Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Nhiệm vụ, quyền hạn của tòa án trong thi hành án hình sự ở việt nam (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (799.4 KB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ BÍCH TUYỀN

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA TỊA ÁN
TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ BÍCH TUYỀN

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA TỊA ÁN
TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Duy Hưng

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013



LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu độc lập, bằng công sức
của bản thân với sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn. Những thông tin, dữ
liệu, số liệu tôi đưa ra trong luận văn được trích dẫn rõ ràng, đầy đủ về nguồn
gốc.

Lê Thị Bích Tuyền


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ NHIỆM VỤ,
QUYỀN HẠN CỦA TÒA ÁN TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ Ở
VIỆT NAM....................................................................................................... 7
1.1. Một số khái niệm ..................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm về thi hành án hình sự .............................................................7
1.1.2. Khái niệm nhiệm vụ ............................................................................ 9
1.1.3. Khái niệm quyền hạn ........................................................................ 10
1.1.4. Phân biệt nhiệm vụ với quyền hạn .........................................................11
1.2. Vai trị, vị trí của Tịa án trong thi hành án hình sự tại Việt Nam .........13
1.3. Khái quát về pháp luật thi hành án hình sự trước khi có Luật thi hành
án hình sự.............................................................................................................16
1.3.1. Trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 ..........................16
1.3.2. Trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và Pháp lệnh thi hành án phạt
tù .......................................................................................................................16
1.4. Pháp luật thực định về nhiệm vụ, quyền hạn của Tịa án trong thi hành
án hình sự.............................................................................................................19
1.4.1. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ............................19

1.4.2. Theo luật thi hành án hình sự .................................................................40

CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN VẾ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
CỦA TÒA ÁN TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM VÀ
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CƠNG TÁC THI HÀNH ÁN
HÌNH SỰ ........................................................................................................ 45
2.1. Thực tiễn thực hiện, nhiệm vụ và quyền hạn của Tịa án trong thi hành
án hình sự.............................................................................................................45
2.1.1. Thời hiệu thi hành án..............................................................................50
2.1.2. Trong việc ra quyết định thi hành án hình sự ........................................52


2.1.3. Trong việc xét giảm thi hành án hình sự ................................................54
2.1.4. Trong việc ra quyết định miễn chấp hành hình phạt ..............................58
2.1.5. Ra quyết định rút ngắn thời gian thử thách của án treo ........................60
2.1.6. Vấn đề ủy thác thi hành án hình sự ........................................................61
2.1.7. Ra quyết định hỗn chấp hành, tạm đình chỉ thi hành án ......................64
2.1.8. Đình chỉ thi hành án ...............................................................................66
2.1.9. Thi hành án tử hình ................................................................................67
2.2. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn
của Tòa án trong thi hành án hình sự ...............................................................69
2.2.1. Kiến nghị hồn thiện pháp luật ..............................................................70

KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Xét xử là nhiệm vụ trọng tâm của ngành Tòa án, xét xử là nhằm đem lại
công bằng xã hội, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Đảng và
Bác Hồ đã chọn, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị xâm phạm một
cách bất hợp pháp. Xét xử công bằng, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không làm oan người vô tội là một yêu cầu không thể thiếu trong nhiệm vụ
của ngành Tòa án mà Đảng và nhân dân giao phó. Tịa án thực hiện chức năng
chính là xét xử, ngồi ra Tịa án cịn thực hiện một số chức năng khác, trong
đó có chức năng quản lý hành chính và thi hành án hình sự. Vì vậy, nhiệm vụ
và quyền hạn của Tịa án ln được khẳng định trong cơng tác thi hành án
hình sự.
Để bản án, quyết định của Tịa án có hiệu lực pháp luật được thi hành
trên thực tế thì cơng tác thi hành án hình sự của Tịa án là khơng thể thiếu, nó
phải được thực hiện một cách nghiêm túc để khẳng định giá trị thi hành của
bản án, quyết định của Tòa án và giữ vững kỷ cương pháp luật. Tòa án là chủ
thể đầu tiên trong việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
góp phần cho q trình thi hành án hình sự được nhanh chóng, kịp thời, đúng
pháp luật, giáo dục, cải tạo để người bị kết án trở thành người có ích cho xã
hội. Ngồi ra, khâu thi hành án hình sự tại Tịa án cũng là hoạt động, kiểm
sốt lại những sai sót của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để kiến
nghị khắc phục kịp thời, đảm bảo bản án, quyết định được đưa ra thi hành
đúng quy định. Vì vậy, Tịa án là chủ thể khơng thể thiếu được trong q trình
thi hành án hình sự, pháp luật cần khẳng định đúng về nhiệm vụ, quyền hạn
của Tịa án trong cơng tác này. Từ đó, có những chính sách và những quy
định phù hợp về nhiệm vụ, quyền hạn của Tịa án trong cơng tác thi hành án
hình sự, đặc biệt là trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay lấy Tòa án làm
trung tâm.
Thi hành án hình sự là một q trình khơng thể thiếu trong việc đưa bản
án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được thực thi. Tuy nhiên, việc



