1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
-----------------------
LÊ HỌC LÂM
NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁP LÝ BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN LUẬT PHÁ SẢN 2004 Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số
: 60.38.50
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Thị Mai Hiên
TP.Hồ Chí Minh-Năm 2007
2
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài :
Trong nền kinh tế thị trường, các nhà kinh doanh khi gia nhập thương
trường, không ai mong muốn doanh nghiệp của mình bị tiêu tan, sản nghiệp của
mình bị lụn bại. Nhưng nền kinh tế ln có sự vận hành theo quy luật kinh tế
nằm trong sự vận động phát triển của kinh tế xã hội, cho nên, bên cạnh các
doanh nghiệp làm ăn có lãi, tăng trưởng về quy mơ thì cũng tồn tại các doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ. Trong xã hội, mọi điều có thể xảy ra, có sinh ra thì có mất
đi; có hình thành và tồn tại, phát triển thì cũng có tiêu vong. Chính do vậy, có
thủ tục để hình thành doanh nghiệp, có những quy định để doanh nghiệp hoạt
động và phát triển, tất yếu phải có thủ tục chuyển hóa hoặc chấm dứt sự tồn tại
của doanh nghiệp. Luật Phá sản ra đời đầu tiên năm 1993 là văn bản pháp lý đầu
tiên để điều chỉnh trình tự, thủ tục phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, trái với
mong đợi của các doanh nghiệp và của cả Nhà nước, Luật phá sản doanh nghiệp
năm 1993, ngay từ lúc dự thảo đã được nhiều ý kiến cảnh báo của các nhà
chuyên môn về thiếu tính khả thi và sau khi ban hành đã bộc lộ rõ nét những hạn
chế, bất cập khi áp dụng vào thực tiễn đời sống kinh tế vì dường như có tác dụng
ngược là cản trở việc chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp đã lâm vào tình
trạng phá sản. Các doanh nghiệp dù làm ăn thua lỗ, không trả được các khoản nợ
đến hạn nhưng vẫn phải tồn tại vì Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 đã vơ
tình gây khó khăn cho việc “khai tử” doanh nghiệp, làm cho các chủ nợ khó địi
được nợ, người lao động về quyền lợi không không được bảo đảm và con nợ
cũng khơng giải phóng được các khoản nợ nên người chủ doanh nghiệp ấy
3
khơng có được sự khởi đầu mới. Tình trạng này được nhiều báo chí phản ánh
bằng hình ảnh “ nhiều doanh nghiệp chết không được chôn, làm môi trường kinh
doanh bị ô nhiễm….”.
Trước thực tế ấy, Luật Phá sản năm 2004 ra đời ghi nhận thêm những cơ chế,
chính sách mới khắc phục những khiếm khuyết, những hạn chế của Luật phá sản
doanh nghiệp năm 1993 với mong muốn việc giải quyết phá sản doanh nghiệp
nhanh gọn hơn, đạt hiệu quả cao hơn tạo điều kiện cho động lực phát triển kinh
tế và có mơi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp hoạt động. Thế
nhưng, Luật Phá sản ra đời năm 2004 cũng lâm vào tình trạng như Luật phá sản
doanh nghiệp năm 1993.
Theo thống kê của ngành tòa án, nếu Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 ra
đời và áp dụng trong 10 năm, từ năm 1994 đến năm 2003, tồn ngành tịa án thụ
lý được 151 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản so với hàng trăm ngàn doanh nghiệp
mới được thành lập và hoạt động, trong đó chỉ có 46 doanh nghiệp hồn tất được
thủ tục phá sản. Thay thế luật cũ, Luật Phá sản năm 2004 ra đời cho đến nay
(7/2007) đã gần 03 năm cũng khơng có chút tiến bộ hơn trên thực tiễn. Tại cuộc
hội thảo ngày 08/12/2006 do Tòa án Nhân dân TP.HCM tổ chức đã đánh giá dù
hơn 02 năm thực thi Luật Phá sản 2004, số đơn yêu cầu tuyên bố phá sản có
chiều hướng gia tăng so với trước nhưng sự gia tăng này vẫn quá ít so với tình
trạng “chết khơng được chơn” trên thực tế. Các tòa án của ba trung tâm kinh tế
lớn là TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, kể từ khi Luật Phá sản 2004 có hiệu
lực cho đến đầu tháng 12 năm 2006, chỉ tiếp nhận 45 đơn của doanh nghiệp yêu
cầu tuyên bố phá sản. Tòa Kinh tế thuộc Tịa án Nhân dân TP.HCM có nhiều
nhất là 22 đơn trong đó có 15 đơn yêu cầu là của doanh nghiệp nhà nước. Tuy
nhiên, số doanh nghiệp nhà nước này nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản là do
4
chủ trương sắp xếp lại khu vực kinh tế quốc doanh của Chính phủ. Như vậy, trừ
đi số doanh nghiệp nhà nước buộc phải “chôn cất theo chỉ đạo”, số còn lại phá
sản theo yêu cầu chỉ còn 07 doanh nghiệp và đến thời điểm đang hội thảo, Tòa
Kinh tế cũng chỉ mới giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản cho 02 doanh nghiệp,
số còn lại vẫn đang trong thời gian xem xét.
Tại Tòa án Thành phố Hà Nội, khi áp dụng Luật phá sản doanh nghiệp năm
1993 thì từ năm 1994 đến đầu năm 2004 đã thụ lý và giải quyết được 03 vụ
tuyên bố phá sản. Khi áp dụng Luật Phá sản mới, cả năm 2005 giải quyết cũng
được 03 vụ và năm 2006 đã thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản nhiều hơn là 08
đơn của doanh nghiệp.
Trong một quốc gia có hơn 80 triệu dân với hơn ba trăm ngàn doanh nghiệp
với các hình thức khác nhau trong một nền kinh tế hoạt động sôi động và cạnh
tranh theo quy luật phát triển kinh tế thì đây là một con số nhỏ nhoi và phi lý.
Trên báo chí cũng đã có nhiều bài viết cảnh báo về thực thi Luật Phá sản 2004
và các cuộc hội thảo về việc áp dụng Luật Phá sản 2004 nêu ra khá nhiều bất cập
so với thực trạng kinh tế xã hội. Báo Kinh tế Sài gòn số 51-2006 trang 46 có bài
“ Luật Phá sản nên chăng là luật khoan hồng” trong đó, tác giả Nguyễn Tấn đưa
ra nhận định: “ Luật Phá sản lại có nguy cơ tiếp tục phá sản” và các số báo Pháp
luật, mục ý kiến tháng 12/2006, báo Tài chính Việt Nam ngày 06/7/2007 cũng
đưa ra các ý kiến tương tự.
