch vụ
logistics sẽ được thực hiện tại chương 2, đây cũng là phần chủ đạo của khoá luận.
Do kiến thức, kinh nghiệm thực tế của tác giả vẫn còn nhiều hạn chế và thời
gian thực hiện khóa luận là tương đối ngắn nên chắc chắn nội dung khóa luận sẽ
cịn những điểm thiếu sót. Tác giả rất mong chờ sự góp ý của các thầy cô và tất cả
những người quan tâm.
8
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LOGISTICS
1.1 Khái quát về logistics
1.1.1 Một số nét sơ lược về thuật ngữ “logistics”
Lịch sử của logistics khởi nguồn từ nhu cầu quân sự. Nó liên quan đến “sự vận
động và cung ứng của quân đội” khi mỗi đoàn quân trong quá trình di chuyển từ
căn cứ ra tiền tuyến đều cần được cung cấp về thiết bị, lương thực, nhân lực và
nhiều thứ khác.
Thời kỳ Hy Lạp cổ đại, dưới đế chế Roman và Byzatine (tức là từ trước Công
nguyên) đã xuất hiện những sỹ quan “logistikas” là những người chịu trách nhiệm
về tài chính cũng như cung cấp, phân phối cho quân đội.
Thời Alexander Đại đế, công tác này đã được đề cập đến như một khâu tối cần
thiết cho những cuộc viễn chinh. Trong cuốn “Alexander the Great and the
Logistics of the Macedonian Army” xuất bản bởi University of California Press
năm 1978, tác giả Donald W.Engel đã đề cập đến công tác hậu cần bằng thuật ngữ
“logistics”[51;11].
Cho đến thời điểm cách đây vài thế kỉ, “logistics” vẫn được sử dụng như một
thuật ngữ chuyên môn trong quân sự với ý nghĩa là cơng tác hậu cần. Nó được
biết đến qua câu nói nổi tiếng của Napoléon: “Kẻ nghiệp dư bàn về chiến thuật,
người chuyên nghiệp bàn về logistics”. Tuy nhiên, đến đây thì người ta bắt đầu
nhận thấy rằng trong cách tư duy của Napoléon, logistics không đơn giản là công
tác hậu cần.
Trong Thế chiến thứ hai, logistics trở thành một loại hình kỹ thuật cực kì phát
triển trong việc tổ chức dự trữ, vận chuyển, phân phối, bảo quản những nguồn lực
quân sự. Điều này từng được tác giả Alan Gropman giới thiệu trong cuốn “The big
‘L’: American Logistics in World War II” [52].
Đến nửa cuối thế kỉ XX, thuật ngữ logistics bắt đầu được sử dụng ngồi qn
đội. Cùng với hoạt động cứu trợ nạn đói năm 1980 tại Ethiopia, tổ chức World
Vision International đã xuất bản quyển “Getting it There – A Logistics Handbook
for Relief and Development” thực hiện bởi Ben Boyd năm 1987. Có thể coi đây là
9
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
một trong những lần đầu tiên mà “logistics” được sử dụng theo ý nghĩa phi quân
sự, trong một quyển “Sổ tay Tái thiết và Phát triển” của một tổ chức nhân đạo
quốc tế. Logistics đã được nhắc đến dưới góc độ xã hội với mục đích tối đa hố
các lợi ích trong hoạt động của chính quyền cũng như hoạt động của mọi tổ chức
và công dân [50;7].
Trong hoạt động kinh doanh, logistics được đề cập đến khi nền kinh tế Nhật
Bản có những bước phát triển nhảy vọt một cách bất ngờ; người ta phải gọi đó là
hiện tượng “thần kì Nhật Bản”. Khơng tài ngun thiên nhiên, phải nhập khẩu hầu
hết ngun vật liệu, khơng có thuận lợi về nguồn lao động nhưng Nhật Bản có đủ
bản lĩnh để đứng ngồi vịng xốy khủng hoảng của kinh tế Mỹ và Châu âu lúc
bấy giờ. Bởi hàng hoá của Nhật Bản có chất lượng tương đương cịn giá cả thì
cạnh tranh hơn hẳn. Sau quá trình nghiên cứu, các nhà kinh tế học đã tìm ra được
một bí quyết cho sự thành cơng của người Nhật, đó chính là sử dụng logistics.
Theo đó, “cái gì cần thì phải có đúng lúc”, như vậy sẽ tiết kiệm chi phí hơn cách
làm “cái gì cần là phải có sẵn” của người Mỹ và châu Âu lúc đó, và đương nhiên,
giá thành sản phẩm sẽ giảm đáng kể. “Người Nhật đã xây dựng một quan điểm
mới về cung ứng và lưu thông hàng hoá, vật tư; và họ đã vận dụng thành công
vào cung ứng, dự trữ và phân phối sản phẩm, vận chuyển, bảo quản theo quan
điểm mới – nghĩa là nhờ hoạt động logistics ” [36].
Về sau, thuật ngữ logistics được biết đến dưới góc độ kinh tế nhiều hơn quân
sự. Nó gắn liền với kinh tế và trở thành một ngành quan trọng, đạt được nhiều
thành tựu, điển hình là ở các quốc gia như Hà Lan, Thụy Điển, Đan Mạch, Mỹ…
Và khi kinh tế thế giới bắt đầu phát triển theo hướng tồn cầu hố thì logistics
cũng lan truyền khắp các quốc gia, các châu lục và hình thành nên logistics toàn
cầu. Đến cuối thế kỉ 20, logistics đã được cơng nhận vai trị như một chức năng
kinh tế chủ yếu, một công cụ hữu hiệu mang lại thành công cho các doanh nghiệp
trong lĩnh vực sản xuất lẫn trong lĩnh vực dịch vụ.