2

pháp luật hiện hành quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Tịa án trong cơng tác
thi hành án hình sự ở nước ta còn nhiều bất cập, chưa hợp lý với tiến trình cải
cách tư pháp và chức năng của Tòa án. Chẳng hạn, việc phân định nhiệm vụ
tại bộ phận thi hành án hình sự tại Tịa án các cấp chưa tương xứng với tính
chất cơng việc; khơng được tổ chức thành bộ phận riêng biệt mà thường do
một cán bộ trong mỗi Tòa án kiêm nhiệm và văn bản hướng dẫn thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong thi hành án hình sự cịn hạn chế, cán
bộ phụ trách công tác thi hành án chưa được đào tạo đúng công việc, đồng
thời chưa tổ chức nhiều buổi tập huấn cho cán bộ đảm nhận công việc trên.
Ngồi ra số lượng cán bộ, cơng chức làm cơng tác thi hành án hình sự khơng
tương xứng với khối lượng công việc được giao, thường bị quá tải công việc
nên ít nhiều ảnh hưởng đến quy trình và thời hạn chưa đúng như quy định và
ít nhiều có sai sót trong q trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Bên cạnh đó pháp luật hiện hành quy định chưa chặt chẽ thủ tục ban hành
quyết định thi hành án hình sự mà mới chỉ quy định mang tính chất chung
chung “Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có
hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm,
quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm, Chánh án Tòa án đã xét xử sơ
thẩm phải ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Tòa án khác cùng cấp ra
quyết định thi hành án”1. Thẩm quyền ban hành quyết định thi hành bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật thuộc về Tịa án nhưng cũng khơng thể tránh
khỏi những sai sót trong q trình thực hiện nhiệm vụ của mình và cần có cơ
chế khắc phục những sai sót đó. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật không quy
định một cách chặt chẽ thủ tục xét lại quyết thi hành bản án, quyết định của
Tòa án mà tại mỗi cấp Tòa án tự đề ra cách khắc phục khi phát hiện sai sót
hoặc bị kiến nghị của Viện kiểm sát. Bên cạnh đó, pháp luật quy định Tịa án

là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử, ban hành quyết định thi hành án
hình sự nhưng khơng quy định Tịa án có thẩm quyền kiểm tra giám sát việc
thi hành bản án, quyết định của Tòa án.

1

Khoản 1 Điều 256 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.


3

Từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Nhiệm vụ, quyền hạn
của Tòa án trong thi hành án hình sự ở Việt Nam” để làm Luận văn tốt nghiệp
cho mình
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

“Nhiệm vụ, quyền hạn của Tịa án trong thi hành án hình sự ở Việt
Nam” là một đề tài mới mẽ, chưa có một cơng trình nghiên cứu mang tính
chất tồn diện để thấy được những điểm hợp lý và bất cập của quy định pháp
luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Tịa án trong q trình thi hành án hình sự.
Cho đến nay, qua sự khảo sát của chúng tơi thì chỉ có một số bày viết đơn lẽ
bàn về một số khía cạnh của Tịa án về cơng tác thi hành án hình sự được
đăng trên các tạp chí như Tạp chí Tịa án nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí
nghiên cứu lập pháp,…Điều này làm cho việc nghiên cứu đề tài trên của
chúng tơi sẽ gặp khơng ít khó khăn về nguồn tài liệu. Tuy nhiên, với sự đam
mê nghiên cứu và u thích ngành Tịa án, chúng tơi sẽ tìm tịi, nghiên cứu về
nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án và đưa ra các đề xuất với mong muốn làm
cho Tòa án xứng tầm với cải cách tư pháp và tương xứng với chức năng xét
xử giữ nghiêm kỷ cương xã hội, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án, luận văn
đưa ra các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của Tịa án trong thi
hành án hình sự.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, quy định của pháp luật, luận văn làm rõ
nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong cơng tác thi hành án hình sự. Đồng
thời, từ sự nghiên cứu cũng chỉ ra được những bất cập trong quy định của
pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi hành án hình sự về nhiệm vụ, quyền
hạn của Tịa án trong cơng tác thi hành án. Từ đó đề ra các giải pháp hồn
thiện về nhiệm vụ, quyền hạn của Tịa án. Khẳng định chỉ có Tịa án mới có
thẩm quyền nhân danh Nhà nước để xét xử, là cơ quan thực hiện quyền tư


4

pháp của Nhà nước. Các quyết định của Tòa án phải được chấp hành nghiêm
túc, triệt để nhằm giữ vững nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Việc nghiên cứu đề tài này cịn nhằm góp phần vào việc hồn thiện hơn
về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong thi hành án hình sự ở nước ta, nhất
là trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được các mục đích nêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu như sau:
- Làm rõ về mặt lý luận;
- Phân tích quy định của pháp luật hiện hành;
- Làm rõ thực trạng áp dụng quy định của pháp luật trong thi hành án
hình sự;
- Nghiên cứu đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án hình

sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu về vấn đề nhiệm vụ, quyền hạn của Tịa án trong
cơng tác thi hành án hình sự ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Với đề tài trên chúng tôi tập trung nghiên cứu lý luận về nhiệm vụ,
quyền hạn của Tòa án nhân dân trong thi hành án hình sự ở Việt Nam, khơng
nghiên cứu về Tịa án qn sự.
Phạm vi thời gian: Khảo sát thực trạng về nhiệm vụ, quyền hạn của Tịa
án trong thi hành án hình sự từ năm 2003 đến 2012.
Phạm vi không gian: Khảo sát thực trạng thực hiện thi hành án hình sự
tại tỉnh Long An.


5

5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng là phương pháp
chủ đạo trong nghiên cứu của luận văn. Ngồi ra trong luận văn cịn được sử
dụng các phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê.
6. Ý nghĩa nghiên cứu
6.1. Ý nghĩa khoa học