Như vậy, việc thay Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 bằng Luật Phá sản
năm 2004 nhằm đáp ứng tình hình kinh tế phát triển, phù hợp với sự vận động
của kinh tế thị trường, nhất là khi chúng ta đã là thành viên của Tổ chức Thương
mại Thế giới, nhằm đáp ứng sự hoạt động bình thường của nền kinh tế khi doanh
nghiệp hình thành, hoạt động, phát triển hoặc tiêu vong thì Luật Phá sản 2004
5
này cũng chứng tỏ sự bất khả thi không kém luật cũ trên thực tế. Vai trò thúc đẩy
phát triển kinh tế của Luật Phá sản rất lớn vì chúng ta đều biết, các quốc gia
Đông Âu khi chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường, cùng với việc ban hành Luật Doanh nghiệp điều chỉnh sự hình
thành và hoạt động phát triển của các hình thức cơng ty và doanh nghiệp tư nhân,
là việc ban hành pháp luật về phá sản. Do vậy, việc nghiên cứu về cơ chế pháp lý
bảo đảm thực hiện Luật Phá sản năm 2004 nhằm đưa ra những giải pháp đảm
bảo quyền lợi cho những chủ thể bị điều chỉnh, vừa nghiêm minh trong việc thực
thi nghĩa vụ, góp phần cho Luật Phá sản năm 2004 áp dụng được trong đời sống
kinh tế, phù hợp với sự vận hành của nền kinh tế thị trường, thiết nghĩ, là một
yêu cầu cần thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài :
Vì sao luật Phá sản năm 2004 đã được điều chỉnh so với Luật phá sản doanh
nghiệp năm 1993 mà thực trạng việc áp dụng không cải thiện bao nhiêu ? Sau
khi Luật Phá sản 2004 ra đời, khá nhiều bài báo, bài nghiên cứu, các bài tham
luận viết về Luật Phá sản 2004 và hầu như theo hướng ca ngợi luật mới này, tiên
đốn sẽ chấm dứt tình trạng “ chết không được chôn” của các doanh nghiệp thua
lỗ nợ nần, lâm vào tình trạng phá sản như bài “ Những điểm mới của Luật Phá
sản năm 2004” trên báo điện tử VietNamNet của tác giả Vũ Hoàng Long hoặc
nói lướt qua về những khiếm khuyết, những hạn chế của Luật Phá sản 2004
nhưng nhấn mạnh rằng do đặc thù của kinh tế xã hội Việt Nam hiện đang trong
giai đoạn chuyển đổi nên cần thiết quy định như vậy và cho là phù hợp trong
cuốn “ Pháp luật Phá sản của Việt Nam” ( Nxb Tư Pháp-2005, PGS.TS Dương
Đăng Huệ) . Những bài viết này thường có khuynh hướng coi trọng phương
pháp so sánh lịch đại, so sánh luật mới với luật cũ, lấy hiện tại so với quá khứ mà
6
ít dùng các phương pháp nghiên cứu khác như khảo sát, tham chiếu, thống kê số
liệu, phân tích từ thực tiễn áp dụng luật.
Một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu Luật Phá sản 2004 chỉ nghiên cứu về vấn
đề bảo đảm quyền lợi cho chủ nợ ( Luật Phá sản 2004-Cơ sở pháp lý bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ - Lê Thị Đào- Cao học Luật, khóa 7)
nhưng những đề xuất vẫn nằm trong việc địi nợ tập thể, khơng làm rõ được động
lực lợi ích thúc đẩy người chủ nợ nộp đơn u cầu mở thủ tục phá sản có điểm gì
khác với các chủ nợ khác ăn theo…v…v…Một số nghiên cứu khác về Luật Phá
sản 2004 về bảo vệ quyền, lợi ích của con nợ lại chưa làm rõ được việc con nợ
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là quyền hay nghĩa vụ xét cả về lý luận và
thực tiễn…v…v…
Nhìn chung, việc Luật Phá sản khơng khả thi trong thực tiễn đã thể hiện rõ qua
số liệu đã được công bố và đánh giá tại cuộc Hội thảo về áp dụng thực hiện Luật
Phá sản 2004 ngày 08/12/2006 do Tòa án TP.HCM tổ chức. Các bài nghiên cứu
về việc đảm bảo thực hiện Luật Phá sản 2004 trước đây thường chỉ đi vào một
góc độ như đảm bảo quyền, lợi ích của chủ nợ hoặc con nợ trong khi trên thực tế,
cả chủ nợ, con nợ, người lao động …đều né tránh việc yêu cầu tuyên bố phá sản
vì cơ sở pháp lý của luật đã khơng bảo đảm tính khả thi trong hoạt động bình
thường của nền kinh tế.
Thực hiện đề tài “ Những giải pháp pháp lý bảo đảm thực hiện Luật Phá sản
2004 ở nước ta hiện nay”, tác giả hy vọng có một đóng góp nhỏ bé cho cơng tác
hồn thiện pháp luật về lãnh vực phá sản doanh nghiệp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài :
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả sẽ không đề cập đến vấn đề
phá sản gian trá và phá sản liên quốc gia. Phá sản gian trá thuộc sự điều chỉnh
7
của Bộ Luật Hình sự. Vấn đề phá sản liên quốc gia, mặc dù Việt Nam đã là
thành viên của WTO và trong bối cảnh tồn cầu hóa, một cơng ty có nhiều tài
sản ở nhiều quốc gia khác nhau và có nhiều chủ nợ ở nhiều quốc gia khác nhau
và để giải quyết việc phá sản ở các công ty này dẫu cần thiết nhưng phải cần các
điều ước quốc tế điều chỉnh và các điều ước quốc tế này rất ít. Ủy ban của Liên
hiệp quốc về Luật thương mại Quốc tế (UNCITRAL) đã ban hành Luật mẫu về
phá sản liên quốc gia vào năm 1997 nhưng hiện nay chỉ có Liên minh Châu Âu
và các nước thành viên khu vực tự do Bắc Mỹ cùng với một số nước nước như
Nhật (2000), Mexico(2000), Romania (2002), Poland (2003) áp dụng hoặc căn
cứ vào Luật mẫu để xây dựng những quy phạm pháp luật về vấn đề phá sản liên
quốc gia. Tác giả cũng không đề cập đến những quy định về cơng việc chính và
các kỹ năng thực hiện, thao tác nghiệp vụ của Tòa án khi giải quyết việc phá sản
trong Nghị quyết số 03/ NQ-HĐTP ngày 28-4-2005 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án Nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hành một số qui định của Luật Phá sản
2004 và Nghị định 67/2006/NĐ-CP hướng dẫn việc áp dụng Luật Phá sản đối
với các doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài
sản. Trong luận văn, tác giả chỉ tập trung vào việc làm rõ những bất cập của một
số quy định trong Luật Phá sản khi áp dụng vào thực tiễn và bất hợp lý về mặt lý
luận về phát triển kinh tế. Nhiệm vụ đặt ra trong luận văn là :
- Nghiên cứu và làm rõ bản chất của hoạt động phá sản , những vấn đề lý
luận và chế định trong Luật Phá sản 2004.
- Nghiên cứu và phân tích thực trạng cơ chế pháp lý đối với hoạt động phá
sản doanh nghiệp thông qua hoạt động mở thủ tục phá sản.
- Đánh giá những bất cập của pháp luật về hoạt động phá sản hiện hành và đề
ra những giải pháp pháp lý để bảo đảm thực hiện Luật Phá sản.