Tại Việt Nam, logistics cũng khơng hẳn là một điều hồn tồn mới mẻ. Một số
quyển sách được xuất bản trước năm 1975 đã sử dụng thuật ngữ logistics với ý
10
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
nghĩa “tiếp vận” trong quân sự [53]. Năm 1969, Công ty Đại lý vận tải, một doanh
nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ Giao thông vận tải, ra đời với chức năng chính là
kinh doanh vận tải giao nhận [45]. Tuy chưa được gọi tên là một “công ty
logistics” song xét về bản chất thì cơng việc của họ cũng chính là kinh doanh dịch
vụ logistics.
Khi Luật Thương mại 1997 ra đời, thuật ngữ “logistics” vẫn chưa được thừa
nhận. Lúc bấy giờ, các văn bản pháp luật chỉ có qui định về “dịch vụ giao nhận
hàng hóa”. Trong khi đó, hàng loạt các cơng ty nước ngồi như APL, NYK
Logistics, Maerk Logistics, Mitsui OSK, LOGITEM… khi thâm nhập vào thị
trường Việt Nam đã đặt ra cho pháp luật nước ta một “vấn đề” mang tên
“logistics”, bởi vì bản thân họ khơng chỉ đơn thuần là những “công ty dịch vụ giao
nhận”.
Đến năm 2004, Chính phủ đã đề cập đến việc mở rộng khái niệm “giao nhận
hàng hoá” tương đương với khái niệm “logistics” đã được thừa nhận rộng rãi
trong thương mại quốc tế, theo đó “giao nhận hàng hố” chỉ là một khâu của
logistics1. Sau khi Luật Thương mại 2005 ra đời, thuật ngữ “logistics” đã được
chính thức thừa nhận về mặt pháp lý.
1.1.2 Một số quan điểm về ý nghĩa của thuật ngữ “logistics”
Trong quân sự, logistics được hiểu với nghĩa là công tác hậu cần. Napoléon
từng định nghĩa logistics như là “hoạt động để duy trì lực lượng quân đội”. Theo
định nghĩa của từ điển Oxford thì logistics được hiểu là một nhánh của khoa học
quân sự liên quan đến việc tiến hành, duy trì và vận chuyển phương tiện thiết bị
và nhân sự. Trong một quan điểm khác, tổ chức Logisticsworld cho rằng:
“Logistics là khoa học về lập kế hoạch và thực hiện việc di chuyển và duy trì các
nguồn lực… Các hoạt động qn sự đó bao gồm các công việc liên quan đến vật
chất (thiết kế, triển khai, hiệu quả, lưu trữ, phân phối, duy trì, tản cư và di
chuyển), nhân lực (di chuyển, tản cư và công tác y tế), hiệu quả của việc xây dựng,
1
Tờ trình số 1456/CP-PC ngày 5 tháng 10 năm 2004 về Dự án Luật Thương mại (sửa đổi)
11
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
duy trì, hoạt động và di chuyển thiết bị và hiệu quả của việc cung cấp dịch vụ2”
[40].
Tóm lại, logistics trong quân sự là một khâu tối cần thiết cho hoạt động của
lực lượng quân đội được thể hiện ngắn gọn nhất qua thuật ngữ “hậu cần”.
Dưới góc độ kinh tế, các cách hiểu về logistics cũng rất đa dạng.
Trong thương mại nói chung, logistics được hiểu là việc lên kế hoạch cho việc
quản lý nguyên liệu, dịch vụ, thông tin và các dịng lưu thơng chính. Nó bao gồm
cả hệ thống thơng tin, liên lạc và kiểm sốt ngày càng phức tạp mà thương mại
hiện đại đòi hỏi3 [40].
Trong kinh doanh nói riêng, logistics có thể hiểu như việc tập trung cả nội lực
lẫn ngoại lực bao hàm cả quá trình chu chuyển từ nhà “sản xuất gốc” đến “người
tiêu dùng cuối cùng”. Chức năng chính của logistics bao gồm việc quản lý việc
mua bán, vận chuyển, lưu kho cùng với các hoạt động về tổ chức cũng như lập kế
hoạch cho các hoạt động đó.
Cịn trong q trình sản xuất của một doanh nghiệp cụ thể, logistics là cả một
q trình cơng nghiệp. Mục đích của nó là đảm bảo mỗi một máy móc thiết bị hay
trạm làm việc được “nạp” đủ sản phẩm với đúng số lượng, chất lượng và đúng lúc.
Và nó khơng chỉ liên quan đến việc vận chuyển, mà còn là phân luồng và điều
chỉnh các kênh xuyên suốt quá trình gia tăng giá trị và xố bỏ những giá trị khơng
gia tăng.
Như vậy, trong mỗi lĩnh vực của nền kinh tế, logistics lại được hiểu theo một
cách riêng, song tất cả đều hướng tới bản chất của logistics phải là một chuỗi các
hoạt động liên quan với nhau với mục đích đem lại hiệu quả cao nhất cho các hoạt
động kinh tế.
Hiện nay có những cách định nghĩa về logistics được thừa nhận rộng rãi trên
toàn thế giới. Tiêu biểu nhất là định nghĩa của Hội đồng Quản trị logistics Hoa Kỳ
(Council of Logistics Management). Theo đó, “Logistics là q trình thiết lập,
2
3
JCS Pub 1-02 excerpt
Logistix Partners Oy, Helsinki, FI, 1996
12
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
thực hiện và kiểm sốt luồng lưu thơng và lưu trữ hàng hố, dịch vụ và các thơng
tin liên quan từ điểm xuất phát đến điểm tiêu thụ nhằm đáp ứng yêu cầu của
khách hàng” [37].
Trong một quan điểm khá tương đồng, Hiệp hội Quản trị logistics Canada
(Canadian Association of Logistics Management) cho rằng “Logistics là quá trình
hoạch định, thực hiện và kiểm sốt một cách hiệu quả chi phí lưu thông, dự trữ
nguyên vật liệu, hàng tồn kho trong q trình sản xuất, sản phẩm và các thơng tin
liên quan từ điểm xuất phát đến điểm tiêu thụ nhằm đáp ứng yêu cầu của khách
hàng” [43].