Luận văn là một cơng trình nghiên cứu tương đối đầy đủ và chuyên sâu
về lý luận cơng tác thi hành án hình sự của Tịa án theo pháp luật tố tụng hình
sự, pháp luật thi hành án hình sự. Có thể nói cơng trình nghiên cứu này của

tác giả có thể cung cấp thêm về mặt lý luận trong việc xây dựng các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành án hình sự trong quá trình cải cách
tư pháp, giải quyết được các vướng mắc của quy định pháp luật về nhiệm vụ,
quyền hạn trong cơng tác thi hành án của Tịa án.
Kết quả luận văn có thể là tư liệu phục vụ cho việc học, nghiên cứu,
giảng dạy pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong thi hành án
hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Cơng trình nghiên cứu về “Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong thi
hành án hình sự ở Việt Nam” cịn có ý nghĩa lớn về mặt thực tiễn, góp phần
giúp cho những người xây dựng pháp luật thấy được những vấn đề cịn thiếu
sót của pháp luật tố tụng hình sự trong việc quy định về nhiệm vụ, quyền hạn
của Tòa án; giúp cho cán bộ trực tiếp làm công tác này và cán bộ chuyên
ngành pháp luật nhất là Thẩm phán, Thư ký, Kiểm sát viên thấy được thẩm
quyền của Tòa án, khẳng định nhiệm vụ của Tịa án trong cơng tác thi hành án
hình sự và làm cho các quyết định của Tịa án đều được mọi người tơn trọng
và thi hành một cách nghiêm túc, triệt để.
Những kiến nghị của luận văn sẽ góp phần tạo nên giá trị tham khảo
quan trọng cho các nhà lập pháp trong việc hoàn thiện các quy định của pháp
luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Tịa án. Từ đó, xã hội có cái nhìn đúng đắn


6

hơn về Tòa án là cơ quan tư pháp và là chủ thể đem lại sự công bằng trong xã
hội, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa.
7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo Luận văn

bao gồm có hai chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận, pháp lý về nhiệm vụ, quyền hạn của
Tòa án trong thi hành án hình sự ở Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong
thi hành án hình sự ở Việt Nam và giải pháp nâng cao hiệu quả cơng tác thi
hành án hình sự.


7

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ NHIỆM VỤ,
QUYỀN HẠN CỦA TÒA ÁN TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ Ở
VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm về thi hành án hình sự

Cơng tác thi hành án vừa là công tác chuyên môn, nghiệp vụ vừa thể
hiện quyền lực Nhà nước. Khi một bản án, quyết định của Tịa án có hiệu lực
pháp luật, bắt buộc phải có sự chấp hành, phối hợp của nhiều chủ thể. Tuy
nhiên sự tác động, điều chỉnh, hướng dẫn hành vi của các chủ thể nhằm
hướng tới mục đích để phán quyết của Tịa án có hiệu lực thực thi trên thực tế,
chính là một trong những yêu cầu của quản lý Nhà nước2.
Hoạt động thi hành án hình sự mang tính đặc thù. Ngồi việc thực hiện
đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình cịn có nhiệm vụ nâng cao tính hiệu quả
của Nhà nước về công tác quản lý thi hành án hình sự, đảm bảo nguyên tắc
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tòa án thực hiện tốt nhiệm vụ trong cơng tác thi
hành án hình sự góp phần nâng cao ý thức pháp luật trong quần chúng nhân
dân. Chính vì vậy việc đảm bảo tính hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa
án là một yêu cầu rất quan trọng.
Có nhiều quan điểm khác nhau về cơng tác thi hành án hình sự, có quan

điểm cho rằng Tịa án không phải là chủ thể chủ yếu trong công tác thi hành
án mà cơng tác thi hành án hình sự là công việc chung của nhiều cơ quan tư
pháp, cũng có quan điểm cho rằng Tịa án giữ vai trị quyết định trong cơng
tác thi hành án hình sự. Về mặt thực tế thì cơng tác thi hành án hình sự hiện
nay do nhiều cơ quan thi hành như Tịa án, Viện kiểm sát, Cơng an và các đơn
vị khác như Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi bị án thường trú, v.v…
Trong các quy định về hệ thống tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan có thẩm quyền thi hành án hình sự, có sự phân định rõ, rành mạch chức
2

/>ndvcttha&catid=67:ctc20022&Itemid=64.


8

năng của cơ quan quản lý thi hành án hình sự với cơ quan thi hành án hình sự
và cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự, bảo đảm sự phân
cơng, phối hợp đồng bộ trong việc thực hiện cơng tác thi hành án hình sự trên
thực tế và phù hợp với hệ thống tổ chức bộ máy hiện hành của Nhà nước ta,
bảo đảm quản lý tập trung, thống nhất công tác thi hành án hình sự vào một
đầu mối nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác thi hành án.
Tịa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, vì vậy Tịa án có
vai trị quan trọng, đặc biệt trong cơng tác thi hành án. Tịa án có nhiệm vụ
trong việc ra quyết định thi hành án, xét miễn giảm, hoãn, tạm đình chỉ thi
hành án...Đối tượng để Tịa án có nhiệm vụ ra quyết định thi hành án hình sự
là bản án, quyết định của Tòa án. Bản án, quyết định của Tịa án đó chính là
sự đánh giá, sự trừng phạt nhưng nếu chỉ dừng lại ở mức độ đánh giá, trừng
phạt mà không thực hiện bằng các biện pháp thi hành án hình sự thì sự giáo
dục, răn đe, phịng ngừa và tính thực thi của pháp luật khơng có hiệu quả,
khơng đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

“Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật
phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị
vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng, những người và đơn vị hữu
quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”3. Từ đó cho thấy “thi hành án hình sự là
một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước nhằm thực hiện bản án, quyết
định đã có hiệu lực của Tịa án trong thực tiễn”4. Bản án, quyết định của Tịa
án được thi hành chính là sự thể hiện tính thực thi của pháp luật, đảm bảo
niềm tin về công lý được áp dụng.
Về mặt lý luận, cơng tác thi hành án hình sự được điều chỉnh bởi Luật tố
tụng hình sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát, Luật tổ chức Công an nhân dân,
Luật thi hành án hình sự và các văn bản dưới luật. Luật quy định rõ nhiệm vụ
quyền hạn của các cơ quan trong quá trình thi hành án hình sự. Về mặt thực
3