8
4. Phương pháp nghiên cứu :
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp khoa học như
phương pháp duy vật biện chứng, tổng hợp, phân tích, đối chiếu, so sánh lịch đại
và so sánh đồng đại, phương pháp phân tích mơ tả…v..v..dựa trên quan điểm,
đường lối chính trị của Đảng và Nhà nước. Trong đó, phương pháp phân tích các
quy phạm pháp luật, phương pháp nghiên cứu pháp lý dựa trên các tiêu chí kinh
tế xã hội và phương pháp luật học so sánh được coi là các phương pháp chủ đạo
được áp dụng trong quá trình thực hiện luận văn.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, trên cơ sở của mục tiêu, nhiệm
vụ của luận văn đã nêu trên và giới hạn số trang, nội dung chính của luận văn
được kết cấu 02 chương gồm các phần sau:
- Lời nói đầu.
- Chương 1 :Khái quát chung về giải pháp pháp lý đảm bảo thực hiện Luật Phá
sản 2004.
1.1.Khái niệm phá sản và vấn đề điều chỉnh pháp luật về phá sản trong quá
trình phát triển kinh tế.
1.2. Phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam với nhu cầu điều chỉnh pháp
luật về phá sản.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật hiện hành với những thành tựu, bất cập và
giải pháp pháp lý đảm bảo thực hiện Luật Phá sản 2004.
2.1. Những thành tựu của Luật Phá sản 2004
2.2. Thực trạng những bất cập trong pháp luật hiện hành và giải pháp pháp
lý bảo đảm thực hiện Luật Phá sản
- Phần kết luận
9
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI PHÁP PHÁP LÝ ĐẢM BẢO THỰC
HIỆN LUẬT PHÁ SẢN 2004
1.1. KHÁI NIỆM PHÁ SẢN VÀ VẤN ĐỀ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT VỀ PHÁ
SẢN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ.
1.1.1.Khái niệm phá sản và vai trò của phá sản trong phát triển kinh tế:
Khi lồi người biết kinh doanh, có các hoạt động bn bán để mưu cầu lợi
nhuận thì tất nhiên phải có bên cạnh những thương nhân làm ăn có lãi là những
thương nhân khác làm ăn thua lỗ phải bán tài sản, thậm chí nhà cửa của mình để
trả các khoản nợ khi chủ nợ đòi. Các di chỉ khảo cổ cho thấy ngay từ 3.500 năm
trước cơng ngun đã có hoạt động thương mại sầm uất ở vùng Lưỡng Hà cổ đại
và khoảng 2.500 năm trước công nguyên, “con đường tơ lụa” từ Trung Hoa
xuyên qua Tây Á và Châu Âu. Khi đi buôn bán, các thương nhân phải vượt sông
núi, qua sa mạc, gặp nhiều rủi ro như bão tố, cướp bóc, dịch bệnh và khơng phải
ai cũng có lãi mà sẽ có một số thương nhân thua lỗ, phá sản. Trong thần thoại Hy
Lạp, tác phẩm I-li-át và Ô-đi-xê cũng cho thấy hoạt động kinh doanh sầm uất ở
thành Tơ-roa và có phá sản. Trong các chuyện cổ tích của nhiều dân tộc trên thế
giới ta vẫn thấy có những nhân vật đi bn bán, khi đồn thương thuyền bị bão
tố đánh chìm và trắng tay, lâm vào cảnh nợ nần và phải chịu những hình thức
trừng trị của các chủ nợ vì khơng trả được các khoản nợ. Khi xã hội chuyển sang
thời kỳ tư bản chủ nghĩa, sản xuất phát triển, hàng hóa dồi dào, các hoạt động
kinh doanh thương mại sôi động với sự cạnh tranh khốc liệt thì phá sản trở thành
một hiện tượng phổ biến.
10
Như vậy, phá sản không phải là một sản phẩm chỉ có ở nền kinh tế thị trường
mà là một bộ phận trong hoạt động kinh doanh vì nó có từ khi lồi người có hoạt
động kinh doanh và nó chỉ trở thành hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế thị
trường. Nói cách khác, hiện tượng phá sản có từ xa xưa, khi loài người biết sản
xuất kinh doanh, không phải là sản phẩm đặc thù của xã hội tư bản, mà thời kỳ
chế độ tư bản xuất hiện với nền kinh tế thị trường, phá sản trở nên phổ biến.
Trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ và xã hội phong kiến, việc các con nợ không
trả được các khoản nợ đến hạn là một điều nhục nhã và bị các chủ nợ cưỡng bức
để trả nợ hoặc bị trừng trị. Vỡ nợ xem như một dạng tội phạm có thể bị phạt tù
thậm chí tử hình. Sau cách mạng tư sản Anh, Luật Phá sản năm 1705 ra đời lần
đầu tiên quy định việc xóa nợ cho con nợ sau khi tuyên bố phá sản và chỉ áp
dụng đối với thương nhân nhưng con nợ có thể bị cầm tù và đến cuối thế kỷ
XIX, việc cầm tù con nợ mới bị xóa bỏ. Xã hội lồi người càng phát triển, pháp
luật về phá sản càng trở nên quan trọng hơn trên các khía cạnh xã hội, đạo đức
và chính trị hơn là việc chỉ tối đa hóa, bằng mọi giá thanh toán cho các chủ nợ.
Sau cách mạng tư sản Pháp, hàng loạt các khái niệm mới ra đời như quyền tự
do, quyền con người … được ghi nhận. “Con người sinh ra có quyền sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; Để sống, con người phải có quyền
ăn uống hít thở, có quyền có nhà cư trú, phải có quyền lao động, quyền học tập
và quyền vui chơi giải trí; quyền tự do là khi con người thực hiện quyền sống,
quyền mưu cầu hạnh phúc cho bản thân mình mà khơng vi phạm quyền của
những người khác; Quyền mưu cầu hạnh phúc là khi con người sống ln có nhu
cầu phát triển để sống tốt hơn, ăn ngon hơn, mặc đẹp hơn, nhà cửa khang trang
hơn…v…v… Chính do thực hiện quyền mưu cầu hạnh phúc, cơng dân mới kinh
doanh để tìm kiếm lợi nhuận và khi kinh doanh, họ thực hiện quyền tự do kinh
11
doanh của họ. Như vậy, quyền tự do kinh doanh là một nội hàm của quyền con
người được nhà nước pháp quyền đề cao, tôn trọng và bảo vệ.
Với tư cách là một quyền cơ bản của công dân, là nội hàm của quyền con
người, quyền tự do kinh doanh gồm nhiều bộ phận cấu thành như quyền tự do
thành lập doanh nghiệp, quyền tự do quyết định ngành nghề, quyền tự do lựa
chọn quy mô kinh doanh, quyền tự do thiết lập các quan hệ kinh tế, quyền tự do
lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp, quyền tự do định đoạt các vấn đề phát
sinh trong khi hành nghề…v…v...Theo lơgíc ấy, việc một doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh gặp rủi ro thua lỗ có quyền rút lui khỏi thương trường sau khi
hoàn tất các khoản nghĩa vụ nào đó để bảo đảm các quyền và lợi ích của những
đối tác và các chủ thể liên quan. Sau khi rút khỏi thương trường bằng tuyên bố
phá sản, các doanh nhân ấy vẫn có quyền kinh doanh để gia nhập thương trường,
có quyền có sự khởi đầu mới , hình thành doanh nghiệp mới.