Hai định nghĩa nghĩa trên đều hướng đến logistics với tính chất của hoạt động
quản trị hệ thống sản xuất. Đó là những định nghĩa có tính khái qt rất cao cho
thấy logistics có phạm vi hoạt động bao trùm lên toàn bộ quá trình sản xuất nói
chung.
Với một cách nhìn cụ thể hơn, Giáo sư Martin Christopher lại cho rằng
Logistics là quá trình quản trị chiến lược thu mua, di chuyển và dự trữ ngun liệu,
bán thành phẩm, thành phẩm (và dịng thơng tin tương ứng) trong một công ty và
qua các kênh phân phối của cơng ty để tối đa hóa lợi nhuận hiện tại và tương lai
thơng qua việc hồn tất các đơn hàng với chi phí thấp nhất [46].
Cịn theo quan điểm “5 right” thì logistics là quá trình cung cấp đúng sản phẩm
đến đúng vị trí vào đúng thời điểm với điều kiện và chi phí phù hợp cho khách
hàng tiêu dùng sản phẩm [46].
Trong Khóa đào tạo quốc tế về vận tải đa phương thức và quản lý logistics
thực hiện tại Đại học Ngoại Thương Hà Nội, tháng 10/2002, Liên hiệp quốc có
định nghĩa về logistics như sau: logistics là hoạt động quản lý quá trình lưu
chuyển nguyên vật liệu qua các khâu lưu kho, sản xuất ra sản phẩm cho tới tay
người tiêu dùng theo yêu cầu của khách hàng [42].
Cịn theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Đồn Thị Hồng Vân, ĐH Kinh tế Thành phố Hồ
Chí Minh thì logistics là q trình tối ưu hố về địa điểm và thời điểm, tối ưu hoá
việc lưu chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ đầu vào nguyên thủy cho đến tay
người tiêu dùng cuối dùng nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng với
13
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
chi phí thích hợp, thơng qua hàng loạt hoạt động kinh tế [25].
Nhìn chung, có nhiều cách định nghĩa về logistics, tùy theo phạm vi và mục
đích nghiên cứu, nhưng tựu trung lại thì tất cả những cách định nghĩa đó đều
thuộc một trong hai trường phái sau:
Trường phái thứ nhất định nghĩa logistics theo lĩnh vực chuyên ngành với
phạm vi và đối tượng chỉ thu hẹp trong một lĩnh vực đó (ví dụ như lĩnh vực qn
sự). Theo trường phái này, bản chất của logistics là việc tập hợp các yếu tố hỗ trợ
cho quá trình vận chuyển từ nơi xuất phát đến điểm cần đến cuối cùng, logistics
gần như khơng có nhiều khác biệt so với vận tải đa phương thức (Multimodal
Transport Operator – MTO).
Trường phái thứ hai định nghĩa logistics theo nghĩa rộng. Logistics được
nghiên cứu với phạm vi tác động rất rộng, xuyên suốt quá trình sản xuất, từ khâu
tiền sản xuất cho đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Cách định nghĩa này
phân định rõ ràng giữa việc cung ứng dịch vụ vận tải với cung ứng dịch vụ
logistics. Theo đó, vận tải chỉ là một khâu của logistics. Thương nhân logistics
phải là người đảm nhận “trọn gói” các dịch vụ hỗ trợ cho nhà sản xuất từ khi nhập
nguyên liệu đầu vào đến khi sản phẩm đến với người tiêu dùng. Đây cũng là cách
định nghĩa được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại quốc tế hiện đại.
1.1.3 Một số đặc điểm của dịch vụ logistics hiện đại
Như đã phân tích ở trên, dù với bất kì ý nghĩa nào thì logistics cũng đều ít
nhiều liên quan đến yếu tố vận tải. Bởi “dịng lưu thơng hiệu quả” (của vật chất,
nhân lực) ln là mục đích mà hoạt động logistics hướng đến. Chính vì vậy mà
ngày nay, trong đời sống kinh tế hiện đại, logistics cho thấy mình là một bước
phát triển cao của vận tải.
Trước hết, logistics là sự phát triển cao và hoàn chỉnh hơn của dịch vụ vận tải
giao nhận. Song song với quá trình phát triển của mình, logistics đã làm đa dạng
hố khái niệm vận tải giao nhận truyền thống. Có thể nhận thấy những sự vận
động thay đổi rất tích cực: từ chỗ chỉ thay mặt khách hàng để thực hiện một số
14
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
cơng việc như th tàu, lưu cước, đóng gói, bốc xếp, tái chế, làm thủ tục thông
quan… đến việc cung ứng dịch vụ trọn gói (door to door); từ chỗ chỉ giữ vai trò
đại lý hay người được uỷ thác đến việc trở thành một chủ thể chính trong hoạt
động vận tải, giao nhận, kho bãi… với trách nhiệm pháp lý khơng cịn giới hạn
trong phạm vi đại lý hay uỷ thác. Người cung ứng vụ logistics ngày nay thực hiện
một nghiệp vụ phức tạp, quản lý một hệ thống bao gồm nhiều yếu tố: giao nhận,
cung ứng nguyên liệu, lưu kho, bảo quản hàng hóa, quản lý thơng tin liên
quan…vv chứ không phải một vài công việc về vận tải như trước [40].
Ngày nay, logistics còn gắn liền với vận tải đa phương thức. Trước đây, khi
hàng hóa cịn phải đi theo hình thức hàng lẻ từ nước xuất khẩu sang nước nhập
khẩu thông qua nhiều loại phương tiện vận tải khác nhau. Do vậy, nguy cơ xảy ra
rủi ro, mất mát hàng hóa là rất cao. Khơng những vậy, người gửi hàng cịn phải
trải qua nhiều lần kí kết hợp đồng vận chuyển với nhiều thương nhân khác nhau.