Điều 136 Hiến pháp năm 1992.
/>ndvcttha&catid=67:ctc20022&Itemid=64.
4


9

tiễn đây là vấn đề đang được quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhà làm
luật, các cơ quan Nhà nước và nhân dân.
Thi hành án hình sự là việc đưa bản án ra thi hành, đảm bảo tính nghiêm
minh và thực thi của một bản án đã có hiệu lực pháp luật. Thi hành án là kết
quả cuối cùng của quá trình việc giải quyết vụ án hình sự đã được tuyên trong
bản án có hiệu lực pháp luật theo quy định của pháp luật.
Bộ Luật tố tụng hình sự, Luật hình sự, Luật thi hành án hình sự đã có
những quy định cụ thể về thi hành án hình sự, Luật cơng an nhân dân, Luật tổ
chức viện kiểm sát, Luật tổ chức Tòa án, các văn bản Thông tư liên tịch, Nghị

quyết, được ban hành hướng dẫn nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị trong công
tác thi hành án để từ đó có sự phối hợp thực hiện tốt đảm bảo cho các quyết
định, bản án có hiệu lực pháp luật được thi hành nghiêm túc nhằm không bỏ
lọt bị án chưa được thi hành.
Thi hành án hình sự được xem là giai đoạn cuối cùng của một quá trình
giải quyết một vụ án, sau quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Vì vậy
nếu một bản án có hiệu lực pháp luật khơng được thi hành thì tồn bộ hoạt
động của q trình điều tra, truy tố, xét xử trở thành vơ ích và vơ giá trị. Bản
án, quyết định của Tịa án có hiệu lực pháp luật khơng được thi hành hoặc thi
hành khơng đúng quy định thì trật tự xã hội không được đảm bảo, quyền lực
Nhà nước bị ảnh hưởng. Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực pháp luật của
bản án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu rất quan trọng, bởi nó đảm bảo
tính thực thi của pháp luật, đảm bảo việc giáo dục cảm hóa tư tưởng, giáo dục
nhân cách cũng như góp phần ngăn ngừa chung và tạo điều kiện tái hòa nhập
cộng đồng cho bị án sau khi chấp hành xong hình phạt.
1.1.2. Khái niệm nhiệm vụ

Theo từ điển ngữ pháp tiếng Việt thì nhiệm vụ với nghĩa chung nhất là
“một cơng việc phải làm”5, là một trách nhiệm gắn liền với một cơng việc,
một mục đích cụ thể theo một chỉ tiêu đề ra. Nhiệm vụ là một khái niệm rộng
5

Nguyễn Giang (2002), Từ điển tiếng việt, Nhà xuất bản thanh niên.


10

trong đời sống xã hội. Mỗi một cá nhân, tổ chức có nhiệm vụ đối với cá nhân
hay tổ chức hoặc có nhiệm vụ (nhiệm vụ có thể ghi nhận bằng văn bản hoặc
bằng lời nói) trong một cơng việc nhất định với một đơn vị theo sự phân công.

Nhiệm vụ cũng là một tiêu chí do chủ thể đặt ra và chủ thể có trách nhiệm
hồn thành tiêu chí đó trong một thời gian nhất định. Trong thực tế thì có
nhiệm vụ có giới hạn và cũng có những nhiệm vụ khơng có giới hạn. Tuy
nhiên theo từ điển luật học thì nhiệm vụ của chủ thể phải do pháp luật quy
định một cách rõ ràng và ban hành thành văn, có giá trị pháp lý bắt buộc thực
hiện đối với từng chủ thể theo từng lĩnh vực. Trong cơng tác thi hành án hình
sự thì Tịa án có những nhiệm vụ nhất định được quy định cụ thể trong Bộ
luật tố tụng hình sự và Luật thi hành án hình sự. Đó là nhiệm vụ bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa, ban hành các quyết định trong giai đoạn thi hành án và
theo dõi giám sát, báo cáo thống kê về cơng tác thi hành án hình sự. Nhiệm vụ
trên được quy định thống nhất, ngoài nhiệm vụ chung thì Luật quy định Tịa
án nhân dân tối cao có những nhiệm vụ riêng và Tịa án nhân dân các cấp có
những nhiệm vụ riêng.
Trong Luật tố tụng hình sự, nhiệm vụ của Tịa án nhân dân tối cao
khơng được quy định nhưng Luật thi hành án hình sự đã quy định nhiệm vụ
của Tòa án nhân dân tối cao, đồng thời quy định chung về nhiệm vụ của Tòa
án. Tòa án chỉ thực hiện đúng những nhiệm vụ đã được quy định, khơng có
quyền thực hiện vượt quá nhiệm vụ luật quy định. Điều đó cho thấy theo quan
điểm luật học khác với quan điểm thông thường, nhiệm vụ theo quan điểm
luật học là một quy trình thống nhất được quy định cụ thể trong Bộ luật, Luật
và các văn bản dưới luật được áp dụng thống nhất ở Việt Nam.
1.1.3. Khái niệm quyền hạn

Theo nghĩa thông thường thì quyền hạn được hiểu là do chủ thể tự cho
mình một quyền hạn nhất định và phù hợp với hồn cảnh của mỗi chủ thể.
Quyền hạn có thể tự đặt ra hay quyền hạn do pháp luật quy định và quyền hạn
mang tính quyền lực Nhà nước hay quyền hạn chỉ mang tính răn đe, giáo dục
đối với từng chủ thể riêng lẻ. Theo từ điển luật học thì quyền hạn được hiểu là