Trong nền kinh tế tri thức và thời đại kỹ thuật số hiện nay, nhiều giá trị cũ bị
phá hủy để nhường chỗ cho cái mới là hiện tượng rất bình thường. Xét về khoa
học kinh tế, theo quy luật cạnh tranh, thị trường buộc các xí nghiệp khơng ngừng
canh tân đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm
và đương đầu với áp lực địi tăng lương; và xí nghiệp, cơng ty nào làm tốt việc
này có thể đẩy các xí nghiệp, cơng ty đối thủ có kỹ thuật lạc hậu, phục vụ người
tiêu dùng không tốt đến nguy cơ phá sản hoặc phá sản. Ngay từ năm 1930, giáo
sư Joseph Schumpeter (1883-1950), là nhà kinh tế học và chính trị học người Áo
đưa ra một phân biệt nền tảng giữa phát minh khoa học và canh tân kỹ thuật và
viết cuốn “ Phát triển kinh tế và khủng hoảng kinh tế” năm 1942 để làm rõ hơn.
Theo ông, phát minh khoa học thuộc lãnh vực lý thuyết và rất có thể mn đời
vẫn tồn tại ở dạng lý thuyết đó; trong khi, canh tân kỹ thuật là một hiện tượng
12
kinh tế-kỹ thuật, chủ yếu áp dụng phát minh khoa học vào thực tiễn cuộc sống để
đưa ra những phương pháp, dụng cụ, máy móc và mơ hình sản xuất độc đáo.
Ông cho rằng, mỗi canh tân kỹ thuật là một “đứt quãng-tiếp nối”: vừa tiếp nối
những thành tựu trong q khứ vừa triệt để vượt qua những mơ hình cũ để đưa ra
những thay đổi quan trọng trong hệ thống kinh tế nói riêng và đời sống nhân loại
nói chung. Nhờ canh tân kỹ thuật, các doanh nghiệp cải tiến sản phẩm cũ hoặc
chế tạo sản phẩm mới tốt, đẹp, rẻ hơn, phục vụ người tiêu dùng tốt hơn, xã hội
càng văn minh hơn. Tiến trình canh tân kỹ thuật này mang tính khơng thể phục
hồi và được kiện tồn với thời gian. Tuy nhiên, đây khơng phải là một q trình
thẳng tắp và êm ái mà ln có những bất trắc và rủi ro. Bên cạnh những doanh
nghiệp thành cơng cũng có những doanh nghiệp phải trắng tay và làm lại cuộc
đời nhiều lần, nhưng từ đống tro tàn của thất bại và đổ vỡ sẽ nảy sinh một cuộc
canh tân độc đáo khác. Ông diễn tả những hy vọng cũ và giá trị cũ hoàn toàn bị
phá hủy để nhường chỗ cho cái mới bằng thuật ngữ “phá hủy sáng tạo”. Kinh tế
thị trường đóng vai trị quan trọng trong việc canh tân và phát triển kỹ thuật. Khi
một doanh nghiệp thực hiện tốt canh tân kỹ thuật sẽ đẩy các doanh nghiệp khác
kinh doanh cùng lãnh vực đến nguy cơ phá sản hoặc phá sản. Các doanh nghiệp
này, dưới áp lực cạnh tranh, buộc phải biết sử dụng có hiệu quả ngun liệu,
giảm chi phí bất hợp lý để giảm giá thành sản phẩm và tăng lợi nhuận tối đa.
Một hậu quả của cuộc cạnh tranh này là hạ giá thành và quần chúng nhân dân
được phục vụ tốt nhất. Như vậy, phá sản doanh nghiệp là hiện tượng bình thường
của nền kinh tế thị trường và có vai trị thúc đẩy phát triển kinh tế, là sự loại bỏ
những giá trị cũ để thay bằng những giá trị mới trong cuộc chạy đua kinh tế.
(nguồn: www.kinhtehoc.com/index.phf)
13
Chính từ quan niệm như vậy về phá sản, giới chuyên môn coi Luật Phá sản
là một phương tiện giúp các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ rút ra khỏi thương
trường, hạn chế những thiệt hại cho các chủ nợ, người lao động và cho chủ
doanh nghiệp phá sản ấy có một cuộc khởi đầu mới. Tiến sĩ Lê Đăng Doanh
cho rằng, lợi thế lớn nhất khi vào WTO là mọi doanh nghiệp đều phải cạnh
tranh, coi cạnh tranh là nguyên lý, là lẽ sống. Cạnh tranh có thể dẫn đến phá sản
một số doanh nghiệp song vai trò của phá sản là sáng tạo, bởi vì phá sản khơng
như cháy nhà hay lũ lụt, phá sản doanh nghiệp thì người lao động và máy móc
vẫn cịn, chỉ có ơng chủ, người quản lý phải thay đổi mới. Phá sản là một sự
sàng lọc khắc nghiệt nhưng có vai trị làm lành mạnh nền kinh tế. (Nguồn:
www.tbtvn. org/ default.asp)
Khái niệm phá sản được luật pháp nhiều nước hiểu là: Vụ kiện theo luật phá
sản để giúp người mắc nợ giải quyết khoản nợ không thể khắc phục được. Tài
sản của người phá sản được phân phối bởi tòa án cho những người chủ nợ theo
sự thỏa mãn hoàn toàn về các khoản nợ, theo các ưu tiên và biệt lệ nhất định. Sự
phá sản tự nguyện là do người mắc nợ thỉnh cầu; không tự nguyện là do các chủ
nợ yêu cầu. Ở Việt Nam, phá sản là một quá trình bao gồm hai thủ tục chính :
Tái cơ cấu lại doanh nghiệp mắc nợ để phục hồi hoạt động kinh doanh và thanh
lý tài sản. Phục hồi kinh doanh về bản chất là quá trình thỏa thuận giữa doanh
nghiệp mắc nợ và chủ nợ nhằm tái cơ cấu lại doanh nghiệp mắc nợ và lập kế
hoạch trả nợ phù hợp. Việc tái cơ cấu này có thể làm cho thay đổi bộ máy quản
lý, điều hành doanh nghiệp mắc nợ. Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh cho
phép doanh nghiệp tạm thời thoát khỏi sức ép trả nợ, có cơ hội tiếp tục kinh
doanh. Ở các nước có nền kinh tế phát triển ở Châu Âu và Bắc Mỹ, thủ tục này
được đề cao. Nhất là ở Mỹ, thủ tục phục hồi kinh doanh được gọi là Bảo hộ phá
14
sản vì doanh nghiệp đang tiến hành thủ tục này được nhà nước ưu đãi đặc biệt và
bảo vệ để có nhiều cơ hội phục hồi kinh doanh.
Tạo ra và giữ vững môi trường kinh doanh thân thiện là một chức năng quan
trọng của Nhà nước để phát triển kinh tế xã hội. Do vậy, tất cả những vấn đề liên
quan đến phá sản đều được Nhà nước điều chỉnh, ghi nhận vào trong các văn bản
quy phạm pháp luật. Chẳng hạn như điều kiện gì, thời điểm nào một doanh
nghiệp bị coi là lâm vào tình trạng phá sản, thủ tục phục hồi kinh doanh ra sao, ai
có quyền tuyên bố phá sản, ai quản lý tài sản còn lại của doanh nghiệp mắc nợ,
tài sản ấy còn lại những gì, việc thanh tốn tài sản ấy theo thứ tự nào, ai được ưu
tiên…v…v…Tất cả những văn bản quy phạm pháp luật này hợp thành một lãnh
vực gọi là pháp luật về phá sản trong đó, nịng cốt là Luật Phá sản.