Khoảng giữa thế kỉ 20, container4 ra đời đã trở thành một mốc sự kiện lớn trong
lịch sử ngành vận tải với nhiều tiện ích: sức chứa lớn, an tồn cho hàng hóa, đảm
bảo sự tin cậy cho chủ hàng… Container hoá là một yếu tố quan trọng của cuộc
cách mạng logistics góp phần làm thay đổi diện mạo của ngành vận tải thế kỉ 20
thông qua việc tạo tiền đề cho sự ra đời của vận tải đa phương thức. Khi sử dụng
vận tải đa phương thức, việc thoả thuận về vận chuyển hàng hóa của chủ hàng trở
nên dễ dàng hơn rất nhiều, họ chỉ phải kí kết hợp đồng với một thương nhân kinh
doanh vận tải đa phương thức mà thôi. Thương nhân tổ chức vận tải sẽ chịu trách
nhiệm trước khách hàng đối với toàn bộ q trình vận chuyển hàng hóa đến nơi
được u cầu. Đó cũng chính là cơ sở của việc cung ứng dịch vụ logistics ngày
nay. Nói cách khác, logistics chính là một bước phát triển mới của vận tải đa
phương thức.
1.1.4 Các loại dịch vụ logistics
Logistics có bản chất là một hoạt động phức hợp, do vậy có thể căn cứ trên rất
nhiều tiêu chí để phân loại, tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu và lĩnh vực ứng
4
Malcolm McLean được coi là người đầu tiên phát minh ra container vào năm 1930 tại New Jersey, USA
(theo />15
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
dụng.
Thứ nhất, căn cứ vào hình thức tổ chức và hoạt động logistics thì hiện nay dịch
vụ logistics đã bao gồm các hình thức sau:
- Logistics bên thứ nhất (1PL – First Party Logistics) là hình thức mà người
chủ sở hữu hàng hóa tự mình tổ chức và thực hiện các hoạt động logistics để đáp
ứng nhu cầu của chính mình.
- Logistics bên thứ hai (2PL – Second Party Logistics) là hình thức trong đó
người cung ứng “dịch vụ logistics bên thứ 2” là người thực hiện cung ứng một
khâu dịch vụ đơn lẻ của chuỗi logistics (vận tải, kho bãi, thanh toán…) để đáp ứng
yêu cầu của chủ hàng, chưa có sự tích hợp các hoạt động logistics.
- Logistics bên thứ ba (3PL – Third Party Logistics) là hình thức dịch vụ trong
đó người cung ứng dịch vụ là người thay mặt cho chủ hàng quản lý hàng hóa và
thực hiện các dịch vụ logistics, 3PL đã tích hợp được các khâu của logistics, kết
hợp chặt chẽ việc luân chuyển, tồn trữ hàng hóa, xử lý thơng tin… trong dây
chuyền cung ứng.
- Logistics bên thứ tư (4PL – Fourth Party Logistics) là một bước phát triển
cao hơn 3PL. Người cung cấp dịch vụ trở thành người tích hợp (integrator) chịu
trách nhiệm quản lý dòng lưu chuyển của logistics, cung cấp giải pháp dây chuyền
cung ứng, hoạch định, tư vấn logistics, quản trị vận tải… 4PL hướng đến quản trị
cả quá trình logistics bao gồm tất cả các khâu từ nhận hàng từ nơi sản xuất, làm
thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu, đưa hàng đến nơi tiêu thụ cuối cùng…
Có thể nói, ngành dịch vụ logistics ln song hành cùng với các hoạt động
thương mại. Trong những năm gần đây, khi loại hình thương mại điện tử ngày
càng phổ biến thì dịch vụ logistics cũng có những thay đổi tương ứng. Đó là sự ra
đời của logistics bên thứ năm (5PL – Fifth Party Logistics) nhằm phục vụ cho
hoạt động thương mại điện tử. Trong đó các nhà cung cấp dịch vụ 3PL và 4PL
thực hiện quả lý toàn bộ chuỗi phân phối trên nền tảng thương mại điện tử [46].
Trong tương lai, với sự phát triển ngày càng đa dạng của hoạt động thương
mại thì chắc chắn các hình thức của dịch vụ logistics theo cách phân loại như trên
cũng sẽ mỗi lúc một phong phú hơn trước.
16
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
Thứ hai, căn cứ theo các yếu tố cơ bản của logistics thì dịch vụ này bao gồm:
- Dịch vụ logistics chủ yếu (Core Logistics Service) là các dịch vụ thiết yếu
trong hoạt động logistics như làm hàng, lưu kho, đại lý vận tải và các dịch vụ hỗ
trợ khác.
- Dịch vụ logistics liên quan đến vận tải là các dịch vụ tích hợp tạo mơi trường
thuận lợi cho dịch vụ 3PL phát triển, gồm có: vận tải hàng hóa (đường biển,
đường thuỷ nội địa, hàng không, đường sắt, đường bộ), cho thuê phương tiện và
các dịch vụ khác có liên quan như dịch vụ phân tích và thử nghiệm kỹ thuật, dịch
vụ chuyển phát, dịch vụ đại lý vận tải, dịch vụ bán buôn và bán lẻ…
- Dịch vụ thứ yếu, mang tính bổ trợ (Non Core Logistics Service) bao gồm
dịch vụ máy tính và liên quan đến máy tính, dịch vụ đóng gói và dịch vụ tư vấn
quản lý [42].
Thứ ba, nếu nghiên cứu tồn bộ q trình logistics thì gồm có:
- Logistics đầu vào (Inbound Logistics) là việc vận chuyển nguyên liệu từ nhà
cung cấp đến nơi dự trữ hoặc sản xuất.
- Logistics đầu ra (Outbound Logistics) là quá trình liên quan đến vận chuyển
và dự trữ hàng hóa từ khi kết thúc sản xuất cho đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
- Logistics ngược (Reverse Logistics) là một công đoạn của logistics tập trung
vào việc di chuyển và quản lý sản phẩm và nguồn lực sau giai đoạn bán hàng và
giao hàng cho khách hàng. Ví dụ như việc thu hồi sản phẩm để sửa chữa [43].