11

quyền theo một cương vị chức vụ và hạn là hạn mức cho phép. Quyền hạn
của một cơ quan, tổ chức, cá nhân được pháp luật quy định theo một phạm vi,
không gian và thời gian xác định. Quyền hạn gắn liền với một chức vụ được
bổ nhiệm, quyền hạn của đơn vị, tổ chức, cá nhân được sử dụng để thực hiện
nhiệm vụ được giao. "Nhiệm vụ được quy định tức là quyền hạn được cho
phép, quyền hạn đồng thời là nhiệm vụ và nhiệm vụ đồng thời là quyền hạn"6.
Đối với cơng tác thi hành án hình sự với những nhiệm vụ được quy định thì
đồng thời quy định quyền hạn nhất định, ai là người có thẩm quyền ban hành
các quyết định thi hành án hình sự, cũng như ai có quyền kiểm tra, giám sát,
báo cáo kết quả trong quá trình thi hành án hình sự. Theo quy định về cơng
tác thi hành án hình sự tại Tòa án các cấp, thẩm quyền ký các quyết định thi
hành án, xóa án tích, đình chỉ, tạm đình chỉ thi hành án…do người đứng đầu
Tòa án ký các quyết định, cụ thể là Chánh án Tòa án, nếu Chánh án vắng mặt
thì Phó chánh án chỉ được ký thay khi có quyết định ủy nhiệm của Chánh án.
Quyền hạn của Chánh án ở đây khơng mang tính quyền lực cá nhân mà là
thay mặt cho người đứng đầu Tịa án, đây là quyền lực về hành chính. Đối với
thi hành án tử hình thì Chánh án có thẩm quyền ký quyết định thi hành án
hình sự sau đó Chánh án ra quyết định thành lập Hội đồng thi hành án tử hình.
Việc xét giảm thi hành án dân sự trong vụ án hình sự do Chánh án phân công
Thẩm phán tiến hành và ra quyết định. Đối với những công việc thi hành án
về thủ tục lập hồ sơ, theo dõi và soạn thảo quyết định thì Chánh án phân công
thẩm phán hoặc thẩm tra viên, thư ký làm công việc trên và Chánh án giao
quyền hạn nhất định theo quy định Luật tổ chức Tòa án.
1.1.4. Phân biệt nhiệm vụ với quyền hạn

Nhiệm vụ và quyền hạn là hai danh từ khác nhau nhưng lại luôn gắn
liền với nhau. Tuy nhiên, để thực hiện được nhiệm vụ đề ra thì Tịa án được
pháp luật trao cho những quyền hạn, cụ thể là quyền của Chánh án. Căn cứ

vào Luật tổ chức Tòa án, thẩm quyền về quản lý hành chính thì Chánh án có
quyền phân cơng những công việc trong phạm vi quản lý và thẩm quyền của
6

Trịnh Tấn Đạt, Nguyễn Đức Giao (2006), Từ điển luật học, NXB Từ điển Bách khoa, tr651.


12

mình. Nhìn chung danh từ nhiệm vụ và quyền hạn theo pháp lý thường đi đôi
với nhau, pháp luật quy định nhiệm vụ của một chủ thể nhất định thì đồng
thời cho phép một quyền hạn nhất định để chủ thể hồn thành nhiệm vụ được
giao hay nói cách khác để hồn thành nhiệm vụ thì chủ thể được quyền sử
dụng đúng quyền hạn của mình, chủ thể chỉ được thực hiện nhiệm vụ và
quyền hạn trong quy định. Nếu việc thực nhiệm vụ không được quy định và
vượt quá quyền hạn cho phép thì chủ thể sẽ bị xử lý trách nhiệm tùy theo tính
chất và mức độ của hành vi gây ra.
Hoàn thiện quy định của pháp luật về hình sự, dân sự và pháp luật tố
tụng tư pháp, xác định rõ chức năng thẩm quyền và hoàn thiện bộ máy các cơ
quan tư pháp, hoàn thiện các chế định bỗ trợ tư pháp, xây dựng đội ngũ cán
bộ tư pháp và bỗ trợ tư pháp trong sạch vững mạnh, hoàn thiện về cơ chế
giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối
với cơ quan tư pháp, tăng cường hợp tác quốc tế, đảm bảo cơ sở vật chất kỷ
thuận, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng7. Đây là nhiệm vụ do Bộ chính trị
đặt ra nhằm phát triển và bảo vệ đất nước, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền và thực hiện chiến lược cải cách tư pháp.
Để thực hiện nhiệm vụ đã đề ra, Bộ chính trị thành lập ban chỉ đạo cải
cách tư pháp và giao cho ban chỉ đạo cải cách tư pháp một số quyền hạn nhất
định để thực hiện đúng nhiệm vụ đề ra đến năm 2020, từ đó ban chỉ đạo cải
cách tư pháp quy định nhiệm vụ của các thành viên để thực hiện đúng mục

tiêu nhiệm vụ Bộ chính trị đã đặt ra.
Từ đó cho thấy nhiệm vụ được quy định theo từng phân cấp và từng
phân cấp được giao quyền hạn nhất định, mục đích để hồn thành nhiệm vụ
đặt ra. Nhiệm vụ phải được thực hiện nhất quán và đúng theo quy định, các
chủ thể không được thực hiện vượt quá nhiệm vụ quy định, nếu thực hiện
không đúng hoặc vượt quá nhiệm vụ quy định thì sẽ dẫn đến việc thực hiện
vượt quá thẩm quyền và dẫn đến hậu quả trách nhiệm pháp lý chủ thể đó phải
chịu.
7

Nghị quyết 49/NQ-TW, ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị.