1.1.2. Kinh nghiệm phá sản và luật phá sản ở một số quốc gia trên thế giới:
Khi phá sản là một bộ phận cấu thành của hoạt động kinh doanh trong những
điều kiện nhất định, chúng ta thấy rằng, dù có luật phá sản hay khơng có luật phá
sản thì trên thực tế, có hoạt động kinh doanh là có cạnh tranh, có sự phát triển và
có phá sản các đơn vị kinh doanh.
Khi đã có luật về phá sản, nếu luật không phản ánh được thực tế của hoạt động
kinh doanh, không phục vụ và đáp ứng cho sự phát triển kinh tế thì luật ấy sẽ
khơng có giá trị thực tiễn và người dân trong xã hội vẫn áp dụng theo những
cách thức nào đó mà tự họ cho là tối ưu. Cho nên, các nhà soạn thảo luật cần tìm
hiểu trên thực tiễn ấy để đề vào trong luật. Từ khi thực thi Luật Phá sản 2004 đến
nay đã chứng tỏ rằng luật vừa không bảo đảm quyền lợi cho người bị điều chỉnh
(không hấp dẫn) vừa không bảo đảm việc thực thi nghĩa vụ (không nghiêm
minh) nên các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh đều tìm các phương cách khác
ngồi Luật Phá sản giải quyết để tự họ bảo vệ quyền lợi cho mình. Luật Phá sản
15
2004 cũng như Luật phá sản doanh ngiệp 1993 của Việt Nam có thể coi như là
những luật điển hình của sự xa rời thực tiễn kinh doanh.
Theo Viện nghiên cứu về phá sản Hoa kỳ, mỗi năm có hơn 1,5 triệu công dân
Mỹ nộp đơn phá sản, mặc dù khơng phải là cách lựa chọn tốt nhất nhưng có thể
xem như một cách lý tưởng để thoát khỏi những khoản nợ nần vây chặt. Đây là
một con số cho chúng ta thấy luật phá sản của Mỹ đã phục vụ cho sự phát triển
kinh tế, đáp ứng được nhu cầu của doanh nhân khi họ tham gia thị trường. Giáo
sư Viện Phá sản Hoa kỳ, Nathalie Martin phát biểu trong hội thảo ngày
08/12/2006 tại Toà án Thành phố Hồ Chí Minh: “Thất bại trong kinh doanh ở
Mỹ khơng bị coi là điều xấu. Trên thực tế, Luật Phá sản của Mỹ được xây dựng
để sao cho những người thất bại trong kinh doanh được khuyến khích theo đuổi
cơng việc kinh doanh của mình. Khả năng có thể bắt đầu lại cơng việc kinh
doanh chính là động lực khiến cho một số người Mỹ sẵn sàng chấp nhận rủi ro
trong kinh doanh và đây là điều có lợi cho nền kinh tế”. Có thể nói rằng nền kinh
tế hùng mạnh như ngày hôm nay, dù lịch sử phát triển khá ngắn từ thời lập quốc
đến nay mới hơn 250 năm, có sự góp phần thúc đẩy tích cực của Luật Phá sản
của họ và các doanh nhân Mỹ có thể tự hào về Luật Phá sản của Mỹ vì họ được
bảo vệ khi rủi ro trong kinh doanh lúc rơi vào tình trạng phá sản.
Ở Trung Quốc ban hành Luật Phá sản năm 2007 có đặc điểm là khi thanh toán
nợ, ưu tiên trả trước cho các chủ nợ, sau đó mới đến người lao động để nhằm
mục đích hỗ trợ vốn kinh doanh trong nền kinh tế (www.vinacity.tv/hn/?page…)
Ở các nước Đơng Âu, sau khi đoạn tuyệt với mơ hình kinh tế kế hoạch tập
trung bao cấp, nhận thấy vai trò thúc đẩy kinh tế của luật về phá sản nên các
quốc gia này ưu tiên cho việc xây dựng luật phá sản. Cụ thể như ở Balan năm
1990, Hungary năm 1991, Cộng hòa Séc và Estonia năm 1992 và ở Cộng hòa
16
Liên Bang Nga năm 1993 ,song, cũng như ở Việt Nam, các bộ luật này có một số
được soạn thảo một cách vội vã với hy vọng chấm dứt sự tồn tại của nhiều doanh
nghiệp nhà nước kinh doanh kém hiệu quả. Trong các bộ luật của các quốc gia
này, Luật Phá sản của Estonia do giáo sư Paul Varul, trường Đại học Tartu soạn
thảo cùng với sự đóng góp và tư vấn rộng rãi của các luật sư Estonia và nước
ngoài. Đặc điểm cơ bản ở đây là sự trung thành với các nguyên tắc về lý luận
trong lập pháp và kinh tế. Thí dụ ngun tắc “ khơng phân biệt đối xử giữa các
chủ thể kinh doanh” thì trong luật , khơng có những quy định nào đặc biệt để áp
dụng cho các công ty là doanh nghiệp nhà nước. Căn cứ vào quyền tự do kinh
doanh, là nội hàm của quyền mưu cầu hạnh phúc, luật này thừa nhận các con nợ
có quyền lựa chọn các thủ tục phá sản. Trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản,
luật đã giảm thiểu tối đa vai trò của các quan chức nhà nước khi trao quyền ra
các quyết định quan trọng cho chủ nợ và người quản lý tài sản độc lập. Tịa án
khơng có quyền lập ra tổ quản lý, thanh lý tài sản như ở Việt Nam. Các tổ chức
này phải độc lập vì quan hệ giữa chủ nợ và con nợ, cho đến giai đoạn này vẫn là
các quan hệ kinh tế. Do đó, khi phân chia tài sản, các chủ nợ khơng hài lịng có
quyền khởi kiện ra tịa án. Mục đích của luật rất rõ ràng khi bảo vệ chủ nợ, giảm
bớt rủi ro thua lỗ cho chủ nợ để thúc đẩy đầu tư kinh doanh phát triển kinh tế.
Luật Phá sản Estonia quy định rằng hầu hết các vụ phá sản sẽ dẫn đến mở thủ
tục thanh lý tài sản, không những vậy, luật còn quy định một chương về vấn đề
thỏa hiệp đơn giản nhưng công bằng làm giải pháp thay thế. Bộ luật cho phép
người quản lý tài sản thanh toán các khoản nợ cho chủ nợ ngay và thúc đẩy sớm
việc thanh toán này cho chủ nợ là những người thân cận của con nợ như bà con,
họ hàng, đối tác tin cậy…. Các chủ nợ và con nợ lập kế hoạch hịa giải và kế
hoạch này sẽ có hiệu lực thi hành nếu được các chủ nợ biểu quyết thông qua (đại
17
diện cho 2/3 khoản nợ khơng bảo đảm có khiếu kiện hoặc ¾ khơng bảo đảm có
khiếu kiện nhưng được thanh tốn chưa đến ½ khoản nợ khiếu kiện của mình).