Ngồi ra, nếu căn cứ vào loại hàng hóa là đối tượng của logistics thì lại có
nhiều hình thức logistics khác khau. Ví dụ như: logistics hàng tiêu dùng có thời
hạn sử dung ngắn (Fast Moving Consumer Goods Logistics – FMCG Logistics),
logistics ngành ơ tơ (Automotive Logistics), logistics ngành hóa chất (Chemical
Logistics), logistics ngành dầu khí (Petroleum Logistics), logistics hàng điện tử
(Electronic Logistics)…
1.2 Vai trị của logistics
Logistics có phạm vi tác động rất rộng trong nhiều lĩnh vực: kinh tế, xã hội,
quân sự… bởi bất kì hoạt động nào cũng cần có sự vận động, lưu thơng, trao đổi
17
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
của vật chất cũng như của con người, mà những dịng lưu thơng về vật chất và
nhân lực ấy chính là kết quả mà hoạt động logistics đem lại. Vì lẽ đó mà logistics
ln giữ một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội.
1.2.1 Vai trò của logistics trong lĩnh vực quân sự
Trong quân sự, logistics gần như chiếm một nửa trong kết quả thành công hay
thất bại của một cuộc chiến. Bởi vì đó chính là hậu cần, là phần không thể thiếu
cho hoạt động của tiền tuyến. Mọi sức mạnh của quốc gia đều phải nhờ đến
logistics để có thể trở thành sức mạnh quân sự trong chiến đấu.
Có thể lấy chính cuộc kháng chiến của dân tộc ta làm minh chứng rõ ràng nhất
cho tầm quan trọng của logistics trong lĩnh vực này. Đó là hoạt động của bộ đội,
thanh niên xung phong và những người dân quân làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí,
đạn dược, lương thực… đi dọc Trường Sơn. Tuy khơng có sự xuất hiện những yếu
tố của logistics hiện đại như kho bãi, quản lý, dây chuyền cung ứng… nhưng có
thể khẳng định đó chính là nghệ thuật logistics trong chiến tranh. Vì chỉ với những
phương tiện thơ sơ nhưng cơng tác hậu cần của Việt Nam vẫn đáp ứng được yêu
cầu của chiến đấu và còn gây nhiều bất ngờ cho kẻ địch. Do thời gian chiến tranh
kéo dài, sản xuất khơng có điều kiện để phát triển, chỉ số tăng trưởng kinh tế âm
nên vào thời bấy giờ chúng ta khơng có khả năng để cơ giới hố hoạt động vận
chuyển mà phải sử dụng những phương tiện giản đơn sẵn có như xe đạp, gia súc
và chủ yếu vẫn là sức người. Xét về góc độ này, ta có thể thấy hai ưu điểm lớn của
logistics Việt Nam trong thời chiến: một là “tiết kiệm chi phí” do khơng phải đầu
tư nhiều cho khâu vận chuyển; hai là khả năng giữ bí mật cao, khó bị phát hiện,
tức là đạt được “hiệu quả”. Chưa kể đến những chiến dịch hành qn bí mật với
qui mơ lớn giữa hai miền Bắc Nam được thực hiện thành cơng. Như vậy, nói một
cách khách quan thì chúng ta đã thiết lập, thực hiện và như kiểm sốt luồng lưu
thơng của vật chất cũng như nhân lực một cách hiệu quả với chi phí thấp, tức là đã
đạt được thành cơng mà bất kì một nhà quản trị logistics nào cũng hướng đến.
Thực tế, nếu cơng tác hậu cần khơng có những thành quả như vậy thì việc dành
thắng lợi của quân đội Việt Nam chắc chắn sẽ khó khăn hơn rất nhiều.
18
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
Trong lịch sử, nhiều kế hoạch tác chiến không tập trung vào mặt trận tiền
tuyến mà chú trọng đến giành thắng lợi bằng cách đánh vào những đoàn vận
chuyển quân lương, vũ khí,… Thực tế cho thấy, thực hiện những kế hoạch như
vậy thường đem lại hiệu quả cao vì qn đội khơng thể làm trịn nhiệm vụ chiến
đấu nếu thiếu những nguồn vật chất cũng như nhân lực mà cơng tác hậu cần đem
lại. Qua đó, chúng ta có thể nhận thấy logistics có một tầm quan trọng đặc biệt
trong qn sự. Đó là một khâu thiết yếu khơng thể bỏ qua nếu muốn giành được
thắng lợi trong chiến tranh.
1.2.2 Vai trò của logistics trong lĩnh vực kinh tế
1.2.2.1 Vai trị của logistics đối với kinh tế nói chung
Ngày nay, logistics đang giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế hiện đại.
Trước hết cần đề cập đến vai trò của logistics đối với nền kinh tế trong thời kì
tồn cầu hố. Hệ thống Logistics góp phần vào việc giải quyết những vấn đề nảy
sinh từ sự phân công lao động quốc tế do yêu cầu của quá trình tồn cầu hố. Điều
này thể hiện rất rõ trong hoạt động của các tập đồn, cơng ty đa quốc gia với các
cơ sở sản xuất, các chi nhánh cung ứng sản phẩm cũng như dịch vụ ở nhiều quốc
gia khác nhau trên khắp thế giới. Họ luôn kết hợp tốt các điều kiện về tài nguyên,
nhân lực, công nghệ ở nhiều quốc gia khác nhau để tạo nên một sản phẩm hay
dịch vụ hồn chỉnh. Nói cách khác, họ đã khắc phục được những trở ngại về thời
gian, không gian cũng như chi phí sản xuất để đạt được hiệu quả sản xuất cao nhất
nhờ khai thác hệ thống logistics toàn cầu.