13

Trong phạm vi chức năng của mình, "Tịa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của
nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản,
tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân"8. Đây là nhiệm vụ được Hiếp
pháp quy định chung, để thực hiện nhiệm vụ trên thì Luật tố tụng hình sự,
Luật thi hành án hình sự, Luật hình sự,…quy định nhiệm vụ cụ thể của Tòa án
trong từng giai đoạn và trong q trình tiến hành tố tụng cũng như những
cơng tác khác của Tịa án. Tịa án có những nhiệm vụ cụ thể và Luật quy định
quyền hạn cụ thể để thực hiện nhiệm vụ đó. Chức năng cơ bản của Tòa án là
xét xử, để thực hiện chức năng xét xử, Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án quy
định cụ thể nhiệm vụ quyền hạn của Tòa án các cấp như có nhiệm vụ xét xử
những vụ án dân sự bao gồm những tranh chấp về dân sự, những vụ án hành
chính, hình sự, kinh tế,…và giải quyết các việc dân sự. Ngồi việc bảo vệ
pháp chế, Hiến pháp thì Tịa án cịn giải quyết những cơng việc khác theo quy
định của pháp luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự quy định nhiệm

vụ của Tịa án trong việc thi hành án hình sự là ban hành quyết định thi hành
án hình sự, hỗn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, ra quyết định miễn
hoặc giảm quyết định chấp hành hình phạt tù, quyết định xóa án tích và ra
quyết định thành lập Hội đồng thi hành án tử hình. Ngồi ra Tịa án cịn có
nhiệm vụ góp phần giáo dục cơng dân chấp hành đúng pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa tội phạm và các vi phạm pháp luật.
1.2. Vai trị, vị trí của Tịa án trong thi hành án hình sự tại Việt Nam

Nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản
Việt Nam quy định về việc "hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động của
Tòa án, đảm bảo nguyên tắc xét xử độc lập đúng pháp luật và hồn thiện cơ
chế quản lý Tịa án các cấp"9.
Trong hoạt động của mình Tịa án giữ nhiệm vụ quan trọng trong quá
trình cải cách tư pháp và đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước trao
8
9

Điều 126, Hiến pháp năm 1992.
Nghị quyết 48/NQ-TW, ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị.


14

cho Tòa án những nhiệm vụ nhất định và phân quyền phù hợp với phạm vi
từng cấp để Tòa án hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiệm vụ, quyền hạn của
Tòa án được quy định cụ thể trong Bộ luật, Luật và Nghị quyết. Tịa án giữ
vai trị, vị trí quan trọng trong cơng tác thi hành án hình sự.
Điều đó cho thấy từ khi phát hiện một hành vi phạm tội xảy ra phải trải
qua một qua trình điều tra, truy tố, xét xử cho đến khi một hình phạt được
tuyên trong một bản án thì việc giải quyết vụ án hình sự xem như kết thúc. Khi

một bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành án cho
đến khi bản án, quyết định đó được thi hành xong thì Tịa án có một vai trò và
nhiệm vụ quan trọng. Tuy nhiên ở giai đoạn thi hành án hình sự, Tịa án là đơn
vị có thẩm quyền ra quyết định thi hành án. Vì vậy, Tịa án phải thực hiện đầy
đủ, nghiêm túc và chính xác nhằm đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án phải
được đưa ra thi hành và thực hiện nghiêm chỉnh.
Bản án, quyết định được thi hành là những bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật. Bản án có hiệu lực là bản án sơ thẩm khơng bị kháng cáo,
kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; bản án phúc thẩm; quyết định giám đốc
thẩm, hay tái thẩm. Tuy nhiên có những bản án thi hành ngay khi chưa có
hiệu lực pháp luật đó là trường hợp bản án hoặc quyết định của Tòa án được
thi hành theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự như quyết định trục xuất
khỏi Việt Nam...Ngồi ra cịn có quyết định áp dụng biện pháp tư pháp bắt
buộc chữa bệnh, giáo dục tại xã, phường, thị trấn, quyết định đưa vào trường
giáo dưỡng. Quyết định tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù ở nước
ngoài về Việt Nam chấp hành hay quyết định chuyển giao người đang chấp
hành án phạt tù tại Việt Nam cho người nước ngồi. Tịa án có nhiệm vụ quan
trọng là ra quyết định thi hành án hình sự, quyết định ủy thác thi hành án hình
sự, quyết định hỗn hoặc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, quyết định giảm
thời gian chấp hành hình phạt tù, quyết định giảm thời gian thử thách của án
treo, quyết định xóa án tích hoặc cấp giấy chứng nhận xóa án tích. Ngồi ra,
Tịa án cịn có nhiệm vụ theo dõi việc đưa người bị phạt tù giam vào trại giam
để thi hành án, theo dõi việc chấp hành án mà Tịa án giao cho chính quyền


15

địa phương nơi bị án cư trú hoặc nơi cơ quan bị án làm việc; xem xét miễn
giảm thi hành án đối với việc bị phạt tiền, án phí; tổ chức thi hành án tử hình;
tham gia giúp Hội đồng đặc xá Trung ương thực hiện việc đặc xá.

Tòa án có quyền ra quyết định thi hành án và người bị kết án phải có
trách nhiệm thi hành hình phạt được tuyên trong bản án, quyết định của Tòa
án. Tòa án ra quyết định thi hành hình phạt được quy định trong luật tố tụng
hình sự, cịn các quyết định về thi hành án dân sự trong hình sự thì do cơ quan
thi hành án dân sự thi hành.
Từ đó cho thấy Tịa án có nhiệm vụ quan trọng trong cơng tác thi hành
án. Ngồi Tịa án là chủ thể ban hành quyết định thi hành án cịn có các chủ
thể khác như Viện kiểm sát, Cơng an, chính quyền địa phương cùng có trách
nhiệm trong cơng tác thi hành án. Vì vậy, việc bỏ lọt bị án có được đưa ra thi
hành án hay không là trách nhiệm của Tòa án. Tòa án phải thực hiện đầy đủ,
nghiêm túc và chính xác nhiệm vụ, quyền hạn của mình nhằm để đảm bảo các
bản án, quyết định được đưa ra thi hành đúng quy định của pháp luật.
Nhằm đảm bảo tính thực thi của pháp luật trong hoạt động quản lý Nhà
nước, việc đảm bảo tính hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định của Tòa án
là một yêu cầu rất quan trọng. Cơng tác thi hành án hình sự mang tính đặc
thù, vừa đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật vừa đảm bảo đúng nguyên
tắc quản lý của Nhà nước về thi hành án hình sự. Cơng tác thi hành án hình sự
do nhiều chủ thể thực hiện nhưng đóng vai trị và có ý nghĩa quan trọng là
Tịa án. Đây là cơng tác vừa mang tính chuyên môn, nghiệp vụ, vừa thể hiện
quyền lực Nhà Nước. Nhà nước quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn cho Tịa
án vì vậy nếu một bản án, quyết định khơng được thi hành hay nói cách khác
Tịa án khơng thực hiện đúng nhiệm vụ quyền hạn của mình thì toàn bộ hoạt
động của cơ quan điều tra, truy tố xét xử không mang được giá trị nghiêm
minh về việc trừng phạt, giáo dục và răn đe, đảm bảo trật tự chung trong xã
hội dẫn đến quyền lực Nhà nước bị ảnh hưởng.