Vai trị của Tịa án ở đây là có quyền ra phán quyết bác bỏ thỏa hiệp khi có căn
cứ về việc gian lận hoặc thiên vị cho chủ nợ nào đó. Đánh giá về luật Phá sản
của Estonia, có người cho rằng nó khiến việc phá sản trở nên quá dễ dàng để dễ
lợi dụng làm công cụ ép buộc của các chủ nợ cá nhân đối với bên mắc nợ có khả
năng thanh tốn nhưng về thực tiễn cũng như sự hợp lý về mặt lý luận, luật này
đã bảo đảm hồn thành đúng vai trị của nó trong việc góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế. Có thể cho rằng, luật Phá sản Estonia tạo ra chuẩn mực cho việc cải
cách hoàn thiện luật về phá sản của các quốc gia chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường trong đó có Việt Nam.
1.2. PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM VỚI NHU CẦU
ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN
1.2.1. Khái lược về pháp luật phá sản ở Việt Nam
Trong huyền sử thời các Vua Hùng, hình tượng doanh nhân rất được tơn
trọng qua chuyện cổ tích Chử Đồng Tử và Tiên Dung nhưng xã hội truyền thống
Việt Nam được xây dựng trên nền tảng “nông vi bản”, là một đất nước chú trọng
nơng nghiệp, ít chú trọng đến sản xuất và kinh doanh. Khi phong kiến Trung
Hoa đô hộ và du nhập hệ tư tưởng Nho giáo vào Việt Nam thành hệ thống giá trị
xã hội “ trọng nơng ức thương” thì doanh nhân khơng những bị xếp ở cuối bảng
mà còn bị pháp luật ức chế và xã hội khinh bỉ. Cho nên, khi doanh nhân bị rủi ro
trong kinh doanh và phá sản thường bị các chủ nợ đánh đập rất nặng nề và bị
cưỡng bức làm thuê để trả nợ hoặc phải “đào trái tha hương”, bỏ xứ sở quê
hương đi trốn nợ. Pháp luật về phá sản trong thời kỳ phong kiến Việt Nam được
thực hiện dưới dạng tập quán. Các quan lại phong kiến coi việc các chủ nợ đánh
18
đập con nợ, cưỡng bức con nợ bị phá sản phải làm việc cho họ là một lẽ đương
nhiên.
Thời kỳ phong kiến, trong các bộ luật cổ khơng có các quy phạm pháp luật về
phá sản, vì quan điểm miệt thị tầng lớp doanh nhân nhưng giải quyết phá sản
theo tập quán vẫn diễn ra sôi động. Trong các sách cổ như Đại Việt Sử Ký Tồn
Thư, An Nam chí lược…v…v… có ghi chuyện thời nhà Trần, Nhân Huệ Vương
Trần Khánh Dư là phó tướng Vân Đồn dùng quyền lực quân đội để cạnh tranh
trong việc bán nón ở địa phương này. “ Khánh Dư điểm duyệt quân các trang, hạ
lệnh rằng:“Quân đóng ở Vân Đồn là để ngăn giữ giặc Hồ, khơng nên đội nón của
phương Bắc, trong khi vội vàng khó lịng phân biệt; nên đội nón Ma Lôi (Ma Lôi
là tên một hương ở Hồng Lộ, làng này khéo nghề đan cật tre làm nón nên lấy tên
làng làm nón), ai trái thế tất phải phạt.” Mà Khánh Dư đã sai người nhà mua nón
Ma Lơi từ trước, chở thuyền đến đậu ở trong cảng rồi….”.(Đại Việt Sử Ký tồn
thư, Nxb văn hóa Thơng tin năm 2004 quyển 1 trang 520) Vừa đầu cơ vừa độc
quyền và dùng quyền lực quân đội ép người tiêu dùng mua nón của mình, Trần
Khánh Dư đã làm cho khá nhiều thương nhân mua bán nón phương bắc lâm vào
cảnh phá sản và đẩy giá nón Ma Lơi lên rất cao, người tiêu dùng vẫn phải mua.
Người bị phá sản không trả được nợ bị cưỡng bức làm trả nợ hoặc bỏ trốn tha
hương nên có câu thơ được lưu truyền về Trần Khánh Dư: “ Vân Đồn kê khuyển
diệc giai kinh” nghĩa là gà chó Vân Đồn đều sợ những thủ đoạn của ơng.
Đời Nhà Lê, trong Lê Triều Hình Luật khơng có quan niệm về phá sản nhưng
quy định rõ về dấu hiệu là không trả được nợ khi đến hạn tại điều 588: “mắc nợ
khi đến hạn mà khơng trả thì xử trượng, tuỳ nặng nhẹ, nếu con nợ nhất quyết
khơng trả thì xử biếm hai tư, đền gấp hai”. Trong Hoàng Việt Luật Lệ đời Gia
Long cũng trừng trị con nợ không trả được nợ đến hạn. Tuy nhiên, dưới góc độ
19
Nho giáo đây là sự trừng trị hành vi bội tín nhiều hơn là khẳng định dấu hiệu phá
sản vì tầng lớp doanh nhân vẫn chưa được chính thức có vai vế trong xã hội.
Trước năm 1945, trong thời kỳ Đơng Dương thuộc Pháp, miền Bắc khơng có
pháp luật về phá sản vì miền Bắc (lúc này gọi là Bắc Phần) là chế độ phong kiến
dưới sự bảo hộ của Thực dân Pháp, còn ở miền Nam (gọi là Nam Phần) là chế độ
thuộc địa nên áp dụng Luật Phá sản của Cộng hòa Pháp. Ở miền Trung theo chế
độ tự trị, pháp luật về phá sản thể hiện trong Bộ luật Thương Mại Trung Phần
năm 1942 với thuật ngữ “khánh tận” để chỉ tình trạng mất khả năng thanh tốn
của thương nhân. Trong chế độ Việt Nam Cộng hịa ở miền Nam Việt Nam,
quan điểm về phá sản được các nhà lập pháp đưa vào trong Bộ luật Thương mại
Sài gòn năm 1972 ban hành kèm sắc luật số 029/TT-SLU ngày 20/12/1972. Còn
tại Miền Bắc, từ năm 1954 đến năm 1975, và sau khi đất nước thống nhất năm
1975, thiết lập nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp khơng có phá sản và
pháp luật về phá sản chính bởi vì nền kinh tế này khơng có hoạt động kinh doanh
thương mại mà chỉ có hoạt động phân phối những sản phẩm làm ra theo kế
hoạch của Nhà nước. Cũng như Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây
áp dụng mơ hình kinh tế đặc trưng là thừa nhận nguyên tắc nhà nước lãnh đạo
nền kinh tế, chỉ chấp nhận hai hình thức sở hữu về tài sản là sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể (Điều 18, điều 23, điều 26 Hiến pháp 1980), thậm chí, khơng chấp
nhận quyền tự do kinh doanh của công dân qua việc khẳng định sự độc quyền
ngoại thương của nhà nước (Điều 21 Hiến pháp 1980), thiết lập một hệ thống
phân phối các sản phẩm tiêu dùng theo cơ chế bao cấp và cấm đoán các hình
thức sản xuất kinh doanh khác của cơng dân (Điều 24, điều 25 Hiến Pháp 1980).