Như trường hợp của Barbie, một sản phẩm búp bê từng được cho là hoàn toàn
của Mỹ. Song, thực tế quá trình tạo nên Barbie được thực hiện từ khắp nơi trên thế
giới. Năm 1959, Mattel Corp tổ chức sản xuất Barbie tại Nhật Bản. Sau đó, họ bổ
sung thêm một nhà máy nữa ở Đài Loan. Quần áo búp bê thì do các nhóm nhỏ
phụ nữ Đài Loan may tại nhà. Giữa những năm 1990, búp bê Barbie gần như
khơng cịn là một sản phẩm thuần Mỹ nữa. Logistics đã mang lại cho Barbie một
dây chuyền cung ứng tồn cầu (global supply chain). Các cơng nhân Trung Quốc
tạo nên hình tượng Barbie với khn và màu nhuộm từ Mỹ, máy móc của Nhật
19
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
Bản và Châu Âu, bộ tóc nylon từ Nhật Bản, nhựa từ Đài Loan, quần áo làm tại
Trung Quốc… Song, khi hoàn thành, búp bê Barbie vẫn được mọi người biết đến
như một “cơ gái Mỹ” nổi tiếng trên tồn thế giới [32].
Đối với đời sống xã hội quốc tế, logistics cũng giữ một vai trò thiết yếu.
Logistics là sợi dây nối kết các quốc gia, nó thiết lập nên mối liên hệ giữa thị
trường các nước. Nhất là khi kinh tế thế giới phát triển theo hướng chun mơn
hố, tồn cầu hố thì vai trị của logistics lại càng được khẳng định một cách vững
chắc. Bởi lẽ lưu thông, phân phối hàng hoá, trao đổi, giao lưu thương mại giữa các
vùng trong một quốc gia và giữa các quốc gia với nhau đã trở thành một nhu cầu
cấp thiết. Nếu những hoạt động này ngưng trệ thì sẽ gây ra nhiều tác động xấu
không chỉ đến kinh tế mà là đối với toàn bộ đời sống xã hội. Logistics chính là
cơng cụ để tạo ra những mối liên kết đó. Bên cạnh đó, logistics cịn tạo ra những
kênh phân phối hàng hố tồn cầu, giúp người tiêu dùng và nhà sản xuất trên khắp
thế giới có nhiều khả năng để tiếp cận với nhau hơn. Nhờ đó có thể hạn chế tình
trạng khan hiếm hàng hóa, giá cả cũng được điều chỉnh phù hợp theo tương quan
cung – cầu, tránh những biến động giá do tình trạng đầu cơ, góp phần ổn định đời
sống xã hội.
Ngồi ra, logistics cịn góp phần thúc đẩy thương mại quốc tế ngày càng phát
triển bằng cách chuẩn hoá các chứng từ trong kinh doanh quốc tế. Trong thực tiễn,
một giao dịch thương mại quốc tế thường phải tiêu tốn khá lớn cho các loại giấy
tờ, chứng từ. Theo ước tính của Liên Hiệp Quốc, hàng năm tất cả các giao dịch
thương mại trên thế giới đã sử dụng hơn 420 tỷ USD cho các khoản về chứng từ
[42]. Với việc cung cấp các dịch vụ trọn gói, logistics sẽ góp phần làm giảm đáng
kể loại chi phí này. Đặc biệt khi logistics điện tử (Electronic Logistics) ra đời thì
những cơng việc liên quan đến các loại giấy tờ sẽ bị thay thế hoàn tồn, do đó
những chi phí như trên sẽ được giảm đến mức tối thiểu. Khơng những thế, hoạt
động logistics tồn cầu cịn góp phần làm các quốc gia xích lại gần nhau hơn,
khơng chỉ về kinh tế mà cịn về pháp luật. Vì hoạt động thương mại quốc tế địi
hỏi pháp luật quốc gia phải phù hợp với những qui tắc được quốc tế thừa nhận. Do
đó, khi logistics tồn cầu phát triển thì hệ thống chứng từ liên quan của các quốc
20
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
gia cũng phải được điều chỉnh sao cho đồng bộ với nhau. Đây chính là một điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển của thương mại quốc tế.
Trên thực tế, những đóng góp của ngành dịch vụ logistics là rất lớn. Theo một
số nghiên cứu gần gây, hoạt động logistics đã góp một phần khơng nhỏ vào đời
sống kinh tế của các quốc gia. Theo ước tính của Viện logistics châu Á Thái Bình
Dương (The Logistics Institute Asia Pacific – TLIAP), trị giá của dịch vụ logistics
chiếm 10 – 15% GDP toàn cầu, tương đương 2000 tỷ USD/năm5[46]. Đây quả là
một con số không nhỏ phản ánh phần nào vai trò của ngành dịch vụ logistics hiện
nay.
Trong phạm vi một quốc gia, hệ thống Logistics góp phần vào việc khai thác
những nguồn lực kinh tế địa phương một cách hợp lý. Bởi vì mỗi vùng địa lý có
những đặc điểm riêng về điều kiện tự nhiện, địa hình, tài nguyên khoáng sản.
Phương thức sản xuất, lực lượng lao động ở mỗi nơi cũng có nhiều nét riêng. Một
cơ cấu hợp lý đòi hỏi việc sắp xếp các ngành sản xuất, các khu công nghiệp, các
trung tâm kinh tế ở các địa phương sao cho vừa phát huy được những thế mạnh
sẵn có ở mỗi nơi vừa đảm bảo sự cân đối tổng thể. Để đạt được điều đó, song song
với việc chú trọng vào khai thác thế mạnh của mỗi vùng, chúng ta còn phải quan
tâm đến việc tạo ra sự kết nối giữa các vùng với nhau. Logistics sẽ làm nhiệm vụ
tạo ra sự kết nối đó và đảm bảo thị trường liên vùng trong một quốc gia được
thông suốt. Thơng qua đó, việc phân bố sản xuất sẽ ngày càng hợp lý hơn và nền
kinh tế cũng phát triển cân đối hơn.