16

1.3. Khái quát về pháp luật thi hành án hình sự trước khi có Luật thi hành án

hình sự
1.3.1. Trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988

Cùng với sự hình thành và phát triển của pháp luật hình sự thì những
quy định về thi hành án hình sự cũng được hình thành và phát triển để nhằm
đảm bảo các bản án, quyết định của Tòa án được thi hành. Tuy nhiên, do
nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nhiệm vụ quyền hạn của Tòa án trong
thi hành án hình sự chưa được quy định cụ thể.
Do tính chất và điều kiện đặc thù ở nước ta, từ năm 1945 đến năm 1986
Nhà nước xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa theo mơ hình kinh tế tập trung,
bao cấp nên việc xây dựng pháp luật nói chung và pháp luật thi hành án hình
sự nói riêng chưa được phát triển trong giai đoạn này. Giai đoạn này Bộ luật
hình sự năm 1985 được xem là văn bản pháp lý cơ bản để áp dụng, ngoài ra
khơng có văn bản pháp luật nào khác mang tính hệ thống và đầy đủ, nhất là
các quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án về thi hành án hình sự chưa
được quy định cụ thể.
Trong giai đoạn này nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong thi hành án
hình sự, các văn bản pháp luật ít được ban hành và công bố rộng rãi do điều
kiện phát triển của đất nước cùng với khả năng lập pháp của nước ta còn
nhiều hạn chế. Đến khi Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên được ban hành thì sự
phát triển của pháp luật Thi hành án hình sự bước sang giai đoạn tiến bộ hơn,
nhiệm vụ quyền hạn của Tịa án trong thi hành án hình sự được quy định
tương đối cụ thể hơn.
1.3.2. Trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và Pháp lệnh thi hành án phạt tù

Đến giai đoạn trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, tình hình
đất nước ta bước sang thời kỳ mở cửa, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Nhà nước ban hành nhiều văn bản pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho
các thành phần kinh tế phát triển. Cùng với sự phát triển của tội phạm gia



17

tăng, Tòa án xét xử nhiều loại tội phạm khác nhau với số lượng bị cáo bị kết
án ngày càng cao. Vì thế, yêu cầu phải ban hành các quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn của Tòa án về thi hành án hình sự nhằm điều chỉnh các quan hệ
phát sinh trong quá trình thi hành án hình sự là điều cần thiết.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Nhà nước ta chưa pháp điển hóa cơng
tác thi hành án hình sự, các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Tịa án
trong thi hành án hình sự được quy định trong các văn bản pháp luật từ Nghị
quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, Thông tư liên
ngành đến Thông tư hướng dẫn của cơ quan quản lý thi hành án hình sự là Bộ
Công an. Việc quy định như trên chưa đảm bảo cho Tòa án thực hiện tốt
nhiệm vụ về thi hành án hình sự một cách thống nhất và đảm bảo quyền lợi
chính đáng của người chấp hành án.
Ngày 08/3/1993 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thi
hành án phạt tù gồm 6 chương 37 điều, trong đó chương 1 về những quy định
chung, chương 2 quy định cụ thể về cơ quan quản lý công tác thi hành án phạt
tù và tổ chức thi hành án phạt tù; quy định tương đối chặt chẽ thủ tục thi hành
án phạt tù tại chương 3. Tuy nhiên, nhiệm vụ quyền hạn của Tòa án chỉ quy
định một cách khái quát chung chung, cụ thể tại Điều 3 Pháp lệnh quy định
“Tịa án, Viện kiểm sát có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý và thi
hành án phạt tù trong công tác thi hành án và kịp thời ra những quyết định có
liên quan đến việc thi hành án theo quy định của pháp luật”10 và tại Điều 7
quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong việc hỗn chấp hành hình
phạt tù.
Từ đó cho thấy nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án đối với cơng tác thi
hành án hình sự trong giai đoạn này còn mờ nhạc, pháp luật chưa quy định cụ
thể, đa phần thực hiện theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự từ chương

XXIV đến chương XXVIII, từ Điều 226 đến Điều 238. Vì vậy trong giai đoạn
này xem thi hành án như một giai đoạn của Tố tụng hình sự, thi hành án chưa