Nếu trong thời kỳ phong kiến doanh nhân thường bị miệt thị là “bọn con bn”
thì trong thời kỳ này, họ bị hạ thấp phẩm giá hơn nữa để bị gọi là “bọn con phe”,
20
thuộc giai cấp tư sản và bị xóa bỏ bằng “ cải tạo công thương nghiệp tư bản tư
doanh” và bị quy chụp trách nhiệm với quan điểm họ chính là tầng lớp ăn bám,
lừa đảo, không lao động và làm cho xã hội bất cơng, nghèo đói và lạc hậu. Cụ
thể như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là tư sản mại bản, doanh nghiệp
sản xuất lớn trong nước khơng có vốn nước ngồi là tư sản dân tộc, doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ là tư sản thương nghiệp; và họ
đều bị xóa bỏ dưới nhiều hình thức khác nhau. Khi xóa bỏ tầng lớp thương nhân,
xóa bỏ các hình thức sở hữu tài sản khác để chỉ thừa nhận có hai hình thức sở
hữu tồn dân và sở hữu tập thể, xóa bỏ quyền tự do kinh doanh để mưu cầu hạnh
phúc của con người, tức là khơng có đầy đủ các tiền đề kinh tế pháp lý để cá
nhân có thể kinh doanh và hoạt động cạnh tranh theo quy luật kinh tế trên thương
trường. Các đơn vị sản xuất kinh tế đều thuộc Nhà nước và gọi là các cơ quan, xí
nghiệp, nhà máy, cơng ty; khơng gọi là các doanh nghiệp và Nhà nước điều hành
chỉ đạo tất cả hoạt động của nó. Tình trạng mua bán hàng hóa theo giá quy định
của Ủy ban Vật giá Nhà nước không theo giá trị thật, thường dẫn đến các đơn vị
sản xuất này thua lỗ. Khi thua lỗ, Nhà nước điều tiết bằng cách bù lỗ từ ngân
sách quốc gia để các đơn vị kinh tế tiếp tục tồn tại hoặc chấm dứt sự tồn tại của
nó bằng cách ra quyết định giải thể. Cho nên, thời kỳ kinh tế tập trung kế hoạch
hóa và bao cấp này khơng có khái niệm phá sản và pháp luật về phá sản mà chỉ
có các quy định pháp luật về giải thể các đơn vị kinh tế của nhà nước.
Kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 khẳng định đổi mới, phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần, cá nhân các công dân được quyền kinh doanh nhưng
khái niệm về phá sản vẫn chưa hình thành trong các văn bản pháp luật về kinh tế.
Mãi đến năm 1990, thuật ngữ “phá sản” mới được sử dụng trong 02 văn bản
pháp lý quan trọng là Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty (ban hành
21
cùng ngày 21/12/1990). Trong điều 24 Luật Công ty: “Công ty gặp khó khăn
hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh đến mức, tại một thời điểm, tổng trị
giá các tài sản cịn lại của cơng ty khơng đủ thanh toán các khoản nợ đến hạn, là
doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản”. Điều 17, Luật Doanh nghiệp tư
nhân cũng đưa ra khái niệm tương tự. Ba năm sau, năm 1993, Luật phá sản
doanh nghiệp mới ra đời (Quốc hội thơng qua ngày 30/12/1993 và có hiệu lực
ngày 01/7/1994) và cách hiểu về phá sản được hoàn thiện hơn một bước, trong
đó, khơng chỉ đưa ra khái niệm về tình trạng phá sản mà cịn quy định nhiều vấn
đề liên quan đến giải quyết một vụ phá sản cụ thể. Đến cuối năm 1994, một số
văn bản hướng dẫn thi hành mới ban hành để triển khai Luật phá sản doanh
nghiệp trên thực tế. Trải qua gần 10 năm áp dụng, luật này đã chứng tỏ “độ
vênh” quá lớn so với thực tiễn kinh tế ở Việt Nam dù đã được khá nhiều nhà
khoa học chuyên về pháp lý cảnh báo. Cho nên, để đáp ứng được nhu cầu phát
triển kinh tế thị trường, các nhà soạn thảo, các nhà lập pháp cho ra đời Luật Phá
sản năm 2004 mong muốn luật này làm tốt vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế xã
hội.
1.2.2. Vai trò của pháp luật về phá sản trong phát triển kinh tế thị trường
Pháp luật phá sản có vai trị rất quan trọng trong đời sống kinh tế của mỗi
chế độ xã hội. Nhu cầu điều chỉnh pháp luật phá sản là nhu cầu tất yếu của sự
phát triển kinh tế thị trường và pháp luật phá sản Việt Nam cũng không ra ngồi
thơng lệ ấy. Nghĩa là để bảo đảm thực hiện, pháp luật phá sản Việt Nam phải thể
hiện trong các quy định những nội dung chủ yếu sau :
* Pháp luật phá sản là công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ nợ, đảm bảo việc địi nợ được trật tự : Trong q trình kinh doanh, việc
mua bán hàng trả chậm, chiếm dụng vốn và nợ nần lẫn nhau là chuyện bình
22
thường giữa các doanh nghiệp và việc địi nợ có nhiều hình thức khác nhau. Tuy
nhiên, khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, cơ chế địi nợ thơng qua thủ
tục phá sản được đảm bảo bằng việc Tòa án có thể tuyên bố chấm dứt sự tồn tại
của doanh nghiệp, bán tồn bộ tài sản doanh nghiệp đó và thanh tốn một cách
có trật tự cho các chủ nợ hoặc trong thủ tục phá sản tái cơ cấu doanh nghiệp, các
chủ nợ cùng tham gia vào việc phục hồi kinh doanh giúp doanh nghiệp lên kế
hoạch trả nợ. Như vậy, thông qua pháp luật về phá sản, các chủ nợ sẽ được tham
gia vào quá trình phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mắc nợ và
khi không thể phục hồi được, các chủ nợ được tham gia vào quá trình thu hồi và
phát mại tài sản của doanh nghiệp để tối đa hóa tài sản phá sản của doanh
nghiệp.
* Pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích con nợ, cho con nợ rút khỏi thị trường và
có được sự khởi đầu mới : Hoạt động kinh doanh là loại hoạt động chứa trong
nó rất nhiều rủi ro. Thị trường luôn chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khách
quan nên biến động khó lường. Cho nên, việc kinh doanh thua lỗ, không trả được
các khoản nợ đến hạn có thể xảy ra với bất kỳ nhà kinh doanh nào trong bất kỳ
lúc nào. Thí dụ doanh nghiệp Trách nhiệm hữu hạn kinh doanh cơm gà Hải Nam
bỗng gặp phải dịch bệnh cúm gà làm cho khơng có khách trong khi vay mượn
vốn dự trữ gà đông lạnh nhiều và đầu tư khá nhiều vào trại gà…v…v…Khi
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, vấn đề đầu tiên để bảo vệ con nợ là tìm
cách giúp đỡ họ thốt khỏi cảnh khó khăn. Do vậy, pháp luật về phá sản của khá
nhiều nước trên thế giới đều có quy định nhiều hình thức phục hồi kinh doanh
khác nhau để các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản tự do lựa chọn.