Logistics cịn có thể tạo ra nhiều tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế bởi vì nó
có mối quan hệ hữu cơ với nhiều hoạt động kinh tế khác. Ví dụ: ở Mỹ, năm 1996,
logistics đóng góp khoảng 10.5% vào GDP. Cơng nghiệp Mỹ đã chi khoảng 451
tỷ USD vào vận tải và khoảng 311 tỷ USD vào dịch vụ kho hàng, lưu kho và dự
trữ hàng hố trong kho. Các khoản chi phí này cộng với các chi phí logistics khác
lên đến 797 tỷ USD (theo báo cáo về logistics quốc gia của Robert Delaney).
5
N.Viswanadham and R.S.Gaonkar (2001), E. Logistics: Trens và Opportunities (TLIAP), Singapore
21
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
Trước đó, vào năm 1980, chi phí cho logistics chiếm khoảng 17,2% GDP, và nếu
loại chi phí này được duy trì ở mức cao như vậy thì lẽ ra và năm 1996 nước Mỹ
không chỉ dừng lại ở con số 797 tỷ USD mà còn phải bỏ ra thêm 510 tỷ USD nữa.
Tức là, nhờ nâng cao hiệu quả của hoạt động logistics mà nền kinh tế Mỹ đã tránh
được nhiều nguy cơ. Đó là nguy cơ xuất phát từ việc tăng chi phí cho logistics,
điều này dẫn đến tình trạng hoặc người tiêu dùng phải chịu giá cao hoặc hoạt động
kinh doanh chỉ đem lại lợi nhuận thấp. Và hậu quả đương nhiên là mức sống của
người dân ngày càng thấp đi hoặc Nhà nước phải mất đi một khoản thu lớn từ thuế.
Như vậy, ngồi những lợi ích mà nó đem lại riêng cho các ngành sản xuất, dịch vụ
thì logistics cịn có thể đóng góp rất lớn cho nền kinh tế nói chung [44].
1.2.2.2 Vai trị của logistics đối với sản xuất và tiêu dùng
Tất cả các hoạt động tiêu dùng thường ngày của chúng ta đều cần tới logistics.
Bởi lẽ chúng ta không sống trong một xã hội tự cung tự cấp như ngày xưa, nơi mà
người ta sản xuất được gì thì sử dụng chính sản phẩm mình làm ra. Ngày nay,
cuộc sống vật chất ngày càng được nâng cao, nhu cầu của con người đã phát triển
lên một cấp độ mới, những sản phẩm tiêu dùng được lựa chọn phải là những sản
phẩm tốt và phù hợp nhất, chúng có thể có xuất xứ từ khắp nơi, từ trong nước hay
từ một quốc gia khác trên thế giới. Để đáp ứng được nhu cầu này thì đương nhiên
phải có logistics. Vì hoạt động logistics sẽ tạo ra dịng ln chuyển hàng hố, dịch
vụ, nhờ đó mà người tiêu dùng có thể tiếp cận được với những sản phẩm tốt nhất
với giá cả cạnh tranh nhất. Logistics giúp mọi người có được nhiều sự lựa chọn
hơn trong cuộc sống.
Hơn nữa, logistics còn làm cho việc mua bán, trao đổi hàng hoá thuận tiện và
dễ dàng hơn. Bởi logistics làm cho q trình lưu thơng, phân phối được thơng suốt,
chuẩn xác và an tồn. Nhờ đó mà hàng hoá được đưa vào thị trường một cách
nhanh chóng, kịp thời. Người tiêu dùng sẽ mua được hàng hoá một cách thuận
tiện và linh hoạt với rất nhiều cách thức khác nhau như: mua trực tiếp tại cửa hàng
hoặc đặt hàng qua điện thoại, qua fax, qua email hay giao dịch qua internet… Đây
là một tiện ích rất thiết thực mà logistics mang lại nếu chúng ta ứng dụng hệ thống
22
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
logistics vào sản xuất và lưu thông.
Mặt khác, logistics cũng góp phần thúc đẩy sự đổi mới trong sản xuất, phân
phối và trong cách kinh doanh của các thương nhân. Bởi vì, trong sự cạnh tranh
mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, khi cuộc chiến về giá cả có thể gây ra nhiều
tác động xấu cho doanh nghiệp cũng như gây tâm lý nghi ngờ cho khách hàng thì
cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và tiết kiệm chi phí sẽ là những
giải pháp thích hợp. Và logistics sẽ là chìa khố cho những giải pháp nói trên.
Trước hết, khi hoạt động logistics được sử dụng một cách hiệu quả, các khoản
mà doanh nghiệp phải chi cho việc lưu thông, phân phối sẽ giảm đi. Bởi mục đích
mà logistics hướng đến là đưa hàng hố đến với người tiêu dùng một cách “hiệu
quả” nhất, tức là với thời gian nhanh nhất và chi phí thấp nhất. Bên cạnh đó,
logistics cịn hướng đến việc quản lý lượng sản phẩm tồn kho sao cho số hàng tồn
trữ luôn ở mức thấp. Như vậy thì doanh nghiệp sử dụng tốt logistics cịn giảm
được chi phí cho hoạt động xây dựng hoặc thuê kho bãi và chi phí cho việc bảo
quản sản phẩm cũng như xử lý sản phẩm quá hạn.
Có thể gọi logistics như là một “địn bẩy” của lợi nhuận. Điều này thể hiện ở
chỗ: nếu ta tiết kiệm được 1 USD trong chi phí logistics thì sẽ đem lại ý nghĩa lớn
hơn nhiều so với việc doanh số bán hàng tăng được 1 USD. Bởi lẽ tỉ suất lợi
nhuận khó có thể đạt đến con số 100%. Cho nên, nếu doanh số bán hàng tăng 1
USD thì điều đó khơng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp thu được 1 USD lợi
nhuận. Ví dụ, với tỉ suất lợi nhuận là 15%, nếu tăng doanh số bán hàng được 1
USD thì sau khi trừ các khoản thuế, thực chất doanh nghiệp chỉ còn lại khoản lợi
nhuận trên dưới 0,15 USD. Trong khi nếu tiết kiệm được 1 USD từ logistics thì 1
USD đó sẽ chuyển hố ngun vẹn vào số lợi nhuận của doanh nghiệp. Từ đó cho
thấy, logistics có thể giữ vai trị một địn bẩy có tác dụng to lớn trong việc gia tăng
lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hơn nữa, với tốc độ phát triển nhanh chóng của
ngành dịch vụ logistics, thị trường dịch vụ này hiện nay là tương đối rộng lớn, số
lượng doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics khá nhiều, do vậy mà giá dịch vụ
cũng ở mức ngày càng hợp lý hơn. Như vậy, khả năng tiết kiệm nhờ logistics là
trong tầm tay doanh nghiệp trong khi để tăng doanh số bán hàng không phải là
23
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
chuyện dễ dàng có được.
Với các giao dịch kinh tế cụ thể, logistics hỗ trợ cho dòng luân chuyển của
những giao dịch này. Logistics là hoạt động quan trọng tạo thuận lợi cho việc sản
xuất và bán hầu hết các loại hàng hoá, dịch vụ. Bởi lẽ theo quan điểm kinh tế,
những tiện ích mà logistics đem lại là nhờ “5 chữ đúng” của nó. Đó là: đúng loại
sản phẩm, đúng thời gian, đúng địa điểm, đúng điều kiện và đúng giá cả. Giả định
hàng hoá bị ách tắc ở một khâu nào đó; ví dụ như: ngun liệu khơng thể đến
đúng nơi sẽ dẫn đến sự chậm trễ trong việc tiến hành sản xuất, sản phẩm không
thể đến nơi tiêu thụ đúng thời điểm, nhà sản xuất cũng không thể cung cấp đủ số
lượng hàng với giá đã cam kết do thiếu nguyên liệu đầu vào và như vậy thì điều
kiện bán hàng ban đầu cũng khơng được bảo đảm… Khi đó, có rất nhiều khả năng
việc mua bán sẽ không thể diễn ra nữa. Nghĩa là khi “5 đúng” của logistics khơng
đạt được thì nhất định sẽ gây thiệt hại cho các giao dịch kinh tế.
Ngoài ra, logistics còn tác động lớn đến tầm phổ biến của sản phẩm. Một khi
sử dụng logistics hiệu quả, sản phẩm sẽ dễ dàng đến với người tiêu dùng hơn. Từ
đó tên tuổi của sản phẩm cũng trở nên thân thuộc hơn với họ. Và đương nhiên, với
sự tác động của những yếu tố tâm lý thì ít nhiều sự thân thuộc ấy cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến khách hàng khi chọn lựa để tiêu dùng. Tuy hiệu quả chưa thể so
sánh với quảng cáo nhưng logistics cũng giữ vai trò nhất định trong việc đưa hàng
hóa tiếp cận với khách hàng. Điều này giải thích tại sao các cơng ty sở hữu những
nhãn hàng nổi tiếng như Pepsi, Dell, HP… đều có riêng bộ phận phụ trách mảng
cơng việc về logistics. “Hai yếu tố cốt lõi mang lại sự thành công cho hãng máy
tính Dell trong những năm gần đây chính là tốc độ đưa hàng đến tay người tiêu
dùng và số lượng sản phẩm tồn trữ trong hệ thống luôn được đảm bảo ở mức thấp.
Nói cách khác, Dell đã thực hiện rất tốt công tác logistics” – ông Mark Ketelaar,
Tổng Giám đốc công ty Excell DHL Việt Nam đã khẳng định như vậy [39].
Qua những phân tích ở trên, chúng ta có thể nhận thấy, với phạm vi tác động
rất rộng của mình, logistics ngày càng giữ một vai trò quan trọng hơn trong mọi
mặt của đời sống. Ở tầm vi mơ, logistics có vai trị tối ưu hố mọi thao tác, hoạt
động trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhằm nâng cao khả
24
Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics
năng cạnh tranh, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Ở tầm vĩ mơ, logistics giữ vai
trị của một ngành dịch vụ giúp tối ưu hố q trình phân phối, vận chuyển, dự trữ
các nguồn lực giúp từng quốc gia nói riêng và cộng đồng nhân loại nói chung phát
triển bền vững.
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ
LOGISTICS THEO LUẬT THƯƠNG MẠI 2005
2.1 Định nghĩa dịch vụ logistics
Không giới hạn trong phạm vi dịch vụ giao nhận của Luật Thương mại 1997,
Luật Thương mại 2005 đưa ra định nghĩa dịch vụ logistics: “Dịch vụ logistics là
hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều
công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan,
các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao
hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách
hàng để hưởng thù lao. Dịch vụ logistics được phiên âm theo tiếng Việt là dịch vụ
lơ-gi-stíc”6.
Như vậy, cũng như hầu hết các quốc gia khơng sử dụng tiếng Anh khác, Việt
Nam cũng chính thức thừa nhận thuật ngữ “logistics” nguyên gốc. Do bản chất
của logistics mà chúng ta khơng thể có sự dịch thuật chính xác, đó cũng là điều
được thừa nhận trong Tờ trình số 1456/CP-PC ngày 05/10/2004 của Chính phủ về
Dự án Luật Thương mại (sửa đổi)7.
Cũng theo xu hướng định nghĩa dịch vụ logistics phù hợp với thực tiễn hoạt
động thương mại quốc tế, Luật Thương mại 2005 đã xây dựng những qui định về
dịch vụ logistics với những đặc trưng như sau:
Thứ nhất, logistics là hoạt động thương mại:
Theo khoản 1 điều 3 Luật Thương mại “Hoạt động thương mại là hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư,
xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
6
Điều 233 Luật Thương mại 2005
Mục 4.4 phần IV Tờ trình số 1456/CP-PC ngày 05/10/2004 của Chính phủ về Dự án Luật Thương mại
(sửa đổi)
7
25