10

Điều 6, pháp lệnh thi hành án phạt tù, năm 1993


18

được nhìn nhận như một ngành luật độc lập và phân định cơ quan nào có
nhiệm vụ cụ thể trong thi hành án hình sự.
Để cụ thể hóa Pháp lệnh thi hành án phạt tù, Tòa án nhân dân Tối cao,
Bộ Nội vụ, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao đã ban hành Thông tư liên ngành
số 03/TTLN ngày 30/6/1993 nhằm hướng dẫn thực hiện một số quy định của
Pháp lệnh về thủ tục đưa người bị kết án vào Trại giam để chấp hành hình
phạt; việc hỗn, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, giảm thời hạn chấp hành
hình phạt tù; việc đưa người đang chấp hành hình phạt tù bị mắc bệnh tâm
thần vào cơ sở chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh; giải quyết người đang
chấp hành hình phạt tù chết trong trại giam; vấn đề trích xuất người đang chấp
hành hình phạt tù. Lần đầu tiên hoạt động thi hành án phạt tù đã ghi nhận ở
tầm Pháp lệnh, điều này thể hiện sự phát triển của pháp luật Việt Nam về lĩnh
vực thi hành án hình sự và quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Tịa án trong thi
hành án hình sự. Việc ghi nhận này không những tạo cơ sở pháp lý nhằm
quản lý Nhà nước mà cịn đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp mà pháp luật dành
cho người bị kết án phạt tù. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Pháp lệnh
có một số bất cập cần được sửa đổi để phù hợp với thực tiễn.
Ngày 21 tháng 12 năm 1999, kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa X đã thơng
qua Bộ luật hình sự, có hiệu lực ngày 01/7/2000. Để thi hành Bộ luật hình sự
năm 1999, ngày 21/12/1999 Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số

32/1999/QH10 và ngày 28/01/2000, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành
Nghị quyết 229/2000/NQ-UBTVQH10 hướng dẫn việc thi hành án đối với
trường hợp miễn thi hành hình phạt tử hành đối với một số tội mà Bộ luật
hình sự năm 1985 có quy định hình phạt tử hình; việc miễn chấp hành hình
phạt đối với người bị kết án trước ngày công bố Bộ luật hình sự năm 1999 về
hành vi mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là tội phạm nhưng Bộ luật
hình sự năm 1999 khơng quy định là tội phạm. Các quy định của Bộ luật hình
sự năm 1999 và các hướng dẫn thi hành mặc dù không đơn thuần thuộc lĩnh
vực thi hành án hình sự nhưng việc thi hành trong thực tiễn liên quan trực tiếp
đến công tác thi hành án và tác động đến quyền lợi của người bị kết án.


19

Ngoài các quy định trên, trong giai đoạn này Nhà nước ta cịn có các
Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết về việc thi hành án đối với các hình
phạt và biện pháp tư pháp khác nhau như Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày
30/10/2000 của Chính phủ quy định việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án
treo; Nghị định 60/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ quy định
việc thi hành hình phạt cải tạo khơng giam giữ; Nghị định 59/2000/NĐ-CP
ngày 30/10/2000 của Chính phủ quy định việc thi hành biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội; Nghị định
53/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 của Chính phủ hướng dẫn thi hành các hình
phạt cấm cư trú và quản chế…Từ đó thể hiện Nhà nước ta quan tâm đến cơng
tác thi hành án hình sự, cụ thể là nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án và các văn
bản về thi hành án hình sự ngày được ban hành nhiều hơn, làm tiền đề cho sự
hình thành và phát triển thành một ngành luật độc lập.
1.4. Pháp luật thực định về nhiệm vụ, quyền hạn của Tịa án trong thi hành án
hình sự
1.4.1. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003


Kế thừa các quan điểm trước đây, thi hành án hình sự là một giai đoạn
của quá trình tố tụng hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 dành riêng
phần thứ năm từ Điều 255 đến Điều 271 quy định về thi hành án hình sự.
Được quy định từ chương XXV đến chương XXIX từ Điều 255 đến Điều 271
Bộ luật tố tụng hình sự, nhà làm luật đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn
của Tòa án trong việc ra quyết định thi hành án; ra quyết định hỗn thi hành
án, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, đình chỉ chấp hành án phạt tù; miễn giảm
thời hạn chấp hành án; gửi các bản án, quyết định và thực hiện chế độ thống
kê, báo cáo về thi hành án hình sự; giải quyết khiếu nại…Nhà làm luật nước
ta từng quan điểm rằng thi hành án hình sự là một giai đoạn trong quá trình tố
tụng nên khi xây dựng và thơng qua Bộ luật tố tụng hình sự đều dành một
phần riêng biệt quy định về thi hành bản án và quyết định của Tòa án, cụ thể
quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án. Tuy nhiên, không phải tất cả các
quy định về thi hành án và quyết định của Tòa án đều được quy định đầy đủ


20

trong Bộ luật tố tụng hình sự mà cịn được quy định trong các văn bản pháp
luật khác như Nghị định hay Pháp lệnh.
Các văn bản pháp luật điều chỉnh về thi hành án hình sự và quyết định
của Tịa án được ban hành như Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 0210-2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dung
một số quy định của Bộ luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp
hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt và Nghị quyết số
02/2010/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao bổ
sung một số hướng dẫn của Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02-102007; Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT – Tòa án nhân dân tối cao – Viện
kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ tư pháp – Bộ công an – Bộ tài chính ngày
17/06/2005 hướng dẫn việc miễn, giảm thi hành án đối với khoản tiền phạt, án
phí.

1.4.1.1. Ra quyết định thi hành án hình sự

Theo quy định tại Điều 269 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và các
Điều 57, 58, 59, 76 Bộ luật hình sự thì Tịa án có nhiệm vụ ra quyết định thi
hành án hình sự đối với bản án do Tịa án mình xét xử. Những bản án và
quyết định được thi hành là những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm khơng bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm đã có hiệu lực
pháp luật, những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm, những
quyết định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Về ngun tắc thì "mọi
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đều phải được thi hành nghiêm
chỉnh và phải được các cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân,
cơ quan, tổ chức hữu quan trong phạm vi trách nhiệm của mình phải chấp
hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án và phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về việc chấp hành đó"11. Tuy nhiên những bản án, quyết định
Tòa án tuyên bố bị cáo khơng phạm tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình
phạt, áp dụng hình phạt tù khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn
đã tạm giam, quyết định đình chỉ vụ án của Tịa án cấp sơ thẩm hoặc quyết
11

Điều 22 BLTTHS năm 2003.


×