Cùng với chế độ trách nhiệm hữu hạn, pháp luật về phá sản phải tạo được
niềm tin về sự an toàn cho các nhà đầu tư khi tham gia thị trường.
23
* Pháp luật phá sản góp phần bảo vệ quyền lợi của người lao động: Người
lao động là đối tượng chịu thiệt thòi nhất từ việc phá sản doanh nghiệp do doanh
nghiệp phá sản đồng nghĩa với việc họ bị mất việc làm, thậm chí doanh nghiệp
khơng cịn tiền để trả lương cho họ. Cho nên, cơ chế phục hồi doanh nghiệp
được ghi nhận trong pháp luật tạo cơ hội cho doanh nghiệp đồng thời cũng nhằm
cứu người lao động thốt khỏi tình trạng thất nghiệp. Tuy nhiên, khi doanh
nghiệp không thể phục hồi kinh doanh được và phải tuyên bố phá sản thì người
lao động đã làm việc mà không được trả lương trong thời gian dài nên trong
pháp luật phá sản, để bảo vệ lợi ích của người lao động, thường ưu tiên thanh
toán nợ lương và các khoản tiền hợp pháp khác mà họ được hưởng trước khi
thanh tốn các khoản nợ thơng thường khác.
* Pháp luật phá sản góp phần bảo đảm trật tự và an tồn xã hội : Trong
kinh doanh, lúc khơng trả được các khoản nợ đến hạn thì thơng thường, con nợ
khơng phải chỉ có một chủ nợ mà có khá nhiều chủ nợ. Nếu chỉ có một chủ nợ,
con nợ có thể đáo nợ, gán nợ, khất nợ…v…v…và có thể dùng các thao tác tài
chính khác để khắc phục. Do vậy, khi lâm vào tình trạng phá sản, con nợ thường
có rất nhiều chủ nợ và nếu tài sản còn quá ít thì việc các chủ nợ tranh giành nhau
tài sản của con nợ là tất yếu. Xã hội sẽ mất trật tự và xung đột có thể có tính
manh động xảy ra khi các chủ nợ tùy nghi “xâu xé” con nợ. Vì vậy, thủ tục pháp
lý về phá sản là một công cụ hữu hiệu cho người dân sống và làm việc tuân theo
pháp luật, tránh tình trạng “ mạnh ai nấy được” theo kiểu “xiết nợ” thông thường
của một số chủ nợ thiếu văn minh trong xã hội.
* Pháp luật về phá sản góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế : Những doanh
nghiệp kinh doanh thua lỗ do chậm đổi mới công nghệ, phục vụ người tiêu dùng
kém nên pháp luật phá sản là công cụ hữu hiệu, là cơ sở pháp lý để xóa bỏ các
24
doanh nghiệp này, tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh cho các nhà đầu tư.
Cho nên, pháp luật phá sản phải đơn giản hóa các thủ tục cho các doanh nghiệp
làm ăn thua lỗ được tuyên bố phá sản. Nói cách khác, các doanh nghiệp “đã chết
phải được chơn cất nhanh chóng”, khơng để kéo dài thì pháp luật phá sản mới
phát huy được vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo môi trường kinh doanh lành
mạnh. Mặt khác, pháp luật phá sản phải bảo vệ đươc những nhà đầu tư, những
doanh nhân kém may mắn để cho tài sản của họ bị lụn bại, doanh nghiệp thua lỗ.
Kinh doanh là một nghề đầy rủi ro nhưng một xã hội khơng có kinh doanh là một
xã hội khơng tưởng, là kéo lùi lịch sử và sẽ diệt vong và phải đổi mới để tồn tại
và phát triển. Pháp luật phá sản phải khuyến khích được nhà đầu tư chấp nhận
rủi ro để làm giàu nên phải bảo vệ họ ngay cả khi họ rơi vào tình trạng phá sản.
Xét về góc độ triết học, có hình thành vận động và phát triển thì cũng sẽ có tiêu
vong nên phá sản không bao giờ được coi là điều xấu khi thất bại trong kinh
doanh. Sự gian trá trong kinh doanh mới bị coi là điều xấu và bị luật hình sự điều
chỉnh, cịn rủi ro trong kinh doanh dẫn đến thương nhân thất bại trên thương
trường là việc mà luật về phá sản cần bảo vệ họ. Đứng ở góc độ vai trị thúc đẩy
phát triển kinh tế, ta thấy Luật Phá sản của Mỹ là một điển hình. Ở các quốc gia
có nền kinh tế kém phát triển vẫn thường coi thất bại trong kinh doanh như một
hành vi phạm pháp, xem các doanh nhân này như kẻ tội đồ và trừng phạt răn đe
họ bằng Luật Phá sản, làm cho họ sợ hãi và tước đoạt quyền kinh doanh của họ
khi có những điều luật cấm họ kinh doanh một thời gian sau khi họ bị phá sản
doanh nghiệp. Như vậy, pháp luật về phá sản, nếu thể hiện tính nhân đạo và phù
hợp về lý luận trong quan điểm phát triển kinh tế và thực tiễn sẽ có vai trị tích
cực thúc đẩy phát triển kinh tế, còn nếu mang nặng quan điểm lạc hậu và để
25
“đánh người ngã ngựa” thì pháp luật phá sản sẽ có tác dụng kìm hãm sự phát
triển kinh tế xã hội.
1.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẢM BẢO PHÁP LÝ CHO VIỆC GIẢI QUYẾT PHÁ
SẢN TRONG LUẬT PHÁ SẢN 2004
1.3.1. Đối tượng áp dụng của Luật Phá sản :
Tại khoản 1,điều 2, Luật Phá sản quy định: “Luật này áp dụng đối với
doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
gọi chung là hợp tác xã) được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp
luật.” Căn cứ vào quy định này, ta thấy luật phá sản đã loại trừ hộ kinh doanh cá
thể, các thương nhân kinh doanh độc lập theo Luật Thương mại. Để lý giải về
điều này, một số người đưa ra lập luận do Nhà nước chủ trương coi trọng các
doanh nghiệp vì có hoạt động nhiều lãnh vực nghành nghề, có vốn và quy mơ
lớn nên không cần điều chỉnh đối tượng hộ kinh doanh cá thể và thương nhân.
Mặt khác, quy định trên trong Luật Phá sản cho thấy bằng phương pháp liệt kê
hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã bên cạnh doanh nghiệp là có sự phân biệt hai
khái niệm về đơn vị kinh tế khác nhau, có hoạt động kinh doanh khác nhau. Nói
cách khác, mặc dù các hình thức như cơng ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân,
công ty trách nhiệm hữu hạn…v..v..và hợp tác xã có những sự khác nhau về góp
vốn, thành lập, điều hành, quản lý, phân chia lợi nhuận, nhưng xét về bản chất
với các hoạt động kinh doanh thì tất cả đều là loại hình doanh nghiệp. Hợp tác xã
có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của một doanh nghiệp như nghĩa vụ đăng ký
kinh doanh, quyền ký kết các hợp đồng dân sự và kinh tế, nghĩa vụ đóng thuế,
…v..v..và các quyền khác mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng thực hiện.
1.3.2. Dấu hiệu doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản